Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

phân tích báo cáo tài chính của công ty cổ phần sữa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.85 KB, 105 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tài chính – Ngân
hàng: “Phân tích báo cáo tài chính của công ty cổ phần Sữa Việt Nam” là công
trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ của người hướng dẫn khoa học.
Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa
từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào.
Hà Nội, tháng 9 năm 2011
Học viên
ĐINH NGÂN HÀ
MỤC LỤC
CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH 47
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VIỆT NAM 47
3.1 TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VIỆT NAM 47
3.2 PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SŨA VIỆT
NAM 58
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. KTXH: Kinh tế xã hội
2. SXKD: Sản xuất kinh doanh
3. TSCĐ: Tài sản cố định
4. UBND: Ủy ban nhân dân
5. VCĐ: Vốn cố định
6. VLĐ: Vốn lưu động
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG
CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH 47
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VIỆT NAM 47
3.1 TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VIỆT NAM 47
3.2 PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SŨA VIỆT
NAM 58
BIỂU
Biểu 3.1 Biểu đồ biến động tài sản Error: Reference source not found


Biểu 3.2 Biểu đồ phân tích mức độ độc lập tài chính Error: Reference source
not found
Biểu 3.3 Biểu phân tích khả năng thanh toán ngắn hạn Error: Reference
source not found
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ bộ phận kế toán (Nguồn: Tác giả tổng hợp). .Error: Reference
source not found
Sơ đồ 3.2: Sơ đồ trình tự ghi sổ kế toán của Công ty (Nguồn: 9) Error:
Reference source not found
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế, là một
đơn vị hạch toán độc lập, tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra các sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội nhằm thực hiện
các mục tiêu về lợi nhuận. Tối đa hoá lợi nhuận là kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp cần phải có những quyết sách, chiến
lược phù hợp, kip thời đối với các hoạt động kinh tế của mình. Tuy nhiên, trong nền
kinh tế thị trường đa thành phần, nếu chỉ dựa vào khả năng của mình và bỏ qua sự
hỗ trợ của các nguồn lực bên ngoài, doanh nghiệp khó có thể đứng vững và phát
triển được.
Phân tích tình hình tài chính là một công việc thường xuyên và vô cùng cần
thiết không những đối với chủ sở hữu doanh nghiệp mà còn cần thiết đối với tất cả
các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp có quan hệ về kinh tế và pháp lý với doanh
nghiệp. Đánh giá được đúng thực trạng tài chính, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra được
các quyết định kinh tế thích hợp, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả vốn và
các nguồn lực; Nhà đầu tư có quyết định đúng đắn với sự lựa chọn đầu tư của mình;
các chủ nợ được đảm bảo về khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối với các
khoản cho vay; Nhà cung cấp và khách hàng đảm bảo được việc doanh nghiệp sẽ
thực hiện các cam kết đặt ra; các cơ quan quản lý Nhà nước có được các chính sách
để tạo điều kiện thuận lợi cũng như hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp và đồng thời kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp bằng pháp luật.

Báo cáo tài chính kế toán là sản phẩm cuối cùng của công tác kế toán, tất cả
các thông tin mà kế toán cung cấp đều được thể hiện trên báo cáo tài chính kế toán
cuối kỳ của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà chúng ta có thể coi hệ thống báo cáo tài
chính kế toán là một tấm gương phản ánh toàn diện về tình hình tài chính, khả năng
và sức mạnh của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Do đó, việc trình
bày các báo cáo tài chính kế toán một cách trung thực và khách quan sẽ là điều kiện
tiên quyết để phân tích chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp .
1
Nhận thấy đươc tầm quan trọng của vấn đề nên tôi quyết định chọn đề tài
“Phân tích báo cáo tài chính của Công ty cổ phần Sữa Việt Nam” nhằm giúp
làm rõ thêm bài toán kinh tế của công ty Vinamilk nói riêng và của các doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay nói chung.
Do thời gian và kiến thức có hạn, chắc chắn đề tài này không tránh khỏi
những thiếu sót. Tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô. Tôi xin chân
thành cảm ơn cô giáo PGS.TS. Nguyễn Thị Đông và các thầy cô giáo trong khoa
đã giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu luận văn này./.
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại một vấn đề khách quan đó là bất cứ
ai dù là một cá nhân, một tập thể hoặc một doanh nghiệp nào khi gia nhập thị
trường đều phải chấp nhận cạnh tranh và quá trình cạnh tranh đó luôn xảy ra hai mặt
trái ngược nhau đó là vừa đào thải vừa thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đặc biệt ngày nay khi nền kinh tế Việt nam đang hội nhập mạnh mẽ với các
nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Các doanh nghiệp muốn đứng vững
được trong cơn lốc của thị trường xuyên quốc gia, xuyên lục địa, toàn cầu hoá, đòi
hỏi các doanh nghiệp phải quản lý tốt nguồn lực tài chính hiện có và tạo nguồn tài
chính mới tài trợ cho các hoạt động kinh doanh có hiệu quả đối với mọi biến động
của thị trường. Nếu doanh nghiệp nào bộc lộ sự yếu kém của mình và không đáp

ứng được yêu cầu của thị trường thì doanh nghiệp đó sẽ bị đào thải, còn ngược lại
những doanh nghiệp đó sẽ ăn nên làm ra và sẽ có lãi. Thực tế cho thấy có nhiều
doanh nghiệp do sự yếu kém trong quản lý mà gây ra tình trạng thua lỗ kéo dài và
dẫn đến phá sản hàng loạt. Ngược lại như việc cung ứng sản xuất, tiêu thụ được tiến
hành bình thường và đúng tiến độ sẽ là tiền đề bảo đảm cho hoạt động tài chính có
hiệu quả. Đồng thời việc tổ chức và huy động các nguồn vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện
cho sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục và có lợi nhuận cao. Vì vậy, để đáp
ứng một phần các yêu cầu mang tính chiến lược của mình, các doanh nghiệp cần
tiến hành định kỳ phân tích đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua
báo cáo tài chính từ đó phát triển những lợi thế để phát huy và và tìm những khó
khăn ách tắc để khắc phục, tháo gỡ kịp thời để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Muốn thắng thế trên thương trường các doanh nghiệp cần phải biết doanh
nghiệp mình hoạt động như thế nào? kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh ra sao? Điều đó buộc họ phải phân tích, đánh giá hoạt động tài chính thông
qua những chỉ tiêu nhất định, phù hợp với cơ chế quản lý tài chính hiện hành.
3
Như vậy, phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các báo
cáo tài chính có ý nghĩa vô cùng quan trọng không những đối với chủ doanh nghiệp
mà còn đối với nhiều đối tượng khác như các nhà đầu tư, các nhà cho vay, nhà cung
cấp, khách hàng và các cơ quan, hữu quan khác. Mỗi đối tượng quan tâm đến tình
hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau, song nhìn chung đều
với mục đích muốn biết khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, hiệu quả sản xuất
kinh doanh, tình hình phát triển và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó
có thể đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính doanh nghiệp trong
tuơng lai bằng cách dự báo và lập ngân sách. Phân tích báo cáo tài chính không chỉ
là một quá trình tính toán các tỷ số mà là quá trình tìm hiểu kết quả của sự quản lý
và điều hành tài chính doanh nghiệp, phân tích báo cáo tài chính là phân tích những
gì đã làm được, dự kiến những gì sẽ xảy ra. Trên cơ sở đó kiến nghị các biện pháp
để tận dụng triệt để mọi tiềm năng sẵn có nhằm đạt lợi nhuận cao.
Với ý nghĩ trên tác giả đã quan tâm và lựa chọn đề tài: “ Phân tích báo cáo

tài chính của Công ty cổ phần Sữa Việt Nam” nhằm nghiên cứu một cách có hệ
thống vấn đề này về mặt lý luận cũng như sự vận dụng trong thực tiễn tại Công ty
để đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần Sữa Việt Nam, trở thành một công cụ
đắc lực cho quản trị doanh nghiệp.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
1.2.1 Mục tiêu chung.
Nghiên cứu thực trạng tình hình tài chính của Công ty cổ phần Sữa Việt Nam
qua các báo cáo tài chính. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình
tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về nội dung phân tích báo cáo tài chính.
- Phân tích báo cáo tài chính của Công ty cổ phần Sữa Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm cải thiện tình hình tài chính và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty trong giai đoạn hiện nay.
4
1.3 ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.3.1 Đối tương nghiên cứu
Hệ thống Báo cáo tài chính của Công ty cổ phần Sữa Việt Nam.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu.
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu tại Công ty cổ phần Sữa Việt Nam.
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2008 đến năm 2010
- Phạm vi về nội dung: Đề tài đi sâu nghiên cứu phân tích báo cáo tài chính
của Công ty cổ phần Sữa Việt Nam và đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện tình
hình tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty cổ phần
Sữa Việt Nam.
1.3.3 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp trừu tượng
hoá, kết hợp logic với lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
thống kê.

1.4 DỰ KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Hệ thống hoá lý luận về nội dung phân tích báo cáo tài chính
- Phân tích báo cáo tài chính của Công ty cổ phần Sữa Việt Nam để đưa ra
đánh giá thực trạng tài chính của đơn vị
- Kiến nghị các phương án, giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty cổ phần Sữa Việt Nam.
1.5 KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo và kết luận, kết
cấu chính luận văn gồm 4 chương:
- Chương 1 - Tổng quan về đề tài nghiên cứu.
- Chương 2 - Cở sở lý luận của phân tích Báo cáo tài chính doanh nghiệp sản xuất.
- Chương 3 -Phân tích Báo cáo tài chính của Công ty cổ phần Sữa Việt Nam.
- Chương 4 - Một số kiến nghị và giải pháp đề xuất nhằm cải thiện tình hình
tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của vốn của Công ty cổ
phần Sữa Việt Nam.
5
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
2.1 BÁO CÁO TÀI CHÍNH–CƠ SỞ DỮ LIỆU PHÂN TÍCH [Nguồn:8,9,10,11]
2.1.1 Khái niệm và phân loại báo cáo tài chính
2.1.1.1 Khái niệm báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế
toán hiện hành phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị. Theo
đó, báo cáo tài chính chứa đựng những thông tin tổng hợp, toàn diện nhất về tình
hình tài sản, vốn chủ sở hữu và nợ phải trả tại một thời điểm cũng như tình hình tài
chính, kết quả kinh doanh, tình hình lưu chuyển dòng tiền trong một kỳ kinh doanh
nhất định của doanh nghiệp.
Báo cáo tài chính phải được trình bày một cách trung thực và hợp lý, phản
ánh chính xác tình hình tài chính, kết quả kinh doanh và dòng tiền lưu chuyển của
doanh nghiệp. Để đảm bảo yêu cầu trung thực và hợp lý, các báo cáo tài chính phải

được lập và trình bày trên cơ sở các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy
định có liên quan hiện hành. Đồng thời, báo cáo tài chính phải đảm bảo độ tin cậy
của thông tin, phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và các sự kiện
không chỉ đơn thuần phản ánh hình thức pháp lý của chúng, trình bày khách quan
không thiên vị, tuân thủ nguyên tắc thận trọng và trình bày đầy đủ trên mọi khía
cạnh trọng yếu. Mặt khác, báo cáo tài chính phải trình bày đầy đủ các thông tin, kể
cả các chính sách kế toán, nhằm cung cấp thông tin phù hợp, đáng tin cậy, so sánh
được và dễ hiểu.
Tính hệ thống báo cáo tài chính được thể hiện ở mối quan hệ chặt chẽ và hữu
cơ giữa các báo cáo. Mối báo cáo tài chính riêng biệt cung cấp cho người đọc một
khía cạnh hữu ích khác nhau, những thông tin bổ ích khác nhau. Tuy nhiên để có
thể có một kết quả khái quát hay sự đánh giá tổng thể về tình hình tài chính cũng
như kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải có sự phân tích, kết hợp các
thông tin từ các báo cáo tài chính.
6
Mục đích của báo cáo tài chính là cung cấp thông tin theo một cấu trúc chặt
chẽ về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và luồng tiền của doanh nghiệp, đáp
ứng nhu cầu của người sử dụng thông tin từ báo cáo tài chính, để đưa ra các quyết
định kinh tế
Trong nền kinh tế thị truờng, thông tin trong báo cáo tài chính không chỉ
phục vụ yêu cầu quản lý của các nhà quản trị doanh nghiệp mà còn cung cấp các
thông tin cần thiết cho những đối tượng quan tâm ngoài doanh nghiệp thí dụ như
khách hàng, nhà đầu tư…. Mỗi đối tuợng sử dụng thông tin với các mục đích
khác nhau nhưng nhìn chung hệ thống báo cáo tài chính có tác dụng chủ yếu để
cung cấp thông tin để giúp cho quá trình phân tích, đánh giá khái quát tình hình
tài chính của doanh nghiệp, tình hình công nợ, khả năng thanh toán, hiệu quả
kinh doanh, tình trạng tài chính, khả năng phát triển cũng như những rủi ro tiềm
tàng của doanh nghiệp.
Báo cáo tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa to lớn không những đối với các
cơ quan, đơn vị và cá nhân bên ngoài doanh nghiệp mà nó còn có ý nghĩa trong việc

chỉ đạo, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo tài
chính rất hữu ích đối với việc quản trị doanh nghiệp và đồng thời là nguồn thông tin
tài chính chủ yếu đối với những người ngoài doanh nghiệp. Báo cáo tài chính không
những cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo mà còn
cho thấy kết quả hoạt động của doanh nghiệp đạt được trong hoàn cảnh đó. Bằng
việc xem xét, phân tích báo cáo tài chính, người sử dụng thông tin có thể đánh giá
chính xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của doanh nghiệp. Do
đó, báo cáo tài chính của doanh nghiệp là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác
nhau như Ban giám đốc, Hội đồng quản trị, các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ,
các khách hành chính, những người cho vay, các nhân viên ngân hàng, các nhà quản
lý, các nhà bảo hiểm, các đại lý kể các cơ quan chính phủ và bản thân người lao
động. Mỗi một nhóm người có những nhu cầu thông tin khác nhau và do vậy, mỗi
nhóm có xu hướng tập trung vào những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính
của một doanh nghiệp.
7
- Báo cáo tài chính cung cấp những thông tin tổng quát về kinh tế - tài chính,
giúp cho việc phân tích tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phân
tích thực trạng tài chính của doanh nghiệp trong kỳ. Trên cơ sở đó, giúp cho việc
kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn và khả năng huy động vốn vào quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá tình hình chấp hành và thực hiện
các chính sách kinh tế tài chính của doanh nghiệp.
- Những thông tin trên báo cáo tài chính là những căn cứ quan trọng trong
việc phân tích, phát hiện những khả năng tiềm tàng về kinh tế. Trên cơ sở đó, dự
toán tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như xu hướng phát triển của
doanh nghiệp. Đó là những căn cứ quan trọng giúp cho việc đưa ra những quyết
định cho quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà quản trị
doanh nghiệp, hoặc là những quyết định của nhà đầu tư, các chủ nợ, các cổ đông
tương lai của doanh nghiệp.
- Báo cáo tài chính cung cấp những thông tin giúp cho việc phân tích tình
hình tài sản, nguồn vốn và kết quả sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định,

phân tích thực trạng tài chính của doanh nghiệp như: Phân tích tình hình biến động
về quy mô, cơ cấu tài sản, nguồn vốn; về tình hình thanh toán và khả năng thanh
toán; tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước, tình hình phân phối
lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Các chỉ tiêu, số liệu trên báo cáo tài chính là những cơ sở quan trọng để
tính ra các chỉ tiêu kinh tế khác giúp cho việc đánh giá thực trạng tài chính của
doanh nghiệp.
2.1.1.2 Phân loại báo cáo tài chính
Để thuận lợi cho việc nghiên cứu và sử dụng báo cáo tài chính, cần thiết phải
tiến hành sắp xếp hệ thống báo cáo tài chính theo những tiêu thức nhất định.
* Phân loại báo cáo tài chính theo nội dung phản ánh:
Theo nội dung phản ánh, báo cáo tài chính bao gồm các loại sau:
- Báo cáo phản ánh tổng quát tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh
nghiệp: Để phản ánh tổng quát tình hình tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp, kế
toán sử dụng “Bảng cân đối kế toán”.
8
- Báo cáo phản ánh doanh thu, thu nhập, chi phí và kết quả hoạt động kinh
doanh: Quá trình và kết quả kinh doanh là một trong những bộ phận quan trọng của
đối tượng hạch toán kế toán. Sau một giai đoạn nhất định, doanh nghiệp cần phải
biết được một cách tổng quát toàn bộ chi phí bỏ ra và kết quả thu được theo từng
lĩnh vực hoạt động. Toàn bộ thông tin này được phản ánh trên “Báo cáo kết quả
kinh doanh”.
- Báo cáo phản ánh tình hình luân chuyển của dòng tiền: Để nắm bắt được
dòng chảy của tiền tệ trong kỳ của doanh nghiệp từ đó đánh giá được khả năng
thanh toán, xây dựng được kế hoạch để đầu tư, luồng tiền tưong lai…, các nhà quản
lý thường sử dụng thông tin trên “Báo cáo lưu chuyển tiền tệ”
- Báo cáo thuyết minh: Thuyết minh báo cáo tài chính là nhằm giải thích bổ
sung thêm một số chỉ tiêu mà các báo cáo tài chính khác chưa phản ánh hoặc phản
ánh chưa rõ nét.
* Phân loại báo cáo tài chính theo thời gian lập

Căn cứ vào thời gian lập báo cáo tài chính là năm hay từng quý để phân chia
thành hệ thống báo cáo tài chính năm, báo cáo tài chính quý.
* Phân loại báo cáo tài chính theo tính bắt buộc
Hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp bao gồm báo cáo tài chính bắt
buộc và báo cáo tài chính hướng dẫn.
- Báo cáo tài chính bắt buộc:
Theo quy định của chế độ kế toán hiện hành ở Việt Nam, hệ thống báo cáo tài
chính bắt buộc áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu thống nhất gồm:
+ Bảng cân đối kế toán (Mẫu B01-DN)
+ Báo cáo kết quả kinh doanh (Mẫu B02-DN)
+ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Mẫu B03-DN)
+ Thuyết minh báo cáo tài chính (Mẫu B09-DN)
- Báo cáo tài chính hướng dẫn:
9
Đây là hệ thống báo cáo tài chính mang tính không bắt buộc và được lập theo
nhu cầu thực tế và yêu cầu của công tác quản trị trong từng doanh nghiệp, như: báo
cáo chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố, báo cáo giá thành, báo cáo xây dựng cơ
bản, báo cáo tài sản… Các doanh nghiệp sẽ tuỳ thuộc vào nhu cầu thông tin, trình độ
quản lý, trình độ kế toán của mình để quyết định lập hay không lập các báo cáo này.
* Phân loại báo cáo tài chính theo phạm vi thông tin phản ánh
Trong chế độ báo cáo tài chính hiện hành (QĐ15/2006/QĐ-BTC ngày
20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc ban hành chế độ kế toán doanh
nghiệp), hệ thống báo cáo tài chính áp dụng trong các doanh nghiệp nhà nước và
các doanh nghiệp có quy mô lớn bao gồm hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp,
hệ thống báo cáo tài chính tổng hợp và hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất.
- Báo cáo tài chính doanh nghiệp độc lập là hệ thống báo cáo tài chính phản
ánh những thông tin tổng quát liên quan đến tình hình tài chính của một doanh
nghiệp độc lập. Hệ thống báo cáo bao gồm: báo cáo tài chính năm và báo cáo tài
chính giữa niên độ.
- Báo cáo tài chính hợp nhất là báo cáo tài chính của một tập đoàn hay một

công ty mẹ được trình bày như báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhưng báo cáo
tài chính này được lập trên cơ sở hợp nhất báo cáo của công ty mẹ và các công ty
con. Báo cáo tài chính hợp nhất nhằm tổng hợp và trình bày một cách tổng quát,
toàn diện tình hình tài sản, nguồn vốn chủ sở hữu, nợ phải trả ở một thời điểm
nhất định kết thúc năm tài chính; tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh năm
tài chính của đơn vị như một doanh nghiệp độc lập, không tính đến các ranh giới
pháp lý của các pháp nhân riêng biệt là công ty mẹ và các công ty con trong tập
đoàn. Trên cơ sở báo cáo tài chính hợp nhất, các nhà quản lý có cơ sở tin cậy để
đưa ra các quyết định quản lý, điều hành hay đầu tư vào Tập đoàn một cách đúng
đắn, phù hợp.
- Báo cáo tài chính tổng hợp cũng nhằm mục đích tổng hợp và trình bày một
cách tổng quát, toàn diện tình hình tài sản, nguồn vốn chủ sở hữu, nợ phải trả ở một
thời điểm nhất định kết thúc năm tài chính; tình hình và kết quả hoạt động kinh
10
doanh năm tài chính. Các đơn vị kế toán cấp trên có các đơn vị kế toán trực thuộc
nhưng theo mô hình không có công ty con.
Như vậy, đối với một doanh nghiệp, việc tồn tại một hệ thống báo cáo tài
chính bao gồm rất nhiều báo cáo cũng có thể được phân chia thành nhiều loại, nhóm
khác nhau và các báo cáo tài chính được vận dụng lập và sử dụng linh hoạt đối với
từng doanh nghiệp cụ thể. Nhưng dù là báo cáo tài chính ở dạng nào vẫn có khả năng
cung cấp những thông tin hữu ích cho người sử dụng thông tin. Hệ thống báo cáo tài
chính là công cụ để phục vụ nhu cầu quản trị kinh doanh, quản lý tài chính của doanh
nghiệp. Trên cơ sở các số liệu của báo cáo tài chính, các đối tượng cần nắm bắt thông
tin có thể xử lý và phân tích để đánh giá tình hình tài chính, quản lý tài chính, năng
lực tài chính Theo những mục đích khác nhau, báo cáo tài chính trở thành tài liệu
căn bản phục vụ cho công tác ra quyết định một cách chính xác, hữu hiệu.
2.1.2 Hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam
Hệ thống báo cáo tài chính năm áp dụng trong các doanh nghiệp bao gồm 4
báo cáo bắt buộc là Bảng cân đối kế toán (Mẫu số B 01 – DN); Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh (Mẫu số B 02 – DN); Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Mẫu số B

03 – DN); và Thuyết minh báo cáo tài chính (Mẫu số B 09 – DN).
2.1.2.1 Bảng cân đối kế toán:
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính cơ bản tổng hợp, toàn diện, cung
cấp thông tin tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp theo giá trị ghi sổ của
tài sản và nguồn hình thành tài sản tại một thời điểm nhất đinh (cuối tháng, cuối
quý, cuối năm). Bảng này được lập trên cơ sở tính cân bằng về mặt lượng giữa
giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp theo giá trị ghi sổ.
Do đó, bảng cân đối kế toán có ý nghĩa quan trọng với nhiều đối tượng có quan
hệ sở hữu, quan hệ kinh tế, tài chính, pháp lý trong quá trình hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán được kết cấu dưới dạng bảng cân đối số dư các tài
khoản kế toán và được sắp xếp theo trật tự các chỉ tiêu (được mã hoá) theo yêu cầu
11
của quản lý gồm Tài sản và Nguồn vốn. Phần “Tài sản” phản ánh giá trị ghi sổ của
toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp đến cuối năm kế toán đang tồn tại dưới
nhiều hình thái và trong tất cả các giai đoạn, các khâu của quá trình kinh doanh. Các
chỉ tiêu được phản ánh trong phần này được sắp xếp theo nội dung kinh tế của các
loại tài sản của doanh nghiệp trong quá trình tái sản xuất. Phần “Nguồn vốn” phản
ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến cuối kỳ hạch toán. Các
chỉ tiêu này được sắp xếp theo từng nguồn hình thành tài sản của đơn vị là vốn vay
hay vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ và kết cấu của từng nguồn vốn trong tổng số nguồn vốn
hiện có phản ánh tính chất hoạt động, năng lực tài chính cũng như thực trạng tình
hình tài chính của doanh nghiệp.
Căn cứ vào Bảng cân đối kế toán, các cơ quan nhà nước, các cổ đông, các
trái chủ… nắm được năng lực và thực trạng tài chính của doanh nghiệp, dự đoán
được xu hướng phát triển, tình hình và khả năng thanh toán, quy mô hoạt động kinh
doanh cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp… Trên cơ sở đó, thực hiện
được nhiệm vụ và chức năng quản lý của nhà nước, đề ra các quyết định kinh
doanh. Đồng thời, thông tin do Bảng cân đối kế toán cung cấp còn là căn cứ pháp lý
để giải quyết các vấn đề liên quan đến việc sáp nhập, hợp nhất, phân chia, tách, giải

thể…doanh nghiệp.
2.1.2.2 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính phản ánh tóm
lược các khoản doanh thu, chi phí, kết quả phát sinh từ kết quả hoạt động kinh
doanh và ngoài hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất
định. Đồng thời báo cáo kết quả kinh doanh còn phản ánh chi phí thuế thu nhập và
lợi nhuận thuần của doanh nghiệp trong kỳ đó. Như vậy, thu nhập chính là sự gia
tăng về lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các khoản tiền thu vào hoặc
gia tăng tài sản hoặc giảm bớt về công nợ dẫn tới việc gia tăng vốn cổ phần nhưng
không phải do cổ đông đóng góp.
Ngược lại, chi phí là sự giảm bớt các lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới
hình thức các khoản tiền chi ra hoặc khấu trừ vào tài khoản hoặc phát sinh các
12
khoản công nợ dẫn tới làm giảm vốn cổ phần nhưng không phải là do phân phối cho
những người tham gia góp vốn.
2.1.2.3 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh việc hình
thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Thông tin
về lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp cung cấp cho người sử dụng thông tin có cơ
sở để đánh giá khả năng tạo ra các khoản tiền và việc sử dụng những khoản tiền đã
tạo ra đó trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tiền phản ánh trong Báo
cáo lưu chuyển tiền tệ bao gồm tiền tại quỹ, tiền đang chuyển, các khoản tiền gửi
không kỳ hạn và các khoản tuơng đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn (không
quá 3 tháng kể từ ngày mua khoản đầu tư đó), có khả năng chuyển đổi dễ dàng
thành một luợng tiền xác định và không có nhiều rủi ro khi chuyển đổi thành tiền.
Doanh nghiệp trình bày các luồng tiền từ hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư
và hoạt động tài chính theo cách thức phù hợp nhất với đặc điểm kinh doanh của
doanh nghiệp.
Luồng tiền phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là luồng tiền
liên quan đến các hoạt động tạo ra doanh thu chủ yếu của doanh nghiệp và các hoạt

động khác không phải hoạt động đầu tư, tài chính. Nó cung cấp thông tin cơ bản để
đánh giá khả năng tạo tiền của doanh nghiệp từ các hoạt động kinh doanh để trang
trải các khoản nợ, duy trì các hoạt động, trả cổ tức và tiến hành các hoạt động đầu
tư mới mà không cần đến nguồn tài chính bên ngoài.
Luồng tiền phát sinh từ hoạt động đầu tư là luồng tiền có liên quan đến việc
mua sắm, xây dựng, nhượng bán, thanh lý tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác
không thuộc các khoản tương đương tiền.
Luồng tiền phát sinh từ hoạt động tài chính là luồng tiền liên quan đến việc
thay đổi về quy mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn vay của doanh nghiệp.
2.1.2.4 Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính nhằm thuyết minh và giải trình bằng lời, bằng
số liệu một số chỉ tiêu kinh tế - tài chính chưa được thể hiện trên các báo cáo tài
13
chính ở trên. Thuyết minh báo cáo tài chính là cơ sở để cung cấp và giải thích bổ
sung những thông tin về tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Đồng thời cung cấp những thông tin về cơ sở lập báo cáo tài chính
của doanh nghiệp như chuẩn mực, chế độ kế toán, hình thức kế toán.
2.2 KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
[Nguồn:8,9,10,11]
2.2.1 Khái niệm phân tích báo cáo tài chính
Phân tích báo cáo tài chính là phân tích các chỉ tiêu tài chính trên hệ thống
báo cáo hoặc những chỉ tiêu mà nguồn thông tin từ hệ thống báo cáo nhằm đánh giá
tình hình tài chính doanh nghiệp, cung cấp thông tin cho mọi đối tượng với mục
đích khác nhau.
Phân tích báo cáo tài chính là sử dụng một tập hợp các phương pháp, công cụ
cho phép xử lý các thông tin trên hệ thống báo cáo tài chính giúp nhà quản trị có
tầm nhìn tổng quan về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Mặt khác phân tích báo
cáo tài chính còn đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng, hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp đó. Từ đó xác định khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp giúp
người sử dụng thông tin đưa ra những quyết định tài chính, quyết định quản trị phù

hợp.
2.2.2 Vai trò của phân tích báo cáo tài chính trong nền kinh tế thị trường.
Mối quan tâm của các nhà phân tích tập trung vào hai mục tiêu cơ bản. Thứ
nhất, việc phân tích báo cáo tài chính là nhằm để "hiểu được các con số" hoặc để
"nắm chắc các con số", tức là sử dụng các công cụ phân tích tài chính như là một
phương tiện hỗ trợ để hiểu rõ các số liệu tài chính trong báo cáo. Như vậy, người ta
có thể đưa ra nhiều biện pháp phân tích khác nhau nhằm để miêu tả những quan hệ
có nhiều ý nghĩa và chắt lọc thông tin từ các dữ liệu ban đầu. Thứ hai, do sự định
hướng của công tác phân tích tài chính nhằm vào việc ra quyết định nhằm đưa ra
một cơ sở hợp lý cho việc dự đoán tương lai. Trên thực tế, tất cả các công việc ra
quyết định, phân tích tài chính hay tất cả những việc tương tự đều nhằm hướng vào
14
tương lai. Do đó, người ta sử dụng các công cụ và kĩ thuật phân tích báo cáo tài
chính nhằm cố gắng đưa ra đánh giá có căn cứ về tình hình tài chính tương lai của
công ty, dựa trên phân tích tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, và đưa ra
ước tính tốt nhất về khả năng của những sự cố kinh tế trong tương lai.
Phân tích báo cáo tài chính nhằm cung cấp những thông tin hữu ích không
chỉ cho quản trị doanh nghiệp mà còn cung cấp thông tin kinh tế - tài chính chủ yếu
cho các đối tượng sử dụng thông tin ngoài doanh nghiệp. Bởi vậy, phân tích báo cáo
tài chính không phải chỉ phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp tại một thời
điểm nhất định, mà còn cung cấp những thông tin về kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp đã đạt được trong một thời kỳ nhất định.
Phân tích báo cáo tài chính giúp cho người sử dụng thông tin đánh giá khách
quan về sức mạnh tài chính của doanh nghiệp, khả năng sinh lời và triển vọng phát
triển sản xuất kinh doanh cũng như những rủi ro về tài chính trong tương lai của
doanh nghiệp. Từ đó người sử dụng thông tin đưa ra những quyết định phù hợp cho
nhu cầu, mục đích của mình. Bởi vậy, việc phân tích báo cáo tài chính có ý nghĩa
quan trọng đối với nhiều nhóm người khác nhau, cả bên trong và bên ngoài doanh
nghiệp, có quan hệ lợi ích với doanh nghiệp ở những mức độ khác nhau
Việc phân tích báo cáo tài chính là một công việc cần phải tiến hành thường

xuyên để giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên
thấy rõ hơn bức tranh về thực trạng hoạt động tài chính, xác định đầy đủ và đúng
đắn những nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình tài chính
của doanh nghiệp. Từ đó, có những giải pháp hữu hiệu để ổn định và tăng cường
tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý
vĩ mô của nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình kinh tế khác nhau đều
bình đẳng pháp luật trong kinh doanh, nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài
chính của doanh nghiệp, như: các nhà đầu tư, các nhà cho vay, nhà cung cấp, khách
hàng. Mỗi đối tượng đều quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp dưới
những góc độ khác nhau. Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh
15
nghiệp cần các thông tin để kiểm soát và chỉ đạo tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Do đó, thông tin về tình hình sử dụng vốn, khả năng huy động vốn,
khả năng sinh lãi, khả năng trả nợ, tình hình thu chi tài chính, rủi ro tài chính doanh
nghiệp giúp họ đánh giá các hoạt động kinh doanh trong kỳ đồng thời giúp họ ra các
quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia lợi nhuận, cổ phần…. Kết quả của phân tích
báo cáo tài chính không những giúp họ khắc phục những mặt thiếu sót, hạn chế,
phát huy những mặt tích cực trong quá tình kinh doanh mà còn giúp họ dự đoán
được tình hình phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Có những đối tượng liên
quan có quyền lợi trực tiếp như các cổ đông, các nhà đầu tư, ngân hàng, các nhà
cung cấp và các nhà quản trị doanh nghiệp… Họ quan tâm tới báo cáo tài chính của
doanh nghiệp bởi nó ảnh hưởng tới lợi nhuận, quyền lợi của chính họ. Còn những
người khác họ quan tâm tới báo cáo tài chính và phân tích các số liệu trên báo cáo
tài chính để kiểm tra, kiểm soát nghĩa vụ của họ đối với nhà nước như cơ quan thuế,
cơ quan thanh tra… hoặc các báo cáo tài chính phục vụ cho các nhà thống kê để
tổng hợp số liệu phân tích từng lĩnh vực, ngành nghề, từng địa phương… Do vậy,
phân tích báo cáo tài chính có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường:
- Kiểm soát các hoạt động tài chính, góp phần làm minh bạch thông tin tài chính
- Hoàn thiện các cơ chế tài chính của các doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động

kinh doanh phát triển.
2.3 PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH [Nguồn:8,9,10,11]
Phương pháp phân tích báo cáo tài chính bao gồm hệ thống các công cụ và
biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên
trong, bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tình hình hoạt động tài chính
của doanh nghiệp, các chỉ tiêu tổng quát, chi tiết, các chỉ tiêu đặc thù nhằm đánh giá
toàn diện thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Các phương pháp sử dụng trong
phân tích báo cáo tài chính thường bao gồm:
2.3.1 Phương pháp so sánh
So sánh là một phương pháp nhằm nghiên cứu sự biến động và xác định mức
16
độ biến động của các chỉ tiêu phân tích.
Để áp dụng phương pháp so sánh vào phân tích báo cáo tài chính của doanh
nghiệp, trước hết phải xác định số gốc để so sánh. Gốc để so sánh được chọn là gốc
về mặt thời gian và không gian.
Để đảm bảo tính chất so sánh được, các chỉ tiêu sử dụng trong phân tích báo
cáo tài chính cần đảm bảo thoả mãn các điều kiện cơ bản sau:
- Đảm bảo sự thống nhất về nội dung kinh tế của các chỉ tiêu
- Đảm bảo sự thống nhất về phương pháp tính các chỉ tiêu
- Đảm bảo thống nhất về đơn vị tính các chỉ tiêu
Đây được gọi là các đặc tính “có thể so sánh được” hay tính chất “so sánh
được” của các chỉ tiêu phân tích. Ngoài ra cần xác định mục tiêu so sánh trong phân
tích báo cáo tài chính. Mục tiêu so sánh trong phân tích là nhằm xác định mức biến
động tuyệt đối và mức biến động tương đối cùng xu hướng biến động của các chỉ
tiêu phân tích.
Nội dung so sánh bao gồm:
* So sánh giữa số thực tế kỳ phân tích với số thực tế của kỳ kinh doanh trước
nhằm xác định rõ xu hướng thay đổi về tình hình hoạt động tài chính của doanh
nghiệp. Đánh giá tốc độ tăng trưởng hay giảm đi của các hoạt động tài chính của
doanh nghiệp.

* So sánh giữa số thực tế kỳ phân tích với số kỳ kế hoạch nhằm xác định
mức phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch trong mọi mặt của hoạt động tài chính
của doanh nghiệp.
* So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu tiên tiến của ngành, của
doanh nghiệp khác nhằm đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp tốt hay xấu, khả quan hay không khả quan.
Quá trình phân tích theo phương pháp so sánh có thể thực hiện bằng 3
hình thức:
- So sánh theo chiều ngang trên các báo cáo tài chính là phương pháp sử
17
dụng dùng để đối chiếu, so sánh tình hình biến động cả về số tuyệt đối và số tương
đối trên từng chỉ tiêu, từng khoản mục của từng báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Thực chất của việc phân tích này là sự biến động về quy mô của từng khoản mục
trên từng báo cáo tài chính của doanh nghiệp giữa kỳ này so với kỳ trước, giữa
doanh nghiệp này so với doanh nghiệp khác cùng ngành. Qua đó xác định được sự
biến động theo quy mô và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới chỉ tiêu phân tích
hoặc đánh giá sự khác biệt giữa các doanh nghiệp. Chẳng hạn như, phân tích tình
hình biến động về quy mô tài sản, nguồn hình thành tài sản, hay của từng khoản
mục ở hai bên Tài sản, Nguồn vốn của Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp.
- So sánh theo chiều dọc là việc sử dụng các tỷ lệ, các hệ số thể hiện mối
tương quan giữa các chỉ tiêu trên từng báo cáo tài chính hoặc giữa các báo cáo tài
chính trong hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Thực chất của việc phân
tích theo chiều dọc trên từng báo cáo tài chính là phân tích về sự biến động về cơ
cấu hay những quan hệ tỷ lệ giữa các chỉ tiêu trong hệ thống báo cáo tài chính của
doanh nghiệp. Chẳng hạn như, phân tích tình hình biến động về cơ cấu tài sản và
nguồn vốn trên Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, hoặc phân tích các mối
quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận với doanh thu, với tổng giá vốn hàng bán, với tổng tài
sản trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
- So sánh xác định xu hướng và tính chất liên hệ giữa các chỉ tiêu. Điều đó
được thể hiện: Các chỉ tiêu riêng biệt hay các chỉ tiêu tổng cộng trên báo các tài

chính được xem xét trong mối liên hệ với các chỉ tiêu phản ánh quy mô chung và
chúng có thể được xem xét trong nhiều kỳ để phản ánh rõ hơn xu hướng phát triển
của các hiện tượng, kinh tế - tài chính của doanh nghiệp.
2.3.2 Phương pháp loại trừ
Loại trừ là một phương pháp nhằm xác định mức độ ảnh hưởng lần lượt từng
nhân tố đến chỉ tiêu phân tích và được thực hiện bằng cách: khi xác định sự ảnh
hưởng của nhân tố này thì phải loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác.
Phương pháp này được sử dụng để xác định mức độ ảnh hưởng của từng
18
nhân tố đến chỉ tiêu phân tích, khi các chỉ tiêu nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân
tích phải được biểu hiện dưới dạng tích số hoặc thương số, hoặc kết hợp cả tích số
và thương số.
Các nhân tố có thể làm tăng, giảm thậm chí có những nhân tố không có ảnh
hưởng gì đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có thể là những nhân tố
khách quan, nhân tố chủ quan; có thể là những nhân tố số lượng, có thể là những
nhân tố thứ yếu, có thể là những nhân tố tích cực và có thể là nhân tố tiêu cực…
Phương pháp loại trừ có thể được thực hiện bằng 2 cách: “Phương pháp số
chênh lệch” và “Phương pháp thay thế liên hoàn”
2.3.3 Phương pháp liên hệ cân đối
Cơ sở của phương pháp này là sự cân bằng về lượng giữa 2 mặt của các yếu
tố và của quá trình kinh doanh. Dựa trên nguyên lý này người ta xây dựng phương
pháp phân tích mà trong đó các chỉ tiêu nhân tố có quan hệ với các chỉ tiêu phân
tích được biểu hiện dưới dạng tổng số hoặc hiệu số. Như vậy, khác với 2 phương
pháp trên thì phương pháp liên hệ cân đối được vận dụng để xác định sự ảnh hưởng
bằng mức chênh lệch của từng nhân tố giữa các kỳ (kỳ thực tế so kế hoạch, kỳ hiện
tại so với kỳ trước), giữa các nhân tố mang tính độc lập.
2.4 NỘI DUNG PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH [Nguồn:8,9,10,11]
2.4.1 Phân tích bảng cân đối kế toán
2.4.1.1 Phân tích quy mô, cơ cấu tài sản
Đối với Bảng cân đối kế toán, kết quả phương pháp so sánh theo chiều ngang

cho thấy sự biến động từng khoản mục trên bảng cân đối tài sản vào thời điểm
31/12 của từng năm để theo dõi xu thế biến động cũng như tính quy luật tăng, giảm
của từng khoản mục để đánh giá thực trạng tài sản, nguồn vốn tại từng thời điểm kết
thúc niên độ tài chính.
Việc phân tích cơ cấu tài sản đảm bảo cho sự phù hợp giữa các chỉ tiêu, các
khoản mục tài sản được tổng hợp trên bảng sau:
19
Bảng 2.1: Bảng phân tích quy mô, cơ cấu tài sản
Chỉ tiêu Đầu kỳ Cuối kỳ So sánh
Số tiền
(đồng)
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
(đồng)
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
(đồng)
Tỷ
trọng
(%)
A. Tài sản ngắn hạn
I. Tiền và các khoản tương đương tiền
II. Các khoản đầu tư tài chính NH
III. Các khoản phải thu ngắn hạn
IV. Hàng tồn kho
V. Tài sản ngắn hạn khác

B. Tài sản dài hạn
I. Các khoản phải thu dài hạn
II. Tài sản cố định
III. Bất động sản đầu tư
IV. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
V. Tài sản dài hạn khác
TỔNG TÀI SẢN
(Nguồn: 10)
Vốn đã huy động được cho hoạt động kinh doanh nhưng phải được sử dụng
như thế nào cho hiệu quả, hợp lý, tiết kiệm là một bài toán khó. Điều đó đồng nghĩa
với việc tăng lượng vốn huy động vào kinh doanh, không chỉ dừng lại ở việc đầu tư
chiều rộng mà cả đầu tư chiều sâu cho kinh doanh. Nhưng để xác định đầu tư vào
lĩnh vực hay bộ phận tài sản nào thì cần phải tiến hành phân tích cơ cấu tài sản, bao
gồm:
Tỷ trọng của từng Giá trị của từng bộ phận tài sản
bộ phận tài sản = x 100 (2.1)
chiếm trong tổng tài sản Tổng số tài sản
(Nguồn: 10)
Việc xem xét tình hình biến động về tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm
trong tổng số tài sản giữa kỳ phân tích với kỳ gốc tạm thời cho phép nhà quản trị
doanh nghiệp đánh giá được việc phân bổ vốn nhưng lại không biết được chính xác
20
tình hình sử dụng vốn, những nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của những
nhân tố đó đến sự biến động của cơ cấu tài sản, việc phân tích đòi hỏi phải vận dụng
linh hoạt cả phương pháp phân tích ngang, tức là so sánh sự biến động giữa kỳ phân
tích và kỳ gốc về cả quy mô từng loại tài sản (theo trị số tuyệt đối hoặc tương đối)
Việc đánh giá sự biến động này đòi hỏi chúng ta phải phân tích sự biến động
trong mối quan hệ với chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời, bằng việc
phân tích trên nhà quản lý sẽ thấy được những đặc trưng trong cơ cấu tài sản, xác
định được tính hợp lý của việc sử dụng vốn. Phân tích cơ cấu tài sản trong mối liên

hệ với tính chất kinh doanh của từng giai đoạn, từng thời điểm.
Đối với những khoản mục về tiền và các khoản tương đương tiền: khoản mục
này có thể biến động tăng hoặc giảm không phải do doanh nghiệp ứ đọng hay thiếu
tiền mà có thể doanh nghiệp đang có kế hoạch tập trung tiền để chuẩn bị đầu tư,
mua sắm vật tư tài sản hoặc vừa thực hiện đầu tư xong.
Đối với những khoản đầu tư tài chính: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế
hội nhập, đầu tư tài chính là cơ hội cần thiết để giúp doanh nghiệp sử dụng vốn dư
thừa có hiệu quả, đồng thời tạo uy tín cho doanh nghiệp. Nhưng sự biến động tăng
giảm của khoản mục đầu tư tài chính phụ thuộc nhiều vào vấn đề doanh nghiệp đó
đang ở giai đoạn nào của chu kỳ kinh doanh. Đồng thời ảnh hưởng của thị trường
đầu tư tại thời điểm đó tác động như thế nào đến doanh nghiệp.
Đối với những khoản phải thu: Có thể nói, đây là những khoản vốn của
doanh nghiệp nhưng bị người mua, người bán chiếm dụng. Tuy nhiên khi xem xét
sự biến động của khoản mục này cần phân tích nó trong mối liên hệ với phương
thức tiêu thụ, chính sách tín dụng bán hàng hoặc chính sách thanh toán tiền hàng,
với khả năng quản lý nợ cũng như năng lực tài chính của khách hàng để nhận xét.
Tuy nhiên, để đảm bảo cho việc thu hồi và quản lý nợ kịp thời, tránh bị chiếm dụng
vốn, doanh nghiệp cần xây dựng và vận dụng chính sách chiết khấu thanh toán hợp
lý, linh hoạt. Trường hợp do quản lý nợ kém, khoản nợ phải thu sẽ ngày càng gia
tăng các khoản “nợ xấu” (nợ khó đòi, nợ quá hạn). Để giảm bớt rủi ro có thể xảy ra,
doanh nghiệp cần sử dụng các biện pháp để phân loại đối tượng khách hàng để nắm
21

×