Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

các giải pháp hoàn thiện hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần thực phẩm và nước giải khát dona newtower – chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.26 KB, 47 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường bất cứ một doanh nghiệp công nghiệp nào
khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đều xuất phát từ yêu cầu
của thị trường, nhằm trả lời được 3 câu hỏi cơ bản “Cái gì, như thế nào, cho
ai”. Thị trường vừa được coi là điểm xuất phát cũng vừa là điểm kết thúc của
quá trình sản xuất kinh doanh, là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng. Có thể
nói một doanh nghiệp chỉ làm ăn có hiệu quả khi nó xuất phát từ thị trường,
tận dụng một cách năng động, linh hoạt những cơ hội trên thị trường. Hay nói
cách khác, thông qua thị trường sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp được
tiêu thụ, giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn
ra một cách liên tục trên cơ sở thực hiện được các mục tiêu đã đề ra. Vì thế
mở rộng thị trường được coi là một trong những nhiệm vụ cơ bản và lâu dài
của doanh nghiệp, đặc biệt trong quá trình hội nhập của nền kinh tế đất nước
với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên hoạt động trong cơ chế thị trường cũng
đồng nghĩa với việc phải luôn luôn đối mặt với các rủi ro thách thức trong quá
trình cạnh khốc liệt. Để mở rộng thị trường một cách có hiệu quả, trước hết
doanh nghiệp cần nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng nhận thức về thị
trường. Tiếp đó doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu môi trường và
khách hàng, sử dụng các thông tin, dữ liệu đó để phán đoán thị trường lựa
chọn thị trường mục tiêu, lập kế hoạch chiến lược kinh doanh, kế hoạch duy
trì thị trường cũ, chiếm lĩnh thị trường mới. Sau cùng là triển khai thực hiện
kế hoạch thông qua 4 công cụ (sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến hỗn
hợp).
Trong tình hình thực tế hiện nay cùng với sự khó khăn về mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và của
chi nhánh công ty nói riêng như về: khả năng nhận thức, tiềm lực tài chính,
1
kinh nghiệm, chất lượng nguyên vật liệu và khả năng cạnh tranh của chính
sản phẩm đã gặp phải không ít khó khăn. Xuất phát từ vai trò của thị trường


và tình hình thực tế nêu trên em xin đã chọn đề tài: “ Các giải pháp hoàn
thiện hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần
thực phẩm và nước giải khát Dona Newtower – Chi nhánh Hà nội”. Làm
báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời nói đầu và phần kết luận, nội dung chính của báo cáo thực tập
tốt nghiệp được trình bày trong ba chương:
Chương I : Tổng quan chung về thị trường tiêu thụ sản phẩm và mở rộng
thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
Chương II : Thực trạng hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
của Công ty cổ phần thực phẩm và nước giải khát Dona Newtower – Chi
nhánh Hà nội
Chương III : Các giải pháp hoàn thiện hoạt động mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm của Công ty cổ phần thực phẩm và nước giải khát Dona
Newtower – Chi nhành Hà nội
Trong quá trình thực tập và thực hiện đề tài này em đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của Cô giáo ThS Lê Thị Thu và cùng toàn thể
các anh chị trong Chi nhánh công ty. Tuy nhiên do thời gian cũng như lượng
kiến thức còn hạn chế nên báo cáo không tránh khỏi những thiếu sót nhất
định. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các anh chị trong công ty và
thầy cô giáo để báo cáo được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Cô giáo ThS Lê
Thị Thu và các Anh Chị trong Công ty đã giúp đỡ em hoàn thành báo cáo
thực tập tốt nghiệp này.
Hà Nội , ngày 10 tháng 01 năm 2011.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Huyền Trang
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM
VÀ HOẠT ĐỘNG MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ

SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP
I. Tổng quan về thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
1. Khái niệm tiêu thụ sản phẩm và thị trường tiêu thụ sản phẩm
1.1. Khái niệm tiêu thụ sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm để
bán nhằm thu lợi nhuận. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi sản phẩm,
hàng hóa được tiêu thụ. Tiêu thụ hàng hóa ngày càng trở nên quan trọng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, mỗi nền kinh tế. Có
nhiều quan niệm khác nhau về tiêu thụ sản phẩm, tùy theo góc độ nghiên cứu
và mục đích nghiên cứu khác nhau mà người ta đưa ra có một khái niệm được
nêu:
Dưới góc độ kinh doanh: “Tiêu thụ sản phẩm là tổng thể các biện pháp
về tổ chức kinh tế và kế hoạch nhằm thực hiện việc nghiên cứu và nắm bắt
nhu cầu thị trường. Nó bao gồm các hoạt động: tạo nguồn, chuẩn bị hàng hóa,
tổ chức mạng lưới bán hàng cho đến dịch vụ sau bán hàng”.
1.2.Khái niệm thị trường tiêu thụ sản phẩm
Dựa vào căn cứ phân chia khác nhau có thể chia thành các loại thị trường
khác nhau. Đối với doanh nghiệp, thị trường của doanh nghiệp bao gồm: thị
trường đầu vào, thị trường đầu ra. Thị trường đầu vào liên quan tới các khả
năng và các yếu tố ảnh hưởng tới nguồn cung cấp đầu vào của doanh nghiêp.
Thị trường đầu ra của doanh nghiệp chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp.
“Thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là nơi có sự tham gia
3
của các khách hàng và doanh nghiệp, thông qua đó phản ánh tình hình cung
cầu của những loại hàng hóa mà doanh nghiệp sản xuất ra”
2. Phân loại thị trường tiêu thụ sản phẩm
Nhờ việc phân loại thị trường đúng đắn, doanh nghiệp có thể biết được
những đặc điểm chủ yếu ở lĩnh vực của mình, từ đó doanh nghiệp sẽ định
hướng đúng đắn được về chiến lược thị trường, xác định được những phương

thức ứng xử cho phù hợp, đạt hiệu quả cao và tăng cường thế lực trên thị
trường. Có thể phân loại thị trường theo nhiều tiêu chí khác nhau. Dưới đây
có 3 tiêu chí phân loại chủ yếu:
2.1. Theo phạm vi địa lý
Với tiêu chí phân loại là phạm vi địa lý, thị trường tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp được chia làm 2 loại:
- Thị trường trong nước:
Thị trường trong nước là thị trường mà ở đó diễn ra hoạt động mua bán
hàng hóa của những người trong phạm vi hoạt động một quốc gia và các quan
hệ kinh tế diễn ra trong mua bán qua đồng tiền quốc gia, chỉ có liên quan đến
các vấn đề kinh tế, chính trị trong một nước.
- Thị trường nước ngoài:
Thị trường nước ngoài là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa giữa
các nước với nhau thông qua tiền tệ quốc tế. Các quan hệ kinh tế diễn ra trên
thị trường thế giới ảnh hưởng trực tiếp tới việc phát triển kinh tế ở mỗi nước.
Phân biệt thị trường trong nước và nước ngoài không ở phạm vi biên giới
mỗi nước mà chủ yếu ở người mua và người bán với phương thức thanh toán
và loại giá áp dụng, các quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường. Với sự phát
triển của kinh tế, của khoa học kỹ thuật và sự phân công lao động thế giới,
kinh tế mỗi nước trở thành một mắt xích của hệ thống kinh tế thế giới, do đó
thị trường trong nước có quan hệ mật thiết với thị trường nước ngoài. Việc dự
4
báo đúng sự tác động của thị trường nước ngoài đối với thị trường trong nước
là sự cần thiết và cũng là nhân tố tạo ra sự thành công đối với mỗi nhà kinh
doanh.
2.2. Theo đặc điểm của thị trường
Với tiêu chí phân loại theo đặc điểm của thị trường, thị trường tiêu thụ
sản phẩm của doanh nghiệp được chia làm 2 loại:
- Thị trường bán buôn:
Thị trường bán buôn là thị trường trong đó người bán bán cho những

người trung gian, để họ tiếp tục chuyển bán. Đặc điểm của bán buôn là khối
lượng hàng hóa lớn và không đa dạng, hàng hóa sau khi bán vẫn còn nằm
trong khâu lưu thông, chưa đến tay người tiêu dùng. Ưu điểm: thu hồi vốn
nhanh, có điều kiện nhanh chóng đổi mới hoạt động kinh doanh. Nhược điểm
cơ bản là cách biệt với người tiêu dùng nên chậm nắm bắt nhu cầu, thị hiếu
của thị trường.
- Thị trường bán lẻ:
Thị trường bán lẻ là thị trường trong đó người bán hàng trực tiếp cho
người tiêu dùng, thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Đặc điểm của thị trường này là
khối lượng bán thường nhỏ, chủng loại phong phú, hàng bán sau khi đi vào
tiêu dùng cá nhân tức là đã được xã hội thựa nhận. Thị trường này có ưu điểm
là doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với người tiêu dùng nên dễ nắm bắt
được nhu cầu, thị hiếu. Nhược điểm của thị trường này là thu hồi vốn chậm,
doanh nghiệp có thể phải đầu tư lớn cho hệ thống bán lẻ giao dịch trên thị
trường.
2.3. Theo sản phẩm
Thị trường sản phẩm bao gồm nhiều thị trường bộ phận khác nhau. Điển
hình của loại thị trường này là thị trường các yếu tố sản xuất và thị trường
hàng tiêu dùng.
5
- Thị trường các yếu tố sản xuất (lao động, đất đai, tư bản):
Người mua chủ yếu là các đơn vị sản xuất kinh doanh, số lượng có hạn,
phân bổ ở các địa điểm xác định, nhu cầu biến động chậm. Người bán ở thị
trường này thường là các gia đình, cá nhân hoặc cũng có thể là các doanh
nghiệp.
- Thị trường hàng tiêu dùng:
Có số lượng người mua rất đông và nhu cầu đa dạng, diễn biến của nhu
cầu phức tạp và có đòi hỏi cao, có sự khác nhau giữa các vùng và giữa các
tầng lớp khách hàng khác nhau. Người bán thường là đơn vị sản xuất kinh
doanh, họ cạnh tranh với nhau rất gay gắt. Nhìn chung, cả cung và cầu ở thị

trường này đều biến động nhanh đòi hỏi các nhà kinh doanh phải có khả năng
thích ứng cao.
3. Quá trình xác định thị trường tiêu thụ sản phẩm
Quá trình xác định thị trường tiêu thụ sản phẩm cần có các bước sau:
3.1. Nghiên cứu sản phẩm
Nghiên cứu sản phẩm nhằm đáp ứng một trong những yêu cầu quan
trọng nhất của Marketing là chỉ sản xuất những sản phẩm mà thị trường cần
chứ không phải sản xuất những gì doanh nghiệp có thể sản xuất được. Nghiên
cứu sản phẩm bao gồm những nội dung: Chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh
tranh của sản phẩm.
* Chất lượng sản phẩm
Chất lượng bao gồm các chỉ tiêu thuần túy có tính chất kỹ thuật. Nó xác
định những đặc tính của sản phẩm và quy định khả năng thỏa mãn nhu cầu
nào của người tiêu dùng. Sản phẩm thỏa mãn được nhu cầu thì không thể
không có chất lượng. Nghiên cứu chất lượng sản phẩm phải gắn với yêu cầu
tiêu dùng đòi hỏi những khía cạnh chất lượng nào của sản phẩm.
6
* Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Không nên đồng nhất hai khái niệm chất lượng và năng lực cạnh tranh
của sản phẩm, tuy chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Như trên đã nói,
chất lượng sản phẩm bao hàm các chỉ tiêu có tính chất kỹ thuật thuần túy.
Trong khi đó năng lực cạnh tranh của hàng hóa, ngoài các chỉ tiêu kỹ thuật
còn có các chỉ tiêu kinh tế khác. Ví dụ như giá, dịch vụ kèm theo, điều kiện sử
dụng, Nói cách khác năng lực cạnh tranh của sản phẩm bao gồm các chỉ tiêu
thuần túy có lợi cho người tiêu dùng và do người tiêu dùng quyết định.
Đương nhiên một sản phẩm muốn có năng cạnh tranh thì trước hết phải có
chất lượng. Nhưng một sản phẩm có chất lượng chưa chắc đã có năng lực
cạnh tranh. Và có thể hai hay một vài sản phẩm có chất lượng như nhau
nhưng năng lực cạnh tranh lại có thể khác nhau vì những chỉ tiêu đi kèm theo
ngoài các chỉ tiêu kỹ thuật.

3.2. Xác định thị trường mục tiêu
Để xác định được thị trường mục tiêu thì trước hết doanh nghiệp phải
xác định rõ xem khách hàng của mình là ai. Khách hàng của doanh nghiệp có
thể là:
- Những người tiêu dùng cuối cùng và gia đình của họ. Những người này
tìm kiếm trên thị trường những hàng hóa tiêu dùng hoặc dịch vụ tiêu dùng để
thỏa mãn nhu cầu cá nhân hay gia đình họ. Đây là loại khách hàng có số
lượng đông nhất trên thị trường, nhu cầu về thị hiếu của họ rất đa dạng.
- Những nhà buôn bao gồm những người bán buôn, bán lẻ trên thị
trường. Những người này mua hàng hóa của doanh nghiệp để bán lại cho
người tiêu dùng, chênh lệch giữa giá mua và giá bán trong hoạt động kinh
doanh tạo ra nguồn thu của các nhà buôn này. Những khách hàng trung gian
này là cầu nối rất quan trọng giúp các nhà sản xuất đáp ứng nhu cầu của
người tiêu dùng và thu được lợi nhuận mong muốn.
7
- Những nhà sản xuất, nếu doanh nghiệp kinh doanh các sản phẩm thuộc
nhóm tư liệu sản xuất như máy, thiết bị, nguyên liệu hoặc các sản phẩm trung
gian (ví dụ vòng bi công nghiệp) hay các dịch vụ sản xuất. Những khách loại
này mua sản phẩm của doanh nghiệp để tiếp tục quá trình sản xuất của mình.
- Những cơ quan thuộc bộ máy nhà nước như các văn phòng, công sở,
viện nghiên cứu, trường học, bệnh viện Những bộ phận này trong quá trình
hoạt động của mình cũng có những nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng
hoặc những hàng hóa thuộc nhóm tư liệu sản xuất. Những nhu cầu ở đây được
thỏa mãn phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, được thực hiện dưới dạng mua
sắm của chính phủ.
- Những nhà nhập khẩu nước ngoài. Những khách hàng này nhập khẩu
hàng hóa của doanh nghiệp về nhằm nhiều mục đích khác nhau.
Sau khi đã xác định được khách hàng của mình là ai rồi thì doanh nghiệp
lựa chọn và hướng tới để cung cấp những hàng hóa, dịch vụ nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh doanh của mình, đó là thị trường thích hợp nhất đối với

tiềm năng của doanh nghiêp và hy vọng sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao
đó là chính là thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp cần xác định.
3.3. Chính sách giá bán
Việc định ra chính sách giá bán linh hoạt, phù hợp với cung cầu trên thị
trường sẽ giúp doanh nghiệp đạt được các mục tiêu kinh doanh của mình như:
tối đa hóa lợi nhuận, tối đa hóa lượng tiêu thụ hoặc thâm nhập và mở rộng thị
trường bởi vậy, chính sách giá của doanh nghiệp phù hợp với xu thế thị
trường sẽ có tác dụng tốt đến sự phát triển của doanh nghiệp ở hiện tại cũng
như trong tương lai. Chính sách giá hướng chủ yếu vào các vấn đề sau:
- Xác định các giới hạn và độ linh hoạt cần thiết
- Các chính sách định giá bán
8
3.4. Tổ chức các kênh tiêu thụ sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường, việc tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng
nhiều kênh khác nhau, theo đó các sản phẩm được bán và vận động từ các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đến tận tay người tiêu dùng.
Mặt khác cũng có rất nhiều hình thức tiêu thụ nhưng đại đa số các sản là
những máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng trong quá trình tiêu
thụ, nói chung đều thông qua một số kênh chủ yếu. Việc thực hiện kế hoạch
tiêu thụ sản phẩm được thông qua 2 hình thức, đó là tiêu thụ trực tiếp và tiêu
thụ gián tiếp. Hai hình thức này hình thành nên các kênh tiêu thụ sản phẩm.
Trong mỗi kênh đều có ưu và nhược điểm riêng, do vậy việc lựa chọn kênh
tiêu thụ nào cho phù hợp là phụ thuộc vào quy mô, uy tín, mặt hàng của
doanh nghiệp.
4. Các chỉ tiêu đánh giá thị trường tiêu thụ sản phẩm
Một số chỉ tiêu đánh giá thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
như sau:
4.1. Chất lượng sản phẩm hàng hóa
Chất lượng sản phẩm hàng hóa là tổng hợp các tính chất hàng hóa mà từ
đó hàng hóa có công dụng nhất định. Chất lượng sản phẩm là điều kiện sống

còn của doanh nghiệp. Để có thể đứng vững và vươn lên cạnh tranh, doanh
nghiệp phải không ngừng tìm mọi biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm.
Việc nâng cao chất lượng sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp là công
việc rất quan trọng của các nhà kinh doanh và ảnh hưởng to lớn đến khối
lượng tiêu thụ. Khi mà sản phẩm của doanh nghiệp đạt chất lượng tốt thì sản
phẩm sẽ có uy tín trên thị trường, khối lượng tiêu thụ tăng nhanh và rút ngắn
chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp.
4.2. Giá bán sản phẩm
Giá bán là một nhân tố có ảnh hưởng không ít đến khối lượng sản phẩm
9
hàng hóa tiêu thụ (xét cả về mặt giá trị và hiện vật), ảnh hưởng đến lợi nhuận
của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường thì giá cả bán sản phẩm hàng hóa là do từng
đơn vị sản phẩm kinh doanh định đoạt. Nhìn chung giá bán của đơn vị hàng
hóa cao thì khối lượng tiêu thụ giảm và ngược lại. Trong điều kiện bình
thường, giá cả và lượng hàng hóa tiêu thụ có quan hệ ngược chiều nhau. Khối
lượng hàng hóa thay đổi nhiều hay ít phụ thuộc vào mức độ đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của hàng hóa.
4.3. Khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng luôn là những "ông vua" của
nhu cầu, mức tiêu thụ, thói quen, tập tính sinh hoạt, phong tục của người
tiêu dùng là những nhân tố tác động trực tiếp đến chất lượng hàng tiêu thụ.
Trong đó, mức thu nhập của khách hàng có tính chất quyết định lượng hàng
mua. Thông thường, khi thu nhập tăng lên thì nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của
khách hàng tăng lên.
II. Tổng quan về hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp
1. Khái niệm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
Trong kinh doanh tất cả chỉ có ý nghĩa khi tiêu thụ được sản phẩm. Thực
tế là những sản phẩm dịch vụ đã đạt được thành công và hiệu quả trên thị

trường thì giờ đây không có gì để đảm bảo rằng doanh nghiệp sẽ tiếp tục đạt
được thành công và hiệu quả hơn nữa. Bởi không có một hệ thống chính sách
nào tồn tại vĩnh viễn và do đó việc tiến hành xem xét lại những chính sách,
sản phẩm, hoạt động quảng cáo, khuyếch trương là cần thiết. Thị trường thay
đổi, nhu cầu của khách hàng biến động và những hoạt động cạnh tranh sẽ đem
lại những trở ngại lớn đối với những tiến bộ mà doanh nghiệp sẽ đạt được. Sự
phát triển không tự dưng mà có, nó bắt nguồn từ việc tăng chất lượng sản
10
phẩm và áp dụng những chiến bán hàng một cách có hiệu quả trong cạnh
tranh.
“ Mở rộng thị trường là hoạt động phát triển đến nhu cầu tối thiểu của
người tiêu dùng bằng cách tấn công vào khách hàng đầy đủ, tức là những
người không mua tất cả sản phẩm của doanh nghiệp cũng như của những
người cạnh tranh”
Biết được biến động của thị trường và chu kì sống có hạn của hầu hết các
sản phẩm là điều cốt tử đảm bảo cho sự phát triển trước mắt cũng như triển
vọng lâu dài. Kế hoạch mở rộng phải được vạch ra một cách thận trọng để
tránh đầu tư quá mức vào thiết bị và nhân lực, những yếu tố này sẽ đè nặng
lên công ty khi thị trường suy thoái.
2. Sự cần thiết mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
Hoạt động mở rộng thị trường là một trong những tác động Marketing
nhằm mở rộng phạm vi thị trường cũng như phạm vi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Hoạt động mở rộng thị trường là sự cần thiết trong việc
thiết lập và mở rộng hệ thống tiêu thụ và sản xuất các chủng loại sản phẩm
của doanh nghiệp với mục tiêu lợi nhuận và duy trì ưu thế cạnh tranh.
Mở rộng thị trường còn là sự cần thiết trong việc nâng cao năng lực, kĩ
năng và chất lượng lao động mà đặc biệt là đội ngũ nhân viên bán hàng. Các
nhân viên tiếp thị và bán hàng được coi như đội ngũ thống nhất, năng động và
tháo vát, những ý kiến, sức mạnh, đôi khi khả năng chịu đựng hay phản ứng
của họ sẽ là một yếu tố chủ đạo cho sự phát triển thành công và hữu ích của

dự án tiêu thụ hay mở rộng thị trường.
Hoạt động mở rộng thị trường sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có vị trí
ngày càng ổn định. Nâng cao uy tín sản phẩm của doanh nghiệp và trên cơ sở
đó thị trường hiện có mang tính ổn định. Mặt khác, trên thị trường lúc nào
cũng có sự cạnh tranh quyết liệt của nhiều doanh nghiệp khác nhau cùng sản
11
xuất và tiêu thụ một hay số loại mặt hàng. Lẽ đương nhiên doanh nghiệp nào
cũng phải tìm cách dành những điều kiền thuận lợi nhất để sản xuất và tiêu
thụ. Mở rộng thị trường sẽ tạo ra động lực thúc đẩy chiến thắng trong cạnh
tranh, nâng cao số lượng sản phẩm bán ra.
3. Các cách thức mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
Có hai cách thức mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm đó là: mở rộng thị
trường theo chiều rộng và theo chiều sâu.
Mở rộng thị trường theo chiều rộng:
Mở rộng thị trường theo chiều rộng tức là doanh nghiệp cố gắng mở rộng
phạm vi thị trường, tìm kiếm thêm những thị trường mới nhằm tăng khả năng
tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh số bán, tăng lợi nhuận. Phương thức này
thường được các doanh nghiệp sử dụng khi thị trường hiện tại bắt đầu có xu
hướng bão hòa. Sau đây là một số tiêu thức thực hiện mở rộng thị trường theo
chiều rộng:
Xét theo tiêu thức địa lý, mở rộng thị trường theo chiều rộng được hiểu
là việc doanh nghiệp mở rộng địa bàn hoạt động kinh doanh, tăng cường sự
hiện diện của mình trên các địa bàn mới bằng các sản phẩm hiện tại. Doanh
nghiệp tìm cách khai thác những địa điểm mới và đáp ứng nhu cầu của khách
hàng trên thị trường này. Mục đích của doanh nghiệp là để thu hút thêm
khách hàng đồng thời quảng bá sản phẩm của mình đến người tiêu dùng ở
những địa điểm mới.
Xét theo tiêu thức sản phẩm, mở rộng thị trường theo chiều rộng tức là
doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm mới trên thị trường hiện tại (thực chất là phát
triển sản phẩm). Doanh nghiệp luôn đưa ra những sản phẩm mới có tính năng,

nhãn hiệu, bao bì phù hợp với người tiêu dùng khiến họ có mong muốn tiếp
tục sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp.
Xét theo tiêu thức khách hàng, mở rộng thị trường theo chiều rộng đồng
12
nghĩa với doanh nghiệp kích thích, khuyến khích nhiều nhóm khách hàng tiêu
dùng sản phẩm của doanh nghiệp.
Mở rộng thị trường theo chiều sâu:
Mở rộng thị trường theo chiều sâu tức là doanh nghiệp phải tăng được số
lượng sản phẩm tiêu thụ trên thị trường hiện tại. Tuy nhiên, hướng phát triển
này thường chịu ảnh hưởng bởi sức mua và địa lý nên doanh nghiệp phải xem
xét đến quy mô của thị trường hiện tại, thu nhập của dân cư cũng như chi phí
cho việc quảng cáo, thu hút khách hàng để đảm bảo cho sự thành công của
công tác mở rộng thị trường.
Xét theo tiêu thức địa lý, mở rộng thị trường theo chiều sâu tức là doanh
nghiệp phải tăng số lượng sản phẩm tiêu thụ trên địa bàn thị trường hiện tại.
Trên thị trường hiện tại của doanh nghiệp có thể có các đối thủ cạnh tranh
đang cùng chia sẻ khách hàng hoặc có những khách hàng hoàn toàn mới chưa
hề biết đến sản phẩm của doanh nghiệp. Việc mở rộng thị trường của doanh
nghiệp theo hướng này là tập trung giải quyết hai vấn đề: một là quảng cáo,
chào bán sản phẩm tới những khách hàng tiềm năng, hai là chiếm lĩnh thị
trường của đối thủ cạnh tranh.
Xét theo tiêu thức sản phẩm, mở rộng thị trường theo chiều sâu có nghĩa
là doanh nghiệp tăng cường tối đa việc tiêu thụ một số sản phẩm nhất định
nào đó. Để làm tốt công tác này doanh nghiệp phải xác định được lĩnh vực,
nhóm hàng, thậm chí là một sản phẩm cụ thể mà doanh nghiệp có lợi thế nhất
để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Xét theo tiêu thức khách hàng, mở rộng thị trường theo chiều sâu ở đây
đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải tập trung nỗ lực để bán thêm sản phẩm
của mình cho một nhóm khách hàng. Thông thường khách hàng có nhiều sự
lựa chọn khác nhau, nhiệm vụ của doanh nghiệp lúc này là luôn hướng họ tới

các sản phẩm của doanh nghiệp khi họ có dự định mua hàng, thông qua việc
13
thảo mãn tối đa nhu cầu tiêu dùng của khách hàng để gắn chặt khách hàng với
doanh nghiệp và biến họ thành đội ngũ khách hàng “trung thành” của doanh
nghiệp.
4. Quá trình mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
4.1. Lập kế hoạch trước cho chiến lược tiêu thụ
Hoạch định tiêu thụ một cách kĩ lưỡng và chi tiết là điều quan trọng đảm
bảo cho việc thâm nhập thị trường. Việc lập kế hoạch trước, thu thập thông
tin là điều kiện sống còn. Những chiến lược tiêu thụ phải được thiết lập để chỉ
dẫn chi nhánh và đội ngũ bán hàng, tiếp thị đi theo con đường ngắn nhất đến
thành công. Tính sáng tạo trong chuẩn bị chiến lược tiêu thụ tạo ra sự chú ý
của khách hàng và sự nhiệt tình của người bán. Cần phải bộc lộ những quan
điểm tiêu thụ độc đáo. Khó có thể chờ đợi sự quan tâm nhiệt tình của người
mua đối với sản phẩm nếu chiến lược tiêu thụ thiếu tính sáng tạo. Bởi nó là
động lực của tiến bộ và là giá trị của thắng lợi. Chiến lược tiêu thụ là công cụ
chỉ đạo cần thiết trong việc tìm kiếm thị phần, mở rộng thị trường. Chiến lược
tiêu thụ phải linh hoạt để giúp cho công ty đáp ứng nhanh nhậy nhất với nhu
cầu của thị trường.
4.2. Chiếm chỗ tối ưu trên thị trường thông qua định giá đích thực
Xác định giá cả sản phẩm đòi hỏi phải chiếm chỗ tối ưu trên thị trường
nhằm tăng tối đa lợi nhuận quy mô tiêu thụ thành công và có lợi. Người mua
luôn mong muốn đạt được chất lượng tối đa với giá rẻ nhất, trong khi đó nhà sản
xuất một mặt phải đáp ứng yêu cầu chất lượng, mặt khác phải đưa ra cơ cấu đảm
bảo bù đắp tất cả các chi phí hoạt động, kể cả chi phí nghiên cứu phát triển, đồng
thời tạo ra một mức lợi nhuận ít nhất có thể chấp nhận được. Đáp ứng nhu cầu
mua tức là việc xác định giá cả hợp lý và tính độc nhất của sản phẩm sẽ giúp
doanh nghiệp dồn những kẻ có ý định bắt chước sản phẩm với mức giá rẻ hơn
vào bức đường cùng, khẳng định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
14

4.3. Lôi kéo những khách hàng truyền thống của đối thủ cạnh tranh
Rất nhiều khách hàng từ chối xem những nguồn cung cấp khác, chỉ vì sự
ngoan cố và sợ phải thay đổi từ nhà cung cấp quen biết sang nhà cung cấp
không quen biết. Việc thuyết phục những khách hàng không khoan nhượng có
thể khó khăn nhưng hoàn toàn có khả năng.
4.4. Hoạt động tiếp thị quảng cáo
Nếu người bán loại bỏ các bí mật và phát triển mối quan hệ cởi mở với
khách hàng thị sự tín nhiệm của khách hàng với doanh nghiệp sẽ tăng lên và
nhưng cơ hội cho các đối thủ xâu xé thị phần thị trường sẽ giảm được tối đa.
Quảng cáo là một bộ phận quan trọng không thể tách rời trong khâu tiếp thị,
giúp cho chiến dịch tìm kiếm kinh doanh được tổ chức.
5. Các biện pháp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
Có 2 biện pháp cơ bản mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp là mở rộng thị trường theo chiều rộng và chiều sâu.
5.1. Đối với mở rộng thị trường theo chiều rộng
Mở rộng phạm vi địa lý của thị trường
Mỗi một doanh nghiệp luôn luôn mong muốn tìm được những thị trường
mới để cho khối lượng hàng hóa tiêu thụ ngày càng cao, để doanh số bán
hàng ngày càng cao. Doanh nghiệp cần phải tìm kiếm những thị trường mới
mà nhu cầu của những thị trường đó có thể đáp ứng được bằng những sản
phẩm hiện có của mình.
Các biện pháp mở rộng phạm vi địa lý của thị trường:
- Nâng cao chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một yêu cầu quan trọng đối với tất cả các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh. Ngày nay chất lượng sản phẩm được đánh giá
không chỉ căn cứ vào các yếu tố vật chất (giá trị sử dụng). Do vậy, các doanh
nghiệp cũng cần chú ý đến việc nâng cao hình thức của sản phẩm như: nhãn
15
mác, bao bì biểu trưng, tên gọi sản phẩm, Đây là một vấn đề có nghĩa vô
cùng quan trọng giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm.

- Xây dựng chính sách giá hợp lý
Chính xách giá cả bao gồm các hoạt động các giải pháp nhằm đề ra một
hệ thống các mức giá phù hợp với từng vùng thị trường và khách hàng. Chính
sách giá của doanh nghiệp không được quy định cứng nhắc, việc định giá hết
sức khó khăn phức tạp. Nó thực sự là một khoa học, nghệ thuật đòi hỏi phải
khôn khéo, linh hoạt và mềm dẻo sao cho phù hợp với thị trường, bảo đảm
trang trải các chi phí và có lãi.
Chính sách giá cả có tác động to lớn và là nhân tố ảnh hưởng quan trọng
kích thích từng loại cầu hàng hóa phát triển.
- Tổ chức kênh phân phối hợp lý
Kênh phân phối là sự kết hợp hữu cơ giữa người sản xuất với trung gian
để tổ chức vận động hàng hóa hợp lý nhất nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của
khách hàng cuối cùng. Việc tổ chức các kênh phân phối hợp lý là một trong
những nội dung quan trọng của công tác bán hàng, giúp doanh nghiệp nâng
cao khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Các doanh nghiệp có thể xây dựng và xác
định xem mình nên chọn kênh phân phối nào: Kênh trực tiếp ngắn hay dài?
Kênh gián tiếp ngắn hay dài? Để từ đó giúp cho quá trình vận động của hàng
hóa nhanh, tiết kiệm chi phí và thu được lợi nhuận tối đa.
Để thực hiện việc mở rộng thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải đi tìm
các thị trường mới để tiêu thụ sản phẩm hiện có tức là tìm kiếm những người
tiêu dùng mới ở các thị trường chưa thâm nhập. Việc tìm kiếm thị trường mục
tiêu mới cũng là biện pháp để mở rộng thị trường. Cách làm này bao hàm cả
việc tìm kiếm các nhóm đối tượng khách hàng mục tiêu hoàn toàn mới ngay
trên cả thị trường hiện tại. Sau khi mở rộng được thị trường mới, doanh
nghiệp có khả năng đáp ứng, phát triển các kênh phân phối mới, tìm ra các giá
16
trị sử dụng mới và phong phú hơn để tạo điều kiện phát triển thị trường mới
và tăng số lượng khách hàng sử dụng. Mỗi công dụng mới của sản phẩm có
thể tạo ra một thị trường hoàn toàn mới. Mở rộng phạm vi địa lý của thị
trường, nó đòi hỏi công tác nghiên cứu thị trường mới phải chặt chẽ, cẩn thận

tỷ mỷ vì thị trường hàng hóa đấy biến động và tiêu dùng ngày càng cao.
5.2. Đối với mở rộng thị trường theo chiều sâu
Tăng thị phần của doanh nghiệp:
Thị phần của doanh nghiệp là tỷ phần tham gia thị trường ngành hàng
của tổng sản lượng hay doanh số bán mà doanh nghiệp xâm nhập được trong
kỳ. Số liệu thị phần được dùng để đo lường mức độ về sự tập trung của người
bán trong một thị trường.
Mở rộng thị trường trên góc độ tăng thị phần nghĩa là dùng nhiều biện
pháp để lôi kéo thêm khách hàng (có thể là khách hàng tiềm ẩn hay khách
hàng của đối thủ cạnh tranh). Mỗi doanh nghiệp cũng có thể đặt câu hỏi liệu
với nhãn hiệu hiện tại và uy tín sẵn có hàng hóa của mình thì có thể tăng khối
lượng hàng hóa bán cho nhóm khách hàng hiện có mà không thay đổi gì cho
hàng hóa. Hay nói cách khác doanh nghiệp vẫn tiếp tục kinh doanh những sản
phẩm quen thuộc trên thị trường hiện tại nhưng tìm cách đẩy mạnh khối
lượng hàng hóa tiêu thụ lên.
Các công thức tính thị phần:
- Thị phần tuyệt đối là tỷ lệ phần doanh thu của doanh nghiệp so với toàn
bộ sản phẩm cùng loại được tiêu thụ trên thị trường (F1, F2)
F1 =
Doanh số bán ra của doanh nghiệp
* 100%
Tổng doanh số bán ra của toàn nghành
F2 =
Doanh số bán ra của sản phẩm
* 100%
Doanh số của sản phẩm trên cùng 1 thị trường
- Thị phần tương đối được xác định trên cơ sở thị phần tuyệt đối của
17
doanh nghiệp so với thị phần tuyệt đối của đối thủ cạnh tranh (F3)
F3 =

Thị phần của doanh nghiệp
* 100%
Thị phần của các đối thủ cạnh tranh
Các giải pháp để tăng thị phần:
Để tăng thị phần cho doanh nghiệp mình, doanh nghiệp có thể sử dụng
nhiều giải pháp khác nhau như:
- Thực hiện tăng trưởng hoạt động sản xuất dựa vào thế mạnh của mình
và tập trung toàn bộ nỗ lực của mình vào sản phẩm hiện tại để đáp ứng quy
mô thị trường. Doanh nghiệp tìm cách tăng thị phần của những sản phẩm hiện
có trên những thị trường hiện tại.
- Hạ thấp giá hàng hóa để thu hút nhiều người mua hơn nữa.
- Tăng cường công tác Marketing, nâng cao chất lượng dịch vụ khách
hàng để không ngừng thu hút khách hàng và nâng cao uy tín của ngành hàng
trên thị trường.
Tăng thị phần là mục tiêu rất quan trọng của doanh nghiệp, nó làm tăng
nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, góp phần vào việc thúc đẩy chu kì tái sản
xuất mở rộng, tăng vòng quay của vốn, tăng lợi nhuận. Tăng tốc độ tiêu thụ
sản phẩm khiến cho các doanh nghiệp có điều kiện tăng nhanh tốc độ khấu
hao máy móc thiết bị, giảm bớt hao mòn vô hình và do đó có điều kiện thuận
lợi hơn trong việc đổi mới kỹ thuật, ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất. Kỹ thuật
mới lại góp phần đấy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm.
6. Các yếu tố tác động đến mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
Mục đích của việc xác định những nhân tố ảnh hưởng đến thị trường tiêu
thụ sản phẩm của doanh nghiệp là nhằm đưa ra những biện pháp thiết thực để
phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Đây là
một công việc hết sức quan trọng và được tiến hành thường xuyên. Có rất
18
nhiều những nhân tố tác động đến tiêu thụ sản phẩm từng lúc hoặc cùng một
lúc, cùng chiều hoặc ngược chiều nhau, mức độ phạm vi tác động của mỗi

nhân tố cũng khác nhau, cần có cách nhìn khoa học và tổng thể. Có nhiều
cách phân chia các nhân tố theo những tiêu thức khác nhau, song tập trung có
thể chia thành một số những nhân tố sau:
6.1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
- Chính trị, luật pháp:
Ổn định chính trị là một nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế nói
chung cũng như đối với doanh nghiệp nói riêng. Chỉ trong môi trường ổn định
thì mới có định hướng chiến lược phát triển kinh doanh dài hạn từ đó mới có
kế hoạch cụ thể trong việc tạo lập nguồn lực lâu dài, vững chắc cho doanh
nghiệp. Đây cũng là một yếu tố để các nhà đầu tư trong và ngoài nước quyết
định thực hiện các dự án kinh tế của mình. Một cách gián tiếp, nó thúc đẩy cả
cung lẫn cầu, do đó doanh nghiệp có điều kiện phát triển thị trường tiêu thụ.
- Kinh tế:
Các chính sách kinh tế vĩ mô là nhân tố quan trọng tác động tới sự phát
triển của doanh nghiệp nói chung và thị trường tiêu thụ sản phẩm nói riêng,
chính sách khuyến khích xuất khẩu – hạn chế nhập khẩu những mặt hàng
trong nước sản xuất được, giúp doanh nghiệp trong nước phát triển sản xuất,
giữ vững thị trường. Chính sách thuế khóa, tài chính, ngân hàng cũng đều ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực tới các doanh nghiệp. Cơ chế quản lý phù hợp là
cơ sở, tiền đề cho sự phát triển của doanh nghiệp nói chung và thị trường tiêu
thụ sản phẩm nói riêng. Một chính sách thuế với thuế suất hợp lý ổn định, một
cơ chế tín dụng linh hoạt, phù hợp với quan hệ cung cầu tiền tệ tại thời điểm
giao dịch sẽ là tác nhân kích thích doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
- Văn hóa, xã hội:
Dân số, mức sống có quan hệ tỷ lệ thuận với tiêu thụ sản phẩm của
19
doanh nghiệp. dân số nhiều, mức sống cao thì sức mua sẽ lớn, tổng nhu cầu
cũng lớn là điều kiện phát triển thị trường tiêu thụ, tăng thị phần của doanh
nghiệp. Tập quán, thói quen, tâm lý tiêu dùng của người dân tại mỗi vùng,

mối quốc gia đều khác nhau, sẽ tác động tới tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp. Mức tiết kiệm của người Việt nam cao hơn các nước phương tây, của
khu vực miền Bắc cao hơn miền Nam. Người miền Bắc thích hàng tốt, bền dù
đắt tiền, còn người miền Nam thì dùng hàng nào cũng được miễn là giá cả
phải rẻ. Đó cũng là những yếu tố mà doanh nghiệp phải nắm được khi đưa sản
phẩm ra thị trường sao cho phù hợp.
6.2.Các nhân tố bên trong doanh nghiệp:
- Chính sách sản phẩm:
Chính sách sản phẩm luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến tiêu
thụ. Câu hỏi đầu tiên khi doanh nghiệp bắt tay vào kinh doanh là doanh
nghiệp sẽ bán cái gì? Cho đối tượng nào? Lựa chọn mặt hàng kinh doanh, có
chinh sách mặt hàng đúng đảm bảo cho tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp.
Đối với những mặt hàng chuyên doanh nên kinh doanh một số ít mặt hàng
nhưng chủng loại và phẩm chất phải phong phú. Xác định chính sách mặt
hàng phải trên cơ sở nhu cầu, thị hiếu, sức mua của từng đối tượng tiêu thụ
và khu vực tiêu thụ.
- Chính sách giá:
Giá cả hàng hóa là một trong những nhân tố chủ yếu tác động đến tiêu
thụ. Giá cả hàng hóa có kích thích hay hạn chế cung cầu và do đó ảnh hưởng
đến tiêu thụ. Xác định giá đúng sẽ đảm bảo khả năng tiêu thụ và thu lợi hay
tránh được ứ đọng, hạn chế thua lỗ. Giá cả cũng được sử dụng như một vũ khí
trong cạnh tranh. Song trong điều kiện hiện tại định giá bán cần phải nhận
thức được rằng: giá cả là một nhân tố thể hiện chất lượng. Người tiêu dùng
đánh giá chất lượng hàng hóa thông qua giá của nó khi đứng trước những
20
hàng hóa cùng loại hoặc thay thế (tiền nào của nấy). Do đó đặt giá thấp không
phải lúc nào cũng thúc đẩy được tiêu thụ.
- Chính sách phân phối:
Lựa chọn kênh và thiết lập đúng đắn mạng lưới các kênh tiêu thụ có ý
nghĩa to lớn đến việc thúc đẩy tiêu thụ. Kênh tiêu thụ là đường đi của hàng

hóa từ doanh nghiệp đến người tiêu dùng hay người sử dụng. Trên đường đi
của hàng hóa đến tiêu dùng, doanh nghiệp có thể sử dụng những người trung
gian (bán buôn, bán lẻ, đại lý) thường doanh nghiệp sử dụng 3 loại kênh phân
phối hàng hóa. Mạng lưới phân phối là toàn bộ các kênh mà doanh nghiệp
thiết lập và sử dụng trong phân phối hàng hóa. Việc thiết lập kênh phân phối
cần phải căn cứ vào chính sách, chiến lược tiêu thụ mà doanh nghiệp đang
theo đuổi, khả năng nguồn lực của doanh nghiệp, vào đặc tính của khách
hàng, vào đặc tính của sản phẩm, các kênh của đối thủ cạnh tranh, mặt hàng
thay thế, luật pháp để làm sao có khả năng chuyển tải và thực hiện hàng hóa
một cách cao nhất, với chi phí thấp nhất.
21
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ
SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN THỰC PHẨM VÀ NƯỚC
GIẢI KHÁT DONA NEWTOWER – CHI NHÁNH HÀ NỘI
I. Khái quát về Công ty cổ phần thực phẩm và nước giải khát Dona
Newtower – Chi nhánh Hà Nội
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh
Một số thông tin cơ bản về Chi nhánh như sau:
Tên công ty: Công ty Cố Phần Thực Phẩm
và Nước Giải Khát DONA NEWTOWER –
Chi nhánh Hà Nội
Chi nhánh được thành lập tháng 1/2004
Trụ sở chính: Số 47 Nguyễn Tuân – Quận Thanh Xuân – Hà Nội
Điện thoại: 04.35573803
Fax: 04.35573802
Chi nhánh công ty chuyên tiêu thụ các sản phẩm nước giải khát chế biến
từ trái cây mang nhãn hiệu “Nature” tại thị trường các tỉnh phía Bắc.
Từ ngày thành lập Chi nhánh công ty cho đến hiện tại bộ phận cán bộ
công nhân viên của Chi nhánh công ty lên tới gần 30 người với mức tăng

trưởng về doanh số bán cũng như mức lợi nhuận đem lại nên tình hình tài
chính và lương của cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện.
Diện tích của Chi nhánh công ty khoảng 200m
2
chưa kể nhà xưởng. Với
các trang thiết bị máy móc hiện đại và đầy đủ (tất cả các máy tính của Chi
nhánh công ty đều được nối mạng Internet).
Quá trình tiêu thụ sản phẩm của chi nhánh công ty được ban lãnh đạo
Chi nhánh công ty quan tâm với mục tiêu phục vụ tất cả vì khách hàng chính
vì vậy việc vận chuyển sản phẩm đến tay khách hàng được Chi nhánh công ty
quan tâm hơn với các phương tiện bao gồm 04 xe ô tô tải và 02 xe ô tô nhỏ
22
hiện có cùng với đội ngũ nhân viên thị trường năng động Chi nhánh công ty
đã và đang thực hiện các biện pháp để tăng thêm tính cạnh tranh và tăng mức
tiêu thụ sản phẩm của mình.
2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Chi nhánh Công ty là tổng hợp các
bộ phận lao động quản lý khác nhau có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, được
chuyên môn hoá và có những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, được bố trí
thành những cấp, những khâu khác nhau nhằm đảm bảo các chức năng quản
lý và phục vụ mục đích chung của Chi nhánh Công ty.
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh
Nguồn: Phòng hành chính nhân sự của Chi nhánh Công ty
Trong Chi nhánh Công ty tùy theo trách nhiệm cụ thể mà các phòng ban
có các chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nhưng lại phối hợp chặt chẽ với nhau
để đảm bảo cho hoạt động của Chi nhánh Công ty được thông suốt.
- Giám đốc: là người chịu trách nhiệm cao nhất về điều hành sản xuất
kinh doanh tại Chi nhánh Công ty, lãnh đạo chung toàn Chi nhánh Công ty.
- Phòng kế toán: giúp giám đốc chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác thống kê
kế toán tài chính của Chi nhánh Công ty. Thực hiện đúng các chế độ các quyết

định về quản lý vốn và tài sản, các chế độ chính sách khác của nhà nước.
- Phòng thị trường: là nơi trực tiếp giao dịch với khách hàng viết hoá đơn
23
Giám đốc chi
nhánh
Phòng kế
toán
Phòng thị
trường
Phòng kỹ
thuật
Phòng dịch vụ
khách hàng
Phòng hành
chính nhân sự

×