Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Thị trường chứng khoán phái sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.4 KB, 10 trang )

Nhắc đến chứng khoán, mọi người thường chỉ nghĩ đến cổ
phiếu, trái phiếu như những công cụ đầu tư hiệu quả, trong
khi thị trường chứng khoán còn rất bao la, mà cổ phiếu, trái
phiếu chỉ là một vài trong số những “món đồ chơi” ở đây. Còn
vô số những khái niệm và công cụ đầu tư khác phải kể đến,
mà chứng khoán phái sinh chính là yếu tố quan trọng đầu tiên
không thể bỏ qua.
1. Thị trường chứng khoán phái sinh:
Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát
hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính, như quyền
mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn. Các công
cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng, nhưng nhìn chung
có bốn công cụ chính là Hợp đồng kỳ hạn (forwards), Hợp
đồng tương lai (futures), Quyền chọn (options) và hợp đồng
hoán đổi (swaps)
2:Chứng khoán phái sinh: “công cụ phái sinh”
-Phái sinh hiểu theo nghĩa đơn giản là là sinh ra theo cái gì đó
-Chứng khoán phái sinh (derivatives) là những công cụ được
phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái
phiếu, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro,
bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các chứng khoán phái
sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các các đối
tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, để đảm bảo rằng nếu
giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của
các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức
2.1Cơ sở hình thành của chứng khoán phái sinh:
Hình thành trên cơ sở các loại chứng khoán giao dịch trên thị
trường chứng khoán
2.2 vai trò của chứng khoán phái sinh
-làm cho thị trường chứng khoán giao dịch sôi động
-làm tăng thêm tính hấp dẫn cho các loại chứng khoán phát sinh


ra nó
2.3 chức năng của chứng khoán phái sinh
-là đòn bẩy ,lằm tăng nhiều lần giá trị các đối tượng cần đầu tư
ban đầu.
2.4 Mục đích sử dụng các chứng khoán phái sinh:
phòng ngừa rủi ro (hedging) do biến động của giá cả tài sản cơ
sở trong tương lai. Đầu cơ (speculation): kiếm lợi nhuận dựa
trên biến động giá của tài sản cơ sở trong tương lai. Kinh doanh
chênh lệch giá (arbitrage): nhằm tận dụng các cơ hội chênh lệch
giá để kiếm lợi nhuận.
2.7 Cách thức giao dịch trên thị trường:
Công cụ phái sinh giao dịch trên thị trường OTC (OTC
derivatives): là những hợp đồng được giao dịch trực tiếp giữa 2
bên, không thông qua sở giao dịch hay trung gian. Sản phẩm
như là swaps, forward rate agreements và exotic options hầu
như được giao dịch trên thị trường OTC.
Công cụ phái sinh giao dịch trên sở giao dịch (Exchange-traded
derivatives ETD): là những sản phẩm phái sinh được giao dịch
thông qua sở giao dịch các sản phẩm phái sinh hoặc các sở giao
dịch khác. Sở giao dịch đóng vai trò như là một trung gian cho
các giao dịch liên quan, và yêu cầu đóng một phần tiền ký quỹ
ban đầu (initial margin) từ 2 bên để bảo đảm việc thực hiện hợp
đồng.
3: các công cụ phái sinh
Trong các công cụ chứng khoán phái sinh thì hợp đồng kì
hạn và hợp đồng tương lai là hai loại khá thông dụng và có
nhiều đặc điểm tương đồng. Về cơ bản hợp đồng kì hạn và
hợp đồng tương lai đều là hợp đồng mua hay bán một số
lượng nhất định tài sản cơ sở tại một thời điểm trong tương
lai theo một mức giá xác định ngay tại thời điểm thỏa thuận

hợp đồng.
Trong cả hai loại hợp đồng này có ba thông tin chính các
nhà đầu tư cần quan tâm đó là ngày đáo hạn hợp đồng, kì
hạn của hợp đồng và giá xác định áp dụng trong ngày thanh
toán thường được gọi là giá kì hạn ( với hợp đồng kì hạn) và
giá tương lai (với hợp đồng tương lai).
3.1 Hợp đồng tương lai
Hợp đồng tương lai là cam kết mua hoặc bán các loại chứng
khoán, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định
với một số lượng và mức giá nhất định vào ngày xác định trước
trong tương lai. Bản thân nội dung của hợp đồng tương lai trên
thị trường chứng khoán là một hợp đồng thương mại mà đối
tượng là chứng khoán. Giao dịch thông qua hợp đồng tương lai
là một cơ chế bảo vệ trước tình trạng tăng hoặc giảm giá chứng
khoán. Tất nhiên, nếu một bên được bảo vệ thì bên kia lại phải
chịu thua lỗ. Khác với quyền chọn, hợp đồng tương lai bắt buộc
phải được các bên thực hiện khi đến hạn.
Chính vì có cơ chế bảo vệ như vậy, nên hợp đồng tương
lai có thể được chuyển nhượng bởi bên mua hoặc bên bán và
bản thân nó trở thành một loại chứng khoán trên thị trường
chứng khoán. Về lý thuyết, bên nhận chuyển nhượng sẽ là có tư
cách pháp lý thay thế cho bên chuyển nhượng. Để đảm bảo cho
việc giao dịch được thuận tiện, hợp đồng tương lai được chuẩn
hoá về nội dung và hình thức thể hiện.
Hợp đồng tương lai được ký giữa hai bên mua và bán thông qua
một tổ chức trung gian, thường là một sàn giao dịch. Trong hợp
đồng tương lai, hai bên thỏa thuận bán một lượng hàng xác định
vào một điểm xác định trong tương lai với một mức giá xác
định.
Mức giá ở đây là mức giá được giao dịch trên thị trường tại thời

điểm đó. Khi bạn thấy mức giá vào thời điểm này hợp lý, giả sử
bằng X đô la, bạn sẽ đặt mua một lượng hàng hóa Y (đơn vị) với
giá X đô la một đơn vị giao vào Z tháng sau. Đến thời điểm giao
hàng, bạn sẽ được mua với giá X*Y đô la (đây cũng là giá trị
hợp đồng), bất chấp giá trị thị thường khi đó là bao nhiêu đi
chăng nữa.
Để được giao dịch hợp đồng tương lai, bạn phải nộp một khoản
tiền cho sàn giao dịch gọi là tiền ký quỹ (margin). Số tiền này
thường vào khoảng 5-10% giá trị hợp đồng.
Sau khi hợp đồng được ký kết, nếu giá hàng hóa giảm xuống, ví
dụ X-1 đô la, bạn sẽ bị lỗ vì giá bạn đặt mua cao hơn giá thị
trường 1 đô la. Tổng số tiền bạn bị lỗ là Y đô la. Sàn giao dịch
sẽ lấy đi từ tài khoản của bạn Y đô la và chuyển cho người bán.
Sự điều chỉnh này sẽ diễn ra hàng ngày cho tới khi hợp đồng kết
thúc.
Việc sàn giao dịch trừ đi số tiền lỗ của bạn trong tài khoản ký
quỹ khiến số tiền ký quỹ của bạn giảm xuống. Nếu tiền ký quỹ
giảm xuống dưới một mức nhất định, bạn sẽ phải gửi thêm tiền
vào nếu không sẽ bị loại khỏi quá trình giao dịch.
Hợp đồng tương lai mới được bắt đầu được áp dụng tại Việt
Nam từ năm 2005.
Sau đây là một ví dụ đơn giản về hợp đồng tương lai:
Ngày 01/2/2007, ông Trinh thoả thuận bán 1000 cổ
phiếu ABC cho bà Mai theo hợp đồng tương lai. Giá một cổ
phiếu ABC vào thời điểm ký kết là 100.000 đồng/cổ phiếu. Thời
điểm thực hiện hợp đồng là ngày 01/3/2007 với mức giá là
110.000 đồng/cổ phiếu.
Giả sử vào ngày 15/2/2007, giá của cổ phiếu ABC ở mức
115.000/cổ phiếu, như vậy xét về lý thuyết, lúc này bà Mai đã
được lời một khoản là (115.000 – 110.000) x 1000 = 5.000.000

đồng. Cũng trong ngày, ông Cường muốn mua lại hợp đồng
tương lai trên với số phí xác định là 3.000 đồng/cổ phiếu. Bà
Mai sẽ phải lựa chọn:
Hoặc bà Mai tiếp tục nắm giữ hợp đồng tương lai cho đến ngày
thực hiện. Nếu giá chứng khoán ABC vẫn cao hơn mức
110.000/cổ phiếu, bà Mai sẽ có lãi. Tuy nhiên số lời này chưa
chắc chắn lắm vì giá cổ phiếu có thể lên hoặc xuống.
Hoặc bà Mai bán hợp đồng cho ông Cường. Bà Mai sẽ nhận
ngay một khoản tiền lời là 3.000 x 1000 = 3.000.000 đồng.
Giả thiết là sau khi ký hợp đồng, nếu giá cổ phiếu ABC
thấp hơn mức giá 110 ngàn/cổ phiếu, tất nhiên bà Mai khó có
thể chuyển nhượng được hợp đồng trên, vì lợi thế lúc này thuộc
về ông Trinh.
3.2: Hợp đồng kỳ hạn
Hợp đồng kỳ hạn (forward contract) : là một thỏa thuận
trong đó một người mua và người bán chấp thuận thực hiện
một giao dịch chứng khoán, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số
chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất định
trong tương lai
Điểm khác biệt của hợp đồng kỳ hạn với hợp đồng tương lai là
giá cả do hai bên tự thoả thuận với nhau dựa theo những ước
lượng mang tính cá nhân và giá này vào thời điểm giao nhận
hàng hoá có thể thay đổi, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức
giá đã ký kết trong hợp đồng.
Cũng giống với hợp đồng tương lai,hợp đồng kì hạn cũng xác
định giá và ngày giao hàng cụ thể, nhưng trong hợp đồng kỳ hạn
hai bên giao dịch trực tiếp với nhau không qua trung gian. Trong
hợp đồng kỳ hạn, hai bên sẽ thanh toán vào thời điểm giao hàng,
không thanh toán lỗ lã hàng ngày như trong hợp đồng tương lai.
Điều này khiến mức độ rủi ro của hợp đồng kỳ hạn cao hơn hợp

đồng tương lai.
Ví dụ : Ông A cần 15.000 USD vào ngày 15-11-2012 cho một
mục đích nào đó, để đề phòng tỉ giá có thể tăng cao ông A ký
một hợp đồng kỳ hạn sáu tháng vào 15-5-2012 với một ngân
hàng, theo đó ông A sẽ mua 15.000 USD từ ngân hàng này vào
ngày ông cần tiền là 15-11-2012 với giá là 17.800đ/USD.
3.3 Hợp đồng hoán đổi là một cam kết song phương, theo đó
các nhà đầu tư sẽ trao cho nhau vào một ngày nhất định một số
lượng nhất định đồng tiền của một quốc gia A để lấy một số
lượng nhất định đồng tiền của quốc gia B đã được quy đổi theo
tỷ giá ngoại tệ hiện tại trong một thời hạn xác định, với điều hứa
hoàn lại vốn khi đến kỳ hạn.
Ví dụ: Để có đủ ngoại tệ là đô-la Mỹ cho hoạt động đầu tư tại
thị trường Mỹ, Công ty A của Việt Nam đã thoả thuận một 1
Hợp đồng hoán đổi với Công ty B của Mỹ, theo đó Công ty B
chuyển cho Công ty A một lượng USD nhất định, đổi lại Công
ty A sẽ cung cấp đồng VN cho hoạt động đầu tư của Công ty B
tại Việt Nam.
3.4 Quyền chọn
Quyền chọn cổ phiếu (options) là quyền của các nhà đầu tư
(nhưng không phải là nghĩa vụ) được mua hay bán một số
lượng cổ phiếu xác định trước theo một giá đã xác định trước
và thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu đó trên thị trường.
Có hai loại quyền chọn là quyền chọn bán và quyền chọn
mua
- Đối với option mua, người mua option sẽ trả cho người
bán quyền chọn một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn
hay phí quyền chọn (option premium) và người mua quyền
chọn sẽ có quyền được mua (nhưng không bắt buộc phải
mua) một lượng tài sản nhất định (chứng khoán, ngoại tệ,

hàng hoá…) theo một mức giá đã được thoả thuận trước tại
thời điểm đã xác định trong tương lai. Người bán quyền
chọn nhận được tiền từ người mua quyền chọn nên họ có
trách nhiệm phải bán một lượng chứng khoán nhất định
theo một giá cả đã được thoả thuận trước vào một ngày xác
định trong tương lai (hoặc được thực hiện trước ngày đó)
khi người mua quyền chọn muốn thực hiện cái quyền được
mua.
Ví dụ: giá cổ phiếu của IBM trong thời điểm hiện tại là 80
USD/cổ phiếu, sau khi phân tích, bạn dự báo rằng giá sẽ
tăng lên trong thời gian tới. Vậy nếu bạn muốn đầu tư
1.000 cổ phiếu của IBM bạn phải chi là 80.000 USD.
Nhưng nếu một thời gian, cổ phiếu IBM giảm xuống chỉ
còn 40 USD/cổ phiếu thì bạn sẽ mất trắng 40.000 USD.
Trong trường hợp này, để hạn chế rủi ro và vẫn thực hiện
theo dự báo, bạn nên đầu tư vào quyền chọn, cụ thể là bạn
đi mua quyền chọn cổ phiếu IBM, giá thoả thuận trước
(strike price) là 80 USD/cổ phiếu, thời gian là 2 tháng, số
lượng 1.000 cổ phiếu với mức phí quyền chọn là 2 USD/cổ
phiếu. Trong thời gian này, nếu giá cổ phiếu IBM tăng trên
80 USD/cổ phiếu theo đúng dự báo, bạn có thể thực hiện
quyền được mua chứng khoán của mình với giá thoả thuận
trước là 80 USD/cổ phiếu và đem ra thị trường bán với giá
100 USD/cổ phiếu chẳng hạn, bạn sẽ có lợi nhuận là
20.000 USD, trừ đi chi phí 2 USD/cổ phiếu phí mua quyền
chọn, bạn sẽ có lợi nhuận 18.000 USD. Nhưng nếu giá cổ
phiếu IBM không tăng lên theo dự đoán của bạn, nó giảm
liên tục, cho tới ngày đến hạn trên hợp đồng giá vẫn giảm
thì bạn có quyền không thực hiện việc chọn mua của mình
và bạn chỉ lỗ tiền phí mua quyền chọn mà thôi, tức là mất

2000 USD. Từ đó, chúng ta thấy rằng, người mua quyền
chọn chỉ chịu lỗ ở mức giới hạn, trong khi lợi nhuận thì rất
lớn. Người bán quyền chọn cũng có lợi nhuận thu được từ
phí mua quyền chọn.
- Đối với quyền chọn bán thì sao? Khi một nhà đầu tư lo
lắng về giá chứng khoán sụt giảm, họ có thể sử dụng quyền
chọn bán để tự bảo vệ. Với 100 cổ phiếu của IBM trị giá
80 USD/cổ phiếu trong tay, bạn có thể mua quyền chọn với
một chút lệ phí nhất định để đảm bảo rằng trong ba tháng
tới, bất kỳ lúc nào cũng có thể bán được 100 cổ phiếu đó
với giá 80 USD/cổ phiếu. Do đó, nếu số cổ phần này bị
mất giá thì bạn cũng không lo lắng vì mình đã có người
cung cấp quyền chọn bán bảo đảm mức giá cho mình.
Người cung cấp quyền chọn được hưởng lợi từ phí quyền
chọn.
Quyền chọn được phát minh dựa trên yếu tố các nhà đầu tư
ưa thích cảm giác an toàn khi họ chắc chắn họ sẽ được mua
và bán với giá ấn định, họ thu lợi nhuận không cao nhưng
bù lại sẽ rất ổn định. Đối tượng của quyền chọn có thể là
cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất, ngoại hối,
kim loại quý hay nông sản. quyền chọn có thể được mua
bán trên thị trường tập trung như Thị trường quyền lựa
chọn cổ phiếu Chicago - CBOE, thị trường hợp đồng tương
lai quốc tế London - LIFFE hay các thị trường phi tập
trung OTC.
Có thể nói, các công cụ phái sinh đang ngày một phổ biến và
được áp dụng nhiều hơn bao giờ hết đối với tất cả các hàng hoá
chính trên thị trường chứng khoán, từ cổ phiếu, trái phiếu cho
đến tiền tệ và hàng hoá như sắt, năng lượng, sản phẩm nông
nghiêp…. Sự phố biến của các công cụ phái sinh trên thị trường

xuất phát từ tính linh hoạt và mềm dẻo của nó so với các công
cụ khác. Lợi nhuận của những công cụ này được hình thành từ
chính giá của những sản phẩm mà nó điều chỉnh. Điều này giúp
cho các ngân hàng, các nhà giao dịch hay nhà đầu tư có thể
“đánh cược” vào sự biến động về giá cả mà bỏ qua những tranh
cãi về giá trị thực tế của tài sản.
Từ suy nghĩ như vậy, những ích lợi của các công cụ phái sinh
luôn được các nhà đầu tư khai thác triệt để nhằm tránh những
khoản thua lỗ do sự biến động của giá cả. Một cách giản đơn,
với việc mua các công cụ phái sinh, các nhà đầu tư đang đánh
cược rằng thị trường sẽ biến động theo chiều hướng ngược lại
mong muốn sinh lời của mình, từ đó, với “một mũi tên trúng hai
đích”, các nhà đầu từ vừa có được lợi nhuận nếu giá cổ phiếu
lên cao, vừa đảm bảo sẽ không thua lỗ trong trường hợp cổ
phiếu mất giá.
Trên thực tế, việc đầu tư vào các các công cụ phái sinh vẫn chưa
được nhiều nhà đầu tư chú ý, bởi nếu các nhà đầu tư mạo hiểm
mua thật nhiều cổ phiếu mà không băn khoăn về khả năng thua
lỗ thì họ sẽ thu về hàng triệu USD lợi nhuận; trong khi đầu tư
vào các công cụ phái sinh, tuy đảm bảo được sẽ không bị thua lỗ
nhưng do các bên cung cấp công cụ phái sinh trên thị trường
thường giới hạn một lượng cung cấp nhất định đồng thời yêu
cầu mức phí khá cao, nên các nhà đầu tư chỉ thu về một phần lợi
nhuận nhỏ hơn rất nhiều. Thông thường, thị trường sẽ không
biến động nhiều như những suy đoán của các nhà đầu tư khi áp
dụng công cụ phái sinh, nên đa phần các nhà đầu tư thường tiếc
nuối vì đã bỏ qua lợi nhuận, hơn là mừng thầm vì đã đầu tư vào
công cụ phái sinh.
Tuy vậy, tính tích cực và hình ảnh của những công cụ chứng
khoán phái sinh ngày càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Không ai có

thể phủ nhận rằng các công cụ này đã giúp nhiều nhà đầu tư
thoát khỏi các vụ thua lỗ hàng triệu USD trên thị trường chứng
khoán, cũng như khiến mọi người an tâm hơn khi đến với thị
trường đầy rủi ro này! Thậm chí, những thành công của nó còn
gây ra những tiếng vang lớn đến nỗi được các đạo diễn tài ba
của Hollywood tái hiện trong bộ phim Trading Places với sự
tham gia của tài tử điện ảnh Eddie Murphy.

×