Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

một số đề xuất cho quá trình tái cấu trúc ngân hàng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.92 KB, 46 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

BÀI TIỂU LUẬN
GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG VIỆT VIỆT NAM HIỆN NAY
GVHD: NGUYỄN THỊ HAI HẰNG
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 5
TRẦN VIỆT HÀ K094040540
NGUYỄN THỊ HƯƠNG
K094040558
NGUYỄN THỊ LAN K094040561
TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013

LỜI MỞ ĐẦU
Với bất kỳ một quốc gia nào, hoạt động của hệ thống ngân hàng luôn là huyết mạch của
nền kinh tế và sự ổn định, lành mạnh của hệ thống ngân hàng giữ vai trò trọng yếu trong
việc ổn định và phát triển của nền kinh tế. Khi nền kinh tế phát triển nhanh chóng, đặc
biệt là ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại đã thúc đẩy hệ thống ngân hàng phát triển
nhanh cả về qui mô và chất lượng dịch vụ. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh đó, hệ
thống ngân hàng cũng sẽ tiềm ẩn nhiều yếu kém và rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh
khoản cao; tính ổn định, hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh chưa cao; năng lực
quản trị còn nhiều bất cập. Do vậy, nếu những rủi ro và yếu kém này không được xử lý
kịp thời sẽ tác động xấu đến ổn định kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính quốc gia. Vì vậy,
việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính là cấp thiết để tránh sự đổ
vỡ của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
Nhưng “tái cấu trúc hệ thống ngân hàng” là gì, cách thức thực hiện nó ra sao, nó có ảnh
hưởng như thế nào đến nền kinh tế cũng như xã hội…? Để hiểu rõ hơn về khái niệm “ tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng” và các vấn đề xung quanh nó, nhóm chúng em đã chọn đề
tài “ GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM” làm đề
tài nghiên cứu, thảo luận. Bài tiểu luận là tổng hợp những kiến thức về nền kinh tế, hệ


thống ngân hàng và xã hội mà các thành viên trong nhóm đã nghiên cứu, tham khảo và
phân tích được từ nhiều nguồn tài liệu, ý kiến của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài
nước. Bài viết có thể còn những thiếu sót, do đó rất mong nhận được những ý kiến góp ý
của cô và các bạn.
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN KHÁI QUÁT VẦ TÁI CẤU TRỨC HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Định nghĩa, nguyên nhân và mục tiêu của việc tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng
1.1.1. Định nghĩa
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính là một trong những nội dung của
tái cấu trúc của nền kinh tế. Theo Claessens (1998), tái cấu trúc ngân hàng là hướng tới
việc sắp xếp, nâng cao khả năng quản trị điều hành của ngân hàng thương mại (NHTM)
để đảm bảo an toàn hệ thống và hình thành hệ thống các NHTM có sức mạnh tài chính
thực sự, khả năng quản lý, kiểm soát rủi ro, quản trị tốt. Tái cấu trúc ngân hàng cũng
thường được tiến hành khi có bằng chứng về một hoặc nhiều ngân hàng mất khả năng
thanh toán đến hơn 20% tổng tiền gửi toàn hệ thống ngân hàng và cần phải có một gói
giải pháp liên quan đến thể chế và luật pháp để xử lý các ngân hàng yếu kém và đưa hệ
thống ngân hàng trở về trạng thái lành mạnh bền vững (Waxman, 1998). Theo Ðinh Tuấn
Minh (2012), khác với việc xử lý một ngân hàng yếu kém trong thời kỳ bình thường, tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng đòi hỏi một kế hoạch đồng bộ và dài hạn, bao gồm trình tự
xử lý cũng như xây dựng các kịch bản dự phòng cho các tình huống xấu nhất, để sao cho
trong quá trình tái cấu trúc, hoạt động thanh toán và hoạt động tín dụng của hệ thống
không bị ảnh hưởng.
Từ những định nghĩa trên, về cơ bản có thể khái quát: tái cấu trúc ngân hàng
là các biện pháp nhằm khắc phục các khiếm khuyết của hệ thống ngân hàng (mà
những khiếm khuyết này có khả năng gây ra một cuộc khủng hoảng trên toàn hệ
thống), nhằm mục đích duy trì ổn định và hiệu quả chức năng trung gian tài chính
của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế, đặc biệt là chức năng thanh toán và tín
dụng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM.
1.1.2. Nguyên nhân của việc tái cấu trúc

Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng không phải là một hoạt động mang tính định kỳ. Các
quốc gia chỉ tiến hành tái cấu trúc khi có những vấn đề điển hình nổi lên trong nền kinh tế
4
nói chung và trong hoạt động của các ngân hàng thương mại nói riêng. Theo ông Sameer
Goyal (điều phối viên Khu vực tài chính và tư nhân của Ngân hàng Thế giới) thì động cơ
tái cấu trúc hiện nay bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: Khủng hoảng tài chính và kinh tế
(các vấn đề của khu vực sản xuất); Nợ xấu gia tăng (căng thẳng của khu vực sản xuất và
rủi ro cao trong lĩnh vực bất động sản, ngoại hối, tình trạng thua lỗ của các doanh nghiệp,
việc cho vay của các tổ chức tài chính đối với các bên có quan hệ); Sự yếu kém về khả
năng sử dụng vốn của các ngân hàng so với mức độ rủi ro (lo ngại mất khả năng trả nợ);
Trung gian tài chính không hiệu quả - không đủ nguồn tín dụng, các ngân hàng theo đuổi
rủi ro quá mức (tăng trưởng tín dụng nhanh và không kiểm soát), lãi suất bị bóp méo, các
dòng tiền nóng đầu cơ ; Khuôn khổ pháp lý, giám sát và quản lý yếu kém; Thiếu niềm
tin vào hệ thống ngân hàng
1.1.3. Mục tiêu của việc tái cấu trúc Ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Mục tiêu ngắn – trung hạn:
- Duy trì sự ổn định của hệ thống Ngân hàng, đảm bảo khả năng chi trả, thanh khoản.
- Giải quyết các vấn đề một cách kịp thời, ngăn ngừa sự lê lan hoặc các vấn đề hệ thống.
- Khôi phục niềm tin vào hệ thống ngân hàng.
- Tái cấu trúc bộ máy hoạt động để nâng cao năng lực, đáp ứng được các nhiệm vụ hỗ trợ
phát triển kinh tế, xã hội của từng Ngân hàng nói riêng và hệ thống Ngân hàng nói chung.
1.1.3.2. Mục tiêu dài hạn:
- Xây dựng tính cạnh tranh và khả năng chống chịu tốt.
- Tăng cường cơ sở hạ tầng tổng thể của hệ thống tài chính.
- Tái cấu trúc để có những Ngân hàng chất lượng và những chỉ số hoạt động tốt nhằm
tăng sức mạnh cho toàn hệ thống, góp phần phát triển kinh tế ổn định.
- Tạo một hệ thống Ngân hàng đa dạng về loại hình, quan hệ sở hữu và quy mô: có các
Ngân hàng đủ mạnh để có thể cạnh tranh trong khu vực và quốc tế, có các Ngân hàng làm
trụ cột cho cả hệ thống Ngân hàng trong nước, và có các Ngân hàng có quy mô vừa và
nhỏ hoạt động trong những phân khúc thị trường khác nhau

5
1.2. Các biện pháp tái cấu trúc ngân hàng
1.2.1. Giải quyết vấn đề nợ xấu
Nếu các khoản nợ xấu lớn, tức là khả năng thu hồi các khoản nợ khách hàng của ngân
hàng thấp. Do đó ngân hàng phải dùng vốn để trang trải cho các khoản phí thất thoát này
nhưng đến một chứng mực nào đó sẽ không thể thực hiện “xóa sổ” những khoản thất
thoát này, ngân hàng có thể bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán cho người gửi
tiền. Lúc đó chính phú phải can thiệp để giảm tỷ lệ này xuống mức an toàn một cách
nhanh nhất. Mỗi quốc gia có một cách xử lý khác nhau, trong đó thường gặp nhất là nâng
mức yêu cầu về dự phòng rủi ro, siết chặt các quy định về phân loại nợ và trích lập dự
phòng, đi kèm với việc kiểm tra, giám sát sát sao việc thực hiện. Đặc biệt, tại một số
nước, Chính phủ cho phép các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao tách biệt hoạt động thành 2
nhóm: nhóm hoạt động tốt và nhóm dưới chuẩn. Mục đích của việc làm này sẽ giúp các
nhà nước kiểm soát tốt việc xử lý nợ xấu của các nhóm ngân hàng dưới chuẩn, và tập
trung thúc đẩy các khoản cho vay hiệu quả tại các ngân hàng tốt.
Ngoài ra, ở Mĩ Năm 2008, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã quyết định chi 700 tỉ
USD, một phần để mua lại nợ xấu NHTM, một phần dùng để giải quyết thanh khoản tạm
thời cho những tổ chức tài chính yếu kém, phần lớn để mua cổ phiếu ưu đãi của các ngân
hàng (cổ phiếu ưu đãi được hưởng mức cổ tức cố định, không phụ thuộc vào khả năng
sinh lời, người nắm giữ không có quyền tham gia vào việc điều hành).
Một mô hình giải quyết nợ xấu khác cũng đã được áp dụng thành công tại nhiều nước, đó
là thành lập Công ty Quản lý Nợ và Tài sản. Các công ty quản lý nợ và tài sản xấu không
chỉ giúp tăng tính chuyên nghiệp trong khả năng xử lý nợ mà còn giúp hệ thống ngân
hàng hoạt động ổn định trở lại do việc mua lại nợ xấu sẽ tạo điều kiện phục hồi khả năng
cho vay của các ngân hàng. Ngoài ra, về mặt kinh tế, các công ty này còn giúp tận thu giá
trị của các tài sản xấu, bù đắp phần nào chi phí bỏ ra trong tiến trình tái cấu trúc bằng
cách cấu trúc lại các khoản nợ và bán lại cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp khác.
Sau khi nợ xấu được giải quyết, các doanh nghiệp phải tái cơ cấu lại hệ thống hoạt động
để hoạt động hiệu quả hơn cũng như tránh thua lỗ. Các doanh nghiệp phải đóng cửa một
số chi nhánh làm ăn thua lỗ để tập trung vào những chi nhánh hoạt động tốt hơn.

6
1.2.2. Mua lại, hợp nhất và sáp nhập
Mua lại, sáp nhập, hợp nhất ngân hàng để hình thành những định chế hoặc những tổ hợp
tài chính lớn hơn, mạnh hơn thông qua việc tăng cường hiệu quả kinh tế nhờ quy mô,
đồng thời tạo lợi thế cạnh tranh nhờ gia tăng thị phần hoạt động là một xu thế phổ biến và
diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Tại Mỹ việc mua bán, sát nhập các ngân hàng là điều rất
bình thường, nhất là trong giai đoạn 1966-2008. 5 thương vụ mua, bán ngân hàng lớn đã
diễn trong vòng gần 10 năm nay như: Ngân hàng Barclays mua lại ABN AMRO với giá
91 tỷ USD; Bank of America mua lại Merrill Lynch trong thương vụ trị giá 50 tỷ USD.
Ngân hàng MUFG (thuộc Mitsubishi UFJ Financial Group) mua lại UFJ Holdings
(UFJ); JP Morgan Chase mua BankOne với giá 58 tỷ USD; Bank of America mua lại
FleetBoston Financial với giá 48 tỷ USD Tại Nhật Bản, vụ sáp nhập giữa Ngân hàng
Tokyo và Ngân hàng Mitsubishi năm 1996 đã hình thành lên ngân hàng lớn nhất thế giới
lúc bấy giờ với tổng giá trị tài sản trên 750 tỷ USD,…
Trước khi tiến hành các hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại, ngân hàng trung ương
các nước thường tiến hành sàng lọc ra các ngân hàng yếu kém bằng cách đưa ra một
khung các tiêu chuẩn phân loại hoạt động. Theo đó, những ngân hàng không đáp ứng đủ
các tiêu chuẩn an toàn bị buộc chấm dứt hoạt động để ngân hàng có tình hình tài chính tốt
hơn mua lại. Với những ngân hàng đang gặp khó khăn nhưng có khả năng phục hồi sẽ
được yêu cầu sáp nhập, hợp nhất với nhau. Nhờ đó, số lượng ngân hàng sau tái cấu trúc
giảm xuống nhưng quy mô vốn, chất lượng tài sản, năng lực cạnh tranh và khả năng sinh
lợi được cải thiện rõ rệt.
1.2.3. Cơ cấu lại vốn tự có của các ngân hàng
Vốn tự có là yếu tố có ý nghĩa quyết định sống còn đến sự hình thành và phát triển lâu
dài của ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh, khi rủi ro xảy ra sẽ gây thiệt hại lớn và
nguồn vốn này giúp ngân hàng bù đắp được những thiệt hại đó. Trong những trường hợp
hy hữu về khả năng chi trả, vốn tự có sẽ được dùng để chi trả cho khác hàng, bảo vệ
khách hàng không bị mất tiền gửi tại nhà băng.Một trong những nguồn giúp vốn tự có
tăng trưởng đó là lợi nhuận giữ lại và vốn tự có cũng thường tăng trưởng dương.
7

Nguồn vốn tự có (hay còn gọi là vốn chủ sở hữu) của các ngân hàng sau khi trích lập dự
phòng đầy đủ cho các khoản nợ và giảm giá tài sản là điều khiến Chính phủ quan tâm vì
đây là căn cứ để đưa ra các biện pháp cụ thể như yêu cầu các ngân hàng tăng vốn, cho
vay thêm hoặc yêu cầu các ngân hàng có mức an toàn vốn thực tế dưới mức tối thiểu theo
luật định phải sáp nhập hoặc giải thể. Ở các quốc gia như Mỹ, Châu Âu và một số nước
phát triển ở khu vực Châu Á, chính phủ ưu tiên thực hiện biện pháp quốc hữu hóa các
ngân hàng bằng cách đầu tư vào cổ phần của các ngân hàng này sau đó bán lại cho tư
nhân sau khi ngân hàng đó dần đi vào ổn định. Với vai trò là cổ đông chính sở hữu phần
lớn vốn cổ phần, Chính phủ sẽ yêu cầu các ngân hàng bị quốc hữu hóa thực hiện các
chương trình tái cấu trúc tài sản và nguồn vốn.
Bên cạnh giải pháp quốc hữu hóa các ngân hàng thương mại, Chính phủ các nước cũng
áp dụng biện pháp kêu gọi các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tài trợ tăng vốn cho
các ngân hàng gặp khó khăn bằng cách đưa ra các điều kiện có lợi. Hình thức này gọi là
vốn đối ứng hay thực chất là đồng tài trợ. Theo đó, khi nhà đầu tư bỏ vốn tài trợ cho một
ngân hàng gặp khó khăn thì Chính phủ cũng cam kết góp vốn vào ngân hàng đó theo một
tỷ lệ nhất định dưới vai trò nhà đầu tư thứ hai đồng tài trợ. Điều này không những tạo
niềm tin cho nhà đầu tư về khả năng vực dậy của ngân hàng mà còn làm giảm lượng vốn
Chính phủ cần bỏ ra để cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng đó.
1.2.4. Cải thiện lòng tin vào hệ thống ngân hàng
Khi người dân mất lòng tin vào hệ thống ngân hàng, hệ thống sẽ khó có thể phát triển
mạnh, thậm chí sụp đổ nếu xảy ra biến cố lớn. Để cải thiện lòng tin của dân chúng, ngân
hàng cần phải hoạt động minh bạch, hiệu quả hơn. Cổ đông hay người gửi tiền có quyền
được cung cấp các thông tin đầy đủ và chính xác về hoạt động điều hành hay tình hình tài
chính của ngân hàng, bao gồm nợ xấu, các giao dịch ngoại bảng, các chứng khoán phái
sinh hay thậm chí là các thông tin đặc biệt như thua lỗ do kiện tụng…, và đây là một yêu
cầu bắt buộc phải được thực hiện. Thêm vào đó, Chính phủ có thể xem xét việc tăng
cường bảo vệ người gửi tiền bằng cách gia tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi. Bảo hiểm
tiền gửi có thể bảo vệ quyền, lợi ích của hợp pháp của người gửi. Chính vì thế, bảo hiểm
8
tiền gửi có thể ngăn chặn được sự đổ vỡ mang tính hệ thống, góp phần duy trì sự phát

triển ổn định, an toàn cho các tổ chức tín dụng.
1.2.5. Cải thiện hành lang pháp lý và xây dựng tiêu chuẩn ngân hàng hiện đại
Việc tiến hành các hoạt động cải tổ hệ thống ngân hàng cần được đặt trong một khuôn
khổ pháp lý vững chắc, do đó, tất cả các nước trên thế giới khi tiến hành tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng đều tiến hành rà soát lại các văn bản pháp luật, xây dựng các phương án
can thiệp của Chính phủ và Ngân hàng trung ương (NHTW) trong các tình huống khác
nhau, để đảm bảo rằng chúng không vi phạm các luật lệ đã ban hành trước đây. Việc này
rất quan trọng bởi nó cho thấy hành vi can thiệp của Chính phủ và NHTW là khách quan,
bình đẳng và minh bạch, vì lợi ích chung của nền kinh tế chứ không phải vì một động cơ
nào khác. Căn cứ vào các văn bản pháp lý đó, Chính phủ và NHTW sẽ cần phải xây dựng
một quy trình, với những tiêu chí rõ ràng ngay từ đầu về mức độ can thiệp của Nhà nước
cho từng trường hợp cụ thể. Hơn nữa, Chính phủ và NHTW cần xây dựng các tiêu chí về
một ngân hàng hoạt động hiệu quả và phát triển bền vững hướng tới thông lệ tốt nhất
như: vốn điều lệ thực tối thiểu; điều kiện cần và đủ để thành lập ngân hàng; phạm vi và
lĩnh vực kinh doanh ứng với qui mô; hạ tầng công nghệ tối thiểu phải có; việc phân loại
nợ theo thời gian và chất lượng nợ; tiêu chí về năng lực hoạt động; năng lực cạnh tranh;
vấn đề minh bạch thông tin và kỷ luật thị trường… Điều này sẽ tạo cơ sở thúc đẩy các
ngân hàng hoạt động hiệu quả và ngày càng cạnh tranh lành mạnh hơn.
9
CHƯƠNG 2. VẤN ĐỀ TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1. Bài học từ kinh nghiệm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của các nước trên
thế giới
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc
gia nào. Vì thế, ở một số quốc gia, khái niệm “phá sản ngân hàng” gần như là điều cấm
kỵ bởi những hậu quả kinh khủng mà nền kinh tế phải gánh chịu nếu hệ thống ngân hàng
lâm nguy. Và giải pháp “cứu” ngân hàng, hay nói một cách nhẹ nhàng hơn là “tái cấu trúc
ngân hàng” thường được Chính phủ các nước ưu tiên khi mỗi khi hệ thống này được đặt
vào tình thế nguy cấp.
• Ứng xử của Thụy Điển

Trong những năm cuối 1980 đầu những năm 1990, Thụy Điển đối mặt với nguy cơ sụp
đổ hệ thống ngân hàng. Ngay khi nền kinh tế bị tác động bởi một vài cú sốc bên ngoài,
một loạt doanh nghiệp đổ vỡ, bong bóng bất động sản và chứng khoán xì hơi. Hậu quả là
tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng tăng rất nhanh, đẩy một số ngân hàng đến bờ vực
phá sản, nền kinh tế đối mặt với nguy cơ khủng hoảng và suy thoái.
Trong hai năm 1992 - 1993, Thụy Điển đã thực hiện một cuộc cải cách hệ thống ngân
hàng ngoạn mục, được nhiều nhà kinh tế đánh giá là một cuộc cải cách thành công nhất
trong lịch sử ngân hàng hiện đại. Không những tránh được đổ vỡ tài chính liên hoàn, kinh
tế Thụy Điển tăng trưởng rất ấn tượng những năm sau đó và Chính phủ nước này đã thu
hồi lại được gần như toàn bộ số tiền bỏ ra cứu trợ. Bên cạnh việc phá giá đồng nội tệ,
chính đợt cải tổ hệ thống ngân hàng mới là chìa khóa dẫn đến thành công của Thụy Điển.
Trước nguy cơ đổ vỡ hàng loạt ngân hàng, đầu năm 1992, Chính phủ Thụy Điển tuyên bố
bảo đảm toàn bộ số vốn của người dân và doanh nghiệp gửi hoặc đầu tư trong hệ thống
ngân hàng ngoại trừ vốn của giới chủ ngân hàng. Tiếp đó, Thụy Điển quốc hữu hóa và
hợp nhất hai ngân hàng Gotabanken và Nordbanken, ở thời điểm đó không còn đủ vốn
chủ sở hữu theo luật định. Sau khi quốc hữu hóa, Thụy Điển tách số tài sản xấu ra khỏi
bảng cân đối tài sản và giao cho hai công ty quản lý tài sản (AMC - Asset Management
Company) quản lý riêng. Đến năm 1997, các AMC đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ và
được giải thể. Ngân hàng Nordbanken cũng dần dần được tư hữu hóa và đổi tên thành
Nordea. Toàn bộ chi phí cho vụ giải cứu/cải tổ hệ thống ngân hàng này của Thụy Điển
vào khoảng 4% GDP nhưng sau khi tư hữu hóa Nordbanken và thanh lý AMC ngân sách
Thụy Điển đã thu lại được gần như toàn bộ số tiền nói trên.
Nhìn tổng thể, đợt tái cấu trúc ngân hàng của Thụy Điển thành công như vậy chính là nhờ
3 yếu tố:
Minh bạch thông tin về nợ xấu: Ban đầu, Ngân hàng Trung ương Thụy Điển cũng từng có
ý định che dấu bớt các thông tin về các khoản nợ xấu rồi sẽ xử lý dần dần. Tuy nhiên,
cuối cùng Thụy Điển đã quyết định công bố toàn bộ thông tin về tài sản và nợ xấu. Điều
này giúp Chính phủ tỉnh táo nhìn thẳng vào thực tế, xác định được các rủi ro và hoạch
định được chi phí cần dùng cho công cuộc tái cấu trúc.
Nguồn lực cho cho công cuộc tái cấu trúc phải đủ mạnh: Nguồn lực ở đây không chỉ

dừng ở nguồn tài chính để tái cấp vốn và bảo đảm toàn bộ mà còn là cơ chế và thẩm
quyển của những cá nhân và đơn vị trực tiếp tham gia vào quá trình giải cứu.
Thực thi một gói chính sách mang tầm vĩ mô đúng đắn và nhất quán: Chính sách tài khóa
đúng đắn giúp cho Thụy Điển không lún quá sâu vào suy thoái, giảm gánh nặng đối với
thất nghiệp, lạm phát và tăng trưởng.
• Thái Lan: Trị bệnh từ gốc
Đất nước chùa vàng cũng kinh qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 khi đang trên
đà phát triển mạnh về kinh tế. Thời điểm đó, Thái Lan đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế
9%/năm nhưng cũng tiềm tàng nhiều nguy cơ từ lạm phát, chính sách tỷ giá cố định và cơ
chế thu hút đầu tư nước ngoài thiếu tính bền vững.
Khủng hoảng bắt đầu ở Thái Lan và sau đó lây lan sang các nước châu Á khác. Nguyên
nhân cốt lõi nằm ở sự mất lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài đối với cái gọi là “các
nền kinh tế mới nổi”. Các nhà đầu tư rất ấn tượng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
nhưng lại tỏ ra nghi ngờ các nhân tố điều chỉnh không minh bạch và tình trạng tham
nhũng trong Chính phủ. Khi đã mất niềm tin vào thị trường tiền tệ và chứng khoán của
những quốc gia này, nhà đầu tư sẽ ồ ạt rút tiền ra. Tại Thái Lan, việc thị trường chứng
khoán tăng trưởng nhanh chóng, kéo theo làn sóng các nhà đầu tư nước ngoài, đã đẩy giá
tiền tệ trong nước và mức lạm phát lên và kèm theo đó là nỗi sợ hãi về bong bóng chứng
khoán.
Khi nhận chức thống đốc Ngân hàng Trung ương Thái Lan vào giữa năm 2001, Ông M.R
Pridiathorn Devakula đã tiến hành hàng loạt biện pháp để giải quyết mớ bòng bong này.
Ông đã cho dừng việc tiếp tục thực hiện các quy định an toàn; chuyển các ngân hàng
sang hoạt động có lãi trở thành mục tiêu hàng đầu; nới lỏng các quy định mà không có
tính thực tế, các quy định mà quá khó khăn để thực hiện trong hoàn cảnh lúc bấy giờ và
quá tốn kém để theo đuổi; cũng như loại bỏ những rào cản về quy chế đối với việc cho
các ngân hàng thương mại vay để giảm bớt gánh nặng từ những khoản nợ tồn đọng của
khách hàng. Đồng thời theo dõi sát sao bảng tổng kết tài sản của các ngân hàng và tư vấn
về định hướng có tính chiến lược giúp các ngân hàng thương mại nhà nước có lãi.
Khác với Thụy Điển, công cuộc tái cấu trúc ngân hàng ở Thái Lan thành công phần nhiều
nhờ vào nhận thức được đúng đắn gốc rễ của vấn đề. Các công thức về thắt chặt tiền tệ,

ổn định tỷ giá không phải lúc nào cũng được áp dụng. Tùy vào điều kiện cụ thể của quốc
gia mới có thể cân nhắc được giải pháp nào là hợp lý. Quan trọng nhất, khi tiến hành tái
cơ cấu hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Trung ương Thái Lan đã đưa ra giải pháp chi tiết
cho từng tổ chức, từng khu vực riêng biệt. Tất cả đều hướng tới mục tiêu chung: Khôi
phục lại lòng tin của thị trường, thu hút vốn để giải quyết bài toán nợ xấu.
• Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Cuối năm 1997, khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á lan rộng, Hàn Quốc đã phải vay
tổng cộng 57 tỷ USD từ Quỹ tiền tệ thế giới IMF để cứu nguy hệ thống ngân hàng và
giúp nền kinh tế khỏi đổ vỡ. Đây là hậu quả của một thời gian dài Chính phủ dễ dãi trong
việc cấp tín dụng cho các tập đoàn lớn (thường được gọi là “cheabol”) khiến hoạt động
đầu tư trở nên dàn trải, nợ xấu các ngân hàng tăng cao. Tính đến năm 1998, số nợ của các
tập đoàn này đã tương đương 175% GDP của Hàn Quốc, dẫn đến thâm hụt tài khoản
vãng lai, kéo theo số nợ công khổng lồ.
Để giải cứu hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc đã tung ra 3 giải
pháp: Bơm mạnh vốn vào hệ thống tài chính (tương đương 14% GDP), đồng thời tung
tiền mua lại nợ xấu (tương đương 7% GDP) và áp dụng chính sách bảo vệ người gửi tiền
(tương đương 5% GDP). Các ngân hàng thiếu hụt vốn được cấp thêm vốn trong khi các
định chế tài chính phi ngân hàng bị đóng cửa. Người dân được bảo đảm rằng tiền gửi của
họ được Chính phủ bảo lãnh. Chính phủ Hàn Quốc cũng chủ động mời các nhà đầu tư
nước ngoài tái cấp vốn các ngân hàng và nâng cao khả năng quản trị.
Tương tự như Thụy Điển, Hàn Quốc cũng thành lập công ty xử lý nợ (KAMDO) trực
thuộc Chính phủ để mua lại nợ theo giá thị trường. Chi phí mà Chính phủ bỏ ra để mua
lại số nợ này chỉ là 33 tỷ USD với tỷ lệ chiết khấu bình quân 64%. Sau đó, số nợ xấu này
được xử lý bằng cách phát hành các chứng khoán được đảm bảo bằng các tài sản này
cũng như bán trực tiếp.
Bài học cụ thể nhất mà cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng ở Hàn Quốc cho thấy
chính là sự nuông chiều của Chính phủ đối với các “cheabol” khiến cho các định chế này
dễ dàng tiếp cận nguồn vốn bất chấp họ không đủ điều kiện. Cho nên, nợ xấu và sự mất
cân đối về vốn là điều hiển nhiên
2.2. Thực trạng hệ thống ngân hàng Việt nam hiện nay

Trong những năm qua, hệ thống các TCTD phát triển nhanh và góp phần quan trọng đối
với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống các TCTD đã bộc lộ
nhiều yếu kém, rủi ro gây mất an toàn hoạt động và đe dọa sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng rất lớn, đặc biệt rủi ro tín dụng của các
TCTD Việt Nam
 Hệ thống NH luôn nằm trong tình trạng mất cân đối giữa huy động và cho vay, đe dọa an
toàn thanh khoản
Nhìn vào cơ cấu kỳ hạn huy động vốn và cho vay của các NHTM ta sẽ thấy được rủi
ro thanh khoản của các NH. Ngoại trừ các NHTM lớn có vốn huy động dài hạn, các
NHTM nhỏ hầu như không có khoản tiền gửi trên 5 năm, đa số là các khoản tiền gửi 1
tháng đến 3 tháng. Các NHTM cho vay trung và dài hạn trong khi các khoản tiền gửi của
khách hàng lại tập trung vào các kỳ hạn ngắn từ 1-3 tháng sẽ khiến các NH có thể gặp rủi
ro thanh khoản.
Trong tổng vốn huy động từ nền kinh tế đến cuối tháng 9/2011, nguồn vốn không kỳ
hạn và có kỳ hạn dưới 6 tháng chiếm đến 77,77% tổng vốn huy động từ nguồn thanh toán
(trong đó: 79,44% đối với VNĐ và 71,52% đối với ngoại tệ) làm cho nguồn vốn thiếu
tính ổn định: Trong khi đó dư nợ tín dụng trung, dài hạn lại chiếm tỉ trọng 42,4% tổng dư
nợ tín dụng (trong đó: 41,48% đối với VNĐ và 45,47% đối với ngoại tệ) dẫn đến thanh
khoản của các TCTD yếu.
 Tín dụng tập trung vào lĩnh vực bất động sản quá lớn đặt sự an toàn của hệ thống
các TCTD phụ thuộc vào thị trường bất động sản.
Theo báo cáo của các TCTD dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản đến cuối
tháng 9/2011, nếu bao gồm cả các khoản tín dụng được đảm bảo bằng bất động sản thì dư
nợ tín dụng đối với bất động sản là 1.331.032 tỷ đồng tương đương 53,3% tổng dư nợ tín
dụng. Dư nợ tín dụng đối với bất động sản lớn, song chất lượng tín dụng thấp và đang có
chiều hướng giảm do thị trường bất động sản suy giảm đang trở thành rủi ro rất lớn đối
với các TCTD. Giá trị bất động sản giảm tác động tiêu cực đến khả năng trả nợ của khách
hàng vay và giá trị tài sản đảm bảo bằng bất động sản.
 Tình trạng nợ xấu cao
Theo NHNN, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành NH đến tháng 12 năm 2011 là 3,39%, tương đương

85.300 tỷ đồng. Nếu so tỷ lệ nợ xấu công bố trên với thông lệ quốc tế, thì nợ được coi là
vẫn an toàn khi nằm trong ngưỡng không quá 5%, Tuy nhiên, theo chuẩn quốc tế, hãng
xếp hạng độc lập Fitch Rating đã đánh giá tỷ lệ nợ xấu ở Việt Nam lên tới 13% (Theo
báo Thông tin thương mại - Bộ Công thương, số ra ngày 26/12/2011).
Tốc độ tăng nợ xấu ở mức báo động, khi chỉ trong 9 tháng đầu năm 2012 đã tăng tới 66%
so với cuối năm 2011. Tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống đến cuối tháng 9 là 8,82% trên
tổng dư nợ và ước cả năm vào khoảng 8,5% - 10%. Nợ xấu có tài sản đảm bảo bằng bất
động sản và bất động sản hình thành trong tương lai chiếm đến hơn 70% tổng nợ xấu.
Nợ xấu tập trung ở nhóm các ngân hàng thương mại với 95,5% tổng nợ xấu của các
TCTD trong nước (NHTM Nhà nước chiếm 50,5%).
Tỷ lệ nợ xấu qua các năm
(data: BCTC/CafeF)
Dự phòng rủi ro không được trích lập đầy đủ tương xứng với mức độ rủi ro. Đến ngày
30/9/2011, dự phòng rủi ro (dự phòng cụ thể và dự phòng chung) sẵn có chỉ tương đương
26,67% nợ xấu (theo nợ xấu của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng), thấp hơn so với
nhiều nước. Tỉ lệ này còn thấp hơn nhiều nếu phân loại nợ theo tiêu chuẩn quốc tế.
Nếu xét ở nhóm nợ có khả năng mất vốn và NH phải trích lập dự phòng rủi ro 100%
thì 8 NH (VietinBank, Vietcombank, ACB, Sacombank, Eximbank, SHB, Habubank,
Navibank) có tỉ lệ nợ có khả năng mất vốn đến 8.293 tỉ đồng.
 Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu giảm
Mặc dù nhiều NH của Việt Nam đã đạt mức tỷ lệ đảm bảo vốn tự có tối thiểu
(Capital Adequacy Ratio “CAR”) trên 9% nhưng trên bình diện chung, tỷ lệ CAR này
cũng rất khác nhau giữa các NH. Quan trọng hơn, tỷ lệ này sẽ bị sụt giảm rất nhanh nếu
như hạch toán đúng dự phòng cho các khoản nợ NPL. Lý do là chất lượng tài sản suy
giảm làm cho chi phí dự phòng gia tăng, làm ăn mòn lợi nhuận lũy kế và từ đó giảm vốn
tự có. Đến tháng 09/2011, tỷ lệ an toàn vốn bình quân toàn hệ thống là 11,85%, trong đó:
Nhóm TCTD Việt Nam là 11,13% (NHTMNN: 8,49% - thấp hơn mức 9% theo quy định;
Ngân hàng TMCP 13,55%; Công ty Tài chính trong nước : 14,59%; công ty cho thuê tài
chính trong nước: -37,23%) và nhóm TCTD nước ngoài là 28,58%. Hệ số an toàn vốn
của các TCTD Việt Nam chưa tuân thủ đầy đủ các chuẩn mực quốc tế (Basel I) và thấp

hơn so với nhiều nước đang phát triển khác, trong khi nhiều hệ thống ngân hàng trên thế
giới có tỉ lệ an toàn vốn quốc tế (Basel II) cao hơn chuẩn mực hiện nay đang áp dụng tại
Việt Nam.
 Mức độ tập trung tín dụng đối với một số khách hàng và nhóm khách hàng liên
quan rất lớn.
Khi những khách hàng vay lớn gặp khó khăn về tài chính và kinh doanh có khả năng
gây tổn thất lớn cho TCTD. Đến cuối tháng 9/2011 dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà
nước là 415.347 tỷ đồng tương đương 16,9% tổng dư nợ tín dụng, trong đó dư nợ cho
vay 12 tập đoàn kinh tế của nhà nước là 218.738 tỷ đồng (riêng Tập đoàn Dầu khí Việt
Nam 72.300 tỷ đồng, Tập đoàn Điện lực 62.800 tỷ đồng, Tập đoàn Công nghiệp Than,
Khoáng sản 20.500 tỷ đồng và Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy 19.600 tỷ đồng) tương
đương 8,76% tổng dư nợ tín dụng toàn ngành và chiếm 52,66% dư nợ cho vay doanh
nghiệp nhà nước.
Nhiều ngân hàng có vấn đề quản trị ngân hàng rất yếu
 Nhóm lợi ích và sở hữu chéo giữa các TCTD rất lớn làm cho rủi ro hệ thống rất
cao nếu như một ngân hàng gặp khó khăn hoặc đổ vỡ.
Ngân hàng trong những năm qua là ngành có tốc độ phát triển nhanh đã thu hút các
nhà đầu tư trong nước và ngoài nước đầu tư vốn kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng.
Đặc biệt, nhiều tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước đầu tư, nắm giữ cổ phiếu và là
cổ đông lớn hoặc chủ sở hữu của ngân hàng và TCTD phi ngân hàng. Các cổ đông lớn
nắm quyền chi phối có thể biến tướng rất nhiều để cho vay những lĩnh vực rủi ro cao
hoặc cho vay chéo chính những công ty con của mình. Mặc dù NHNN có quy định rất
chặt chẽ trong việc cho vay với doanh nghiệp là cổ đông nhưng họ lại tìm cách lách luật.
Điều này dễ dẫn đến vi phạm các nguyên tắc quản trị rủi ro, xung đột lợi ích và sự an
toàn, ổn định của TCTD phụ thuộc vào các cổ đông lớn của TCTD.
 Năng lực quản trị của các TCTD còn nhiều bất cập so với quy mô, tốc độ tăng
trưởng và mức độ rủi ro trong các hoạt động.
Sự hạn chế về năng lực quản trị xuất phát chủ yếu từ vấn đề cơ cấu sở hữu, năng lực
của cổ đông và hội đồng quản trị, hội đồng thành viên và các vị trí quản lý của TCTD.
Nhiều cổ đông lớn và người đại diện cổ đông lớn tham gia các vị trí quản lý, điều hành

ngân hàng nhưng lại thiếu kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm về ngân
hàng. Hệ thống quản trị, nhất là hệ thống quả trị rủi ro, hệ thống kiểm tra, kiểm soát và
kiểm toán nội bộ của các TCTD hoạt động chưa có hiệu quả và chưa phù hợp với thông
lệ, chuẩn mực quốc tế. Chuẩn mực, chính sách; phương pháp, quy trình kinh doanh của
các TCTD nhìn chung chưa có hiệu quả cao dẫn đến chưa kiểm soát có hiệu quả những
rủi ro trọng yếu trong hoạt động của TCTD.
Các NHTMNN là nòng cốt trong hệ thống nhưng phát triển còn chậm, chưa bảo
đảm vai trò chủ đạo, chủ lực của hệ thống các TCTD và trở thành công cụ đắc lực của
Nhà nước trong việc điều tiết và bình ổn thị trường tiền tệ theo định hướng, mục tiêu của
Chính phủ trong từng thời kỳ.
 Đạo đức kinh doanh chưa cao
Cùng với năng lực quản trị yếu kém, đạo đức kinh doanh ngân hàng chưa cao làm gia
tăng mứ độ rủi ro hoạt động và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng. Cạnh tranh
trong lĩnh vực ngân hàng có nơi, có lúc trở nên quá mức, không lành mạnh, không có trật
tự, kỷ cương đã làm gia tăng rủi ro và hành vi gian lận trong hoạt động ngân hàng. Trên
thị trường tiền tệ xuất hiện biểu hiện một số TCTD có quy mô lớn lũng đoạn, thao túng
thị trường, nhất là về lãi suất và tỷ giá, trong khi một số TCTD nhỏ khác lại ngày càng bị
chi phối bởi những TCTD lớn.
Không đồng đều về quy mô của từng đơn vị lại cùng hoạt động chung
Số lượng các TCTD nhiều nhưng một bộ phận không nhỏ TCTD tiềm ẩn nhiều rủi
ro, tài chính kém lành mạnh, khả năng cạnh tranh thấp và dễ bị tổn thương khi môi
trường kinh doanh có sự thay đổi.
Theo quy định của Nghị định của Chính phủ số 141/2006/NĐ-CP các NHTM phải
đáp ứng mức vốn điều lệ tối thiểu là 3.000 tỷ đồng đến cuối năm 2010. Tính đến cuối
tháng 9/2011, 30 NHTM có vốn điều lệ dưới 5.000 tỷ đồng; 14 NHTM có tài sản dưới
30.000 tỷ đồng; 6/17 công ty tài chính có tài sản dưới 3.000 tỷ đồng và 12/13 công ty cho
thuê tài chính có vốn điều lệ dưới 500 tỉ, tài sản có dưới 2.000 tỷ đồng.
Một số NHTMCP chuyển đổi từ mô hình NHTMCP nông thôn có quy mô còn nhỏ,
năng lực tài chính yếu. NH loại nhỏ thường mới tăng vốn và tăng vốn theo quy định, vì
vậy nhu cầu mở rộng mạng lưới, tổng tài sản cũng tăng tương ứng. Rủi ro lớn của những

NH này là cho dù trụ sở chính đặt ở đâu thì cũng tập trung ở những đô thị lớn để mở chi
nhánh, phòng giao dịch. Điều này làm cho mức độ cạnh tranh rất khốc liệt và không lành
mạnh. Thay vì cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ thì các NH lại cạnh tranh bằng lãi suất,
dẫn đến các cuộc chạy đua lãi suất trong những năm gần đây. Gây ảnh hưởng rất lớn tới
mặt bằng lãi suất trên thị trường.
Một số NHTM mở rộng hoạt động sang lĩnh vực phi ngân hàng như thành lập các
công ty chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, bảo hiểm, vàng không đem lại
hiệu quả cao và làm tăng rủi ro cho NHTM, đồng thời gây khó khăn hơn cho công tác
quản lý, giám sát của các cơ quan quản lý.
2.3. Chủ trương, chính sách tái cấu trúc hệ thống NHTM của NHNN Việt Nam
 Về quan điểm
Thực hiện Cương lĩnh Đại hội lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ XI, Hội nghị Trung ương 3, ngày 9/11 Chính Phủ đã ban hành Nghị quyết số 98/NQ-
CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10/2011 trong đó nêu rõ: Chính phủ yêu cầu
NHNN chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan khẩn trương xây dựng đề án tái cơ
cấu hệ thống NHTM, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 11/2011. Và theo Thống
đốc NHNN Nguyễn Văn Bình, tái cơ cấu lại hệ thống NH là một việc cấp bách nhằm đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ giai đoạn phát triển mới, góp phần giải quyết những tồn tại vướng
mắc của hệ thống NH thời gian qua, bảo đảm hệ thống NH có đầy đủ năng lực vươn lên
đáp ứng nhiệm vụ, yêu cầu giai đoạn phát triển mới.
Như vậy tái cơ cấu nền kinh tế, tái cấu trúc lại một số lĩnh vực kinh tế trọng điểm trong
đó có hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính là chủ trương nhất quán từ đầu năm 2011
đến nay của Đảng và Nhà nước.
 Về mục tiêu và nguyên tắc
Về mục tiêu, tái cơ cấu nhằm 4 mục tiêu:
(i) Phải làm lành mạnh hệ thống NH.
(ii) Phải làm cho hệ thống NH có đủ sức cạnh tranh trong và ngoài nước, trong môi
trường thế giới hết sức biến động.
(iii) Phải cấu trúc lại cơ cấu hoạt động của hệ thống NH để đảm bảo giữa cấp tín dụng và
cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế một cách hợp lý.

(iv) Phải làm sao đáp ứng được hệ thống NH của chúng ta ngoài việc có tình hình tài
chính lành mạnh nhưng cũng phải hòa nhập và có sức cạnh tranh với quốc tế.
Về nguyên tắc, phải hết sức thận trọng, làm đến đâu chắc đến đó, đảm bảo không để xảy
ra đỗ vỡ, rối loạn và mất an toàn hoạt động NH ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ và
NHNN. Tiết giảm tối đa chi phí và tổn thất bằng cách dùng các TCTD có quy mô lớn
hơn, lành mạnh hơn tham gia vào quá trình tái cấu trúc các TCTD quy mô nhỏ trên
nguyên tắc tự nguyện và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, người đang thụ
hưởng các dịch vụ NH.
2.4. Lộ trình tiến hành
NHNN đã đưa ra lộ trình và thời gian thực hiện cụ thể như sau:
- Từ nay đến quý I/2012, phải hoàn thành xong 2 nội dung: định hình rõ 3 nhóm NH và
giải quyết tốt những vấn đề thanh khoản của những NH yếu kém. Tiêu chí phân nhóm
NH được xác định như sau:
+ Nhóm thứ nhất, gồm các NH có tình hình tài chính lành mạnh, có năng lực, có quy mô
đủ lớn để tiếp tục phát triển thành những NH làm trụ cột trong hệ thống NHTM trong
thời gian tới cũng như vươn lên đủ sức cạnh tranh với khu vực và quốc tế. Nhóm NH này
dự kiến sau 5 năm từ nay đến năm 2015 Việt Nam có khoảng 15 tổ chức tín dụng như
vậy. 15 tổ chức tín dụng này sẽ phải chiếm tới khoảng 80% thị phần hoạt động của hệ
thống NH. Trong 15 tổ chức tín dụng đó chúng ta cố gắng đạt được từ 1-2 tổ chức có tầm
cỡ của khu vực và quốc tế.
+ Nhóm thứ hai, là nhóm các NH có tình hình tài chính lành mạnh nhưng có quy mô còn
nhỏ, không có nhu cầu hoặc không có điều kiện để phát triển quy mô cao hơn nữa. Đối
với các NH loại này, NHNN sẽ có những quy định để đảm bảo quy mô hoạt động trong
tầm kiểm soát phù hợp với năng lực của tổ chức tín dụng và cũng có những quy định để
đảm bảo sự phân khúc của thị trường cho các tổ chức tín dụng này có thể phát huy được
nhưng trên nền tảng hoạt động an toàn và hiệu quả.
+ Nhóm thứ ba, là nhóm NH đang có tình hình tài chính khó khăn cần phải được tái cấu
trúc lại. Đối với nhóm các tổ chức tín dụng này, NHNN sẽ thông qua các biện pháp như
thay đổi lại cổ đông, nâng cao năng lực của cổ đông hoặc cho các tổ chức tín dụng trong
nước khác tham gia cổ đông, mua lại hoặc sáp nhập vào các tổ chức tín dụng khác. Theo

phương châm không để tổ chức tín dụng nào đổ vỡ, đảm bảo tối đa quyền lợi của người
gửi tiền và khách hàng của NH.
- Từ quý II/2012 đến hết năm 2013, sẽ hoàn thành việc tái cấu trúc lại các NH thuộc
nhóm III.
- Từ năm 2013 đến năm 2015 tập trung vào việc nâng cao các hiệu quả an toàn, việc tuân
thủ các chuẩn mực quốc tế và củng cố xây dựng. Đến năm 2015, hệ thống NH Việt Nam
sẽ tiếp tục được tái cấu trúc và khi đó số lượng các NH có khả năng tham gia cạnh tranh
trong khu vực có thể nâng lên đến 4 NH.
2.5. Tiến độ và tình hình thực hiện đến thời điểm hiện tại
Định hình rõ 3 nhóm NH và giải quyết tốt những vấn đề thanh khoản của những NH yếu
kém: Theo Lộ trình đến quý I/2012 sẽ hoàn thành.
- Về việc giải quyết các vấn đề thanh khoản của các NH yếu kém
+ Hỗ trợ thanh khoản kịp thời các NH đang có vấn đề về thanh khoản:
Trước sự thiếu hụt thanh khoản tạm thời của một số NH nhỏ, ngày 18/10/2011 NHNN
cho biết sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản nhằm đảm bảo quyền lợi người gửi tiền, an toàn của
từng tổ chức tín dụng cũng như cả hệ thống. Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (thuộc
NHNN) cho biết, dịp tết năm 2011, NHNN đã quyết định bơm một lượng tiền lớn ra thị
trường và kịp thời rút tiền về ngay sau tết thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
+ Hỗ trợ thanh khoản thông qua hệ thống NH quốc doanh và các NH cổ phần lớn trong
thị trường: Song song với việc hỗ trợ của NHNN đối với các TCTD thiếu hụt thanh
khoản, các NH lớn như BIDV, Vietinbank, Agribank,… cũng có những cam kết hỗ trợ
thanh cho các NH nhỏ khác. Điển hình như sau:
 Ngày 28/10/2011, NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cam kết hỗ trợ
trong hạn mức 3.000 tỷ đồng cho BacAbank và 5.000 tỷ đồng cho GP Bank trong lĩnh
vực nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ. Hạn mức này sẽ được điều chỉnh theo quy định và
khả năng của BIDV vào thời điểm hỗ trợ.
 Vietcombank cho biết, từ trung tuần tháng 10/2011 cho đến nay đã hỗ trợ thanh khoản
và vốn cho một số NHTM cổ phần nhỏ ở trong tình trạng rất khó khăn về thanh khoản.
- Về Công tác phân nhóm các NH:
NHNN đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống chấm điểm để xếp hạng phân

nhóm NH và NHNN sẽ thực hiện phân loại cụ thể các nhóm NH trong Quý I/2011.
Tái cấu trúc lại các NH thuộc nhóm III: Theo lộ trình sẽ thực hiện đến hết năm 2013.
- Ngày 11/02/2010, Thông tư 04/2010/TT-NHNN quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua
lại tổ chức tín dụng được NHNN ban hành. Cuối tháng 10/2011, NHNN phát đi thông
điệp khuyến khích các tổ chức tín dụng tự nguyện tìm hiểu lẫn nhau để mua lại, sáp nhập,
hợp nhất.
- Trong tháng 12/2011, đã có ba NH đầu tiên tự nguyện hợp nhất đó là NH cổ phần Đệ
Nhất (Ficombank), NH TMCP Sài Gòn (SCB) và NH TMCP Việt Nam Tín Nghĩa:
+ Trước khi hợp nhất, 3 NH này đã có những thiếu hụt thanh khoản tạm thời do cho vay
chủ yếu là trung và dài hạn, trong khi nguồn vốn huy động chủ yếu là ngắn hạn. NHNN
và một số NH khác đã hỗ trợ vốn nên tạm thời qua giai đoạn khó khăn. NHNN đã chỉ
định NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) tham gia hỗ trợ toàn diện 3 NH này ngay
từ đầu trong quá trình hợp nhất và góp phần nâng cao khả năng tài chính, quản trị kinh
doanh sau hợp nhất.
+ Sau hợp nhất, để đảm bảo yêu cầu thanh khoản, NH SCB "mới" có thể đề nghị NHNN
và BIDV cho vay khoản vay đặc biệt theo quy định của pháp luật. Về hoạt động, sau khi
hợp nhất, theo đề án, NH mới sẽ áp dụng hệ thống kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội
bộ của SCB cho SCB “mới”; hợp nhất hệ thống thông tin quản lý và hệ thống truyền dữ
liệu SmartBank tiến tới sang hệ thống Corebanking T24 hoặc Flexcube tùy tình hình thực
tế. Ngay sau thời điểm việc hợp nhất có hiệu lực, toàn bộ các lao động có ký hợp đồng
lao động với ba NH trước đó sẽ trở thành lao động của SCB “mới”.
- Thực tế hoạt động NH khá phức tạp, có nhiều quyền lợi đan xen trong nội bộ, chưa kể
cách điều hành, văn hóa của mỗi NH khác nhau. Do vậy, để việc hợp nhất thành công đòi
hỏi phải có lộ trình, thời gian thực hiện để tạo tiếng nói chung.
2.6. Ðánh giá tình hình thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
2.6.1. Những kết quả đạt được
Việc thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng manh nha từ những tháng cuối năm
2011, mạnh mẽ hơn trong năm 2012 và tiếp tục sẽ phát triển trong năm. Quá trình này đã
đạt được những kết quả sau đây:
- NHNN đã thực hiện phân loại các NHTM thành các nhóm để ấn định mức rủi ro.

Cụ thể, hệ thống NHTM Việt Nam được phân thành 3 nhóm lớn:
+ Nhóm thứ 1: gồm các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh có năng lực và
quy mô đủ lớn để tiếp tục phát triển thành những ngân hàng trụ cột, đủ sức cạnh tranh với
khu vực và quốc tế. Ước tính có khoảng 15 ngân hàng loại này chiếm khoảng 80% thị
phần hoạt động của cả hệ thống ngân hàng.
+ Nhóm thứ 2: nhóm các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh nhưng có
quy mô nhỏ, không có nhu cầu hoặc không có điều kiện phát triển quy mô cao hơn nữa.
NHNN sẽ có quy định đảm bảo giám sát chặt chẽ cũng như phân khúc thị trường để đảm
bảo cho các ngân hàng này hoạt động hiệu quả.
+ Nhóm thứ 3: nhóm ngân hàng đang có tình hình tài chính khó khăn cần phải cấu
trúc lại. NHNN sẽ tham gia giám sát chặt chẽ, yêu cầu các ngân hàng lớn sẽ tham gia
mua cổ phần, tham gia vào quản trị điều hành và cơ cấu lại các khoản mục đầu tư; mua
lại hoặc hợp nhất, sáp nhập nếu cần.
- Về tăng vốn: Từ cuối năm 2011 và trong năm 2012 đã chứng kiến nhiều sự kiện
sáp nhập, hợp nhất, mua lại trong ngành Ngân hàng. Cụ thể:
+ Ngày 01/01/2012, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (Ngân hàng hợp
nhất) chính thức đi vào hoạt động sau khi hợp nhất từ 3 ngân hàng: Ngân hàng thương
mại cổ phần Sài Gòn (SCB), Ngân hàng Ðệ Nhất (Ficombank) và Ngân hàng Việt Nam
Tín Nghĩa (TinNghiaBank).
+ Ngày 09/01/2012, Giadinhbank chính thức thay đổi hệ thống nhận diện thương
hiệu, với tên gọi mới là Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt sau khi được Quỹ Ðầu
tư Bản Việt mua lại toàn bộ.
+ Ngân hàng TienPhongBank cũng đã tự tái cơ cấu thành công hồi tháng 6/2012
sau khi tập đoàn DOJI chi tiền mua lại 20% cổ phần.
+ Ngày 28/08/2012, Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank)
chính thức sáp nhập vào Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB).
Đến cuối năm 2012, vẫn còn 4 ngân hàng là Navibank, GPBank, TrustBank,
Westernbank chưa công khai phương án tái cơ cấu. Tuy nhiên, trong năm cũng xuất hiện
một vài thông tin về việc Navibank sẽ tự tái cơ cấu
Tháng 12/2012 Thủ tướng chính phủ cũng đã đồng ý phê duyệt đề án hợp nhất

giữa Western Bank và PVFC. Ngày hôm nay (26/4/2013), tại thành phố Cần Thơ, Ngân
hàng Thương mại cổ phần Phương Tây (WESTERNBANK) đã tổ chức Đại hội đồng cổ
đông thường niên năm 2013 và thống nhất hợp nhất với PVFC. Đồng thời Ngân hàng
TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) sẽ tổ chức Đại hội đồng cổ đông thường
niên (ĐHCĐ) năm 2013. Như vậy, đây sẽ là những “phát súng” báo hiệu đầu tiên cho
chương trình tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng và sắp xếp lại các ngân hàng
thương mại yếu kém năm 2013 - vốn được cho là đang diễn ra chậm chạp so với hứa hẹn
từ cơ quan điều hành.
Ðể thực hiện mục tiêu của NHNN, nhiều ngân hàng đã chọn cách liên kết một
phần để nâng cao tiêu chuẩn chất lượng ngân hàng. Có thể kể đến một số trường hợp điển
hình sau đây:
+ Ngân hàng ACB đã ký kết biên bản ghi nhớ với ngân hàng Standard Chartered
(SCB nhằm gia tăng tiện ích cho khách hàng VIP và chủ thẻ Visa Platium của ACB. Theo
đó, khách hàng cá nhân của ACB sẽ được hưởng thêm rất nhiều quyền lợi và dịch vụ của
SCB với 9 trung tâm dịch vụ khách hàng ưu tiên tại Malaysia và 3 trung tâm dịch vụ
khách hàng ưu tiên tại Singapore.
+ Ngân hàng BIDV đã ký thỏa thuận hợp tác với hai ngân hàng GPBank và
BacABank trong các lĩnh vực nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ, tín dụng, tài trợ thương
mại, thanh toán trong nước và quốc tế, hợp đồng tài trợ, hoạt động ngân hàng bán lẻ ).
BIDV cũng đã ký thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực với SCB.
+ Sacombank đã ký kết thỏa thuận hợp tác kinh doanh toàn diện với Habubank và
MB.
+ Agribank ký thỏa thuận hợp tác chiến lược trong hỗ trợ kinh doanh với ABBank
và SCB.
Ðến cuối tháng 12/2012, các ngân hàng nhỏ nằm trong diện tái cơ cấu bắt buộc
trong năm nay đang nỗ lực lên phương án tự tái cấu trúc để tránh rơi vào trường hợp phải
sáp nhập. Trong số 9 ngân hàng thuộc diện tái cấu trúc năm 2012 thì 5 ngân hàng gồm
SCB, Ðệ Nhất, Tín Nghĩa, Habubank và Tienphongbank cơ bản đã ổn định. Bốn ngân
hàng nhỏ còn lại nằm trong diện này là GP Bank, Navibank, TrustBank và Western Bank
đang nỗ lực tìm phương án tái cấu trúc.

- Về giải quyết nợ xấu: Qua một năm thực hiện các chính sách về tái cấu trúc của
NHNN và việc giải quyết nợ xấu của ngân hàng cho đến tháng 11/2012, NHNN đã giải
quyết 252.000 tỷ đồng nợ được cơ cấu lại, tương ứng 8% dư nợ tín dụng. Cùng với
những nỗ lực của NHNN thì các ngân hàng cũng đã hy sinh ngắn hạn trong việc giảm lợi
nhuận để tăng dự phòng rủi ro và xử lý nợ xấu, đến nay các ngân hàng đã xử lý được
39.000 tỷ nợ xấu. Chẳng hạn, Vietcombank đã phải trích lập 1.088 tỷ đồng khiến lợi
nhuận quí II/2012 chỉ còn 1.124 tỷ đồng, giảm 10% so với quí II/2011. Tương tự,
Vietinbank đã trích lập dự phòng 1.453 tỷ đồng nên lãi sau thuế quí II/2012 chỉ còn 5.645
tỷ đồng, giảm 70% so với cùng kỳ năm trước. Eximbank và ACB cũng phải trích lập dự
phòng lớn khiến cho lợi nhuận bị suy giảm đáng kể. Việc thực hiện giải quyết nợ xấu của
ngân hàng là đúng đắn và điều này được thể hiện rõ khi chưa có quyết định, chỉ thị để cơ
cấu nợ, khắc phục xử lý nợ xấu, tốc độ tăng của nợ xấu lên tới 8% - 9% mỗi tháng, nhưng
cho đến nay, nợ xấu chỉ tăng trung bình 3% một tháng. Bên cạnh chủ động xử lý nợ xấu
bằng trích lập dự phòng, các NHTM đã tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp và tăng cường
quản trị rủi ro tín dụng, mua, bán nợ thông qua công ty mua, bán nợ của các ngân hàng và
công ty mua, bán nợ của Bộ Tài chính.
- Về thanh khoản: Năm 2012, vấn đề thanh khoản của toàn hệ thống ngân hàng đã
được củng cố và ổn định. Ðiều này được thể hiện dựa trên các dấu hiệu sau đây: (i) Lãi
suất trên thị trường liên ngân hàng khá ổn định và giảm mạnh từ mức trên 20% xuống
còn 10% - 12% tùy thuộc vào kỳ hạn, đặc biệt các giao dịch qua đêm đã tạm thời lắng
dịu; (ii) Không có dấu hiệu sụt giảm tiền gửi trong khi các kênh đầu tư khác như bất động
sản, chứng khoán đang yên ắng; (iii) Thị trường không xuất hiện các cuộc đua lãi suất
huy động tiền gửi công khai.

×