Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương việt nam chi nhánh tây hà nội – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.14 KB, 72 trang )

Luận văn Cuối khóa
Mục lục
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
1
1
Luận văn Cuối khóa
LỜI MỞ ĐẦU
Trong mọi thời kì phát triển của nền kinh tế, dù ở hình thái nào thì
ngân hàng cũng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành nên
sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế
khác, ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm
chế đẩy lùi lạm phát, giúp đỡ các nhà đầu tư, phát triển thị trường vốn,
thị trường ngoại hối, tham gia thanh toán và hỗ trợ thanh toán, là một
kênh điều hòa vốn hữu hiệu cho nền kinh tế
Trong hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là một lĩnh
vực quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đồng
thời hoạt động tín dụng cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất cho
ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trong hoạt động tín dụng
của nền kinh tế thì tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn
chiếm tỷ trọng lớn, nhất là đối với một quốc gia đang trải qua quá trình
công nghiệp hóa và hiện đại hóa mạnh mẽ như nước ta hiện nay. Có thể
nói, DNV&N là công cụ góp phần khai thác toàn diện mọi nguồn lực
kinh tế đặc biệt là những nguồn tiềm tàng sẵn có ở mỗi người, mỗi miền
đất nước. Các DNV&N ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình
trong việc giải quyết các mối quan hệ: Tăng trưởng kinh tế - giải quyết
việc làm - hạn chế lạm pháp.
Chính phủ đã và đang có những biện pháp khẩn trương nhằm hỗ
trợ DNV&N vượt qua cơn khủng hoảng, phát triển bền vững. Bên cạnh
những điều kiện thuận lợi thì DNV&N cũng phải đối mặt với rất nhiều
khó khăn như khó khăn về nguồn tài chính, khó khăn trong việc tiếp cận
thông tin, khoa học công nghệ tiên tiến, hạn chế về kỹ năng quản lý, khả


năng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao…Trong đó, khó khăn về
nguồn tài chính là nan giải hơn cả. DNV&N muốn tiếp cận với nguồn
vốn vay của ngân hàng còn gặp nhiều trở ngại.
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
2
2
Luận văn Cuối khóa
Nhận thức được điều này, ngay từ khi đi vào hoạt động, NHTMCP
Công thương Việt Nam chi nhánh Tây Hà Nội đã chú trọng tới công tác
cho vay tới các DNV&N. Song qua thực tế cho thấy, hoạt động cho vay
đối với DNV&N của ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế, dư nợ cho vay
với nhóm DNV&N chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong tổng dư nợ toàn
ngân hàng, hiệu quả cho vay chưa cao, sản phẩm tín dụng đối với
DNV&N chưa cạnh tranh được với các NHTM khác nhất là các NHTM
ngoài quốc doanh.
Xuất phát từ thực trạng này em đã chọn đề tài: “Cho vay đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công
thương Việt Nam chi nhánh Tây Hà Nội – thực trạng và giải pháp”
cho luận văn cuối khoá của mình.
Kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1 : Tổng quan về tín dụng ngân hàng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ
Chương 2 : Thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối
với DNV&N tại Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Tây Hà
Nội
Chương 3 : Giải pháp và kiến nghị về hoạt động tín
dụng nhằm phát triển DNV&N tại NHTMCP Công thương Việt Nam
chi nhánh Tây Hà Nội
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
3

3
Luận văn Cuối khóa
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm DNV&N
Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: doanh nghiệp là tổ
chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký
kinh doanh theo quy định của Pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh.
Theo quy mô hoạt động, doanh nghiệp chia thành doanh nghiệp lớn và
DNVVN. Việc phân loại này chỉ mang tính chất tương đối vì tuỳ từng giai
đoạn lịch sử ứng với những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau mà tiêu
chuẩn phân loại doanh nghiệp lớn hay DNVVN cũng không giống nhau. Các
tiêu thức được dùng phổ biến để phân loại DNVVN là: Số lao động, Nguồn
vốn hoạt động, doanh thu…
Ở nước ta, quy định về phân loại DNVVN cũng đã nhiều lần thay đổi.
Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ về
trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định: Doanh nghiệp vừa và
nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo pháp
luật hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỷ hoặc số lao động hàng năm
không quá 300 người.
Song, cùng với sự phát triển của đất nước, các DNVVN nước ta không
ngừng lớn mạnh. Theo đó, ngày 30 tháng 06 năm 2009 Nghị định số
56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ra đời, thay
thế Nghị định 90/2001/NĐ-CP, quy định: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở
kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành
ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03

4
4
Luận văn Cuối khóa
tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh
nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên),
cụ thể như sau:
Bảng 1: Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
Quy mô
Khu vực
Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động Tổng
nguồn vốn
Số lao động Tổng nguồn
vốn
Số lao động
I. Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20 tỷ
đồng đến

100 tỷ đồng
Từ trên 200
người đến
300 người
II. Công
nghiệp và xây
dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20 tỷ
đồng đến
100 tỷ đồng
Từ trên 200
người đến
300 người
III. Thương
mại và dịch
vụ
10 người trở
xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
Từ trên 10
người đến 50
người

Từ trên 10 tỷ
đồng đến 50
tỷ đồng
Từ trên 50
người đến
100 người
1.1.2. Đặc điểm của DNV&N
 Những đặc điểm thể hiện ưu điểm của DNV&N
• DNV&N có vốn đầu tư ban đầu thấp, chu kỳ kinh doanh ngắn, hoạt
động hiệu quả với chi phí cố định thấp
Vốn đầu tư ban đầu của một DNV&N là tương đối thấp. Do các
DNV&N thường chọn sản xuất những mặt hàng, sản phẩm có vòng đời
ngắn nhằm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, mau chóng thu hồi vốn để tái sản
xuất. Những mặt hàng có vòng đời ngắn lại thường có chi phí cố định
bình quân trên một sản phẩm thấp, điều này cho phép các DNV&N hoạt
động hiệu quả với chi phí cố định không cao. Mặt khác, trong số các
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
5
5
Luận văn Cuối khóa
DNV&N có nhiều doanh nghiệp được thành lập trên quan hệ gia đình,
bạn bè, người thân, vì thế giá thành lao động thường không cao, cả công
nhân và chủ doanh nghiệp chấp nhận hạ thấp lương để đầu tư trang thiết
bị, máy móc cho doanh nghiệp.
• DNV&N năng động, nhạy bén, dễ thích nghi với thay đổi của thị
trường
DNV&N thường có mối liên hệ trực tiếp với thị trường và người
tiêu thụ nên có phản ứng nhanh nhạy với sự biến đổi của thị trường. Với
cơ sở vật chất kĩ thuật không lớn, DNV&N đổi mới linh hoạt hơn, dễ
dàng chuyển đổi sản xuất hoặc thu hẹp quy mô mà không gây ra những

hậu quả nặng nề cho xã hội. Vì thế các DNV&N được ví như “thanh giảm
sốc” của nền kinh tế.
• Phạm vi hoạt động rộng khắp, lĩnh vực phong phú đa dạng khai thác
tối ưu tiềm lực trong nước
Với lợi thế là vốn đầu tư ban đầu không lớn, bộ máy quản trị nhỏ
gọn, DNV&N dễ dàng hoạt động trong nhiều lĩnh vực, xâm lấn tới nhiều
địa bàn. Tuy quy mô còn hạn chế, nhưng với số lượng lớn, các DNV&N
đã tạo thành mạng lưới kinh doanh rộng khắp, có mặt ở mọi nơi, từ
thành thị tới nông thôn. Các DNV&N sẵn sàng điền khuyết vào những
khe hở thị trường mà doanh nghiệp lớn bỏ ngỏ và sẵn sàng tham gia thế
chỗ khi có mảng thị trường được nhường lại. DNV&N biết tận dụng
nguồn lao động địa phương và các lợi thế về nguồn tài nguyên, tư liệu
sản xuất sẵn có cho hoạt động SXKD.
 Những đặc điểm thể hiện nhược điểm của DNV&N
• Khả năng tài chính của DNV&N bị hạn chế
Vốn đầu tư ban đầu thấp – vừa là lợi thế nhưng cũng là hạn chế
của DNV&N. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp nào cũng muốn
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
6
6
Luận văn Cuối khóa
mở rộng sản xuất, nâng cao sản lượng, song với DNV&N, nhu cầu ấy
càng khó thực hiện hơn. Vốn chủ sở hữu ít nên khả năng vay vốn của
DNV&N cũng rất hạn chế. Các DNV&N thường thiếu tài sản bảo đảm
cho các khoản vay. Ngay cả những nước phát triển như Mỹ, Nhật bản…,
các ngân hàng cũng e ngại khi cho DNV&N vay vốn vì khả năng gặp rủi
ro lớn khi cho vay. Chính vì vậy, phần lớn các DNV&N luôn ở trong tình
trạng thiếu vốn. Điều đó khiến cho khả năng thu lợi nhuận của doanh
nghiệp bị giới hạn ngay cả khi có cơ hội kinh doanh và có yêu cầu mở
rộng sản xuất. Với tình trạng đó, khả năng tích luỹ của DNV&N cũng bị

hạn chế.
• Thiếu thông tin về thị trường, trình độ quản lý còn hạn chế
Hầu hết các DNV&N thiếu thông tin về thị trường đầu vào như thị
trường vốn, thị trường lao động, thị trường nguyên vật liệu, thị trường
thiết bị công nghệ, thông tin về chế độ chính sách và quy định của Nhà
nước dẫn tới việc các doanh nghiệp chưa thực sự nắm bắt được những cơ
hội kinh doanh tốt, trình độ hiểu biết, ý thức tuân thủ pháp luật chưa cao.
Quản lý nội bộ của các DNV&N vẫn còn yếu kém, không chuyên nghiệp
và chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân của các chủ doanh nghiệp.
Phần lớn các doanh nghiệp thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh dài
hạn, và triển khai hoạt động với đội ngũ cán bộ nghiệp vụ phần lớn chưa
qua đào tạo. Quản lý tài chính trong các DNV&N còn thiếu minh bạch,
số liệu báo cáo chưa phản ánh đúng trung thực tình trạng tài chính của
doanh nghiệp, thiếu độ tin cậy. Việc đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế
và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác ở một số doanh nghiệp chưa đầy
đủ và còn chậm trễ.
• Ít có khả năng huy động vốn để đầu tư đổi mới công nghệ giá trị cao.
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
7
7
Luận văn Cuối khóa
Do quy mô vốn nhỏ nên các DNV&N không có điều kiện đầu tư quá
nhiều vào nâng cấp, đổi mới máy móc, mua sắm thiết bị công nghệ tiên
tiến, hiện đại. Việc sử dụng các công nghệ lạc hậu dẫn đến chất lượng
sản phẩm không cao, tính cạnh tranh trên thị trường kém.
• Ít có điều kiện để đào tạo nhân công, đầu tư cho nghiên cứu, thiết kế
cải tiến công nghệ, đổi mới sản phẩm.
Điều này cũng là hệ quả trực tiếp và tất yếu từ sự yếu kém về tiềm
lực tài chính và khả năng huy động vốn của các DNV&N, dẫn tới tính
cạnh tranh trong các sản phẩm của các DNV&N còn thấp, và các

DNV&N chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ.
1.1.3. Vị trí và vai trò của DNV&N trong nền kinh tế thị trường
Về số lượng các DNV&N chiếm ưu thế tuyệt đối và số lượng
DNV&N ngày càng tăng với tốc độ năm sau cao hơn năm trước. Theo
Cục Phát triển DN (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), cả nước hiện nay có
453.800 DNV&N, chiếm 97% tổng số doanh nghiệp trên cả nước. Giai
đoạn 2000-2009 chứng kiến tốc độ tăng trưởng hết sức ấn tượng về số
lượng DN đăng ký kinh doanh, trong đó chủ yếu là các DNV&N. Nếu
như năm 2000, số lượng DN đăng ký kinh doanh là hơn 14 nghìn DN thì
chỉ sau chín năm, con số này đã tăng gấp 29 lần. Điều đặc biệt là số
lượng DN đăng ký kinh doanh mới luôn có xu hướng năm sau cao hơn
năm trước, thậm chí, trong hai năm 2008 và 2009, mặc dù cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tác động bất lợi, nhưng số
lượng DN đăng ký kinh doanh mới vẫn tiếp tục gia tăng. Năm 2008 tăng
12,2% so với năm 2007 và năm 2009 tăng 29,4% so với năm 2008. Một
tính toán mới đây của các chuyên gia kinh tế cho thấy, Việt Nam đã đạt
được tỷ lệ 5 DN/1.000 dân và đang tiếp cận dần tới mức trung bình là 9-
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
8
8
Luận văn Cuối khóa
10 DN/1.000 dân của nhiều nước khác trong khu vực. Không chỉ gia tăng
về số lượng mà quy mô vốn của các DN cũng tăng dần theo thời gian,
tính chung giai đoạn 2000-2008, quy mô vốn đăng ký trung bình của một
DN tăng gấp chín lần.
• DNV&N đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm quốc dân và nguồn thu
ngân sách Nhà nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Hàng năm các DNV&N đóng góp hơn 40% tổng sản phẩm quốc
dân, 33% giá trị sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, trên 70%
tổng khối lượng vận chuyển hàng hoá, 100% giá trị sản lượng hàng hoá

của một số ngành nghề thủ công mỹ nghệ đặc thù như chạm khảm, thêu
ren…Và sự đóng góp này vẫn đang có xu hướng gia tăng nhanh chóng.
Trong giai đoạn đất nước đang đứng trước những vận hội và thử thách
lớn, DNV&N đã thực sự trở thành động lực cho sự phát triển và đổi mới.
Các doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ chính là cái nôi cho những ý tưởng
khởi nghiệp và sáng tạo. Mặc dù vốn hoạt động không lớn nhưng với số
lượng không hề ít ỏi, các DNV&N đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu
ngân sách Nhà nước, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
• Thu hút nguồn vốn trong dân cư và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực trong xã hội
Bản thân việc thành lập một DNV&N đã đưa một lượng tiền trong
dân cư đi vào đầu tư sản xuất. DNV&N đã tạo cơ hội cho đông đảo dân
cư có thể dễ dàng huy động vốn từ bạn bè, họ hàng và người thân. Cho
nên, DNV&N được xem là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động,
sử dụng các khoản tiền nhàn rỗi trong dân và biến nó trở thành nguồn
vốn đầu tư phát triển SXKD khá quan trọng. Số lượng lớn các DNV&N
cùng với các hình thức huy động vốn linh hoạt và đa dạng, phương thức
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
9
9
Luận văn Cuối khóa
sử dụng vốn có hiệu quả đã làm cho khối các DNV&N góp phần tích cực
vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
• DNV&N góp phần phát triển cân bằng thị trường, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo lãnh thổ
DNV&N có tính linh hoạt, nhạy bén với thị trường, phạm vi hoạt
động rộng khắp, yêu cầu về địa bàn hoạt động không cao. Trong khi đó,
các doanh nghiệp lớn thường chỉ vận hành được ở những nơi có cơ sở hạ
tầng phát triển. Việc các DNV&N phân bố rộng và đáp ứng nhanh chóng,
đầy đủ nhu cầu của thị trường góp phần phát triển cân bằng thị trường.

Nhiều ngành nghề, địa bàn doanh nghiệp lớn không thể vươn tay tới thì
xuất hiện các DNV&N. Ít vốn, bộ máy quản lý nhỏ gọn, lĩnh vực kinh
doanh rộng khắp là những lợi thế của DNV&N góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo lãnh thổ.
• Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động
Một trong những nhân tố không thể thiếu khi thành lập doanh
nghiệp là nguồn lao động. Khi một DNV&N đi vào hoạt động nó sẽ tạo
ra công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Hàng năm
nước ta có trên 1.4 triệu người bước vào tuổi lao động, con số này không
ngừng gia tăng theo từng năm đang đặt ra bài toán nan giải cho các nhà
quản lý lao động. DNV&N có lợi thế trong việc thu hút lao động tại địa
phương, tạo việc làm cho bộ phận dân cư thất nghiệp, dôi dư do chuyển
đổi cơ cấu sản xuất, hay nông dân trong lúc nông nhàn. Vai trò tạo thêm
công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động của DNV&N có ý
nghĩa rất quan trọng. Nó không chỉ nâng cao mức sống cho người dân
trong trước mắt mà còn góp phần ổn định an ninh – chính trị về lâu dài.
• DNV&N góp phần đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
10
10
Luận văn Cuối khóa
Ban đầu lao động làm việc trong các DNV&N thường có trình độ
thấp, đa phần là dân địa phương làm bán thời gian. Nhưng qua quá trình
hoạt động, khi tuổi nghề của họ được nâng cao thì tay nghề của họ cũng
tiến bộ. Các DNV&N hiện nay cũng rất chú trọng những khoá đào tạo kỹ
năng cho người lao động. Thông thường trước khi vào làm việc, người
lao động được học một lớp kỹ năng cơ bản về công việc, chuyên môn
của mình. Hoạt động này của các DNV&N đã góp phần đào tạo và bồi
dưỡng nguồn nhân lực, cho thấy mong muốn gắn kết dài lâu với người
lao động. Đây là một hướng đi bền vững và có ý nghĩa an sinh xã hội lớn

lao.
1.2 Tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của DNV&N
1.2.1 Khái niệm Tín dụng và TDNH:
Tín dụng là một khái niệm đã tồn tại từ rất lâu đời trong xã hội
loài người. Tín dụng theo nghĩa la-tinh là “creditim”, có nghĩa là sự tín
nhiệm, sự tin tưởng. Tên gọi này xuất phát từ bản chất của quan hệ tín
dụng. Trong quan hệ tín dụng người cho vay sẽ cho người cần vốn vay
theo các điều kiện được thoả thuận trước như thời gian cho vay, thời
gian hoàn trả, lãi suất tín dụng, Trong quan hệ đó, người cho vay tin
tưởng rằng người đi vay sẽ sử dụng vốn vay đúng mục đích, đúng các
thoả thuận, làm ăn có lãi và có khả năng hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng
thời hạn.
Mặc dù có thể diễn giải tín dụng bằng những từ ngữ khác nhau,
song chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản nhất, tín dụng là quan hệ
vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi giữa người đi vay và
người cho vay.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân
hàng và một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
11
11
Luận văn Cuối khóa
đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Với vai trò là
người đi vay, ngân hàng sẽ thực hiện tìm kiếm, thu hút vốn từ dân cư và
các tổ chức kinh tế trên phạm vi toàn xã hội, là người đi vay, ngân hàng
đáp ứng nhu cầu vốn cho các tổ chức cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn
cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
Ngân hàng đã thực hiện phân phối lại vốn tiền tệ từ nơi tạm thời thừa
vốn đến nơi tạm thời thiếu vốn.
Cơ sở khách quan để hình thành chức năng phân phối lại vốn tiền

tệ của tín dụng ngân hàng là do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình
tái sản xuất xã hội đã thường xuyên xuất hiện hiện tượng tạm thời thừa
vốn ở các tổ chức cá nhân này, trong khi các tổ chức cá nhân khác lại có
nhu cầu vốn. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh do có sự chênh lệch về
thời gian, số lượng giữa các khoản thu nhập và chi tiêu ở tất cả các tổ
chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên
tục. Tín dụng thương mại đã không giải quyết được vấn đề này, chỉ có
ngân hàng là tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải
quyết mâu thuẫn đó khi ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là
người cho vay.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, tín dụng ngân
hàng đã và đang là nhân tố không thể thiếu, thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển, điều tiết và di chuyển vốn, tăng thêm tính hiệu quả của vốn
tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
1.2.2. Các hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại
Các hình thức tín dụng được phân chia theo nhiều tiêu thức khác
nhau, tùy theo đặc điểm riêng của mỗi ngân hàng mà tín dụng được phân
chia theo các tiêu thức phù hợp với quy trình quản lý điều hành, quản trị
rủi ro của mỗi ngân hàng.
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
12
12
Luận văn Cuối khóa
1.2.2.1. Theo thời hạn tín dụng
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng,
được sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các
doanh nghiệp và để đáp ứng những nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá
nhân, hộ gia đình.
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 12 tháng đến
60 tháng, được sử dụng chủ yếu để mua sắm tài sản cố định, đổi mới và

cải tiến trang thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dựng các công
trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 60 tháng trở lên,
được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí
nghiệp mới, cải tiến và mở rộng sản xuất kinh doanh quy mô lớn, có thời
hạn thu hồi vốn chậm.
1.2.2.2. Theo xuất xứ tín dụng
- Tín dụng trực tiếp: là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng trực
tiếp cấp vốn cho người có nhu cầu và người đi vay trực tiếp trả nợ vay cho
ngân hàng.
- Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng được thực hiện
thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng chỉ nợ còn thời hạn
thanh toán của khách hàng.
1.2.2.3. Theo hình thức cấp tín dụng
- Cho vay: là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng
giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và
thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Cho vay gồm: cho vay từng lần, cho vay theo HMTD, cho vay theo dự
án đầu tư, cho vay hợp vốn, cho vay theo HMTD dự phòng,
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
13
13
Luận văn Cuối khóa
- Chiết khấu: là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền
truy đòi các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ
hưởng trước khi đến hạn thanh toán.
- Bao thanh toán: là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc
bên mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các
khoản phải thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch

vụ.
- Bảo lãnh: là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam
kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ
tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và
hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận. Theo mục đích bảo lãnh,
bảo lãnh gồm có: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự
thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh hoàn thanh toán,
- Cho thuê tài chính: là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn
thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và
các động sản khác trên cơ sở hợp đồng giữa bên thuê và bên cho thuê.
Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và
các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu
đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền
thuê trong suốt thời hạn thuê đã thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê
bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê.
1.2.2.4. Theo hình thức đảm bảo
- Tín dụng có đảm bảo bằng tài sản: Là hoạt động cho vay được
ngân hàng cung cấp với điều kiện phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
14
14
Luận văn Cuối khóa
có bảo lãnh của bên thứ ba. Loại hình cho vay này được áp dụng đối với
khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng. Sự đảm bảo này là
căn cứ pháp lý để trong trường hợp khách hàng không thể trả được nợ thì
ngân hàng vẫn có nguồn bù đắp. Loại hình tín dụng này có mức độ rủi ro
thấp.
- Tín dụng không có đảm bảo bằng tài sản: Là loại cho vay không
cần tài sản cầm cố thế chấp hay bảo lãnh của bên thứ ba. Việc cho vay

dựa chủ yếu trên uy tín của bản than khách hàng. Loại tín dụng này được
cung cấp cho khách hàng có uy tín cao, những khách hàng có mối quan
hệ tốt và lâu dài với ngân hàng, có tình hình tài chính lành mạnh, có mối
quan hệ tốt với các tổ chức tài chính. Đối với loại tín dụng này ngân
hàng sẽ gặp rủi ro rất cao nếu đánh giá sai về khách hàng, do vậy việc
cho vay cần được quản lý chặt chẽ bằng các biện pháp nghiệp vụ và
thong qua nhiều nguồn tin để có những đánh gía chính xác về khách
hàng.
1.2.2.5. Theo mục đích sử dụng vốn
- Cho vay tiêu dùng: là loại tín dụng đối với các cá nhân để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng mua sắm, sửa chữa nhà cửa, đồ dùng, phương tiện
đi lại, và các loại hàng hóa khác. Hoạt động này ở nước ta, tuy còn nhiều
hạn chế do số tiền cho vay nhỏ nhưng càng ngày càng được nhiều ngân
hàng cung cấp và khách hàng sử dụng.
- Cho vay sản xuất và lưu kinh doanh: Là hoạt động cho vay đối
với các chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa. Nó
đáp ứng nhu cầu về vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh để dự trữ
nguyên vật liệu, cho vay chi phí sản xuất hoặc đáp ứng nhu cầu thiếu
vốn trong quan hệ thanh toán giữa các doanh nghiệp. Hoạt động cho vay
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
15
15
Luận văn Cuối khóa
này đã xuất hiện từ rất sớm và rất phát triển trên thế giới, chiếm tỷ trọng
lớn trong tỷ trọng lớn trong hoạy động tín dụng của các ngân hàng
thương mại.
1.2.2.6. Theo phương pháp hoàn trả
- Tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà người đi vay phải hoàn trả
vốn gốc và lãi cho ngân hàng theo định kì. Loại tín dụng này áp dụng đối
với các khoản vay có giá trị lớn và thời hạn dài.

- Tín dụng phi trả góp: là loại tín dụng mà người đi vay thanh toán
một lần cả gốc và lãi theo thời gian đã thỏa thuận. Loại tín dụng này áp
dụng đối với các khoản vay có giá trị nhỏ và thời hạn ngắn.
- Tín dụng hoàn trả yêu cầu: là loại tín dụng mà người đi vay có
thể hoàn trả bất cứ khi nào có thu nhập, ngân hàng không ấn định thời
hạn, loại hình này thường áp dụng trong cho vay thấu chi, cho vay thẻ
tín dụng.
1.2.3. Vai trò của TDNH đối với sự phát triển của DNV&N
Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại và phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ là một tất yếu khách quan và cũng như các loại hình
doanh nghiệp khác trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp này cũng sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu
cầu thiếu hụt vốn cũng như để tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn của
mình. Vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đóng vai trò rất quan trọng, nó chẳng những thúc đẩy sự phát triển khu
vực kinh tế này mà thông qua đó tác động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân
hàng
• Tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ được liên tục.
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
16
16
Luận văn Cuối khóa
Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn cần
phải cải tiến kỹ thuật thay đổi mẫu mã mặt hàng, đổi mới công nghệ máy
móc thiết bị để tồn tại đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. Trên
thực tế không một doanh nghiệp nào có thể đảm bảo đủ 100% vốn cho
nhu cầu sản xuất kinh doanh. Vốn tín dụng của ngân hàng đã tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc
thiết bị cải tiến phương thức kinh doanh. Từ đó góp phần thúc đẩy tạo

điều kiện cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh đựơc liên tục.
• Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp phải tôn
trọng hợp đồng tín dụng phải đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn
và phải tôn trọng các điều khoản của hợp đồng cho dù doanh nghiệp làm
ăn có hiệu quả hay không. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp muốn có vốn
tín dụng của ngân hàng phải có phương án sản xuất khả thi. Không chỉ
thu hồi đủ vốn mà các doanh nghiệp còn phải tìm cách sử dụng vốn có
hiệu quả, tăng nhanh chóng vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận
phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh doanh có lãi.
Trong quá trình cho vay ngân hàng thực hiện kiểm soát trước, trong và
sau khi giải ngân buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và
có hiệu quả.
• Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu
cho
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong nền kinh tế thị trường hiếm doanh nghiệp nào dùng vốn tự
có để sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn vay chính là công cụ đòn bẩy để
doanh nghiệp tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn. Đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ do hạn chế về vốn nên việc sử dụng vốn tự có để sản xuất là
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
17
17
Luận văn Cuối khóa
khó khăn vì vốn hạn hẹp vì nếu sử dụng thì giá vốn sẽ cao và sản phẩm
khó được thị trường chấp nhận. Để hiệu quả thì doanh nghiệp phải có
một cơ cấu vốn tối ưu, kết cấu hợp lý nhất là nguồn vốn tự có và vốn vay
nhằm tối đa hoá lợi nhuận tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
• Tín dụng ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao

khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ .
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, muốn tồn
tại và đứng vững thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh
tranh. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do có một số hạn chế
nhất định, việc chiếm lĩnh ưu thế trong cạnh tranh trước các doanh nghiệp lớn
trong nước và nước ngoài là một vấn đề khó khăn. Xu hướng hiện nay của các
doanh nghiệp này là tăng cường liên doanh, liên kết, tập trung vốn đầu tư và
mở rộng sản xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên
để có một lượng vốn đủ lớn đầu tư cho sự phát triển trong khi vốn tự có lại
hạn hẹp, khả năng tích luỹ thấp thì phải mất nhiều năm mới thực hiện được.
Và khi đó cơ hội đầu tư phát triển không còn nữa. Như vậy có thể đáp úng kịp
thời, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có thể tìm đến tín dụng ngân hàng. Chỉ
có tín dụng ngân hàng mới có thể giúp doanh nghiệp thưc hiện được mục đích
của mình là mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh.
1.3. Kinh nghiệm một số nước trong việc hỗ trợ vốn tín dụng cho
DNV&N
1.3.1. Kinh nghiệm một số nước
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Đài Loan
Nền công nghiệp Đài Loan được đặc trưng chủ yếu bởi các
DNV&N. ở Đài Loan, loại DNV&N phải có từ 5 - 10 công nhân, vốn
trung bình là 1,6 triệu USD là rất phổ biến. Chúng chiếm khoảng 96%
tổng số doanh nghiệp, tạo ra khoảng 40% sản lượng công nghiệp, hơn
50% giá trị xuất khẩu và chiếm hơn 70% chỗ làm việc. Để đạt được
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
18
18
Luận văn Cuối khóa
thành tựu to lớn này, Đài Loan đã dành những nỗ lực trong việc xây
dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ các DNV&N như chính sách hỗ
trợ công nghệ, chính sách về nghiên cứu và phát triển, chính sách quản

lí, đào tạo và chính sách hỗ trợ tài chính tín dụng.
Chính sách hỗ trợ tài chính tín dụng cho DNV&N được cụ thể:
- Khuyến khích các ngân hàng cho DNV&N vay vốn như điều
chỉnh mức lãi suất thấp hơn lãi suất thường của ngân hàng, thành lập quĩ
bảo lãnh tín dụng, qui định tỉ lệ cung cấp tài chính cho DNV&N phải
tăng lên hàng năm Ngân hàng trung ương Đài Loan yêu cầu các NHTM
thành lập riêng phòng tín dụng cho DNV&N, tạo điều kiện để cho
DNV&N tiếp cận được với ngân hàng. NHTW cũng sử dụng các chuyên
gia tư vấn cho DNV&N về cách củng cố cơ sở tài chính, tăng khả năng
nhận tài trợ của mình.
- Thành lập Quĩ phát triển cho DNV&N: các quĩ được thành lập
như Quĩ phát triển, Quĩ Sino-US, Quĩ phát triển DNV&N để cung cấp
vốn cho DNV&N qua hệ thống ngân hàng, nhằm tài trợ cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh các DNV&N.
- Thành lập Quĩ bảo lãnh tín dụng
Từ việc nhận thức được sự khó khăn của DNV&N trong việc thế
chấp tài sản vay vốn NH, năm 1974 Đài Loan đã thành lập Quĩ bảo lãnh
tín dụng. Nguyên tắc hoạt động của quĩ này là cùng chia sẻ rủi ro với các
tổ chức tín dụng. Từ đó tạo lòng tin đối với TCTD khi cấp tín dụng cho
DNV&N. Kể từ khi thành lập đến nay quĩ đã bảo lãnh cho 1,5 triệu
trường hợp với tổng số tiền tương đối lớn.
Nói chung, với sự quan tâm của Chính phủ bằng các chính sách
khuyến khích hữu hiệu, các DNV&N ở Đài Loan phát triển mạnh mẽ, ổn
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
19
19
Luận văn Cuối khóa
định làm cho Đài Loan trở thành quốc gia của các DNV&N về mặt kinh
tế.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản

Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản đặc biệt quan tâm đến
phát triển các DNV&N vì đây là khu vực đem lại hiệu quả kinh tế cao và
giải quyết được nạn thất nghiệp. Chương trình "hiện đại hoá" các
DNV&N trở thành một nhiệm vụ và Nhật Bản đã có hàng loạt các chính
sách về nhiều mặt được ban hành. Chi phí cho chương trình "hiện đại
hoá" các DNV&N chủ yếu tập trung trên 4 lĩnh vực:
• Xúc tiến hiện đại hoá DNV&N
• Hiện đại hoá các thể chế quản lý DNV&N
• Các hoạt động tư vấn cho DNV&N
• Các giải pháp tài chính cho DNV&N
Trong đó dành một sự chú ý đặc biệt đối với việc hỗ trợ tài chính
nhằm giúp các DNV&N tháo gỡ những khó khăn, cản trở việc tăng vốn
trong quá trình sản xuất kinh doanh như khả năng tiếp cận tín dụng thấp,
thiếu sự bảo đảm về vốn vay
Các biện pháp hỗ trợ này đã được thực hiện thông qua hệ thống hỗ
trợ tín dụng và các tổ chức tài chính tín dụng công cộng phục vụ
DNV&N. Hệ thống hỗ trợ tín dụng giúp các DNV&N tiếp cận được với
nguồn vốn tín dụng, tạo điều kiện cho họ vay vốn của các tổ chức tín
dụng tư nhân thông qua sự bảo lãnh của hiệp hội bảo lãnh tín dụng trên
cơ sở hợp đồng bảo lãnh.
Ngoài ra còn có ba tổ chức tài chính công cộng là Công ty Tài
chính DNV&N, Công ty tài chính nhân dân và ngân hàng Shoko Chukin
do Chính phủ đầu tư thành lập toàn bộ hoặc một phần nhằm tài trợ vốn
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
20
20
Luận văn Cuối khóa
cho các DNV&N đổi mới máy móc thiết bị và hỗ trợ vốn lưu động dài
hạn để mở rộng sản xuất kinh doanh.
1.3.1.3. Kinh nghiệm của Đức

Đức là một quốc gia có số lượng DNV&N tương đối lớn. Nó đóng
một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, tạo ra gần 50% GDP, chiếm
hơn 1/2 doanh thu chịu thuế của các doanh nghiệp, cung cấp các loại
hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng của nguời tiêu dùng trong
và ngoài nước. Để đạt được những thành tựu đó, Chính phủ Đức đã áp
dụng hàng loạt các chính sách và chương trình thúc đẩy DNV&N trong
việc huy động vốn.
Công cụ chính để thực hiện các chính sách và chương trình này là
thông qua các khoản tín dụng ưư đãi, có sự bảo lãnh của Nhà nước. Các
khoản tín dụng này được phân bố ưu tiên đặc biệt cho các dự án đầu tư
thành lập doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, đầu tư vào những khu vực
kém phát triển của đất nước.
Do phần lớn các DNV&N không đủ tài sản thế chấp để có thể nhận
được khoản tín dụng lớn bên cạnh các khoản tín dụng ưu đãi nên còn
phát triển khá phổ biến tổ chức bảo lãnh tín dụng. Những tổ chức này
được thành lập và bắt đầu hoạt động từ những năm 50 với sự hợp tác
chặt chẽ cuả các phòng Thương mại, Hiệp hội doanh nghiệp, Hiệp hội
Ngân hàng và Chính quyền liên bang. Nguyên tắc hoạt động cơ bản là vì
khách hàng. DNV&N nhận được khoản vay từ ngân hàng với sự bảo lãnh
của một số tổ chức bảo lãnh tín dụng. Khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ
tổ chức này có trách nhiệm trả khoản vay đó cho ngân hàng. Ngoài ra,
các khoản vay này còn có thể được Chinh phủ bảo lãnh.
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
21
21
Luận văn Cuối khóa
Với các cơ chế và chính sách hỗ trợ như vậy các DNV&N ở Đức
đã khắc phục được rất nhiều khó khăn trong quá trình huy động vốn, từ
đó đóng góp to lớn trong việc phát triển DNV&N ở Đức.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Từ việc phân tích các biện pháp hỗ trợ vốn tín dụng đối với các
DNV&N của một số nước trên thế giới, trong đó có Nhật bản một nước
láng giềng của ta đã có những chính sách khuyến khích phát triển
DNV&N rất hiệu quả. Thực tế đã chứng minh sự thành công của các
chính sách hỗ trợ này. Vì vậy, đây có thể là những bài học kinh nghiệm
mà Việt Nam có thể tham khảo và vận dụng.
Tuy nhiên, quy mô của nền kinh tế cũng như của các DNV&N ở
Việt Nam còn nhỏ bé hơn nhiều so với các nước trên và Việt Nam cũng
có những đặc trưng riêng biệt.Do đó, khi thực hiện những chính sách hỗ
trợ nói chung cũng như chính sách hỗ trợ vốn tín dụng noi riêng đối với
những DNV&N, chúng ta cần phải thực hiện sao cho vừa có hiệu quả,
vừa tạo ra sự bình đẳng giữa các loại hinh doanh nghiệp. Chúng ta có thể
tổng kết trên các nội dung sau:
Thứ nhất: Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc xây dựng
một môi trường pháp lí ổn định, có những chính sách hỗ trợ cụ thể đối
với sự phát triển của DNV&N. Vì vậy Chính phủ cần sớm xúc tiến thành
lập cục phát triển DNV&N để tạo điều kiện đưa ra các chương trình trợ
giúp, điều phối, hướng dẫn tình hình phát triển DNV&N.
Thứ hai: Về mặt pháp lý, cần đảm bảo thật sự bình đẳng trong
quan hệ tín dụng ngân hàng giữa DNV&N ngoài quốc doanh với doanh
nghiệp quốc doanh. NHNN cần khuyến khích các ngân hàng có ưu đãi
nhất định cho DNV&N vay vốn, hoặc ít nhất cũng có sự bình đẳng về
mặt thủ tục, thời hạn vay, lượng vốn vay các NHTM nên thành lập
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
22
22
Luận văn Cuối khóa
những kênh tài chính riêng cho các DNV&N nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp này tiếp cận với các hoạt động tín dụng của
ngân hàng.

Thứ ba: NHTM nên mở rộng hình thức tín dụng thuê mua. Đây là
biện pháp tài trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp đặc biệt là
đối với các DNV&N ở trong tình trạng thiếu vốn rất hiệu quả. Với hình
thức tín dụng này NHTM giảm bớt được rủi ro vì tránh được tình trạng
đóng băng vốn. Tuy nhiên cần phải hoàn thiện hệ thống văn bản phát huy
qui định chặt chẽ quyền và nghĩa vụ giữa hai bên: ngân hàng và
DNV&N.
Thứ tư: Thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư cho các DNV&N nhằm giúp
các doanh nghiệp này vay vốn trung và dài hạn bằng chính nguồn vốn
của Nhà nước hoặc kết hợp với các tổ chức, cá nhân khác. Để thực hiện
có hiệu quả cần có cơ chế điều hành quĩ thật rõ ràng, minh bạch, xác
định đúng đối tượng hỗ trợ và đưa ra những điều kiện cụ thể, thống nhất
kèm theo. Ngoài ra, Chính phủ cần có các biện pháp nhằm tạo điều kiện
về mặt tài chính cho các DNV&N như trợ cấp vốn không hoàn lại cho
các dự án ở vùng sâu, vùng xa, các lĩnh vực độc hại
Thông qua việc phân tích lý giải những cơ sở lý luận về DNV&N và
tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường cũng như thực tế chứng
minh những vai trò quan trọng của DNV&N trong nền kinh tế thị trường
ta thấy cần thiết phát triển DNV&N để phát triển nền kinh tế xã hội. Từ
những khó khoăn cũng như những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự phát
triển DNV&N ta thấy tầm quan trọng của nguồn vốn cho sự hình thành
phát triển bất cứ một tổ chức kinh tế xã hội nào nói chung cũng như
DNV&N nói riêng. Để tạo nguồn vốn cho doanh nghiệp có rất nhiều
nguồn vốn như vốn tự có, vốn liên doanh liên kết, vốn do Nhà nước cấp,
vốn cổ phần, vốn vay từ những nguồn không chính thức…trong đó có
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
23
23
Luận văn Cuối khóa
vốn vay từ các tài chính tín dụng. Vốn tín dụng ngân hàng có vai trò vô

cùng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển DNV&N ở một số
nước trên thế giới ta rút ra bài hoc kinh nghiệm cho Việt Nam.
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
24
24
Luận văn Cuối khóa
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNV&N
TẠI NHCT VIỆT NAM CHI NHÁNH TÂY HÀ NỘI
2.1. Khái quát về hoạt động của NHTMCP Công thương Việt Nam chi
nhánh Tây Hà Nội
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
NHTMCP Công thương Việt Nam là NHTM lớn, ra đời từ rất sớm giữ
vai trò trụ cột trong ngành Ngân hàng nước ta. Mạng lưới chi nhánh
NHTMCP Công thương trải rộng toàn quốc với 141 chi nhánh và trên
700 phòng giao dịch. Tại Hà Nội, ngân hàng có 18 chi nhánh và 1 sở
giao dịch. Ra đời muộn nhưng NHTMCP Công thương Việt Nam chi
nhánh Tây Hà Nội đặt tại địa chỉ 72A – Hồ Tùng Mậu, Từ Liêm, Hà Nội
đã có sự phát triển ấn tượng.
NHTMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Tây Hà Nội hình
thành và phát triển qua nhiều giai đoạn với những cột mốc quan trọng
Giai đoạn 1: Chi nhánh được nâng cấp thành lập từ 1 phòng giao
dịch và tách ra từ chi nhánh NHCT Cầu Giấy theo quyết định QĐ
054/QĐ - HĐQT - NHCT1 thành lập NHCT Cầu Diễn ngày 24/1/2006.
Ban đầu là chi nhánh cấp 2 trực thuộc NHCT VN với trên 50 cán bộ, 6
phòng ban và 3 điểm giao dịch.
Giai đoạn 2: Từ tháng 1/2009, với nhiều thành tích đạt được, chi
nhánh được nâng cấp thành chi nhánh cấp 1 trực thuộc NHCT VN vẫn
với tên gọi NHCT Cầu Diễn. Đến tháng 8/2009 được đổi tên thành Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam – chi nhánh Tây Hà Nội theo quyết

định 496/QĐ – HĐQT – NHCT1 ngày 5/8/2009. Hiện nay chi nhánh có
trên 90 cán bộ với 8 phòng ban và 3 phòng giao dịch loại 1, 2 phòng giao
dịch loại 2. Như vậy, chỉ sau 3 năm kể từ khi tách ra từ 1 phòng giao
Nguyễn Thùy Linh CQ45/15.03
25
25

×