I. TÊN ĐỀ TÀI
ĐẨY MẠNH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
II. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đến thời điểm này công nghệ thông tin (CNTT) đã và đang phát triển
mạnh mẽ, những tiện ích của nó ở tất cả các lĩnh vực đều đã được khẳng định.
Hiện nay, ngành nào, lĩnh vực nào cũng đang đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT để
nâng cao chất lượng hoạt động. Đối với Giáo dục, CNTT đã được ứng dụng rộng
rãi ở các cấp học, bậc học trong những năm gần đây.
Từ năm học 2007-2008 đến nay, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
ngành là đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT và phát triển nguồn nhân lực CNTT
trong toàn ngành. Thực hiện nhiệm vụ này, trong các năm qua, Phòng Giáo dục
và Đào tạo (GD&ĐT) thành phố Tam Kỳ đã chỉ đạo các trường tiểu học đẩy
mạnh việc giảng dạy môn tin học tự chọn; triển khai việc kết nối, truy cập, khai
thác internet; sử dụng tốt các phần mềm quản lý nhà trường và hệ thống thông
tin quản lý giáo dục, cơ sở dữ liệu về học sinh, giáo viên; tổ chức phổ biến và
động viên cán bộ giáo viên tham gia học tập tin học, khai thác, cập nhật thông
tin, đóng góp cho mạng giáo dục các cấp, đặc biệt là cho website Phòng GD&ĐT
thành phố Tam Kỳ, xây dựng website của trường, tích cực ứng dụng CNTT vào
đổi mới phương pháp dạy học, góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy và hiệu
quả giáo dục.
Trường Tiểu học Trần Quốc Toản trong các năm qua đã có nhiều nỗ lực
và đạt được nhiều kết quả trong công tác ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy
học. Nhà trường đã tham mưu với thành phố, thực hiện công tác xã hội hoá, đầu
tư mua sắm được nhiều trang thiết bị phục vụ cho công tác ứng dụng CNTT. Đã
động viên nhiều cán bộ, giáo viên, nhân viên tích cực học tin học và ứng dụng
tin học trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và công tác giảng dạy.
Kết quả đạt được trong công tác này là 100% học sinh lớp 3, 4, 5 của
trường được học môn tin học, cán bộ, nhân viên sử dụng máy tính thành thạo
trong công tác xử lý công việc chuyên môn, việc ứng dụng CNTT đối với giáo
viên được thực hiện trong các tiết dạy hội giảng hoặc tổ chức sinh hoạt ngoại
khoá.
Kết quả như thế nhưng so với sự phát triển chung của giáo dục, kết quả
trên vẫn chưa đáp ứng theo yêu cầu nhiệm vụ của ngành, nhất là việc ứng dụng
CNTT trong giảng dạy chưa được nhiều, công tác xây dựng website riêng cho
trường gặp khó khăn. Chính vì thế, khi được giao nhiệm vụ về làm Hiệu trưởng,
tôi đã quan tâm ngay đến việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT nhằm nâng cao chất
lượng dạy học. Trong phạm vi đề tài này tôi chỉ xin nêu một số biện pháp mà
bản thân đã làm nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNTT nâng cao chất lượng dạy học
từ tháng 3 năm 2010 đến nay, tại trường tiểu học Trần Quốc Toản.
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Công văn số 9886/BGDĐT-CNTT ngày 11 tháng 11 năm 2009 của Bộ
GD&ĐT về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học 2009-2010 có
nội dung: Quán triệt Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ
trưởng Bộ GDĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ
thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012. Quán triệt tinh thần công
tác ứng dụng CNTT và đào tạo nguồn nhân lực CNTT là công tác thường xuyên
và lâu dài của ngành giáo dục, tiếp tục phát huy các kết quả đạt được của "Năm
học đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin" trong năm học 2008 - 2009, tiếp
tục xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học 2009 -
2010 nhằm đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và ứng dụng
CNTT một cách thiết thực và hiệu quả trong công tác quản lý của nhà trường và
công tác đào tạo nguồn nhân lực về CNTT.
Chỉ thị số 3399/CT-BGDĐT ngày 16 tháng 8 năm 2010 của Bộ GD&ĐT
về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp năm học 2010 - 2011 có ghi rõ: "Đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục. Tích cực áp dụng hình
thức tổ chức hội nghị, hội thảo, tập huấn, họp, trao đổi công tác qua mạng
Internet. Tăng cường sử dụng văn bản điện tử trong ngành".
Công văn số 4919/BGDĐT-GDTH ngày 17 tháng 8 năm 2010 của Bộ
GD&ĐT về hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2010-2011 có nội dung
2
hướng dẫn về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí và trong dạy
học như sau:
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học cho cán
bộ, giáo viên và nhân viên (CBGVNV) trong nhà trường.
Khuyến khích sử dụng các phầm mềm quản lí học sinh, quản lý CBGV,
quản lý thư viện, quản lý tài chính đáp ứng yêu cầu quản lí chung của ngành
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học. Khuyến khích giáo viên soạn
giáo án trên máy tính. Các giáo án điện tử cần được xây dựng theo hướng có sự
tham gia của tổ chuyên môn, của nhà trường và được sử dụng chung cho nhiều
lớp. Tiếp tục thực hiện phong trào sưu tầm, tuyển chọn tư liệu dạy học điện tử.
Công văn số 4973/BGD ĐT-CNTT ngày 18 tháng 8 năm 2010 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học
2010-2011 có một số nội dung hướng dẫn như sau:
Mỗi cán bộ và giáo viên có ít nhất một địa chỉ e-mail của ngành, có tên
dưới dạng @tên-cơ-sở-giáo-dục.edu.vn, trong đó tên-cơ-sở-giáo-dục có thể là
moet, tên sở, tên phòng.
Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong trường phổ thông nhằm đổi mới
phương pháp dạy và học theo hướng giáo viên tự tích hợp CNTT vào từng môn
học thay vì học trong môn tin học.
Triển khai mô hình máy tính nhân bản (một CPU nối nhiều màn hình và
bàn phím) nhằm tiết kiệm phí bản quyền phần mềm, phí bảo dưỡng phòng máy
và tiết kiệm năng lượng điện. Nghiên cứu sử dụng màn hình tivi plasma, LCD cỡ
lớn (50-85 inch) trong lớp học.
Mục VII trong Công văn số 388/HD-PGD&ĐT ngày 06 tháng 9 năm 2010
của Phòng GD&ĐT thành phố Tam Kỳ về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ
năm học 2010-2011 cấp tiểu học đã ghi rõ: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lí và dạy học với 5 nội dung sau:
Bồi dưỡng kĩ năng sử dụng vi tính cho cán bộ quản lí, giáo viên và nhân
viên nhà trường. Mỗi trường cần có giáo viên tin học làm nòng cốt trong việc bồi
dưỡng và ứng dụng công nghệ thông tin.
Các trường cần trang bị phòng máy vi tính, thiết bị công nghệ thông tin để
phục vụ công tác quản lí và dạy học. Khuyến khích sử dụng phần mềm quản lí
học sinh, quản lí đội ngũ, quản lí thư viện… Ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lí và dạy học, khuyến khích giáo viên soạn giáo án trên máy vi tính và sử
dụng để giảng dạy; sưu tầm, tuyển chọn, tập hợp các tư liệu dạy học điện tử theo
các môn học và theo chủ đề (phần mềm hỗ trợ dạy học; tranh ảnh minh hoạ các
môn học, ) thành kho tư liệu dùng chung.
3
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí và dạy học cần được
thực hiện tích cực, có kế hoạch cụ thể, từng bước theo điều kiện của từng trường,
không nên chạy theo hình thức, gây lãng phí, không hiệu quả.
Phát huy tác dụng website, weblog của trường trong công tác quản lí, hỗ
trợ dạy học và giới thiệu hình ảnh nhà trường với xã hội.
Với các văn bản trên đã chỉ thị, hướng dẫn cho tất cả các đơn vị trường
học tích cực đẩy mạnh ứng dụng CNTT nâng cao chất lượng dạy học.
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Từ tháng 3 năm 2010 khi nhận nhiệm vụ là Hiệu trưởng của trường, tôi đã
nắm bắt tình hình ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy học tại trường. Như đã
trình bày trong phần đặt vấn đề, nhà trường trong các năm qua có nhiều nỗ lực
và đạt được nhiều kết quả trong công tác ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy
học.
Nhà trường đã tham mưu với thành phố, thực hiện công tác xã hội hoá,
đầu tư mua sắm được nhiều trang thiết bị phục vụ cho công tác ứng dụng CNTT.
Đã động viên nhiều cán bộ, giáo viên, nhân viên tích cực học tin học và ứng
dụng tin học trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và công tác giảng dạy.
Tại thời điểm này, trường có 28 máy tính để bàn, 2 máy tính xách tay, 2 máy
chiếu Projector. Đội ngũ giáo viên trên 70% có chứng chỉ tin học, từ đầu năm
học đến tháng 3 tổ chức được 27 tiết dạy có ứng dụng CNTT. 100% học sinh lớp
3, 4, 5 của trường được học môn tự học tự chọn. Cán bộ, nhân viên sử dụng máy
tính thành thạo trong công tác xử lý công việc chuyên môn nhất là nhân viên kế
toán, văn thư, y tế, thư viện thiết bị.
Tuy nhiên, một số thực tiễn mà với trách nhiệm là Hiệu truởng tuy là mới
về truờng có rất nhiều việc phải tập trung nhưng tôi vẫn dành nhiều thời gian cho
công việc này. Thực tiễn phải quan tâm đó là:
Thứ nhất là: Tuy đã tổ chức dạy tin học cho học sinh tại phòng tin học từ
những năm trước nhưng đến năm học 2009-2010 do trường được đầu tư giai
đoạn 3 nên một số phòng học phải tháo dỡ để xây dựng các phòng mới. Vì thế
phòng tin học được dùng ưu tiên cho phòng học của lớp và gần 20 máy được xếp
cất ở phòng truyền thống. Học sinh học tin học chỉ học lý thuyết chứ không được
thực hành.
Thứ hai là: Theo quy định của Phòng GD&ĐT chậm nhất đến ngày
10/4/2010, tất cả các trường tiểu học phải có trang web riêng. Đến thời điểm này,
11/13 trường tiểu học đã xây dựng thành công trang web của trường, chỉ còn 02
đơn vị là Tiểu học Trần Quốc Toản và Tiểu học Ngô Quyền chưa có. Lãnh đạo
Phòng GD&ĐT đã nhắc nhở.
4
Thứ ba là: Số giáo viên, số tiết dạy thực hiện ứng dụng CNTT trong dạy
được 27 tiết, so với trình độ đội ngũ và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường
như thế là quá ít, chỉ tập trung ở các tiết hội giảng còn bình thường rất ít giáo
viên quan tâm đến công tác này.
Số giáo viên có chứng chỉ tin học là trên 70% nhưng thực tế sử dụng thì
rất hạn chế, đa số còn lúng túng khi sử dụng máy tính, và gặp nhiều khó khăn
trong sử dụng máy chiếu Projector.
Thư viện nhà trường chưa thiết lập được kho tư liệu bài giảng dùng chung.
Với thực tiễn như trên, là người đứng đầu của đơn vị, tôi đã suy nghĩ tìm
các biện pháp khắc phục và nỗ lực thực hiện để đẩy mạnh công tác ứng dụng
CNTT nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong toàn trường.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Nâng cao nhận thức trong CBGVNV về công tác ứng dụng CNTT
Xác định rằng tất cả các công việc muốn có thành công thì việc đầu tiên
cần làm là làm sao để tập thể CBGVNV nhận thức đúng về công việc mà họ sẽ
thực hiện. Tôi đã triển khai quán triệt lại trong hội đồng sư phạm (HĐSP) các
văn bản của Bộ GD&ĐT, Phòng GD&ĐT về những nội dung hướng dẫn và yêu
cầu trong công tác ứng dụng CNTT trong dạy học, trong giáo dục. Thông qua
việc triển khai, thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi phân tích thêm
nhiều điểm tiện ích của máy tính, của bài giảng điện tử để CBGVNV có nhận
thức đầy đủ về công tác này. Trong tổng kết cuộc thi "Đồ dùng dạy học (ĐD
DH) tự làm và sản phẩm ứng dụng CNTT" của trường vào tháng 3 năm 2010, tôi
đã phát biểu:
Ban tổ chức biết rằng để có được những bài giảng đạt hiệu quả như trên,
thời gian qua các thầy cô giáo đã
phải mất rất nhiều công sức,
thậm chí phải mất một số kinh
phí nhất định. Các thầy cô phải
mất nhiều giờ đồng hồ để vào
mạng, để đi đến công ty thiết bị
trường học, các nhà sách, tìm
tư liệu cho bài giảng. Vài tiếng
đồng hồ để sưu tầm tư liệu và có
khi vài trăm ngàn để thiết kế một
bài giảng có thể nói là quá nhiều
nhưng nếu các thầy cô nghĩ
rằng: bài giảng đó sẽ được nhân
ra hàng chục bản, hàng trăm bản, hàng ngàn bản và hàng trăm, hàng ngàn hàng
vạn học sinh sẽ được tiếp thu những bài giảng sinh động như thế thì chắc chắn
5
chúng ta sẽ thấy được hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả giáo dục của việc ứng
dụng CNTT trong dạy học. Ít nhất qua Hội thi này mỗi thầy cô chỉ đem đến 1
hoặc 2 bài giảng nhưng với tinh thần giao lưu, chia sẻ mỗi giáo viên sẽ nhận
được 77 bài giảng để có thể tham khảo, điều chỉnh, bổ sung và áp dụng vào thực
tế giảng dạy của mình. Đây chính là một kết quả lớn đạt được qua hội thi này.
Tuy nhiên, hội thi cũng còn có một số hạn chế nhất định: trong một vài bài
giảng giáo viên còn lạm dụng trong việc sử dụng tranh ảnh, đoạn phim, âm thanh
(tiếng vỗ tay), đặt hiệu ứng xuất hiện, ; việc sử dụng phông chữ ở một vài bài
giảng còn tùy tiện, có giáo án còn cài đặt những hình ảnh phụ làm rối bố cục và
phân tán sự tập trung của học sinh; trong phần thiết kế các hoạt động ở một vài
thiết kế việc ứng dụng CNTT đổi mới phương pháp dạy học còn chưa được thể
hiện rõ nét, một vài giáo viên chưa khai thác tốt tác dụng của kênh hình. Cần lưu
ý kênh hình phải được sử dụng như một nguồn cung cấp kiến thức chứ không chỉ
để minh họa cho lời giảng của giáo viên.
Các thầy cô cần tránh nhầm lẫn khái niệm giáo án điện tử là các bài trình
chiếu Powerpoint. Cần xác định CNTT là phương tiện hỗ trợ, nhằm nâng cao
chất lượng dạy học nên hiệu quả của nó phụ thuộc chủ yếu vào cách thức sử
dụng của giáo viên. Từ đó giáo viên cần tránh lạm dụng CNTT, gây phản tác
dụng như không lựa chọn kỹ nội dung trình chiếu, thời gian trình chiếu quá
nhiều, trình chiếu với âm thanh ồn ào và với chữ viết có mầu sắc loè loẹt, với
chữ chạy nhảy mang tính biểu diễn kĩ thuật không cần thiết và kích thước chữ
quá nhỏ.
Các thầy cô chú ý: máy tính điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc
dạy học nhưng trong một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không
thể hỗ trợ giáo viên hoàn toàn trong các bài giảng của giáo viên. Nó chỉ thực sự
hiệu quả đối với một số bài giảng chứ không phải toàn bộ chương trình do nhiều
nguyên nhân, mà cụ thể là, với những bài học có nội dung ngắn, không nhiều
kiến thức mới, thì việc dạy theo phương pháp truyền thống sẽ thuận lợi hơn cho
học sinh,
Vì vậy nhân tổng kết này tôi đề nghị các thầy cô giáo cần chú ý đến đặc
trưng môn học, nội dung của từng bài cụ thể để lựa chọn phương pháp và hình
thức dạy học phù hợp. Và trong bất cứ hình thức dạy học nào người giáo viên
cũng đều là nhân tố quyết định sự thành công của tiết dạy, máy tính có hiện đại
đến đâu cũng chỉ là những đồ dùng dạy học tiện ích hỗ trợ giáo viên đổi mới
phương pháp dạy học nâng cao chất lượng chứ không thể thay thế được vai trò
của thầy cô giáo.
Bên cạnh đó tôi cũng giới thiệu về Thư viện trực tuyến violet, về website,
tiện ích của website để CBGVNV có nhận thức đầy đủ về công tác này.
2. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
6
Muốn ứng dụng CNTT thì có đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị là điều kiện
cần để đảm bảo cho việc này được triển khai thực hiện, nếu không tất cả cũng
chỉ là lý thuyết. Xác định được vị trí của điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị
có tầm quan trọng có
tính quyết định để thực
hiện được công tác ứng
dụng CNTT. Ngay từ
khi bước về trường, tôi
đã quan tâm sắp xếp, bố
trí cơ sở vật chất phù
hợp để khai thác tối đa
số trang thiết bị hiện có.
Thấy rằng gần 20 máy vi
tính xếp cất mà học sinh
thì không được thực
hành trên máy tính. Tôi
tự thấy như thế là chưa
phát huy hết tác dụng của các phương tiện dạy học. Tôi khảo sát toàn bộ các
phòng học, phòng làm việc hiện có của trường. Lúc này công trình 8 phòng học
mới vừa được bắt đầu xây dựng nên vẫn thiếu phòng. Sau khi suy tính, tôi quyết
định sử dụng phòng giáo viên ở khu hiệu bộ để làm phòng tin học dạy học sinh
thực hành. Tuy cũng có một số ý kiến nêu ra là sử dụng như vậy thì giáo viên
không còn phòng họp, nghỉ ngơi, xem lịch công tác hàng tuần, …. Rồi thì học
sinh học ở khu hiệu bộ (vì phòng này ở khu hiệu bộ) làm ảnh hưởng đến công
việc của cán bộ, nhân viên tại khu này, một số vấn đề nề nếp có ảnh hưởng, …
Đúng đó là các điểm hạn chế khi sử dụng phòng giáo viên làm phòng tin
học. Nhưng ưu điểm của quyết định này là gì, tôi đã phân tích rõ. Đó là học sinh
của trường được học tin học với máy tính, được thực hành tin học với máy tính,
chất lượng học tin sẽ cao hơn, các em sẽ ham thích môn học này hơn. Đó là kết
quả vô cùng quan trọng trong công tác chuyên môn của nhà trường và quyết định
cho thành công trong công tác nâng cao chất lượng dạy học tin học và bồi dưỡng
đội tuyển tin học tham gia dự thi các cấp. Thấy rõ điểm ưu và hạn chế, tôi đã
thực hiện quyết định đó. Bên cạnh đó để khắc phục các điểm hạn chế, tôi đã có
các biện pháp cụ thể: sử dụng Nhà đa năng làm phòng giáo viên, phòng họp để
tổ chức các cuộc họp HĐSP; giáo viên không xem được lịch thì tôi cho sao gửi
lịch công tác về tổ, niêm yết tại bảng thông báo để tất cả CBGVNV đều có thể
xem được.
Năm học 2010-2011, ngành tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng CNTT
trong quản lý và dạy học. Tôi tiếp tục dành nhiều thời gian tập trung cho công
tác này. Ngay từ đầu năm học, theo hướng dẫn của ngành và thực tế của trường,
tôi đã xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện nhiệm vụ ứng dụng CNTT một
7
cách toàn diện, đề câp đến tất cả các nội dung để đẩy mạnh ứng dụng CNTT,
trong đó quan tâm nhiều đến việc đầu tư CSVC, trang thiết bị phục vụ cho công
tác này (Phụ lục 1: Kế hoạch triển khai thực hiện nhiệm vụ ứng dụng CNTT năm
học 2010-2011).
Xác định được những nội dung trọng tâm của công tác ứng dụng CNTT.
Mặt khác thấy được những hạn chế của giáo viên trong việc sử dụng máy chiếu
Projector. Ngay từ đầu năm học bằng nguồn kinh phí huy động trong phụ huynh
học sinh, với sự tham mưu của các bộ phận, tôi đã đầu tư 2 phòng học ứng dụng
CNTT, mỗi phòng ngoài bàn ghế và các thiết bị như một phòng học thông
thường, được đầu tư các thiết bị tin học đó là: một màn hình ti vi sam sung
42inch, một CPU, bàn phím và một bộ loa.
Ngoài ra, tìm hiểu từ các đơn vị trong tỉnh, như Trường Tiểu học Duy Sơn
2, huyện Duy Xuyên, Tiểu học Nguyễn Công Sáu, huyện Đại Lộc, tôi được biết
các đơn vị này đã được Sở Giáo dục và Đào tạo cấp cho một Bảng tương tác
thông minh từ nguồn kinh phí chương trình mục tiêu. Tôi tích cực tham mưu với
ngành và đến nay trường tôi cũng sắp được nhận một Bảng tương tác thông minh
như thế.
Với kế hoạch cụ thể, tranh thủ các nguồn lực, tôi đã đầu tư điều kiện
CSVC, trang thiết bị cần thiết đáp ứng cho công tác ứng dụng CNTT tại trường.
3. Phát huy năng lực đội ngũ, huy động sức mạnh tập thể tham gia
vào công tác này
Chúng ta đã biết rằng: Trong các nguồn lực của sự phát triển giáo dục (đội
ngũ CBGVNV, cơ sở vật chất - trang thiết bị, nguồn kinh phí hoạt động, truyền
thống của đơn vị, hiệu lực lãnh đạo quản lý) thì đội ngũ CBGVNV giữ vai trò
quyết định. Một tập thể đông sẽ là một tập thể mạnh nếu người lãnh đạo biết phát
huy khả năng của các thành viên trong tập thể.
Việc xây dựng trang web riêng cho trường là một việc rất khó: khó ở mặt
kỹ thuật, khó ở xây dựng nội dung, khó ở công tác duy trì hoạt động, … Với
Trường Tiểu học Trần Quốc Toản việc xây dựng trang web riêng đã được quan
tâm, Lãnh đạo trường đã yêu cầu các giáo viên tin học tập trung và sau đó giao
việc trực tiếp cho một giáo viên tin học từ tháng 9 năm 2009 và hạn định thời
gian đầu tháng 03/2010 là ra mắt website của trường. Tuy nhiên do nhiều lý do
mà đến thời điểm đó, thầy giáo tin học vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ. Khi về
nhận nhiệm vụ tại trường, tôi đã làm việc với thầy giáo, tìm hiểu, động viên và
đồng thời cung cấp thêm một số ý tưởng để thầy tiếp tục nghiên cứu. Thế nhưng
sau một thời gian, thầy giáo báo cáo là vẫn chưa làm được. Bấy giờ đã là thời
điểm cuối tháng 4/2010. Tôi vô cùng lo lắng. Trước đó, một số bộ phận và Ban
đại diện Cha mẹ học sinh cũng đề xuất ý là thuê các nhà chuyên nghiệp để xây
dựng website riêng cho trường. Và đó là cách nhanh nhất để trường có thể hoàn
8
thành nhiệm vụ này.
Tôi suy nghĩ và tìm biện pháp.
Thuê nhà chuyên nghiệp làm thì phải tốn kinh phí. Điều này, tôi thử trao
đổi với Ban đại diện Cha mẹ học sinh, Ban đại diện đồng tình hỗ trợ để nhà
trường thực hiện nhiệm vụ này. Như vậy là khó khăn về kinh phí được tháo dỡ.
Tôi có phần đỡ lo hơn. Về mặt nội dung, tôi tranh thủ sự góp ý của một số
CBGV để phác thảo ra một giao diện ban đầu của trang web, có phần ổn ổn. Thế
nhưng tôi vẫn chưa quyết định mà tiếp tục suy nghĩ: tôi tự đặt ra tình huống: thuê
làm xong rồi, nội dung ban đầu là thế nhưng theo thực tế của nhà trường, theo
từng thời điểm mình muốn thay đổi nội dung thì sao? Lại phải thuê tiếp! Như thế
thì thật phức tạp: thời gian liệu họ có đáp ứng (họ đâu chỉ làm một việc này);
kinh phí lại phải tiếp tục, … Tôi lại thấy chưa ổn.
Tôi tìm hiểu việc xây dựng weblog của các đơn vị bạn. Tôi được biết có
một số trường; người xây dựng weblog không phải là giáo viên tin học mà là
thầy giáo dạy mỹ thuật (Trường Trung học cơ sở Lý Tự Trọng) hoặc là một giáo
viên dạy các môn học khác và nhiều trường cũng tự làm việc này mà không phải
thuê mướn bên ngoài. Thế là tôi suy nghĩ đến đội ngũ, tôi tự nghĩ tại sao mình cứ
phải giao cho giáo viên tin học mà không nghĩ đến các thầy cô khác? Các trường
khác số lượng giáo viên ít hơn nhưng vẫn có thầy cô làm được, trường mình với
hơn 70 CBGVNV chắc cũng sẽ có người làm được! Nếu như người của trường
làm được thì thật là thuận tiện. Hãy thử kêu gọi nội lực và phát huy tất cả mọi
thành viên trong nhà trường. Thế là tôi quyết định huy động sự tham gia của các
thành viên trong nhà trường. Tôi phát động cuộc thi xây dựng trang web riêng
cho trường. Tôi cung cấp một số ý tưởng về nội dung: những chuyên mục cần
xây dựng để tạo ra giao diện chung của weblog, những thông tin đăng tải hàng
tuần, … và động viên tất cả CBGVNV tham gia và kể cả người thân của
CBGVNV góp sức.
Cuộc thi chỉ diễn ra trong vòng 10 ngày, có 2 giáo viên và 1 nhân viên
hưởng ứng. Đến ngày 05/4/2010 là hạn nộp chỉ có 01 weblog của cô nhân viên y
tế Phạm Thị Thái tham gia còn hai cô giáo chưa hoàn thành. Tuy số lượng hết
sức hạn chế nhưng cũng thật phấn khởi: bài dự thi này đạt được các yêu cầu đặt
ra của cuộc thi. Một phác thảo ban đầu về weblog của trường khá ấn tượng và
bài dự thi này chính thức đạt giải và trở thành weblog của nhà trường.
Thế là từ phác thảo ban đầu, tôi thành lập hội đồng tư vấn xây dựng nội
dung weblog của nhà trường và quyết tâm đến ngày 10/4/2010 (hạn chót mà
Phòng GD&ĐT yêu cầu các trường hoàn thành việc xây dựng website) sẽ cho ra
mắt. Với sự cố gắng nỗ lực của người xây dựng, sự tham gia nhiệt tình của các
thành viên trong Hội đồng tư vấn; đến ngày 10/4/2010 trang web của trường với
địa chỉ đã chính thức ra mắt.
Tất cả các chuyên mục của trang chủ đều có thông tin và hình ảnh. (Phụ lục 2:
9
Trang chủ weblog những ngày đầu). Và dần dần vừa hoạt động vừa điều chỉnh,
chúng tôi thêm bớt, thay đổi đến nay weblog của trường đã cơ bản ổn định ở
baner, giao diện hoạt động bao gồm: mục thông báo, lịch công tác tuần, thực đơn
bán trú, thông tin về nhà trường, thông tin tổng hợp, mục giúp em tiến bộ, thử tài
cùng bạn, sản phẩm của em, dành cho giáo viên, giới thiệu sách, sáng kiến kinh
nghiệm, bài giảng, hộp thư góp ý, … cùng các liên kết website, liên kết trang
web về các cuộc thi dành cho học sinh do các cấp phát động. (Phụ lục 3: Trang
chủ weblog hiện nay).
Như vậy là tôi cũng đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng weblog của trường
Như đã nói ở phần cơ sở thực tiễn. Hạn chế trong công tác ứng dụng CNTT tại
trường còn là việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy của đội ngũ vẫn còn rất hạn
chế, thư viện nhà trường chưa thiết lập được kho tư liệu bài giảng dùng chung.
Đây cũng là khó khăn đặt ra cho hiệu trưởng. Trong khi phong trào ứng dụng
CNTT đang được nhiều trường hưởng ứng rất tích cực và đạt được những kết
quả rất cao. Trường Tiểu học Trần Quốc Toản là trường trọng điểm, có điều cơ
sở vật chất (CSVC), thiết bị dạy học khá đầy đủ và đã từng là đơn vị đầu tiên của
thành phố Tam Kỳ tổ chức ứng dụng CNTT trong dạy học.
Thế nhưng thời điểm này, số giáo viên, số bài giảng điện tử còn quá hạn
chế, chỉ có 27 bài giảng từ đầu năm học đến tháng 3/2010. Tôi tìm hiểu nguyên
nhân từ các cô giáo Phó Hiệu trưởng, từ các giáo viên thì được biết: số giáo viên
tự thiết kế được bài giảng điện tử chỉ có khoảng 10 cô, tự bắt máy và sử dụng
máy chiếu khoảng 5 cô, số
giáo viên biết khai thác
mạng violet để chia sẻ tư
liệu giảng dạy cũng rất ít.
Các cô trình bày là để dạy
ứng dụng CNTT khâu
chuẩn bị phức tạp, xây
dựng giáo án tốn nhiều
công sức, việc bắt máy,
chuẩn bị màn hình vừa
khó vừa nặng nhọc nên
nhiều khi cũng không có
đủ khả năng và điều kiện
để thực hiện công tác này.
Tôi hiểu và thông
cảm với các thầy cô giáo. Vì thật ra, các thầy cô không chỉ có một nhiệm vụ này
mà còn có bao nhiêu việc phải lo khác nữa. Vì thế tôi vạch ra kế hoạch để từng
bước tháo gỡ khó khăn trong công tác này.
10
Đầu tiên, tôi cho thiết lập kho tư liệu bài giảng dùng chung trong trường
bằng cách: tôi tổ chức cuộc thi ĐDDH tự làm và trưng bày sản phẩm ứng dụng
CNTT. Tại cuộc thi này, tôi cho các tổ chuyên môn tập trung toàn bộ các bài
giảng điện tử đã thực hiện từ các năm học trước, mỗi tổ đánh bài giảng lưu vào
đĩa CD và nộp cho ban giam khảo. Ban giám khảo tổ chức chấm chọn xếp loại
A, B, C và sau đó cho tập trung lưu trữ ở thư viện trở thành kho tư liệu bài giảng
dùng chung cho cả trường, không chỉ ở năm học này mà dùng lâu dài cho các
năm học sau. (Phụ lục 4: Tin và ảnh Hội thi ĐDDH tự làm và sản phẩm ứng
dụng CNTT)
Đến đầu năm học 2010-2011, tôi lại cho phát hết các đĩa CD bài giảng về
các tổ chuyên môn, trên cơ sở đó, giáo viên điều chỉnh, sửa chữa phù hợp với lớp
rồi tiến hành giảng dạy. Bên cạnh đó, tôi động viên giáo viên đăng ký làm thành
viên của thư viện violet và chia sẻ bài giảng của các đồng nghiệp để sử dụng
giảng dạy.
Để khắc phục việc
bắt máy chiếu tôi đã cho
đầu tư 2 phòng ứng dụng
CNTT, muốn thực hiện
dạy ứng dụng CNTT
giáo viên chỉ cần đưa học
sinh lên phòng, khởi
động máy như là máy
tính để bàn rồi tiến hành
dạy.
Ngoài ra, để nâng
cao kỹ năng sử dụng máy
tính cho đội ngũ. Tôi
không tổ chức bồi dưỡng
tập trung mà với phương châm: "người biết rồi hướng dẫn cho người chưa biết,
người biết nhiều hướng dẫn cho người biết ít". Nếu ai gặp khó khăn, "tổ hỗ trợ
tin học" sẽ sẵn sàng giúp đỡ. Tổ hỗ trợ tin học đó là các giáo viên tin học, Hiệu
trưởng, Phó hiệu trưởng, quản trị mạng, các giáo viên sử dụng thành thạo vi tính.
4. Tổ chức triển khai thực hiện các nội dung ứng dụng CNTT
Nhận thức tốt, CSVC, trang thiết bị đầy đủ, có kế hoạch rõ ràng nhưng để
đạt được hiệu quả thì cần có biện pháp tổ chức khoa học thì mới đảm bảo thành
công trong công tác này.
Để duy trì hoạt động của weblog tôi xây dựng một kế hoạch cụ thể. Trong
đó phân công trách nhiệm cho toàn thể CBGVNV tham gia vào công tác cung
cấp tin bài. Và với kế hoạch này hầu như 100% CBGVNV của nhà trường đều
11
tham gia. Tôi đã phân công từng bộ phận trong trường cung cấp tin bài thường
xuyên hàng tuần cho weblog. Tin bài trước khi đưa lên được duyệt bởi Hiệu
trưởng, Phó Hiệu trưởng.
Để tăng cường trách nhiệm, tôi phân công cụ thể trách nhiệm duyệt tin bài
cho các Phó Hiệu trưởng, Hiệu trưởng. Để dễ theo dõi và đánh giá kết quả tham
gia của các bộ phận, tôi cho lập một sổ theo dõi đưa tin bài, quản trị mạng đưa
tin bài khi đã được duyệt. Định kỳ tôi tổ chức họp rút kinh nghiệm và động viên
các bộ phận tích cực duy trì hoạt động của trang web. (Phụ lục 5 & 6: Kế hoạch
xây dựng, duy trì hoạt động website, Sổ theo dõi đăng tin lên website năm học
2010-2011 ).
Để giáo viên ứng dụng CNTT có hiệu quả khi đã có bài giảng, có phòng
ứng dụng CNTT, tôi cũng đã hướng dẫn cụ thể. Sau khi đầu tư xong 2 phòng
ứng dụng CNTT. Tôi dành 1 tiết để cho giáo viên tin học hướng dẫn cách sử
dụng máy tính màn hình tivi, cách diệt vi rút, cách sử dụng phòng.
Để tránh chồng chéo và ghi lại được kết quả sử dụng, tôi cho lập sổ đăng
ký sử dụng phòng CNTT. Mỗi giáo viên sử dụng phòng ứng dụng CNTT phải
đăng ký sử dụng trước từ 1 đến 2 tuần. (Phụ lục 7: Sổ đăng ký sử dụng phòng
ứng dụng CNTT).
Thời gian hai tháng đầu, việc sử dụng khá trôi chảy. Nhưng sau đó, do
lượng USB gắn vào máy nhiều, phần mềm diệt vi rút cũng chưa hoàn chỉnh nên
bắt đầu xuất hiện những trở ngại. Tôi đã cho nối mạng cho cả 2 phòng ứng dụng
CNTT và hướng dẫn cho giáo viên cách sử dụng: giáo viên không sử dụng USB
nữa mà gửi bài giảng qua email và download bài giảng vào máy rồi sử dụng.
Để tránh tình trạng định kỳ giáo viên tin học phải dọn rác trên máy. Tôi
quy định mỗi tổ chuyên môn lập một floder, Mỗi floder của tổ chứa các floder
của các thành viên trong tổ. Khi giảng dạy xong giáo viên có thể lưu bài giảng
vào floder của mình.
Ngoài ra, hầu như tất cả các hoạt động ngoại khoá được tổ chức dưới nhà
đa năng, tôi đều chỉ đạo thực hiện ứng dụng CNTT, như là: Giao lưu Olympic
Tiếng Anh, Giao lưu học sinh giỏi lớp 3, lớp 4, lớp 5, sinh hoạt chuyên đề, hội
giảng, v. v.
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Với những biện pháp đã thực hiện, tôi đã thu được nhiều kết quả hết sức
khả quan:
1. Về thực hiện ứng dụng CNTT nâng cao chất lượng dạy học
Công tác này diễn ra tích cực ở tất cả các tổ chuyên môn, ở mỗi CBGVNV
nhà trường. Đặc biệt là đã kích thích được tất cả đội ngũ giáo viên quan tâm đến
công tác này.
12
Giáo viên Mỹ thuật với tiết dạy ứng
dụng CNTT
Giáo viên Âm nhạc với tiết dạy ứng
dụng CNTT
Nếu như trong năm học 2009-2010 chỉ có khoảng 30 bài giảng ứng dụng
CNTT được thực hiện thì đến cuối học kỳ I năm học 2010-2011, toàn trường có
trên 400 tiết dạy có ứng dụng CNTT, chỉ trong tháng 3 năm 2011 toàn trường có
246 tiết dạy ứng dụng CNTT. Nếu như ở năm trước chỉ có một vài giáo viên
thực hiện thì đến nay gần 100% giáo viên đã thực hiện. (Phụ lục 8: Bảng tổng
hợp số tiết ứng dụng CNTT tháng 3/2011).
Sau một thời gian tôi có làm một cuộc khảo sát trong giáo viên và học
sinh.
Tôi hỏi các cô giáo là: Cô đã thực hiện được bao nhiêu tiết dạy ứng dụng
CNTT và cô thấy việc dạy ứng dụng CNTT thế nào, có gì ưu điểm, hạn chế? Tất
cả giáo viên đều nói rằng: bây giờ chúng tôi rất thích dạy các bài giảng ứng dụng
CNTT vì chúng tôi thấy rất tiện tích. Các tiết dạy mà có thể ứng dụng CNTT
chúng tôi đều cố gắng thiết kế rồi cùng chia sẻ với nhau để dạy. Chúng tôi đã
chủ động hoàn toàn trong việc giảng dạy mà không cần đến sự phụ giúp của cán
bộ thư viện hay giáo viên tin học mỗi khi sử dụng máy. Mỗi tiết dạy ứng dụng
CNTT chúng tôi thấy dễ dàng tìm kiếm tranh ảnh, tư liệu, xây dựng hệ thống
bảng phụ để giảng dạy và tiết kiệm được nhiều thời gian cho các thao tác sử
dụng nên thời gian rèn kỹ năng cho học sinh được nhiều. Việc thực hiện dạy học
theo phương pháp tích cực dễ dàng thực hiện hơn. Và qua dự giờ kiểm tra
chuyên môn, tất cả các tiết dạy có ứng dụng CNTT đều được xếp loại tốt.
Còn đối với các em học sinh, khi được hỏi: Em thích học ở phòng nào
hơn, phòng học của lớp hay phong ứng dụng CNTT ? Hầu như tất cả các em đều
trả lời là thích học ở phòng ứng dụng CNTT hơn ở phòng học lớp mình. Hỏi tiếp
các em thích hơn ở điểm nào thì đa số học sinh đều bảo rằng vì học ở phòng ứng
dụng CNTT được "xem ti vi to", cô dạy có nhiều hình ảnh đẹp và có khi còn
được xem phim nữa.
13
Trong kế hoạch năm học đặt ra chỉ tiêu về ứng dụng CNTT là trong năm
học, mỗi giáo viên thực hiện giảng dạy ít nhất 09 tiết dạy, giáo viên giỏi là 18
tiết, chỉ tiêu này đến nay, 100% giáo viên chủ nhiệm đã đạt được.
2. Về duy trì hoạt động weblog hỗ trợ cho việc nâng cao chất lượng
dạy học
Kết quả đạt được trong công tác này có thể nói là niềm tự hào của các thầy
cô giáo của nhà trường. Weblog của trường được lãnh đạo ngành tuyên dương
trong các cuộc họp giao ban hiệu trưởng, được giới thiệu như là một trong những
điển hình khá tốt để các đơn vị bạn có thể tham khảo (Phụ lục 9: Công văn qua
mạng "Tăng cường quản lý chất lượng các weblog của nhà trường" của Trưởng
phòng GD&ĐT). Là weblog ra đời gần như sau cùng (12/13) so với các trường
tiểu học trên địa bàn thành phố nhưng đến nay số lượt người truy cập và lượt
người xem đông nhất nhì, có ngày có cả 1000 lượt người xem. Nhiều lần trên
thống kê website tiêu biểu của Trung tâm học liệu mở Sở GD&ĐT Quảng Nam,
tên website của Trường Tiểu học Trần Quốc Toản đã được xuất hiện. (Phụ lục
10: Ảnh tên website đơn vị tiêu biểu trên trang chủ của Trung tâm học liệu mở
Sở GD&ĐT Quảng Nam).
Độc giả đến với weblog của trường không phải là hiếu kỳ mà là vào để lấy
thông tin. Lịch công tác tháng, tuần, thực đơn hàng tuần được đăng tải vào sáng
thứ 2, đấy là những thông tin cần thiết cho các bậc phụ huynh để năm bắt hoạt
động của nhà trường, của con em mình tại trường và phối hợp chăm sóc phù
hợp. Chuyên mục "Thử tài cùng bạn", "Giúp em tiến bộ", "Sản phẩm của em"
cũng là những chuyên mục được các cô giáo và CMHS xem và tải nhiều nhất.
Ngoài ra, nhà trường cũng đăng tải thông tin chung, thường xuyên viết bài về các
hoạt động của nhà trường để thông tin đến các bậcCMHS, Có thể nói giao
diện của weblog đã đáp ứng cơ bản những mong muốn của các bậc CMHS và
các cô giáo của trường, làm cho công tác phối hợp giáo dục giữa gia đình và nhà
trường ngày càng tốt hơn. Qua hộp thư góp ý trên weblog, nhà trường cũng đã
thực thiện tốt hơn công tác xã hội hoá giáo dục.
3. Về phát huy năng lực của đội ngũ
Với 2 kết quả trên đã khẳng định kết quả trong công tác phát huy nội lực
của nhà trường nhất là năng lực đội ngũ. Một nhân viên y tế trở thành quản trị
mạng của trường. Và cô nhân viên này đã được tác giả NQT viết bài khen ngợi
động viên trên website của Phòng GD&ĐT thành phố Tam Kỳ. (Phụ lục 11: Bài
viết “Cô giáo weblog!”). Có nhiều cô giáo năm học đến sẽ nghỉ hưu nhưng vẫn
say mê tự học để thực hiện được những bài giảng ứng dụng CNTT chất lượng
cho giáo viên trẻ học tập. 100% giáo viên đã thực hiện dạy học ứng dụng CNTT.
Nhiều CBGVNV đã bước đầu biết viết tin, bài, chụp ảnh để đăng tải trên website
của trường, của Phòng GD&ĐT.
14
Hiện nay, để sử dụng bảng tương tác thông minh mà Sở GD&ĐT Quảng
Nam sẽ cấp cho trường, tôi đã giao nhiệm vụ cho giáo viên tin học, quản trị
mạng nghiên cứu cách sử dụng và thiết kế hoạt động ngoại khoá về giáo dục an
toàn giao thông. Khi nào nhận được máy, chúng tôi sẽ tổ chức để học sinh được
học ngoại khoá về giáo dục an toàn giao thông với thiết bị hiện đại và giới thiệu
với toàn hội đồng sư phạm, hướng dẫn những tiện ích của loại thiết bị này để
phát huy giá trị sử dụng trong thời gian tới.
Và cùng với 3 kết quả trên là kết quả về chất lượng học lực của học sinh
nhà trường. Học sinh luôn đạt kết quả cao qua các lần kiểm tra định kỳ và luôn
đạt giải cao trong các hội thi của các cấp. Từ đầu năm đến nay, nhà trường đã
được kiểm tra công nhận trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1 sau 5 năm và
kiểm định chất lượng giáo dục đạt cấp độ 3. Điều quan trọng là các chỉ số về
chất lượng của 2 nội dung này trường đều được các đoàn kiểm tra đánh giá đạt
và vượt chuẩn ở tỉ lệ rất cao.
VII. KẾT LUẬN
Từ thực tiễn đã làm và kết quả đạt được, tôi thấy rằng để đẩy mạnh ứng
dụng CNTT nâng cao chất lượng dạy học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện cấp tiểu học, người hiệu trưởng ngoài việc có nhận thức đúng về ứng
dụng CNTT, có am hiểu về CNTT, say mê, hứng thú với công tác này thì phải
thực hiện tốt các nội dung sau:
1. Phải có biện pháp nâng cao nhận thức trong CBGVNV về công tác ứng
dụng CNTT. Phải làm cho mỗi CBGVNV có những hiểu biết cơ bản về tin học,
về ứng dụng CNTT, về những tiện ích của CNTT trong dạy học.
2. Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ theo
hướng thiết thực, hiệu quả, phù hợp với trình độ đội ngũ, điều kiện thực tế của
nhà trường.
3. Phát huy năng lực đội ngũ, huy động sức mạnh tập thể tham gia vào
công tác này. Phải có biện pháp huy động cả tập thể cùng tham gia, phát huy vai
trò cá nhân điển hình.
4. Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các nội dung ứng dụng CNTT.
Thường xuyên kiểm tra, nắm bắt tình hình, có sự hướng dẫn, điều chỉnh kịp thời
nhằm đạt mục tiêu đề ra.
VIII. ĐỀ NGHỊ
Phòng GD&ĐT thành phố cần tổ chức tổng kết, đánh giá cụ thể công tác
ứng dụng CNTT để các đơn vị chia sẻ, học tập kinh nghiệm trong quá trình thực
hiện công tác này.
Tam Kỳ, ngày 14 tháng 4 năm 2011
Người viết
15
16