Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Sử dụng thực vật làm sinh vật chỉ thị trong xử lý ô nhiễm môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 29 trang )

MỤC LỤC
II. NỘI DUNG 3
2.1. Những hiểu biết chung về chỉ thị sinh học môi trường 3
2.1.1. Những khái niệm về sinh vật chỉ thị môi trường 3
2.1.2. Dấu hiệu sinh học của sinh vật chỉ thị 8
2.2. Vai trò của chỉ thị sinh học trong nghiên cứu, đánh giá và xử lý môi
trường 11
2.2.1. Trong đánh giá môi trường 11
2.2.2. Trong xử lý ô nhiễm môi trường 12
2.3. Phương pháp sử dụng chỉ thị sinh học trong xử lý ô nhiễm môi trường
14
2.3.1. Sử dụng chỉ số sinh học 14
2.3.2. Sử dụng sinh vật tích tụ 16
2.3.4. Xây dựng bản đồ ô nhiễm 18
2.3.5. Phương pháp so sánh 18
2.3.6. Sử dụng vi sinh vật 18
2.3.7. Sử dụng các loài đặc hữu, quý hiếm 19
2.3.8. Phương pháp diễn thế 19
2.4. Sử dụng sinh vật trong xử lý ô nhiễm môi trường 19
2.4.1. Xử lý ô nhiễm môi trường nước 19
2.4.2. Xử lý ô nhiễm môi trường không khí 23
2.4.3. Xử lý ô nhiễm môi trường đất 27
III. KẾT LUẬN 29
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
1
I. MỞ ĐẦU
Môi trường là một vấn đề mang tính chất toàn cầu. Hiện nay, chất lượng
môi trường đang bị suy thoái nghiêm trọng bởi các hoạt động phát triển kinh tế
của con người. Môi trường ô nhiễm, suy thoái đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến
cuộc sống của con người. Nhận thức được vấn đề đó, con người đã áp dụng nhiều
công nghệ trong xử lý ô nhiễm môi trường.


Một trong những hướng áp dụng trong xử lý ô nhiễm môi trường đó là sử
dụng các sinh vật chỉ thị. Đã từ lâu, các nhà khoa học đã biết sử dụng các sinh vật
trong quá trình nghiên cứu của mình. Những sinh vật (động vật, thực vật) mẫn
cảm với các chất ô nhiễm hay các yếu tố sẵn có trong môi trường sẽ dễ bị tác
động, có thể biểu hiện bằng các dấu hiệu dễ nhận biết. Trong các loài sinh vật
dùng làm chỉ thị sinh học, được sử dụng phổ biến nhất là các loài thực vật. Môi
trường có chứa các chất ô nhiễm hữu cơ nhân tạo, các chất dinh dưỡng khoáng
hay kim loại nặng sẽ được nhận biết dễ dàng bởi các biểu hiện của thực vật chỉ thị.
Phương pháp này dựa trên cơ sở gieo trồng các loại thực vật có khả năng hấp thu
các chất ô nhiễm đặc thù từ môi trường và tích lũy chất độc trong cơ thể thực vật,
rồi thông qua thu hoạch, loại thải những chất ô nhiễm ra khỏi môi trường. Một số
ưu điểm của phương pháp sử dụng thực vật làm sinh vật chỉ thị như: an toàn và
thân thiện với môi trường, giảm chi phí trong xử lý ô nhiễm, v.v…
Trên thế giới, việc nghiên cứu và sử dụng sinh vật để đánh giá, kiểm soát
và cải thiện chất lượng môi trường đã đạt được nhiều thành tựu. Bài tiểu luận dưới
đây sẽ đề cập tới việc sử dụng sinh vật chị thị trong xử lý ô nhiễm môi trường và
chủ yếu tập trung vào thực vật.
2
II. NỘI DUNG
2.1. Những hiểu biết chung về chỉ thị sinh học môi trường
2.1.1. Những khái niệm về sinh vật chỉ thị môi trường
2.1.1.1. Khái niệm
Sinh vật chỉ thị môi trường là những đối tượng sinh vật có yêu cầu nhất
định về điều kiện sinh thái liên quan đến nhu cầu dinh dưỡng, hàm lượng oxy, khả
năng chống chịu một hàm lượng nhất định các yếu tố độc hại trong môi trường
sống. Do đó, sự hiện diện hay không của chúng biểu thị một tình trạng điều kiện
sinh thái của môi trường sống nằm trong hay vượt quá giới hạn nhu cầu và khả
năng chống chịu của đối tượng sinh vật đó. Sinh vật chỉ thị môi trường có thể là
các loài sinh vật hoặc các tập hợp loài. Các điều kiện sinh thái tác động đến sinh
vật chỉ thị chủ yếu là các yếu tố vô sinh: hàm lượng các chất dinh dưỡng, nhu cầu

O
2
, chất độc và các chất gây ô nhiễm khác.
2.1.1.2. Cơ sở của việc sử dụng sinh vật làm chỉ thị môi trường
Thành phần loài của một quần xã sinh vật được xác định bởi các yếu tố môi
trường. Do đó, tất cả các cơ thể sống đều chịu tác động của các yếu tố môi trường
sống. Môi trường sống này cũng có thể bị ảnh hưởng từ môi trường xung quanh,
đặc biệt bị tác động mạnh bởi các điều kiện vật lý và hoá học.
Một vài yếu tố tác động vào môi trường có thể hoặc không gây hại cho sinh
vật nào đó, thì sinh vật này sẽ bị hoặc không bị loại trừ ra khỏi quần thể và làm nó
trở thành sinh vật chỉ thị cho môi trường.
Sự hiểu biết về tác động của các yếu tố môi trường lên cơ thể sống có thể
xác định sự có mặt và mức độ có của nhiều chất trong môi trường.
Như vây cơ sở cho việc sử dụng sinh vật làm vật chỉ thị môi trường dựa
trên hiểu biết về khả năng chống chịu của sinh vật với các yếu tố của điều kiện
sinh thái (yếu tố vô sinh) với tác động tổng hợp của chúng. Các yếu tố sinh thái vô
sinh của môi trường có thể là: ánh sáng, nhiệt độ, nước hay ẩm độ, các chất khí,
các chất dinh dưỡng dễ tiêu.
3
2.1.1.3. Tác động của các yếu tố vô sinh lên sinh vật
Ánh sáng:
Ánh sáng cần cho các hoạt động sống bình thường của động vật, cung cấp một
số chất cần thiết cho động vật.
Ánh sáng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với thực vật: c ường độ và thời
gian tác động của ánh sáng có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình quang hợp, tổng
hợp và tích lũy các chất trong cây.
Theo phản ứng với ánh sang, sinh vật được chia thành hai nhóm: ưa sáng và ưa
tối
+ Ưa sáng: phi lao, bồ đề , thuốc lá, cà rốt , lúa , ngô
+ Ưa tối: cà độc dược, hành , dương xỉ, rêu, tảo silic (có khả năng quang

hợp khi ánh sáng ở ngưỡng tối thiểu).
Theo phản ứng của cây trồng với ánh sáng có thể chia ra cây nhiệt đới, cây ôn
đới, cây á nhiệt đới.
Theo phản ứng của cây trồng với thời gian chiếu sáng có thể chia ra: cây có
phản ứng ngày ngắn và ngày dài.
Nhiệt độ:
Trong một phạm vi nhất định, nhiệt độ càng tăng thì tốc độ phát triển của sinh
vật càng tăng nhanh.
Sinh vật có thể phản ứng với nhiệt độ bằng nhiều hình thức khác nhau
+ Khi nhiệt độ cao, cây tích luỹ nhiều đường, muối, tăng khả năng giữ
nước, thoát hơi nước. Cây non thường chịu lạnh tốt hơn cây già.
+ Khi bị nóng, động vật có thể toả nhiệt, dẫn nhiệt, bốc hơi, giãn các mạch
máu ngoại vi. Khi lạnh nó co mạch, hình thành lớp lông và mỡ dưới da dày, tăng
sản nhiệt hoặc run rẩy.
Theo phản ứng của cây trồng với nhiệt độ có thể chia ra cây nhiệt đới, cây ôn
đới, cây á nhiệt đới.
Nước và ẩm độ:
4
Nước đóng một vai trò rất quan trọng đối vối sinh vật.
Phân loại sinh vật theo mức độ phụ thuộc vào nước:
+ Sinh vật ở nước: cá, thực vật thuỷ sinh,
+ Sinh vật ưa ẩm cao: lúa, cói, lác,
+ Sinh vật ưa ẩm vừa: tếch, các cây họ bạch đàn, trầu không,
+ Sinh vật ưa ẩm thấp, chịu hạn: xương rồng, bỏng nẻ, thầu dầu, trúc đào,
sú, vẹt dù, cà phê ,chè, phi lao , tiêu , rêu, địa y
Các chất khí:
Khí quyển cung cấp O
2
, CO
2

cho sinh vật và xử lý một phần các chất khí ô
nhiễm.
Khi thành phần, tỷ trọng các chất khí trong khí quyển thay đổi, có thể gây hại
cho sinh vật.
Thực vật có vai trò quan trọng trong xử lý các chất khí gây ô nhiễm môi trường
(ví dụ như CO
2
, SO
2
, ).
Các chất khoáng hòa tan (muối):
Chất khoáng có vai trò quan trọng trong cơ thể sinh vật, giúp điều hoà các quá
trình sinh hoá, áp suất thẩm thấu của dịch mô và các hoạt động chức năng khác.
Sinh vật có khả năng hấp thu chất khoáng khác nhau:
+ Đối với cây trồng dinh dưỡng khoáng quyết định đến tình trạng sinh
trưởng, năng suất, chất lượng sản phẩm cây trồng.
+ Theo yêu cầu dinh dưỡng của thực vật có 14 chất khoáng là dinh dưỡng
thiết yếu cần cung cấp, được chia thành 3 nhóm theo nhu cầu: đa lượng (N, P, K),
trung lượng (Ca, Mg, S, Si) và vi lượng (Fe, Mn, Cu, Zn, Bo, Mo, Cl). Ngoài ra
còn có 3 nguyên tố sẵn có trong cơ thể thực vật mà không cần pahir đưca vào là C,
H, O.
Hàm lượng các chất khoáng trong môi trường mất cân đối có thể dẫn đến rối
loạn quá trình trao đổi chất, làm sinh vật mắc bệnh.
2.1.1.4. Khả năng biến đổi để thích nghi của sinh vật khi môi trường thay đổi
Sự phản hồi của sinh vật đối với tác động từ môi trường:
5
Sinh vật phản ứng lên tác động của môi trường bằng hai phương thức: chạy
trốn (động vật), hoặc thích nghi.
Sự thích nghi của sinh vật có thể : thích nghi hình thái và thích nghi di truyền.
+ Thích nghi hình thái xảy ra trong suốt thời gian sống của cơ sinh vật dưới

tác động của các yếu tố môi trường.
+ Thích nghi di truyền xuất hiện trong quá trình phát triển cá thể, không
phụ thuộc vào sự có hay vắng mặt của các trạng thái môi trường, được xác định và
củng cố bởi các yếu tố di truyền.
Biến động số lượng:
Qúa trình biến đổi xảy ra do tác động ngẫu nhiên của các yếu tố môi trường,
chủ yếu là do yếu tố thời tiết và khí hậu.
Mức độ biến động có thể ảnh hưởng đến số lượng cũng như chất lượng cá thể
trực tiếp hay gián tiếp qua sự thay đổi trạng thái sinh lý của cây, thức ăn, hoạt tính
của thiên địch…
Diễn thế sinh thái và tác động đến sinh vật chỉ thị môi trường:
Diễn thế sinh thái tác động làm biến đổi môi trường sống gây thay đổi quần xã
sinh vật
Tất cả các hoạt động kinh tế liên quan đến hệ sinh thái luôn chịu ảnh hưởng và
tác động vào quá trình diễn thế sinh thái.
Nguyên nhân xảy ra diễn thế:
+ Nguyên nhân bên trong: gây nên nội diễn thế nằm trong tính chất của
chính hệ sinh thái, sự sinh sản và cạnh tranh sinh tồn của các sinh vật.
+ Nguyên nhân bên ngoài: bao gồm các yếu tố từ bên ngoài tác động lên hệ
sinh thái làm thay đổi nó, gây nên ngoại diễn thế.
Tác động làm biến đổi của môi trường gây ảnh hưởng trên cơ thể sống có thể
quan sát:
+ Thay đổi về thành phần loài hoặc các nhóm ưu thế
+ Những thay đổi về đa dạng loài
+ Tăng tỷ lệ chết trong quần thể
6
+ Thay đổi sinh lý và tập tính trong các cá thể
+ Những khiếm khuyết về hình thái và tế bào trong các cá thể
+ Sự tích luỹ dần các chất gây ô nhiễm trong các mô của những cá thể
Do ảnh hưởng của diễn thế sinh thái mà các chỉ thị sinh học có thể sử dụng để

đánh giá tình trạng sinh thái, đặc biệt là điều kiện khu cần bảo tồn.
2.1.1.5. Phân nhóm sinh vật chỉ thị
Các sinh vật chỉ thị môi trường có thể phân thành các nhóm theo tác dụng
khác nhau:
Tác dụng giải đoán môi trường là các loài sinh vật chi thị mẫn cảm với điều
kiện môi trường không thích hợp, có thể sử dụng chúng làm công cụ để nhận biết
tình trạng môi trường.
Tác dụng thăm dò là những loài sinh vật chỉ thị thích nghi đối với môi trường
nhất định, sự xuất hiện của chúng có thể dùng để đo phản ứng và thích nghi đối
với sự thay đổi của môi trường.
Tác dụng khai thác là các loài sinh vật chỉ thị có thể chỉ thị rõ cho sự xáo trộn
hay ô nhiễm môi trường.
Tác dụng tích luỹ sinh học là các loài sinh vật chỉ thị có khả năng tích luỹ các
hoá chất trong mô của chúng.
Sinhh vật thử nghiệm là các sinh vật được chọn lọc để nghiên cứu trong điều
kiện thí nghiệm nhằm xác định các chất ô nhiễm.
2.1.1.6. Tính chất của sinh vật chỉ thị
Sinh vật chỉ thị có khả năng chống chịu với các yếu tố vô sinh của môi
trường và tác động tổng hợp của chúng.
Đặc điểm phản hồi tác động của nhân tố môi trường lên sinh vật chỉ thị
bằng 2 hình thức chạy trốn hay thích nghi.
Tính chỉ thị môi trường của sinh vật chỉ thị được thể hiện ở các bậc khác
nhau:
+ Sinh vật chỉ thị: dấu hiệu về sinh lý, sinh hoá, tập tính, tổ chức tế bào của
cá thể.
7
+ Quần thể sinh vật chỉ thị: cấu trúc quần thể các loài chỉ thị.
+ Quần xã sinh vật chỉ thị: một số nhóm sinh vật chỉ thị nào đó (sinh vật
nổi, sinh vật đáy).
Nhờ tính chất của sinh vật chỉ thị có thể sử dụng khả năng tích tụ các chất

ô nhiễm trong cơ thể và giá trị biểu thị tác động tổng hợp của các yếu tố môi
trường lên sinh vật để đánh giá môi trường thuận lợi và hiệu quả hơn so với
phương pháp lý hoá học.
2.1.1.7. Tiêu chuẩn để chọn sinh vật làm chỉ thị sinh học
+ Sinh vật đã được định loại rõ ràng
+ Dễ thu mẫu trong tự nhiên, kích thước vừa phải.
+ Có phân bố rộng (phân bố toàn cầu).
+ Có nhiều tài liệu về sinh thái cá thể.
+ Có giá trị kinh tế hoặc là nguồn dịch bệnh.
+ Dễ tích tụ các chất ô nhiễm.
+ Dễ nuôi trồng trong phòng thí nghiệm (vi sinh vật).
+ It biến dị.
2.1.2. Dấu hiệu sinh học của sinh vật chỉ thị
Dấu hiệu sinh học là những thể hiện sự phản ứng (sinh học) của sinh vật
đối với tác động của chất ô nhiêm trong môi trường.
Dấu hiệu sinh học có 2 loại chính: dấu hiệu sinh lý - sinh hóa và dấu hiệu
sinh thái.
2.1.2.1. Dấu hiệu sinh lý - sinh hóa
Đây là dấu hiệu dễ biết, có nhiều ý nghĩa, nhất là liên quan tới khả năng
sống sót, sự sinh trưởng của cá thể, sự sinh sản của quần thể.
2.1.2.2. Dấu hiệu sinh thái
Đây là dấu hiệu thể hiện sự biến đổi của cấu trúc quần thể hoặc quần xã
sinh vật dưới tác động của chất ô nhiễm.
8
Dấu hiêu này khó nhận biết hơn, có thể nhận biết đánh giá bằng một số chỉ
số: thiếu hụt loài, đa dạng sinh học, loài ưu thế.
Chỉ số thiếu hụt loài: được xác định trong trường hợp có số liệu khảo sát định
kỳ về thành phần loài có mặt trong một khu sinh cư.
Chỉ số đa dạng sinh học: là chỉ số mang tính chất tổng hợp số lượng loài và số
cá thể và một giá trị chung, để đơn giản hóa sự phức tạp của cấu trúc quần xã sinh

vật.
Chỉ số loài ưu thế: khi mức độ ô nhiễm nặng, một số loài phát triển ưu thế về
số lượng.
2.1.3. Chỉ số sinh học
Chỉ số sinh học là các chỉ số dựa trên ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường
và tác động của sự phân huỷ chất hữu cơ lên sinh vật để đo đạc các tính chất của
môi trường, đánh giá sinh thái môi trường.
Trong quan trắc chất lượng nước: Các loài chỉ thị và mức mẫn cảm của
chúng với ô nhiễm. Số lượng nhóm sinh vật chỉ thị có hoặc vắng mặt được dùng
để tính toán chỉ số sinh học.
Chỉ số sinh học được sử dụng đa dạng theo vùng địa lý và áp dụng theo
thang tính điểm của tổ chức nghiên cứu quan trắc sinh học (BMWP- Biological
Monitoring Working Party) được biến đổi để sử dụng ở nhiều nước.
2.1.4. Chỉ số đa dạng
Chỉ số đa dạng biểu thị độ phong phú loài trong môi trường đã chọn ở dạng
giá trị đơn loài.
Chỉ số này có ý nghĩa gián tiếp chỉ ra sự tăng ô nhiễm của một hệ sinh thái,
làm cho các loài mẫn cảm sẽ giảm thiểu và dẫn đến việc suy giảm tính đa dạng
tổng thể của quần xã sinh vật. Ví dụ, hiện tượng tăng số lượng một số loài sinh vật
trong những hồ kiệt dưỡng tự nhiên (trên núi hoặc ở đầm lầy) khi hồ bị tác động
do ô nhiễm hữu cơ từ chất thải.
Người ta sử dụng chỉ số đa dạng để đánh giá 3 khía cạnh của cấu trúc quần
xã:
9
+ Số lượng loài hoặc độ phong phú
+ Tổng lượng sinh vật (độ phong phú) của mỗi loài.
+ Tính đồng nhất phân bố các cá thể giữa các loài khác nhau (tính
đồng đều).
Hiện có một số phương pháp thong dụng tính chỉ số đã dạng là: Shannon -
Weiner (H


), Simpson (D), Malgalef (D
Mg
).
2.1.5. Chỉ số tương đồng
Chỉ số tương đồng là sự so sánh độ phong phú loài tại 2 điểm thu mẫu khác
nhau, trong đó một điểm được xem làm đối chứng.
Có nhiều kiểu tính chỉ số tương đồng, nhưng thông dụng nhất là các
phương pháp tính: chỉ số Sorensen (C), hệ số Jaccard (J), chỉ số tương đồng quần
xã Pinkham và Pearson (P).
Bảng 1. Một số chỉ số đa dạng và tương đồng sử dụng phổ biến
Chỉ số Ký hiệu Công thức tính
Chỉ số đa dạng Shannon - Weiner (H

)
Simpson (D)
Malgalef (D
Mg
)
Chỉ số tương đồng Sorensen (C)
Jaccard (J)
Pinkham và Pearson (P)
Trong đó:
+ Ni: Số các thể loài i trong mẫu thu
+ N: Số các thể của tất cả các loài trong mẫu thu
+ S: Số loài có trong mẫu thu
10
+ P
i
: Tỷ lệ các cá thể trong loài thứ i

+ W: Số loài thường gặp đối với cả 2 mẫu thu
+ A: Số loài trong mẫu 1
+ B: Số loài trong mẫu 2
+ k: Tổng lượng các so sánh hoặc các đơn vi phân loại khác nhau
trong 2 mẫu thu so sánh với nhau.
+ X
ia
và X
ib
: Độ phong phú của loài thứ i trong các mẫu a và b
tương ứng
2.2. Vai trò của chỉ thị sinh học trong nghiên cứu, đánh giá và xử lý môi trường
2.2.1. Trong đánh giá môi trường
Sự thiếu hay thừa dinh dưỡng gây ảnh hưởng lớn đến tình trạng sinh trưởng
và sức sản xuất của thực vật, làm trên lá thực vật xuất hiện những dấu hiệu bất
thường có thể quan sát được bằng mắt (cây còi cọc, vàng lá, màu tía, mất màu,
hoại tử).
Ngộ độc làm thực vật có những dấu hiệu dị thường (thấp lùn, lá bị mất màu
xanh, vàng lá, hoại tử, cây có thể chết).
Dựa vào những dấu hiệu nêu trên ở thực vật cho phép đánh giá nhanh, rẻ
tiền, và hiệu quả về những chất ô nhiễm ở các nồng độ khác nhau trong môi
trường.
Trong những trường hợp cần thiết, ta có thể bổ sung phương pháp phân tích
đất, nước và thực vật.
Tuy nhiên đối với những chuyên gia chỉ thị sinh học môi trường thì không
nhất thiết phải tiến hành phân tích thêm.
Trong nhiều trường hợp sử dụng, chỉ thị sinh học môi trường còn là bước
khởi đầu cho việc sử dụng hiệu quả các phương pháp nghiên cứu và đánh giá môi
trường khác.
Đặc biệt thông qua việc khai thác khả năng tích tụ các chất ô nhiễm trong

sinh vật chỉ thị và giá trị biểu thị tác động tổng hợp của các yếu tố môi trường lên
11
các sinh vật tích tụ làm cho chỉ thị sinh học môi trường là chỉ dẫn quan trọng cho
việc thực hiện các phương pháp lý hoá học.
2.2.2. Trong xử lý ô nhiễm môi trường
Xử lý môi trường bị ô nhiễm là một quá trình phức tạp (công nghệ, hiểu
biết sâu về cơ chế hấp thụ, chuyển hóa… và có chi phí rất cao).
Tuy nhiên, thực vật có khả năng làm sạch môi trường đất và nước bị ô
nhiễm (bởi các kim loại, các hợp chất hữu cơ, thuốc súng và các chất phóng xạ),
đây được coi như một loại công nghệ mới, đơn giản và rất hiệu quả.
Bảng 2. Ứng dụng thực vật để xử lý ô nhiễm
Cơ chế
Chất ô
nhiễm
Đối tượng
xử lý
Thực vật
Tình trạng
áp dụng
Tác giả
Phân
huỷ
Atrazine
Nitrat
Nước mặt
Cây dương
lai
Đã áp dụng Schnoor, 1995
Phân
huỷ

Nước rỉ từ
bãi rác
Nước
ngầm
Cây dương
lai
Đã áp dụng Licht, 1990
Phân
huỷ
TCE
Nước
ngầm
Cây dương
lai
Mô hình
trình diễn
Rock, 1997
Phân
huỷ
TNT
Đất ngập
nước
Nhiều loài
Mô hình
trình diễn
Bader, 1996
Carreira, 1996
Phân
huỷ
TPH Đất

Cỏ và cây
àng năm
Mô hình
trình diễn
Banks, 1997
Drake, 1997
Tích tụ -
tinh lọc
trong
mầm cây
Pb Đất Cải dầu
Mô hình
trình diễn
Blaylock,
1997
Tích tụ -
tinh lọc
trong
mầm cây
Uran Nước mặt
Hướng
dương
Mô hình
trình diễn
Dushenkov,
1997
Tích tụ - Se Đất, nước Nhiều loài Đã áp dụng Terry, 1996
12
tinh lọc
trong

mầm cây
mặt
Banuelos,
1996
(TPH - hydrocacbon tổng số trong dầu mỡ; TNT - Trinitrotoluen; TCE -
Tricloroetylen)
Hiện nay vấn đề ô nhiễm kim loại nặng và các hóa chất nguy hại khác đối
với môi trường đất, nước đang diễn ra phổ biến. Có nhiều phương pháp để xử lý ô
nhiễm kim loại nặng trong đất (đào đất bị ô nhiễm đi chôn lấp chỗ khác, rửa đất,
cố định các chất ô nhiễm bằng phương pháp hóa học hoặc vật lý, xử lý nhiệt, …),
nhưng các phương pháp trên đều rất tốn kém về kinh phí, giới hạn về kỹ thuật và
hạn chế về diện tích.
Do đó, phương pháp sử dụng thực vật để xử lý kim loại nặng trong đất,
nước được quan tâm đặc biệt bởi chí phí đầu tư rất thấp, an toàn và thân thiện với
môi trường (so với các phương pháp khác).
Bảng 3. Một số loài thực vật dùng để xử lý kim loại nặng trong đất
Tên loài Khả năng xử lý Tác giả và năm công bố
Cây liễu (Salix nigra)
Kim loại nặng trong đất,
nước
Greger và Landberg, 1999
Cây dương lai (Populus
sp.)
Ni trong đất, nước và
nước ngầm
Punshon và Adriano,
2003
Cải dầu (Brassica napus,
B.
Juncea, B. nigra)

Chất phóng xạ, kim loại
nặng
Brown, 1996 và Banuelos
et al., 1997
Gai dầu (Cannabis
sativa)
Se trong đất Ostwald, 2000
Hướng dương
(Helianthus anuus)
Chất phóng xạ, Cd trong
đất
Pb, Cd trong đất
EPA, 2000 và Elkatib et
al., 2001
13
Bồn bồn (Typha sp.)
Mn, Cu, Se trong nước
thải mỏ khoáng sản
Horne, 2000
Cây sậy (Phragmites
australis)
Kim loại nặng trong chất
thải mỏ khoáng sản
Massacci et al., 2001
2.3. Phương pháp sử dụng chỉ thị sinh học trong xử lý ô nhiễm môi trường
2.3.1. Sử dụng chỉ số sinh học
2.3.1.1. Sử dụng chỉ số sinh học trong giám sát môi trường
Shannon - Weiner sử dụng chỉ số đa dạng H' và Margaleft sử dụng chỉ số
đa dạng D để đánh giá mức độ ô nhiễm hữu cơ nguồn nước.
Việc tính toán và xếp hạng chất lượng nước theo chỉ số đa dạng được thể

hiện ở bảng sau:
Bảng 4. Đánh giá chất lượng theo chỉ số đa dạng
Chỉ số đa dạng Chất lượng nước
<1 Rất ô nhiễm
1 – 2 Ô nhiễm
>2 – 3 Ô nhiễm nhẹ
>3 – 4.5 Sạch
>4.5 Rất sạch
Sử dụng hệ thống tính điểm nhóm động vật đáy cỡ lớn của tổ chức quan
trắc sinh học (BMWP) để đánh giá nhanh chất lượng nước như sau:
- Mẫu vật thu (tại các thuỷ vực) được phân loại.
- Dựa vào các chỉ thị tương ứng với họ (trong bảng tính điểm BMWP) để tính
điểm cho từng họ (họ nào không có trong bảng tính điểm có thể bỏ qua).
- Cộng tất cả các điểm từ mỗi họ tại từng điểm nghiên cứu được tổng điểm số
BMWP.
- Tính điểm số trung bình cho các đơn vị phân loại (ASPT- Average Score per
Taxon) là chỉ số sinh học tương ứng với một mức ô nhiễm (chất lượng) nước bằng
cách chia tổng số điểm (BMWP) cho tổng số họ đã lấy để tính điểm.
14
Bảng 5. Đánh giá chất lượng nước theo chỉ số ô nhiễm
Thứ hạng
Chỉ số ô nhiễm (ASPT) hay
chỉ số sinh học (Bio - index)
Đánh giá chất lượng nước
I 10 - 8 Không ô nhiễm, nước sạch
II 7.9 - 6 Ô nhiễm nhẹ - hoại sinh nhẹ
III 5.9 - 5 Ô nhiễm vừa - hoại sinh vừa
IV 4.9 - 3 Ô nhiễm – hoại sinh trung bình
V 2.9 - 1 Ô nhiễm nặng – hoại sinh nặng
VI 0

Ô nhiễm rất nặng – hoại sinh rất nặng
(không có động vật không xương
sống)
2.3.1.2. Sử dụng chỉ số sinh học trong quan trắc môi trường
Các số liệu được sử dụng để ấn định giá trị đánh số đối với các chỉ thị sinh
học cá thể.
Tổng các giá trị đánh số của tất cả các loài chỉ thị sinh học tại mỗi điểm thu
mẫu (xác định) sẽ cho kết quả biểu thị kiểu ô nhiễm tại điểm đó.
Tổng các giá trị hoại sinh của tất cả các chỉ thị sinh học tại một điểm chia
cho tổng các giá trị tần số gặp cho chỉ số hoại sinh hay chỉ số nhiễm bẩn tại một
điểm.
Chia số sinh học được sử dụng đầu tiên trong quan trắc môi trường là hệ
hoại sinh (dùng quan trắc ô nhiễm hữu cơ trong các sông).
Các chỉ số sinh học khác tuần tự được phát triển, chủ yếu để quan trắc các
tác động chất hữu cơ trong nước chảy. Phổ biến nhất là chỉ số sinh học TRENT ở
Anh, điểm số sinh học CHANDLER (CBS).
Nhiều nước sử dụng rộng rãi điểm số BMWP của nhóm động vật đáy cỡ
lớn để quan trắc môi trường nước (dựa vào việc xác định số loài và phân bố của
động vật đáy không xương sống để phân loại mức độ ô nhiễm nước).
Tuy nhiên, các chỉ số sinh học đều có hạn chế là phải sử dụng cùng với
những số liệu có sẵn về lý - hoá học. Nhưng có ưu việt là tính toán đơn giản, cung
cấp thông tin dễ hiểu về mức độ ô nhiễm.
15
2.3.2. Sử dụng sinh vật tích tụ
Trong các quá trình tích lũy sinh học, nhiều loài sinh vật có thể tích luỹ các
chất ô nhiễm trong các mô của chúng.
Các sinh vật tích tụ có đặc điểm:
+ Chất ô nhiễm được hấp thụ qua bề mặt cơ thể, qua những cấu trúc đặc trưng,
hay được nuốt vào cùng với thức ăn với tốc độ lớn hơn tốc độ đào thải từ cơ thể
chúng.

+ Sự tích luỹ này có thể diễn ra trong suốt vòng đời của sinh vật mà không có
tác động phụ xuất hiện.
+ Hàm lượng tích luỹ trong mô của sinh vật tích tụ có thể gấp 103 - 106 lần so
với trong môi trường (hiện tượng "khuyếch đại sinh học").
Khả năng tích tụ chất ô nhiễm ở sinh vật tích tụ được sử dụng rộng rãi trong
nghiên cứu, quan trắc, xử lý môi trường. Những mô tích luỹ các chất ô nhiễm biểu
thị hàm lượng các chất này rất rõ do phản ánh cả quá trình các chất ô nhiễm xâm
nhập vào môi trường và tác động lên sinh vật trong suốt thời gian dài.
Từ sau những năm 1970, bắt đầu nghiên cứu việc sử dụng thực vật tích tụ
để xử lý các đất bị ô nhiễm kim loại nặng (chịu được hàm lượng kim loại nặng cao
hơn 10 -100 lần so với các cây trồng nông nghiệp). Đặc điểm của các loài thực vật
này là chỉ hấp thụ một hoặc một số kim loại nặng đặc trưng trong các bộ phận trên
mặt đất (chồi, cành, lá). Vì vậy để xử lý các chất ô nhiễm, người ta thu hoạch và
tiêu huỷ các bộ phận tích luỹ của thực vật.
Cho đến 2002 đã phát hiện 420 loài có khả năng tích tụ kim loại nặng cao,
trong đó: một số là nguồn thực phẩm, nhiều thực vật lớn và nhuyễn thể, cá (môi
trường nước); địa y, rêu và thực vật có mạch (môi trường đất, không khí). Trong
đó, rêu được sử dụng rộng rãi cho quan trắc các kim loại nặng.
Trong thực tế khó có loài đơn lẻ nào đáp ứng được đủ các các tiêu chuẩn
của sinh vật chỉ thị về tích tụ. Trong các chương trình giám sát ô nhiễm phải khắc
phục theo 2 cách: Quan trắc thụ động và thu mẫu (để phân tích hóa học) từ nơi cư
16
trú đặc biệt của những sinh vật bản địa; Quan trắc chủ động (tại nơi cư trú) các
sinh vật có ở vùng không ô nhiễm.
2.3.3. Phép thử sinh học
Phép thử sinh học là phương pháp sử dụng sinh vật ở những điều kiện thí
nghiệm (có đối chứng) để nghiên cứu, đánh giá môi trường. Nhiều phép thử sinh
học đã được phát triển để sử dụng trong phòng thí nghiệm hay ngoài hiện trường.
Khả năng sử dụng phép thử sinh học trong nghiên cứu các vấn đề môi
trường:

+ Xác định các tác động ngắn hạn của liều lượng lớn (cấp tính) đến cá thể,
quần thể và quần xã.
+ Xác định tác động tiềm năng của các chất gây ô nhiễm (tác động dài hạn của
những lượng thấp các chất gây ô nhiễm khác nhau (mãn tính) đến cá thể, quần thể
và quần xã.
+ Xác định sự đa dạng của ngưỡng độc hại (liên quan đến hiệu ứng gây chết
toàn bộ và gây chết một nửa) và giới hạn chuẩn của các chất ô nhiễm.
+ Xác định rõ tính mẫn cảm của những sinh vật điển hình đối với các chất ô
nhiễm đặc trưng.
+ Cung cấp tín hiệu sớm về sự ô nhiễm gây hại tiềm ẩn.
+ Các mô hình tác động và cách xâm nhập của các chất ô nhiễm vào hệ sinh
thái.
+ Nghiên cứu phát triển các biện pháp xử lý và chống ô nhiễm.
Tiêu chuẩn lựa chọn sinh vật trong thử nghiệm sinh học:
Các tiêu chuẩn như đối với sinh vật chỉ thị môi trường.
Tuy nhiên thì vẫn cần phải có các tiêu chuẩn khác:
+ Mẫn cảm và bền vững trong phản hồi với chất gây ô nhiễm.
+ Ở trạng thái khoẻ mạnh, không dễ bị nhiễm bệnh và ký sinh.
Phân biệt phép thử đơn loài và đa loài, thường sử dụng làm phép thử sinh học
đơn loài, mặc dù phép thử đa loài có ưu việt hơn.
17
Các loại thông số (chỉ tiêu) dùng để theo dõi sinh vật thử nghiệm (xác định tác
động gây ra bởi ô nhiễm) khá đa dạng và thường là: những thay đổi trong tập tính,
hình thái, sinh lý và sinh hoá học.
Khi tiến hành các phép thử sinh học thường sử dụng các phương pháp nghiên
cứu trong nông học (thí nghiệm đồng ruộng, thí nghiệm chậu vại….). Vì vậy cần
tìm hiểu và tuân thủ đúng các phương pháp nghiên cứu tương ứng để đảm bảo kết
quả của phép thử sinh học đúng.
2.3.4. Xây dựng bản đồ ô nhiễm
Xây dựng bản đồ phân bố loài dựa vào sinh vật chỉ thị để đưa ra các chỉ dẫn

về phân bố ô nhiễm.
Ví dụ: địa y mẫn cảm nhất đối với các loại chất gây ô nhiễm khí quyển đặc
biệt là Sunfua dioxyt (SO
2
), các quần xã địa y trong thành phố và vùng công
nghiệp thường rất nghèo. Căn cứ vào biến đổi (không gian và thời gian) trong
phân bố địa y theo khả năng chống chịu của các loại đặc trưng có thể xây dựng
bản đồ về nồng độ gây ô nhiễm SO
2
ở cấp độ vùng và quốc gia. Ngoài ra, rêu, vi
nấm và một số loài ve (Humerobates rostrolamellatus) cũng được sử dụng để xây
dựng bản đồ ô nhiễm của một số chất khí.
2.3.5. Phương pháp so sánh
Hiện nay, phương pháp so sánh chi thị sinh học môi trường được phát triển
đối với các hệ thống nước ngọt. Trong đó xác định kiểu sinh thái đặc trưng và sử
dụng các phương pháp đo chọn lọc nhằm so sánh những thuỷ vực cùng kiểu
nhưng không bị tác động.
Kết quả biểu thị ra tính tương đồng theo % của các điểm nghiên cứu, điểm
số % > 90% chứng tỏ điểm đó không bị ô nhiễm.
2.3.6. Sử dụng vi sinh vật
Vi sinh vật là hợp phần quan trọng của các hệ sinh thái mà tính đa dạng và
độ phong phú của chúng bị chi phối bởi những thay đổi của các yếu tố môi trường
và có thể trở thành chỉ thị cho những kiểu ô nhiễm nhất định.
18
Ví dụ: + sự có mặt của quần xã nấm nước thải là chỉ thị ô nhiễm mức độ cao.
+ sự có mặt của các vi khuẩn sống trong ruột người và động vật
(Coliform, Streptococci và Clostridium ) là chỉ thị cho ô nhiễm nước sinh hoạt (do
phân).
2.3.7. Sử dụng các loài đặc hữu, quý hiếm
Các loài đặc hữu là các loài phân bố hẹp, thích ứng với môi trường sinh thái

nhất định.
Khi các yếu tố môi trường bị xâm hại, thì quần thể các loài đặc hữu đó bị
suy giảm số lượng cá thể hoặc không còn hiện diện ở đó, đây là là cơ sở cho việc
đánh giá tình trạng và việc bảo vệ môi trường.
2.3.8. Phương pháp diễn thế
Sự phát triển của quần xã sinh vật theo thứ bậc liên quan đến những biến
đổi cấu trúc loài, các quá trình tiến triển quần xã sinh vật theo thời gian và hướng
xác định (tính kế tiếp của các quần xã có sự thay thế cho nhau trong từng vùng)
được gọi là diễn thế.
Diễn thế xảy ra do môi trường vật lý thay đổi dưới sự tác động của quần xã
và có thể dự đoán được. Ví dụ: theo quy luật diễn thế rừng nhiệt đới: đất trống -
trảng cỏ, trảng cây bụi - rừng thứ sinh - rừng kín nhiều tầng và quyết định sự tồn
tại, phát triển của quần xã động vật hoang dã.
Phương pháp dự báo diễn thế sinh thái :
+ Mô hình tính toán kinh nghiệm (diễn thế dinh dưỡng môi trường thuỷ vực)
+ Lập bảng ma trận với tham số là các tác động từ môi trường bên ngoài và các
diễn biến có thể xảy ra tương ứng trong hệ (môi trường, đặc trưng sinh học).
2.4. Sử dụng sinh vật trong xử lý ô nhiễm môi trường
2.4.1. Xử lý ô nhiễm môi trường nước
2.4.1.1. Khái niệm về ô nhiễm nước và hệ hoại sinh
19
Nước thải không qua xử lý được xả vào nguồn nước có thể làm cho nó dần
bị ô nhiễm. Do trong nước thải thường giàu chất hữu cơ, chúng sẽ làm thay đổi
điều kiện môi trường tạo ra sự diễn thế các quần xã của thủy vực (nước chảy),
thùy thuộc và khoảng cách tới nguồn xả.
Các quần xã sinh vật của thủy vực bị ảnh hưởng của nước thải có đặc điểm
chung là hệ thống các sinh vật sống phụ thuộc vào mức độ phân hủy các chất hữu
cơ hay còn được gọi là hệ thống sinh vật hoại sinh.
2.4.1.2. Đặc điểm của đoạn sông nơi bị ô nhiễm hữu cơ do nguồn xả
Có thể chia đoạn sông nơi bị ô nhiễm ra các phụ vùng có đặc điểmtheo thời

gian tính ra ngày và khoảng cách tính ra dặm, với các đặc điểm sau:
Phụ vùng nước sạch - hoại sinh yếu:
Vùng nước phía trước dòng thải xâm nhập thường không ô nhiễm, là nơi nước
sạch trước khi ô nhiễm, có khoảng cách 12 - 24 dặm (1609m) ngược về phía
nguồn thải và thời gian trước 1 - 2 ngày tính từ nơi và thời điểm dòng sông bắt đầu
bị nước thải đổ vào.
Môi trường sống của sinh vật ổn định với hàng loạt các yếu tố lý và hóa học
(thông thường) đặc trưng cho nước chưa bị ô nhiễm hữu cơ.
Ở đây có nhiều loài sinh vật (khoảng 40 loài) với chức năng đa dạng (sản xuất,
tiêu thụ, phân hủy) cùng tồn tại, nhưng không một loài nào chiếm ưu thế và đều là
sinh vật hoại sinh yếu.
Phụ vùng thoái hóa - hoại sinh mạnh:
Vùng còn có thể gọi là rất bẩn - ô nhiễm rất nặng. Vùng có những quá trình
khử chiếm ưu thế, nên chỉ có các sinh vật hoại sinh mạnh.
Vïng míi bắt đầu bị ô nhiễm do nước xả thải cùng lượng lớn các chất hữu cơ –
thức ăn cho các sinh vật hoại sinh mạnh. Vùng có khoảng cách 12 dặm xuôi theo
dòng sông và thời gian 1 ngày tính từ nơi và thời điểm dòng sông bắt đầu bị nước
thải đổ vào. Đây là vùng mà các tính chất vật lý của môi trường thay đổi mạnh.
Số lượng loài có xu hướng giảm, do ô nhiễm mạnh làm nhiều loài sinh vật (đặc
biệt là các sinh vật tiêu thụ và sản xuất) có thể bị chết ngạt hoặ bị che lấp bởi các
20
chất lơ lửng. Số lượng cá thể của những loài sinh vật hoại sinh có xu hướng tăng
mạnh và chiếm ưu thế hoàn toàn do thích ứng với môi trường ô nhiễm. Các sinh
vật bị chết cung cấp them thức ăn (xác hữu cơ) làm vi sinh vật hoại sinh phát triển
mạnh mà làm giảm mạnh nồng độ oxy hòa tan trong nước
Phụ vùng phân hủy mạnh - hoại sinh trung bình α:
Vùng còn có thể gọi là vùng bẩn nhiều hay vùng ô nhiễm cao, với các sinh vật
hoại sinh trung bình α (gần với hoại sinh mạnh).
Vùng có khoảng cách 12 – 48 dặm xuôi theo dòng sông và thời gian sau 1 – 4
ngày tính từ nơi và thời điểm dòng sông bắt đầu bị nước thải đổ vào. Vùng này có

quá trình khử vẫn còn chiếm ưu thế.
Sự thiếu ô xy hòa tan làm cho hầu hết động và thực vật cỡ lớn và nhiều vi sinh
vật hảo khí chết và lại bổ sung khối lượng xác hữu cơ. Ở vùng này, các loài sinh
vật hoại sinh (lớn, nhỏ) kỵ khí chiếm ưu thế. Các sinh vật hoại sinh kỵ khí tiếp tục
sử dụng thức ăn hữu cơ cho đến hết làm cho số loài sinh vật hoại sinh mạnh trong
môi trường còn ở mức tối thiểu, nhưng số lượng của các loài sinh vật hoại sinh kỵ
khí lại đạt đến cực đại.
Phụ vùng phục hồi – hoại sinh trung bình β:
Vùng còn có thể gọi là vùng nhiễm bẩn hay vùng ô nhiễm trung bình, các loại
sinh vật hoại sinh trung bình β (gần với hoại sinh yếu). Vùng có quá trình khử vẫn
còn chiếm ưu thế. Có khoảng cách 48 – 96 dặm xuôi theo dòng sông và thời gian
sau 4 – 8 ngày tính từ nơi và thời điểm dòng sông bắt đầu bị nước thải đổ vào.
Vũng có mức độ ô nhiễm hữu cơ giảm, thức ăn (chất hữu cơ) của các sinh vật
hoại sinh giảm làm cho số lượng các sinh vật kỵ khí và sinh vật chống chịu ô
nhiễm khác cũng giảm, tạo khả năng thay đổi về điều kiện sinh thái. Nồng độ oxy
hòa tan trong nước tăng dần làm tăng số lượng sinh vật hiếu khí, vật liệu lơ lửng
giảm, hoạt động phân giải của vi sinh vật hảo khí làm tăng chất dinh dưỡng dễ
tiêu để tảo (sinh vật sản xuất) bắt đầu phát triển và tăng mạnh. Động vật (sinh vật
tiêu thụ) bắt đầu phát triển mạnh hơn do lượng oxy cung cấp tương đối đủ để hô
hấp và có nhiều tảo để ăn.
21
Cuối cùng dòng sông có thể bước vào thời kỳ có hệ sinh vật phong phú (sinh
vật sản xuất) cho đến khi năng lượng dự trữ hay thức ăn dễ tiêu hết.
Phụ vùng nước sạch hơn:
Vùng có tên gọi thống nhất, chỉ có những quá trình oxy hóa với các sinh vật
hoại sinh yếu. Có khoảng cách lớn hơn 100 dặm xuôi theo dòng sông và thời gian
sau 9 ngày tính từ từ nơi và thời điểm dòng sông bị nước thải đổ vào. Những đặc
điểm (vật lý, hóa học) của nước sạch được xác lập , làm cho tảo (sinh vật sản xuất)
chuyển về trạng thái ở nước sạch (ít biến động về số lượng loài). Hệ động vật
nước lập lại thế cân bằng. Vùng có tính chất: giống với nước sạch đầu nguồn,

ngoại trừ trường hợp hiện tại nó là một dòng sông rộng lớn hơn. Khu hệ sinh vật
đặc trưng: giống với khu hệ sinh vật nước sạch đầu nguồn, ngoại trừ các loài bản
địa (thích ứng với dòng chảy) lớn hơn.
2.4.1.3. Sinh vật chỉ thị ô nhiễm hữu cơ nguồn nước
Ô nhiễm hữu cơ nguồn nước thường được chỉ thị theo hệ hoại sinh, vì hệ
hoại sinh là hệ thống sinh vật chỉ thị môi trường nước đầu tiên. Trong đánh giá
chất lượng nước không nên dựa vào những cá thể sinh vật mà phải là quần xã sinh
vật.
Kolkwitz, Marson, Liebmann là những người đầu tiên đưa ra danh mục các
sinh vật chỉ thị (gồm động vật và thực vật) cho môi trường nước bị ô nhiễm hữu
cơ ở các mức độ khác nhau lien quan đến hệ hoại sinh. Trong đó: ô nhiễm rất nặng
có 31 sinh vật chỉ thị, ô nhiễm cao có 17 sinh vật chỉ thị, ô nhiễm trung bình có 22
sinh vật chỉ thị, không ô nhiễm có 22 sinh vật chỉ thị.
Hiện nay, ô nhiễm chất hữu cơ nguồn nước được thể hiện rõ nằng sự phú
dưỡng nguồn nước.
22
2.4.2. Xử lý ô nhiễm môi trường không khí
Các chất gây ô nhiễm không khí chính:
Bảng 5. Các chất chính gây ô nhiễm khí quyển và những hỗn hợp của chúng tác
động lên thực vật
Các chất gây ô nhiễm Nguồn gốc
Nồng độ
gây hại đối
với thực vật
(ppm/h)
Các
chất

bản
Các oxit quang hóa

Ôzon Động cơ đốt trong 0.04 - 0.7
NO
3
Động cơ đốt trong 0.004 - 0.01
Nitơ oxit Bếp lò, động cơ đốt trong 0.21 - 100
Các oxit lưu huỳnh Bếp lò (than đá hoặc dầu hỏa)
Flo và florua Các quá trình công nghiệp 0.1 - 0.5
Các
chất
thứ
yếu
NH
3
Các quá trình sản xuất khác nhau
B Các quá trình sản xuất khác nhau
Etyl và propilen Động cơ đốt trong 0.0005 - 10
HCl, các hạt rắn,
kim loại nặng,
NaCl
Bếp lo. các quá trình sản xuất khác
nhau
Thay đổi
23
Hiện tượng tảo nở hoa
Tảo silic Centric diatoms
Tảo lam xanh cyanobacteria
2.4.2.1. Sinh vật chỉ thị ô nhiễm không khí do Ozone
Thực vật chỉ thị Ozone tốt nhất là: cây thân gỗ, cây bụi thân gỗ, và các loại
cỏ.
Ozone sẽ gây tổn thương cho tế bào nhu mô đầu tiên, sau đó đến thịt lá.

Dấu hiệu đặc trưng: lá bị đốm li ti tập trung gần nhau, lá xuất hiện các điểm
có màu trắng, đen, đỏ hay màu huyết dụ,
Một số loài thực vật có thể làm giảm nồng độ ozone trong không khí:
24
Tác hại
của
ozone
lên

cây
Cây dã yên Petunia hybrida bị tổn thương bởi ozone
Cây hoàng tâm diệp hay cây lá tim vàng
Golden Pothos - Epipremnum aureum
2.4.2.2. Sinh vật chỉ thị ô nhiễm không khí do PAN
Dấu hiệu tổn thương do PAN gây ra:
+ cây lá rộng: phía trong của lá có thể xuất hiện các đốm bọng nước màu bạc
trắng hoặc đồng thau.
+ cây lá hẹp: xuất hiện các dải úa vàng hoặc bạc trắng trên lá.
Một số loài thực vật mẫn cảm với PAN:

25
Cây dây nhện Chlorophytum comosum
Cây rắn
Cây xà lách Lactuca sativa Củ cải đường Betachilensis hort

×