Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

BG tư tưởng hồ chí minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên CNXH ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.73 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt
Nam là một nội dung rất quan trọng trong hệ thống nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đó là sản phẩm sáng tạo của trí tuệ Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống dân tộc, tiếp thu kinh nghiệm cách mạng
XHCN trên thế giới, trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về
CNXH và con đường đi lên CNXH vào thực tiễn Việt Nam. Đây là cống hiến
lớn của Người cả trên phương diện lý luận và thực tiễn chỉ đạo cách mạng; là
một trong các nhân tố có vai trò quan trọng, quyết định thắng lợi sự nghiệp xây
dựng CNXH ở Việt Nam.
Vậy, những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và
con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam là gì? Hôm nay theo kế hoạch tôi giới
thiệu với các đồng chí bài:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và
con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam”
Căn cứ biên soạn bài giảng:
- Tập đề cương bài giảng môn Chính trị (dùng cho đào tạo Liên thông từ
TCCN lên CĐ, ngành quân sự cơ sở - vừa học, vừa làm), H.2013
- Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, phần chính trị - xã hội (dùng cho đào
tạo cán bộ chính trị cấp phân đội), Nxb QĐND, H. 2006
1
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất và mục tiêu của CNXH.
1. Con đường hình thành tư duy Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam.
- Hồ Chí Minh đã tiếp thu những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về
bản chất và mục tiêu của CNXH
Các nhà kinh điển Mác – Lênin đã tiếp cận CNXH bằng cách nào?
C. Mác - Ph. Ăngghen qua nghiên cứu quy luật vận động, phát triển của xã hội
loài người, khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Bằng việc đưa ra học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội, các ông đã chứng minh rằng hình thái kinh tế - xã
hội tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ được thay thế bằng hình thái cao hơn - hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là CNXH.


V. I. Lênin phát triển lý luận về CNXH trong điều kiện mới(CNTB →
CNĐQ); với việc phát hiện quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản,
Người đã chỉ ra khả năng giành thắng lợi của cách mạng vô sản ở một số nước,
thậm chí ở một nước (là mắt khâu yếu nhất trong hệ thống ĐQCN). V. I. Lênin
đã cùng với Đảng Bônsêvích Nga, lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi Cách
mạng Tháng Mười Nga (1917), biến lý luận về CNXH thành hiện thực.
- Hồ Chí Minh tiếp cận và bổ sung những nét riêng của mình về bản chất
và mục tiêu của CNXH
+ Hồ Chí Minh đã tiếp cận CNXH từ lập trường yêu nước và khát vọng
GPDT, chỉ có CNXH mới cứu được nhân loại, mới đem lại độc lập, tự do, bình
đẳng cho các dân tộc.
Trong suốt quá trình hình thành, phát triển, dân tộc Việt Nam luôn phải đối
phó với hoạ thiên tai và ngoại xâm đe doạ. Độc lập dân tộc, ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân luôn là khát vọng lớn lao của mỗi người Việt nam.
Nhận thức sâu sắc về khát vọng sống trong một xã hội tốt đẹp của nhân
dân ta từ bao đời nay là điều kiện thuận lợi để Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận
Mác - Lênin về CNXH và con đường đi lên CNXH, hình thành tư tưởng của
Người về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
2
+ Hồ Chí Minh đã tiếp cận CNXH từ phương diện đạo đức, CNXH là giai
đoạn phát triển mới của đạo đức
+ Hồ Chí Minh đã tiếp cận CNXH từ truyền thống lịch sử, văn hóa và con
người
Việt Nam Việt Nam là một nước nông nghiệp. Chế độ công điền và công
cuộc trị thuỷ sớm tạo nên tinh thần đoàn kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam.
Đó là một nhân tố quan trọng để hình thành tư duy về xây dựng một xã hội mới
- XHCN, vừa là điều kiện thuận lợi để đi lên CNXH.
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống văn hoá lâu đời, đó là truyền thống
trọng đạo đức, lấy nhân nghĩa làm gốc, đề cao vai trò nhân dân, khoan dung độ
lượng, trọng trí thức, hiền tài.

Con người Việt Nam vốn có tâm hồn trong sáng, giàu lòng vị tha, yêu
thương đồng loại, luôn kết hợp hài hoà cái chung và cái riêng, gia đình và Tổ
quốc, dân tộc và nhân loại
Những truyền thống tốt đẹp về văn hoá, đạo đức và con người Việt Nam là
một trong những nhân tố hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Do đó, Hồ Chí Minh có quan niệm về CNXH
là xã hội mang bản chất văn hoá và nhân văn, triệt để giải phóng con người.
Đồng thời trong xây dựng CNXH, Người đặc biệt coi trọng phát triển văn hoá,
xây dựng con người với tư cách là chủ thể văn hoá; coi trọng mối quan hệ nhân
văn giữa người và người, giáo dục lý tưởng đạo đức, văn hoá, khoa học cho
con người, đáp ứng vai trò chủ thể của sự nghiệp xây dựng CNXH.
→ Từ các cách tiếp cận khác nhau, Hồ Chí Minh đã đi đến khẳng định tính
tất yếu của sự lựa chọn CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của CNXH.
Trung thành và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
CNXH vào thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh tiếp cận khái niệm CNXH từ
nhiều góc độ khác nhau. Quan niệm của Người về CNXH luôn được trình bày,
diễn đạt dung dị, mộc mạc, dễ hiểu và mang tính phổ thông đại chúng; những
nguyên lý lý luận về CNXH được Hồ Chí Minh trình bày bằng ngôn ngữ của
3
cuộc sống hàng ngày. Định nghĩa CNXH được Hồ Chí Minh đề cập từ một số
góc độ tiếp cận cơ bản sau:
- Định nghĩa về CNXH:
+ Định nghĩa xem xét CNXH, chủ nghĩa cộng sản như là một chế độ xã
hội hoàn chỉnh, là con đường để giải phóng nhân loại khỏi áp bức, bất công.
Ví dụ: Hồ Chí Minh khẳng định: “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân
loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do,
bình đẳng, bác ái, đoàn kết ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì
mọi người, niềm vui, hoà bình hạnh phúc ”.
Cách định nghĩa CNXH này thường được Người sử dụng trước năm 1954

khi muốn nhấn mạnh xu thế tất yếu của CNXH ở Việt Nam.
+ Định nghĩa CNXH bằng cách chỉ ra một mặt nào đó (chính trị, kinh tế,
văn hoá ) của nó.
Ví dụ: Khi đề cập chế độ sở hữu công cộng trong CNXH, Hồ Chí Minh
nói: “ CNXH là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v làm của chung”. Đề cập
quan hệ phân phối theo lao động ở CNXH, Người cho rằng CNXH là: “Ai làm
nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ
những người già cả, đau yếu và trẻ em ”.
- Định nghĩa CNXH bằng cách xác định mục tiêu của CNXH, chỉ rõ
phương hướng, phương tiện đạt mục tiêu đó. Theo đó Người nói: CNXH là mọi
người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do
- Định nghĩa CNXH bằng cách xác định động lực xây dựng nó,
Ví dụ: Người viết: “CNXH là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá
của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. Để nhấn mạnh động lực tinh
thần trong xây dựng CNXH, Người coi: CNXH không phải là cái gì cao xa, mà
đó là những gì rất cụ thể như ý thức lao động tập thể, ý thức kỷ luật, tinh thần thi
đua yêu nước, sản xuất, tiết kiệm
- Trên cơ sở nghiên cứu định nghĩa của Hồ Chí Minh về CNXH, chúng ta
có thể chỉ ra những đặc trưng bản chất của CNXH là:
4
+ CNXH là một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ. Nó khác với các chế
độ xã hội trước ở chỗ quyền làm chủ trong xã hội XHCN thuộc về đa số nhân
dân, còn quyền làm chủ trong các xã hội trước thuộc về thiểu số giai cấp thống
trị.
+ CNXH là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động.
+ CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức, trong đó người
với người là bạn bè, đồng chí, anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức,

bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để
phát triển hết khả năng sẵn có của mình.
+ CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các dân tộc đều bình đẳng, miền núi
được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi, người già, trẻ em, người tàn tật được quan
tâm, chăm sóc.
+ CNXH là công trình tập thể của quần chúng nhân dân, do nhân dân tự
xây dựng lấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
=> Tóm lại, quan niệm của Hồ Chí Minh về CNXH là quan niệm khoa
học, hoàn chỉnh và hệ thống, mà cốt lõi của nó phản ánh một xã hội của con
người, do con người, vì con người, trước hết là người lao động. Đó là kết quả sự
vận dụng sáng tạo những dự báo khoa học của các nhà sáng lập CNXH khoa học
vào thực tiễn Việt Nam. Quan điểm của Người đã phác thảo một mô hình xã hội
XHCN đích thực với bản chất ưu việt, dễ hiểu, dễ đi vào lòng người, nhờ đó mà
khơi dậy tính tích cực chủ động, sáng tạo của mọi người Việt Nam trong quá
trình xây dựng CNXH.
3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của CNXH.
a) Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của CNXH.
- Mục tiêu chung của CNXH cũng chính là mục đích cao cả mà Người
phấn đấu trọn đời là “ làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
5
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”. Đó chính là mục tiêu tổng quát của CNXH theo quan điểm Hồ Chí Minh.
- Người còn chỉ rõ những mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên CNXH
trên các lĩnh vực:
+ Mục tiêu chính trị: Theo Hồ Chí Minh chế độ chính trị mà chúng ta
xây dựng là chế độ do nhân dân làm chủ.
Người khẳng định: “nhà nước của ta là nhà nước dân chủ nhân dân dựa
trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Đó là
nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Trong nhà nước dân chủ, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, “dân là
chủ”, “chính phủ là đầy tớ chung của nhân dân”.
+ Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, nền kinh tế mà chúng ta xây dựng
là “một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học
và kỹ thuật tiên tiến”, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ngày càng
được cải thiện.
Nền

kinh tế XHCN phải được tạo lập trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất.
Ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu chính như:
Sở hữu nhà nước tức là sở hữu toàn dân, sở hữu hợp tác xã tức là sở hữu tập thể
của người lao động, sở hữu của người lao động riêng lẻ và một ít thuộc sở hữu
của nhà tư bản.
+ Mục tiêu văn hoái: Theo Người, văn hoá - tư tưởng không phụ thuộc
máy móc vào điều kiện vật chất, mức sống mà nó cần đi trước một bước để dọn
đường cho cách mạng công nghiệp. Coi trọng vai trò của văn hoá, Người yêu
cầu “cán bộ phải có văn hoá làm gốc ở nông thôn cũng vậy nông dân phải
biết văn hoá”.
Nền văn hoá mà Đảng ta và Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là nền văn
hoá mới mang tính dân tộc, khoa học và đại chúng; văn hoá “lấy hạnh phúc của
đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”, “văn hoá phải sửa đổi được tham nhũng, lười
biếng, phù hoa, xa xỉ”, “phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do”.
6
Muốn vậy, văn hoá phải phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc, đồng thời học tập
văn hoá tiên tiến thế giới.
+ Mục tiêu xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng con người
mới, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người và người. Theo Hồ Chí Minh:
“muốn xây dựng CNXH trước hết cần có những con người XHCN”
1

. Con người
XHCN theo quan điểm của Hồ Chí Minh phải là con người có tinh thần yêu
nước, có tinh thần và năng lực làm chủ, có tài năng đi liền với đạo đức cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đó là nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng
thành công CNXH.
b) Quan niệm của Hồ Chí Minh về động lực của CNXH
Động lực là tất cả những nhân tố, yếu tố thúc đẩy cho sự vật, hiện tượng
vận động và phát triển. Động lực của CNXH là tất cả những nhân tố, yếu tố thúc
đẩy sự vân động và phát triển của công cuộc xây dựng CNXH.
Hệ thống động lực thúc đẩy công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam trong
tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú và đa dạng, gồm nhiều yếu tố, nhân tố
như: điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi; nguồn tài nguyên phong phú, dồi
dào; con người Việt Nam cần cù, dũng cảm, thông minh sáng tạo, có truyền
thống yêu nước, đoàn kết, nhân ái, có ý thức tự lực, tự cường,v.v…Trong đó,
quan trọng nhất, bao trùm lên tất cả là nguồn lực con người. Các động lực khác
muốn phát huy tác dụng đều phải thông qua con người.
Nguồn lực con người đã được Hồ Chí Minh xem xét trên cả hai bình diện
cộng đồng và cá nhân:
- Để phát huy nguồn lực con bình diện cộng đồng, Hồ Chí Minh yêu cầu
chúng ta phải ra sức xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân
tộc, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động xây dựng CNXH của toàn
Đảng, toàn dân.
- Sức mạnh của cộng đồng được hình thành từ sức mạnh của từng con
người, thông qua sức mạnh của từng con người. Do đó, muốn phát huy sức
mạnh của cộng đồng, phải tìm ra các biện pháp khơi dậy, phát huy sức mạnh của
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2002, tập 10, tr 310.
7
từng con người. Để phát huy nguồn lực con người trên bình diện cá nhân, Hồ
Chí Minh đã đề ra nhiều biện pháp:

+ Tác động vào nhu cầu và lợi ích chính đáng của từng con người. Hồ Chí
Minh phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân, nhưng hơn ai hết, Người rất quan
tâm đến con người, khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng, tìm tòi cơ chế,
chính sách để kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội như khoán,
thưởng, phạt trong kinh tế.
+ Tác động vào các động lực chính trị - tinh thần. Trong công cuộc xây
dựng CNXH, Hồ Chí Minh yêu cầu phải:
* Phát huy quyền làm chủ và ý thức làm chủ của người lao động, bao gồm
quyền làm chủ sở hữu, làm chủ quá trình sản xuất và phân phối, làm chủ trong
các hoạt động chính trị - xã hội.
* Thực hiện công bằng xã hội.
* Sử dụng vai trò điều chỉnh của các nhân tố tinh thần khác như chính trị,
văn hoá, giáo dục, đạo đức, pháp luật,v.v
- Để thúc đẩy công cuộc xây dựng CNXH đi đến thành công, bên cạnh việc
tìm ra và tác động vào các động lực, Hồ Chí Minh còn yêu cầu chúng ta phải
nhận diện và khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của CNXH. Trong quá
trình đi lên CNXH, Người yêu cầu chúng ta phải kiên quết đấu tranh chống lại
các trở lực sau:
+ Phải đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân, căn bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ
bệnh nguy hiểm.
+ Phải đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu.
+ Phải chống chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật.
+ Phải chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập
cái mới,v.v
=> Theo Hồ Chí Minh, những động lực nêu trên là nguồn lực tiềm năng của
CNXH, muốn phát huy hết những khả năng tiềm tàng đó đòi hỏi phải có sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng - nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của
CNXH, là hạt nhân trong hệ động lực của CNXH.
8
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên CNXH ở Việt

Nam.
1. Về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
a) Về tính tất yếu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
- Tính tất yếu của thời kỳ quá độ
Các nhà kinh điển Mác – Lênin đã khẳng định tính tất yếu khách quan của
thời kỳ quá độ lên CNXH. Theo các ông có hai con đường quá độ lên CNXH:
con đường quá độ trực tiếp lên CNXH từ những nước tư bản chủ nghĩa phát
triển cao; con đường quá độ gián tiếp lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa ở những nước tiền tư bản.
Hồ Chí Minh kế thừa quan niệm của các nhà kinh điển Mác – Lênin về
thời kỳ quá độ lên CNXH, đồng thời có sự bổ sung, phát triển phù hợp với điều
kiện Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt nam là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội thuộc địa nửa phong kiến sang
xã hội XHCN.
* Sau khi hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, tiến thẳng lên CNXH,
không kinh qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, bởi vậy cách mạng nước ta tất yếu
phải trải qua một thời kỳ quá độ lên CNXH và quá độ lên CNXH ở nước ta
thuộc loại hình quá độ gián tiếp.
* Quá độ gián tiếp lên CNXH đã đặt ra cho chúng ta biết bao khó khăn
phức tạp, khiến chúng ta không thể chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn.
+ Đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam đã
được Hồ Chí Minh chỉ rõ.
* Theo Người, đặc điểm to lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu
tiến thẳng lên CNXH không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc
điểm này chi phối tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và làm nảy
sinh nhiều mâu thuẫn.
9
* Mâu thuẫn cơ bản nhất trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là
mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước và thực trạng kinh tế xã hội

quá thấp kém của ta.
Do đó “Xây dựng CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian
khổ và lâu dài”, bởi vì “chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa
nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những
nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ hàng ngàn năm biến nước
ta từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp”.
- Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta theo Hồ Chí
Minh gồm:
Một là: Xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho CNXH, xây dựng các tiền
đề kinh tế, chính tri, văn hoá, tư tưởng cho CNXH.
Hai là: Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp xây dựng với cải tạo,
trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu lâu dài.
Đề cập các nhiệm vụ nói trên của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam,
Người đã viết: “ phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH trong
quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng nền
kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt lâu dài”.
b) Nội dung xây dựng CNXH ở nước ta trong thời kỳ quá độ
Theo Hồ Chí Minh, công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta là một sự nghiệp
cách mạng mang tính toàn diện, với nội dung nhiệm vụ cụ thể trên những lĩnh vực
chủ yếu sau:
- Trong lĩnh vực chính trị:
+ Phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng.
+ Chú trọng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam ngày càng
trong sạch, vững mạnh và hoạt động hiệu quả, thực sự là nhà nước của dân, do
dân, vì dân.
+ Củng cố mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất với nòng cốt là liên minh
công nhân - nông dân - trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản nhằm
10
không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp xây dựng
CNXH.

+ Phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức – tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng XHCN.
- Trong lĩnh vực kinh tế:.
+ Về cơ cấu kinh tế: Người đã đề cập cả cơ cấu ngành, cơ cấu các thành
phần kinh tế và cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ.
Hồ Chí Minh có quan niệm độc đáo về cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp với
tư tưởng lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp
làm cầu nối giữa các ngành sản xuất xã hội, thoả mãn nhu cầu thiết yếu của nhân
dân.
Người nêu yêu cầu phát triển đồng đều giữa các vùng kinh tế, đặc biệt phải
chú trọng phát triển kinh tế miền núi, hải đảo, biên giới Người chủ trương phát
triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ.
Đặc biệt cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh, tạo nền tảng vật chất cho
CNXH; khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ cho hình thức sở hữu tập thể của nhân
dân lao động phát triển; trong tổ chức hợp tác xã, Người nhấn mạnh nguyên tắc dần
dần, từ thấp đến cao, tự nguyện cùng có lợi; khuyến khích những người lao động
thủ công cá thể đi vào con đường hợp tác; hướng dẫn giúp đỡ các nhà tư sản công
thương cải tạo theo CNXH bằng hình thức tư bản nhà nước, góp phần xây dựng
nước nhà.
+ Về quan hệ phân phối và quản lý kinh tế:
Theo Người, quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu
quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy để phát triển sản xuất.
Người khẳng định chủ trương thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao
động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng.
Hồ Chí Minh bước đầu đề cập vấn đề khoán trong sản xuất. Theo Người,
“chế độ khoán là một điều kiện của CNXH làm khoán là ích chung và lợi
riêng làm khoán tốt, thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”.
11
- Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội:

+ Hồ Chí Minh khẳng định phải triệt để xoá bỏ nền văn hoá nô dịch lạc hậu,
xây dựng nền văn hoá mới XHCN, xây dựng lối sống mới.
+ Người đặc biệt nhấn mạnh nội dung xây dựng con người mới, đồng thời
Người đề cao vai trò của văn hoá, giáo dục và khoa học kỹ thuật;
+ Người luôn coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo sử dụng nhân tài trong
xây dựng CNXH.
2. Về bước đi và biện pháp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Trong việc xác định bước đi, biện pháp xây dựng CNXH ở Việt Nam, Hồ
Chí Minh yêu cầu phải quán triệt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin về xây dựng chế độ mới, học tập kinh nghiệm dồi dào của các nước anh
em, nhưng việc áp dụng những lý luận và kinh nghiệm ấy phải xuất phát từ điều
kiện lịch sử cụ thể của nước ta. Người nói: “Ta không thể giống Liên Xô,… ta
có thể đi con đường khác để tiến lên CNXH”
- Người xác định bước đi trong xây dựng CNXH ở nước ta phải: dần dần,
thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao, không được chủ quan nôn nóng, đốt
cháy giai đoạn. Phải thực hiện “đi bước nào vững chắc bước ấy”.
+ Về bước đi trong cải tạo nông nghiệp, Người nói: “ lúc đầu là cải cách
ruộng đất, sau tiến lên một bước là tổ chức tổ đổi công sao cho tốt, cho khắp, lại
tiến lên hình thức hợp tác xã dễ dàng, rồi tiến lên hợp tác xã cao hơn ”.
+ Về bước đi trong phát triển công nghiệp, Người sớm nhắc nhở phải đề
phòng bệnh duy ý chí, Người nói: mấy năm kháng chiến ta chỉ có nông thôn, bây
giờ mới có thành thị nếu muốn công nghiệp hoá gấp là chủ quan Ta cho nông
nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ,
song mới đến công nghiệp nặng
+ Mặt khác, Người đề cập tư tưởng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
CNXH, nhưng Người lưu ý: tiến nhanh, tiến mạnh không phải là làm bừa, làm ẩu,
chớ đem ý muốn chủ quan thay cho điều kiện thực tế khách quan.
- Hồ Chí Minh còn chỉ ra những biện pháp hết sức quan trọng để xây dựng
CNXH, đó là:
12

+ Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy
xây dựng làm chính;
+ Kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai
chiến lược cách mạng; xây dựng CNXH phải có kế hoạch, biện pháp và quyết tâm.
+ Phát huy sức mạnh toàn dân, đem của dân, tài dân, sức dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng để làm lợi cho dân.
III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ
lên CNXH vào công cuộc đổi mới hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt
Nam là một di sản vô giá của dân tộc ta, đó là cơ sở, nền tảng hình thành đường
lối cách mạng XHCN ở Việt Nam, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng CNXH ở Việt Nam suốt mấy thập kỷ qua.
Ngày nay, công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân ta dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh đã và đang giành nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, trước
những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, cách mạng nước ta đang đứng
trước những thử thách gay gắt. Để tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, tiếp tục
đẩy mạnh công cuộc đổi mới tiến lên giành thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc XHCN, cần quán triệt sâu sắc, kiên trì vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
nhằm giải quyết tốt một số vấn đề cơ bản sau:
1. Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

- Đi theo con đường XHCN là sự lựa chọn duy nhất đúng của Hồ Chí Minh
và của Đảng, nhân dân ta.
+ Sự lựa chọn đúng đắn đó được chứng minh bằng thực tiễn thắng lợi vĩ
đại của cách mạng Việt Nam mấy thập kỷ qua dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Khẳng định tính đúng đắn của con đường XHCN,
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta chỉ rõ: Sự lựa chọn đó
của Bác Hồ và của Đảng ta là hoàn toàn phù hợp xu thế của thời đại, hợp quy
luật phát triển của lịch sử nhân loại, phản ánh sâu sắc nguyện vọng cao đẹp của

nhân dân ta.
13
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm
xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”
2
.
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, qua thực tiễn 25 năm đổi mới rút
ra bài học kinh nghiệm: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH”.
- Trong giai đoạn hiện nay, trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới,
CNXH đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn, song đối với nước ta
không có sự lựa chọn nào khác ngoài con đường tiến lên CNXH nhằm giành độc
lập thực sự cho dân tộc, ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
- Kiên trì con đường XHCN ở nước ta hiện nay còn đòi hỏi mỗi chúng ta phải
thường xuyên xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh

, khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; kiên
quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng phủ
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

, mưu toan làm chệch hướng
con đường XHCN ở nước ta.
2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ các nguồn
lực để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn dân, phải đem
tài dân, sức dân mà làm lợi cho dân.
Ngày nay, để thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
càng đòi hỏi phải:

- Phát huy đầy đủ tài năng, trí tuệ và sức lao động sáng tạo của toàn dân.
Để phát huy tốt sức mạnh toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng đất nước, yêu
cầu quan trọng hàng đầu là
+ Phải xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm cho chế độ
dân chủ được phát huy cao độ trong mọi lĩnh vực của đời sống con người;
+ Chú trọng mở rộng dân chủ ở cơ sở, làm cho dân chủ thực sự trở thành
động lực của sự phát triển xã hội.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, Hà Nội. 2001, tr 20.
14
- Luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân nhằm phát huy
“ nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- Thực hiện đoàn kết rộng rãi các dân tộc, tôn giáo, giai cấp mọi thành viên
trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay ở nước ngoài. Phát
huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc phấn đấu vì mục tiêu giữ vững độc lập,
thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh.
- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở theo
phương châm “đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế”.
+ Với tinh thần “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
+ Đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng nhằm hết sức tranh thủ những
thành tựu của khoa học - công nghệ thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng
tiến bộ trên thế giới, thực hiện giữ vững môi trường hoà bình, ổn định và tạo điều
kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3. Xây dựng Đảng, Nhà nước vững mạnh, kiên quyết đấu tranh chống
các trở lực trong quá trình xây dựng CNXH
- Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng

Việt Nam.
Qua thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta khẳng định: Những thành
tựu và yếu kém trong 25 năm đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn liền với vai
trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng.
Do vậy, xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta
Nội dung tăng cường sự lãnh đạo của Đảng:
+ Xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
15
+ Tăng cường bản chất giai cấp công nhân, nâng cao trình độ trí tuệ của
Đảng.
+ Chăm lo xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh,
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ.
+ Tiếp tục đổi mới phương pháp, phong cách lãnh đạo của Đảng, tăng
cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và dân
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ngày càng vững mạnh, thực sự là
nhà nước của dân, do dân, vì dân.
+ Đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia một cách đồng bộ nhằm
phục vụ tốt đời sống nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước trong tình
hình mới.
+ Phát huy vai trò toàn dân trong đấu tranh chống những hiện tượng tham
nhũng, quan liêu, lãng phí, lợi dụng chức quyền mưu cầu lợi ích cá nhân; kiên
quyết đưa ra khỏi bộ máy chính quyền những người bị thoái hoá biến chất.
+ Chủ động ngăn ngừa và làm thất bại âm mưu “Diễn biến hoà bình” của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang mưu toan bôi nhọ, phủ nhận
thành quả và con đường CNXH ở nước ta.
+ Thường xuyên giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân ý thức tự giác hăng
hái tham gia lao động sản xuất, sáng tạo, gắn liền với việc thực hành tiết kiệm,

từng bước chiến thắng nghèo nàn, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh.
KẾT LUẬN
Tư tưởng HCM về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam là
nội dung cơ bản trong tư tưởng HCM. Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghiaax Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã khái quát đặc trưng bản chất,
mục tiêu, động lực của CNXH cũng như chỉ ra cách thức, biện pháp quá độ lên
CNXH.
Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá
độ lên CNXH ở Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết trong giai
đoạn hiện nay nhằm tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên CNXH của dân tộc ta,
16
tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước, kiên định mục tiêu ĐLDT và
CNXH

HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Phân tích quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất, mục tiêu, động
lực của CNXH ở Việt Nam. Ý nghĩa thực tiễn?
2. Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn?
17

×