Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

tăng cường huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã tam điệp – tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.36 KB, 56 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp có những hoạt
động đặc thù, riêng biệt gồm hai mảng chính là huy động vốn và cho vay
vốn. Ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới huy động vốn để tài trợ
cho nền kinh tế là một trong những sứ mệnh trọng yếu của các NHTM.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường tài chính diễn biến phức
tạp, hiện tượng giá vàng tăng, giảm khó dự đoán cùng với việc lo ngại tiền
đồng mất giá dẫn đến hiện tượng đầu cơ trong nước ảnh hưởng không nhỏ
tới huy động vốn của các NHTM. Tại Việt Nam hiện có khoảng 50 ngân
hàng, bao gồm ngân hàng quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân
hàng 100% vốn nước ngoài. Mỗi ngân hàng lại có mạng lưới rộng khắp cả
nước làm cho mức độ cạnh tranh trong huy động vốn giữa các ngân hàng trở
nên rất gay gắt.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn thị xã Tam Điệp tỉnh
Ninh Bình là một trong những ngân hàng lớn trên địa bàn thị xã Tam Điệp.
Trong thời gian qua, Ngân hàng đã huy động được nguồn vốn đáng kể đáp
ứng yêu cầu tài trợ vốn cho nền kinh tế trên địa bàn khu vực. Tuy nhiên, so
với yêu cầu thực tế, nguồn vốn huy động còn hạn hẹp đòi hỏi phải được nâng
tầm quy mô. Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này,
sau một thời gian thực tập, nghiên cứu tại Chi nhánh Ngân Hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn thị xã Tam Điệp - Tỉnh Ninh Bình, với mong muốn
được tìm hiểu sâu hơn về công tác huy động vốn của chi nhánh em đã chọn đề
tài : “ Tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn thị xã Tam Điệp – Tỉnh Ninh Bình” là chuyên đề tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về huy động vốn của Ngân hàng
thương mại.
- Nghiên cứu thực trạng huy động vốn tại Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn thị xã Tam Điệp – Tỉnh Ninh Bình, trên cơ sở đó, đánh giá
kết quả, hạn chế và luận giải các nguyên nhân dẫn đến hạn chế.


- Đề xuất các giải pháp tăng cưởng huy động vốn tại Ngân Hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn thị xã Tam Điệp – Tỉnh Ninh Bình thời gian
tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
Thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Phạm vi không gian: Huy động vốn tại Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn thị xã Tam Điệp – Tỉnh Ninh Bình
+ Phạm vi thời gian: Nghiên cứu thực trạng huy động vốn giai đoạn 2010-
2012, giải phát tăng cường huy động vốn giai đoạn 2013-2015 tại Ngân
Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thị xã Tam Điệp – Tỉnh Ninh
Bình.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề được nghiên cứu theo phương pháp thống kê ( tổng hợp và
phân tích số liệu), phương pháp phân tích các hoạt động kinh tế, phương
pháp so sánh….
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Chuyên đề góp phần hoàn thiện lý luận cơ bản về hoạt động huy động
vốn của Ngân hàng Thương mại.
- Trên cơ sở nghiên cứu tình huống đặc thù là huy động vốn tại Ngân
Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thị xã Tam Điệp - Tỉnh Ninh
Bình, tác giả hy vọng Chuyên đề sẽ là cơ sở thực tiễn để tăng cường huy
động vốn tại Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, là
tài liệu tham khảo hữu ích cho các Ngân hàng Thương mại, các tổ chức tín
dụng khác tại Việt Nam, cũng như là tài liệu tham khảo có giá trị cho các nhà
nghiên cứu, các nhà chính sách tại Việt Nam.
6. Kết cấu của Khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Chuyên
đề gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn thị xã Tam Điệp – Tỉnh Ninh Bình
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn thị xã Tam Điệp – Tỉnh Ninh Bình
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát Ngân hàng Thương mại
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của Ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát
triển của nền sản xuất hàng hoá. Trải qua hàng trăm năm , đến nay hoạt động
của các ngân hàng thương mại đã trở thành một yếu tố không thể thiếu gắn
liền với nền kinh tế của mọi quốc gia trên thế giới .
Mỗi một quốc gia đều có một hệ thống tài chính và NHTM được coi là
trung gian tài chính quan trọng nhất trong hệ thống tài chính, là kênh dẫn
vốn từ những người thừa vốn đến những người thiếu vốn thông qua hoạt
động cốt lõi là nhận tiền gửi và cho vay vốn. Ngoài ra các NHTM còn tạo
phương tiện thanh toán thông qua việc cho vay, phát triển thanh toán trên số
dư tài khoản tiền gửi. Để việc thanh toán được thực hiện một cách nhanh
chóng, thuận tiện ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức thanh toán như: séc,
ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, các loại thẻ, thanh toán qua mạng điện tử….
Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua NH
Trung ương hoặc qua trung tâm thanh toán.
Theo pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày
24/05/1990 ( điều 1 , khoản 1 ) của Việt Nam : “ Ngân hàng thương mại là tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền
gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho
vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán ”.
Đặc điểm hoạt động kinh doanh của NHTM:

Thứ nhất, đối tượng kinh doanh của NHTM là tiền tệ - một hàng hóa
đặc biệt. Đặc điểm của tiền tệ là rất nhạy cảm và dễ bị tác động ảnh hưởng
bởi chính trị, kinh tế, xã hội, tâm lý …
Thứ hai, sản phẩm của ngân hàng là hình thức dịch vụ, mang hình thái
phi vật chất, quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được tiến hành đồng
thời với sự tham gia của các yếu tố: Khách hàng tham gia vào quá trình sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Khách hàng sẽ thể hiện nhu cầu của mình đối
với sản phẩm, đồng thời đánh giá chất lượng của sản phẩm. Bên cạnh đó,
nhân viên giao dịch trực tiếp với khách hàng, nhân viên là hình ảnh của
ngân hàng. Và yếu tố cuối cùng là cơ sở vật chất, trang thiết bị tạo điều
kiện thuận lợi trong việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ đến với khách hàng.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh của ngân hàng mang tính thông dụng,
sản phẩm của các ngân hàng có tính đồng nhất cao. Việc tạo ra sản phẩm
khác biệt, độc đáo đối với hoạt động ngân hàng là hết sức khó khăn. Ngoài
ra, sản phẩm ngân hàng là những dịch vụ tài chính với những đặc điểm vô
hình, không tách rời, không ổn định và không dự trữ được. Sản phẩm dịch
vụ ngân hàng mang tính công cộng, xã hội cao, bởi vậy bất cứ sự sơ xuất
nhỏ nào trong cung ứng sản phẩm đều có khả năng gây ảnh hưởng đến uy
tín, thương hiệu của ngân hàng.
Thứ tư, các NHTM phải chịu sự giám sát chặt chẽ và thường xuyên
của các cơ quan quản lý vĩ mô. Tính hệ thống trong kinh doanh ngân hàng
cao hơn các lĩnh vực khác. Vì nó liên quan trực tiếp đến mạng an toàn tài
chính quốc gia. Các NHTM mặc dù cạnh tranh gay gắt với nhau nhưng lại
cần có sự thống nhất về một số nghiệp vụ, đồng thời cần phải hỗ trợ nhau
về thanh khoản, vốn kinh doanh, chia sẻ rủi ro để đảm bảo an toàn cho hoạt
động của từng ngân hàng cũng như toàn hệ thống ngân hàng và của cả nền
kinh tế.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Đây là hoạt động cơ bản, quan trọng nhất , ảnh hưởng tới chất lượng hoạt

động của ngân hàng .Vốn được ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức
khác nhau như huy động dưới hình thức tiền gửi , đi vay , phát hành giấy tờ
có giá . Mặt khác trên cơ sở nguồn vốn huy động được , ngân hàng tiến hành
cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất , cho các mục tiêu phát triển
kinh tế của địa phương và cả nước . Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng
ngày càng mở rộng, tạo uy tín của ngân hàng ngày càng cao, các ngân hàng
chủ động trong hoạt động kinh doanh , mở rộng quan hệ tín dụng với các
thành phần kinh tế và các tổ chức dân cư, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Do đó các ngân hàng thương mại phải căn cứ vào chiến lược, mục tiêu phát
triển kinh tế của đất nước, của địa phương . Từ đó đưa ra các loại hình huy
động vốn phù hợp nhất là các nguồn vốn trung, dài hạn nhằm đáp ứng nhu
cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước .
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Đây là hoạt động trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp vụ
sử dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân hàng,
quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường . Do vậy ngân
hàng cần phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình sao cho
hợp lý nhất .
Một là, ngân hàng tiến hành cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê,
nhìn chung thì khoảng 60%- 75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động
cho vay. Thành công hay thất bại của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào
việc thực hiện kế hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ
chính sách cho vay của ngân hàng. Các loại cho vay có thể phân loại bằng
nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và
phương pháp hoàn trả
Hai là tiến hành đầu tư đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện
của hàng loạt những nhu cầu khác nhau.
Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi hỏi Ngân
hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung cấp

đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho
vay, ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có 2 hình thức chủ yếu mà các
ngân hàng thương mại có thể tiến hành là:
- Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn
vào các doanh nghiệp, các công ty khác.
-Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Ba là nghiệp vụ ngân quỹ.
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia
tiến hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu quan trọng đó là
hàng loạt các nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an
toàn. Nghề ngân hàng là một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động
của mình, ngân hàng không thể bỏ qua sự “an toàn”. Vì vậy, ngoài việc cho
vay và đầu tư để thu được lợi nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng một phần
nguồn vốn huy động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực
hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do Trung ương đề ra.
1.1.2.3 Các hoạt động khác
Là trung gian tài chính, ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những
lợi thế đó là ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng
hoá và dịch vụ . Để thanh toán nhanh chóng , thuận tiện và tiết kiệm chi phí,
ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán
bằng séc , uỷ nhiệm chi, nhờ thu , các loại thẻ …cung cấp mạng lưới thanh
toán điện tử , kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Mặt
khác ,các ngân hàng thương mại còn tiến hành môi giới, mua, bán chứng
khoán cho khách hàng và làm đại lý phát hành chứng khoán cho các công ty.
Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ
thác đầu tư , uỷ thác cấp phát , uỷ thác giải ngân và thu hộ…
Huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
1.2.1 Khái niệm
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo lập

hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ
kinh doanh khác. Vốn của ngân hàng được hình thành qua các nguồn khác
nhau. Để bắt đầu hoạt động của ngân hàng thì chủ ngân hàng phải có một
lượng vốn nhất định , được gọi là vốn ban đầu. Trong quá trình hoạt động ,
ngân hàng gia tăng khối lượng vốn của mình thông qua các hoạt động huy
động vốn như nghiệp vụ tiền gửi , nghiệp vụ đi vay và các nghiệp vụ khác
( dịch vụ uỷ thác , trung gian thanh toán…)
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động được từ các
tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các
nghiệp vụ tín dụng , thanh toán , các nghiệp vụ kinh doanh khác… Vốn huy
động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương
mại, nó đóng vai trò rất quan trọng trong mọi hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.
1.2.2 Vai trò của hoạt động huy động vốn đối với Ngân hàng thương mại
 Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Khác với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường,
hoạt động của ngân hàng có những đặc trưng riêng, vốn không chỉ là phương
tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là
tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường
vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Quá trình
kinh doanh tiền tệ của ngân hàng được mã hoá bằng công thức T-T’, trong đó
T là nguồn vốn bỏ ra ban đầu, T’ là nguồn vốn thu về sau một quá trình đầu
tư, tiến hành hoạt động kinh doanh: T’>T. Từ công thức này, có thể khẳng
định ngân hàng nào trường vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh trong cạnh
tranh. Vì vậy, ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết (vốn điều lệ) theo quy định
thì ngân hàng luôn phải chăm lo tới việc tăng trưởng nguồn vốn trong suốt
quá trình hoạt động của mình.
 Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
trên thương trường
Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, nếu không có uy tín

thì ngân hàng không thể tồn tại và ngày càng mở rộng hoạt động của mình.
Uy tín được thể hiện ở khả năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của ngân
hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân
hàng càng lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của
ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả dụng của
ngân hàng nói riêng. Với khả năng huy động vốn cao , ngân hàng có thể hoạt
động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động
cạnh tranh có hiệu quả, góp phần vừa giữ được chữ tín, vừa nâng cao thanh
thế của ngân hàng trên thương trường.
 Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh
tranh giúp các doanh nghiệp có khả năng tự hoàn thiện mình hơn. Với ngân
hàng vốn chính là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thực
tế đã chứng minh: quy mô vốn, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện
đại là điều kiện tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn, và nguồn vốn lớn sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với
các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về
thời hạn, lãi suất. Kết quả của sự gia tăng trên giúp ngân hàng kinh doanh đa
năng trên thị trường, phân tán rủi ro, tạo thêm vốn cho ngân hàng và khi đó,
tất yếu trên thương trường sức cạnh tranh của ngân hàng sẽ tăng lên.
1.2.3 Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
Tùy theo từng mục đích nghiên cứu khác nhau, ta có thể chia huy
động vốn theo các hình thức khác nhau:
1.2.3.1. Huy động từ nguồn tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là
mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng
cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của
dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn

tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có
nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện
nhiều hình thức huy động khác nhau.
 Phân loại tiền gửi theo thời hạn huy động
- Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền đúng như tên gọi của nó là thời gian gửi tiền không xác
định, khách hàng (cá nhân , tổ chức) có quyền rút tiền ra bất cứ lúc nào. Mục
đích của khách hàng đối với loại tiền này là hưởng những tiện ích trong thanh
toán khi có nhu cầu chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
Vì vậy đây là bộ phận tiền chỉ nhàn rỗi tạm thời chứ không phải là khoản để
dành.
-Tiền gửi có kỳ hạn :
Ngược với khoản tiền gửi không kỳ hạn, đây là khoản tiền gửi với thời
gian xác định. Nguyên tắc tiến hành khoản tiền gửi này là người gửi chỉ được
rút tiền khi đến thời hạn như đã thoả thuận có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng,
9 tháng, 1 năm hoặc trên thế nữa. Theo quy định, ngân hàng có quyền từ chối
việc rút tiền trước thời hạn của người gửi tiền. Tuy nhiên, ở một số nước, quy
định này đã được nới lỏng: các ngân hàng cho phép người gửi tiền được rút ra
trước hạn nhưng phải báo trước cho ngân hàng một khoảng thời gian nhất
định, nếu không báo trước người gửi sẽ không được hưởng lãi suất hoặc rất
thấp.
 Phân loại tiền gửi theo đối tượng huy động
- Tiền gửi của dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng
đến.Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng , họ đều có thể gửi
tiết kiệm với mục tiêu đảm bảo an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết
kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn . Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết
kiệm , các ngân hàng đều khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và
tiền mặt tại nhà bằng cách ở rộng mạng lưới huy động , đưa ra các hình thức
huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn …

- Tiền gửi của các doanh nghiệp , các tổ chức xã hội .
Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt đông sản xuất kinh doanh nên các
đơn vị này thường gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng tiện
ích trong thanh toán. NHTM là một trung gian tài chính, nó quan hệ với các
đối tượng này thông qua việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức
kinh tế và đáp ứng yêu cầu thanh toán của họ. Do có sự đan xen giữa các
khoản phải thu và các khoản phải thanh toán nên ngân hàng luôn tồn tại một
số dư tiền gửi nhất định, điều này lí giải vì sao ngân hàng huy động được
nhiều nguồn vốn nhất trong lĩnh vực này, có chi phí thấp và được sử dụng cho
vay không chỉ ngắn hạn mà còn cả trung hạn. Tuy nhiên nguồn này có hạn
chế là tính ổn định và độ lớn phụ thuộc vào quy mô, loại hình của doanh
nghiệp.
o Phân loại theo mục đích tiền gửi
- Tiền gửi tiết kiệm :
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi vào
ngân hàng, nhằm hưởng lãi suất theo qui định . Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận
thu nhập bằng tiền của các cá nhân chưa sử dụng được gửi vào các tổ chức tín
dụng . Nó là một dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ, trong tiêu dùng cá nhân .
Khi gửi tiền người gửi được giao một sổ tiết kiệm coi như giấy chứng nhận
tiền gửi vào ngân hàng . Đến thời hạn khách hàng rút tiền ra được nhận một
khoản tiền lãi trên tổng số tiền lãi trên tổng số tiền gửi tiết kiệm .Có hai loại
tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn .
- Tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán
Đây là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để
nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ . Trong phạm vi số dư cho phép , các nhu
cầu chi trả của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều được ngân hàng thực hiện .
Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều có thể được nhập
vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu . Lãi suất của khoản tiền này rất thấp ,
thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ của ngân hàng với

mức phí thấp.
- Tiền gửi “ lai ” ( vừa tiết kiệm vừa giao dịch )
Đây là loại tiền gửi mà người gửi vừa có thể yêu cầu ngân hàng thanh toán
hộ , vừa có thể hưởng lãi suất định kỳ như một khoản tiền gửi tiết kiệm.Tuy
nhiên , lãi suất của khoản tiền này thường không cao như lãi suất tiền gửi tiết
kiệm bởi tính cố định của khoản gửi , ngân hàng có thể không sử dụng được
hoặc sử dụng rất ít số vốn huy động này để cho vay hoặc đầu tư.
1.2.3.2. Huy động từ nguồn đi vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại . Tuy nhiên
khi cần các ngân hàng thường vay mượn thêm . Tại nhiều nước , ngân hàng
Trung ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ.
Do vậy nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để
đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế vay NHNN
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của các
ngân hàng thương mại Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ , ngân hàng thương
mại thường vay ngân hàng Nhà nước . Hình thức cho vay chủ yếu của ngân
hàng nhà nước là tái chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn ) . Thông thường , ngân
hàng Nhà nước chỉ chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng ( thời
gian đáo hạn ngắn , khả năng trả nợ cao ) và phù hợp với mục tiêu của ngân
hàng Nhà nước trong từng thời kỳ . Trong điều kiện chưa có thương phiếu ,
ngân hàng nhà nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp
vốn theo hạn mức tín dụng nhất định .
- Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín
dụng khác trên thị trường liên ngân hàng . Các ngân hàng đang có lượng dự
trữ vượt yêu cầu sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm
lãi suất cao hơn . Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu
vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản . Như vậy nguồn vay các ngân
hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều
trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà

nước .
- Vay trên thị trường vốn
Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động một cách chủ động trên thị trường tài
chính. Là trung gian tài chính, phải luôn đáp ứng nhu cầu về vốn, do vậy việc
ngân hàng thiếu vốn là điều không thể tránh khỏi. Trong những trường hợp
này, ngân hàng có thể sử dụng nghiệp vụ huy động vốn trên thị trường tài
chính: phát hành các giấy tờ có giá trị như các giấy tờ vay nợ ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn. Việc chuyển nhượng các giấy tờ trên từ chủ sở hữu này sang
chủ sở hữu khác phụ thuộc vào thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng .
Ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu và phát hành trái phiếu. Trái phiếu là một
giấy tờ có giá , xác nhận khoản nợ của khách hàng đối với người chủ ngân
hàng với cam kết như thanh toán một số tiền xác định vào một ngày xác định
trong tương lai với thời hạn xác định cho trước.
Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát
hành nhằm huy động vốn trong dân cư, chủ yếu là để phục vụ cho những kế
hoạch kinh doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một chương trình
kinh doanh…
1.2.3.3. Huy động từ nguồn khác
Ngoài các nguồn trên , ngân hàng còn thực hiện huy động vốn thông qua
nguồn uỷ thác , nguồn trong thanh toán , các nguồn khác.
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay ,
uỷ thác đầu tư , uỷ thác cấp phát , uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động
này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng . Ngoài ra , các hoạt động thanh toán
không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá
trình chi trả , tiền ký quỹ để mở L/C …) . Các khoản nợ khác như thuế chưa
nộp, lương chưa trả …cũng góp phần làm tăng nguồn huy động trong công
tác huy động vốn của ngân hàng thương mại .
1.2.4 Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động huy động vốn của NHTM
1.2.4.1 Quy mô, tốc độ tăng trưởng vốn huy động
Để đánh giá kết quả huy động vốn các NHTM thường dùng chỉ tiêu:

- Khối lượng vốn huy động hiện tại
Công tác huy động vốn đạt hiệu quả khi đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng vốn,
đạt một quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của ngân hàng
- Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch huy động :
Chỉ tiêu này cho biết quy mô vốn huy động được, nếu tỷ lệ hoàn thành
kế hoạch lớn hơn 100% tức là lượng vốn huy động thực tế lớn hơn kế hoạch.
Khi đó NHTM phải có kế hoạch sử dụng số vốn thừa, nếu không lợi nhuận
sẽ giảm do chi phí sẽ tăng do vẫn phải trả lãi và các chi phí hoạt động khác
trong khi đó lại không thu thêm được phần lợi nhuận của số vốn tạm thời dư
thừa đó. Ngược lại nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 100% NHTM bị thiếu hụt nguồn
vốn.
- Tốc độ tăng trưởng vốn huy động:
Để đánh giá việc tăng cường huy động vốn , bên cạnh chỉ tiêu quy mô
vốn tiền gửi dân cư huy động, các NHTM còn sử dụng chỉ tiêu tốc độ tăng
trưởng vốn huy động. Quy mô vốn huy động chỉ phản ánh sự gia tăng nguồn
vốn về số lượng tuyệt đối, tức là chỉ xem xét ở con số tuyệt đối của từng năm
một cách đơn lẻ, vì vậy sẽ không phản ánh được đầy đủ khả năng huy động
vốn của NHTM qua các năm.
Ta có chỉ tiêu tăng trưởng vốn huy động qua các thời kỳ:
Chỉ tiêu này cho biết sự mở rộng về quy mô của vốn huy động, đồng
thời cũng phản ánh sự biến động của nguồn vốn. Trong trường hợp tốc độ
tăng trưởng vốn > 0 thì số vốn NHTM huy động được tăng và ngược lại nếu
<0 thì số vốn NHTM huy động giảm. Vốn huy động của NHTM mà gia tăng
với những tỷ lệ xấp xỉ nhau trong nhiều năm thể hiện một sự tăng trưởng vốn
ổn định.
1.2.4.2. Sự đa dạng của hình thức huy động vốn
Hình thức huy động vốn là những cách thức ngân hàng sử dụng để thu hút
nguồn vốn. Hình thức huy động càng đa dạng thì vốn chảy vào ngân hàng
càng nhiều. Sự đa dạng các công cụ huy động được thể hiện trước hết là ở số
lượng các công cụ ngân hàng sử dụng. Tuỳ theo đặc điểm, mục tiêu chiến

lược kinh doanh, mỗi ngân hàng đưa ra những loại công cụ huy động. Thực
tế, số lượng các công cụ huy động càng nhiều thì ngân hàng càng có nhiều
điều kiện thu hút được vốn, tuy nhiên số lượng các công cụ vốn lại bị hạn chế
bởi khả năng quản lý của ngân hàng. Một ngân hàng sử dụng nhiều công cụ
huy động vốn không hoàn toàn đồng nghĩa với việc công tác huy động vốn
của ngân hàng đó có hiệu quả tốt, mà nó chỉ được coi là có hiệu quả khi
những công cụ đó thực sự thích hợp với ngân hàng.
1.2.4.3 Cơ cấu vốn huy động
Cơ cấu vốn huy động phải xuất phát từ kế hoạch sử dụng vốn về kỳ
hạn, danh mục, số lượng ngoại tệ, lãi suất cho vay…để có chiến lược huy
động sao cho có hiệu quả nhất. Trên cơ sở đó, ngân hàng sẽ xây dựng cơ cấu
vốn huy động hợp lý về thời hạn gửi (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn), về loại
tiền (nội tệ và ngoại tệ), về đối tượng gửi tiền (dân cư và các tổ chức kinh tế,
xã hội). Cơ cấu vốn huy động thể hiện ở tỷ trọng từng nguồn tiền huy động
trong tổng nguồn vốn đã huy động. Trong trường hợp sự tăng trưởng về quy
mô vốn huy động khá phù hợp với quy mô tăng trưởng của dư nợ song lại
không phù hợp về cơ cấu thì sẽ dẫn đến tình trạng chi phí đầu vào của ngân
hàng tăng nếu huy động tiền gửi trung dài hạn lớn hơn nhiều so với dư nợ
cho vay trung dài hạn và khả năng rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất sẽ cao
nếu tiền gửi trung dài hạn nhỏ hơn nhiều so với dư nợ cho vay trung dài hạn.
Điều tương tự cũng sẽ xảy ra trong trường hợp không có sự phù hợp về loại
tiền tệ trong cơ cấu huy động vốn và cho vay. Do đó, ngay cả khi ngân hàng
huy động được nhiều vốn nhưng hiệu quả kinh doanh vẫn không cao. Cơ cấu
vốn huy động hợp lý có thể đáp ứng được tối đa nhu cầu sử dụng vốn góp
phần đem lại lợi nhuận cao hơn cho các NHTM.
1.2.4.4 Chi phí vốn huy động
Chi phí huy động vốn của NH bao gồm chi phí trả lãi, chi phí hoạt
động và các chi phí khác. Trong tổng chi phí huy động vốn thì chi phí trả lãi
là khoản chi phí chiếm tỷ trọng lớn nhất, vì vậy có ảnh hưởng quyết định đối
với lợi nhuận của NH. Lãi suất chi trả càng cao có thể huy động được nguồn

tiền gửi lớn. Tuy nhiên, lãi suất cao làm gia tăng chi phí của NH và nếu thu
nhập tăng không tương ứng với tăng chi phí, lợi nhuận của NH sẽ giảm đi
tương ứng.
Chi phí huy động tiền gửi dân cư được đánh giá qua các chỉ tiêu lãi suất
huy động. Lãi suất huy động tiền gửi bình quân đánh giá sự hợp lý trong cơ
cấu huy động hay chất lượng nguồn tiền gửi huy động của ngân hàng. Chỉ tiêu
này đánh giá khả năng cạnh tranh của NH thông qua so sánh lãi suất huy động
tiền gửi bình quân của NH với mặt bằng lãi suất chung hoặc với lãi suất bình
quân của NH khác.
Ngoài ra chỉ tiêu về lãi suất huy động còn thể hiện qua số chênh lệch
giữa lãi suất cho vay bình quân với lãi suất huy động bình quân. Các chỉ tiêu
trên cho thấy khi chênh lệch lãi suất đầu ra - đầu vào càng lớn thì lợi nhuận
thu được sẽ càng lớn, hiệu quả kinh doanh ngân hàng càng cao và ngược lại.
Chi phí huy động thấp là một trong những điều kiện cơ bản giúp NHTM tăng
khả năng sinh lời nhưng ít gặp rủi ro. Ưu thế này thường gặp ở các NHTM
hoạt động mạnh, trường vốn, có uy tín cao, năng lực quản trị của Ban Giám
đốc tốt, nhân viên có chuyên môn giỏi, khả năng giải quyết vấn đề nhanh,
thái độ phục vụ khách hàng lịch sự. Vì vậy, các ngân hàng luôn phấn đấu đạt
được chi phí huy động bình quân hợp lý nhất, đảm bảo đáp ứng được nhu
cầu cho vay, chênh lệch lãi suất huy động và cho vay lớn nhất có thể và đảm
bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại
1.3.1. Nhân tố chủ quan
• Các hình thức huy động vốn và chất lượng các dịch vụ do ngân hàng
cung ứng, hệ thống mạng lưới
Hình thức huy động vốn của ngân hàng đưa ra càng phong phú, đa dạng
linh hoạt và thuận tiện thì khả năng thu hút vốn trong nền kinh tế càng lớn,
xuất phát từ sự khác nhau về nhu cầu và tâm lý trong dân cư . Chính sự đa
dạng hoá các hình thức huy động vốn của Ngân hàng đã giúp cho mỗi người
dân, mỗi doanh nghiệp tìm được cho mình một hình thức đầu tư hợp lý nhất.

Khi các ngân hàng thương mại đưa ra các hình thức huy động vốn ngày
càng đa dạng và hợp lý, cùng với việc mở rộng hệ thống màng lưới hoạt động,
và nâng cao chất lượng hoạt động các dịch vụ ngân hàng, từ đó thu hút ngày
càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân
hàng trong việc huy động vốn . Ngược lại khi các hình thức huy động vốn của
ngân hàng chưa đa dạng, phong phú, chất lượng hoạt động dịch vụ chưa cao,
hệ thống mạng lưới còn ít, chưa thuận lợi cho khách hàng trong việc giao dịch
với ngân hàng, thì nó sẽ ảnh hưởng không tốt tới huy động vốn của ngân
hàng.
Hiện nay với sự đổi mới sâu sắc của ngành ngân hàng, các ngân hàng
thương mại không ngừng đổi mới về khoa học, công nghệ, về phong cách
giao dịch, mở rộng các hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng, phát triển
thêm mạng lưới hoạt động từ chi nhánh cấp 3, cấp 4, các ngân hàng lưu động,
và các ngân hàng hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp,
kinh doanh dịch vụ
• Chất lượng hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc huy động
tiền gửi vào hệ thống ngân hàng. Do vậy nếu nghiệp vụ sử dụng vốn không
hiệu quả tất yếu dẫn đến việc huy động vốn bị thu hẹp lại . Khi sử dụng vốn
kém hiệu quả, làm thất thoát vốn nhiều dẫn đến lòng tin của dân chúng vào
ngân hàng bị giảm đi . Từ đó sẽ rất khó khăn cho các hình thức huy động các
nguồn vốn nhàn rỗi . Mặt khác hoạt động tín dụng hiệu quả tạo cho các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế kinh doanh có hiệu quả, thu nhập xã hội ngày càng
tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm, đời sống của dân cư ngày càng nâng cao, nguồn
vốn nhàn rỗi ngày càng tăng, tạo cho nguồn vốn ngân hàng huy động ngày
càng tăng trưởng để thực hiện đầu tư cho các chu kỳ sản xuất tiếp theo .
• Uy tín của ngân hàng
Có thể gọi đây chính là tài sản vô hình của ngân hàng. Uy tín bao gồm uy
tín của ngân hàng trong toàn hệ thống, của các thành viên trong hội đồng
quản trị, ban giám đốc. Sự nổi tiếng của ngân hàng là tài sản quý trong công

tác huy động vốn vì trong lòng thị trường ngân hàng đã tạo một hình ảnh
riêng, khi đó khách hàng sẽ tin tưởng vào ngân hàng, giúp ngân hàngcó khả
năng ổn định khối lượng vốn huy động, tiết kiệm chi phí huy động (thực tế
khi ngân hàng có tiếng tăm, họ dễ dàng thu hút vốn hơn các ngân hàng khác
ngay cả khi lãi suất tiền gửi của ngân hàng đưa ra có thấp hơn).
• Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể.
Chiến lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí
hiện tại của mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội
thách thức đồng thời dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh
trong tương lai. Thông qua chiến lược kinh doanh ngân hàng ngân hàng sẽ có
thể quyết định thu hẹp hay mở rộng việc huy động vốn về mặt quy mô, có thể
thay đổi tỷ lệ các loại nguồn, tăng hay giảm chi phí huy động. Với tác dụng to
lớn như vậy, nếu chiến lược kinh doanh được lựa chọn đúng đắn, các nguồn
vốn được khai thác một cách tối đa thì công tác huy động vốn sẽ phát huy
được hiệu quả.
• Trình độ công nghệ ngân hàng
Trình độ công nghệ ngân hàng bao gồm cơ sở vật chất phục vụ ngân hàng;
các loại hình dịch vụ ngân hàng cung ứng; trình độ nghiệp vụ của cán bộ,
nhân viên ngân hàng.
Cơ sở vật chất của ngân hàng càng khang trang hiện đại, công nghệ tiên
tiến mang lại lợi ích thiết thực cho kinh doanh, luôn tạo điều kiện thuận lợi và
phục vụ cho khách hàng tốt hơn, tạo lòng tin cho khách hàng. Thực tế khách
hàng sẽ tin tưởng yên tâm hơn khi gửi tiền ở một ngân hàng có trình độ công
nghệ trình độ công nghệ ngân hàng cao. Và khi khách hàng đã thực sự yên
tâm gửi tiền thì ngân hàng dễ dàng trong việc huy động.
• Năng lực, trình độ , đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng
Nếu ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự , tài sản nợ , tài sản có , tức là
trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình , ngân hàng dự đoán được
những rủi ro xảy ra , dự đoán được môi trường đầu tư của mình có hiệu quả

hay không thì quá trình hoạt động của ngân hàng đảm bảo được an toàn vốn,
tăng uy tín , tạo điều kiện thu hút khách hàng gửi tiền cũng như vay tiền.
Mặt khác , trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng càng cao , mọi thao
tác nghiệp vụ thực hiện nhanh chóng , chính xác , có hiệu quả ; thái độ phục
vụ , tác phong làm việc của cán bộ ngân hàng tốt , nhiệt tình , cởi mở , tạo
thuận lợi cho khách hàng sẽ gây được ấn tượng tốt đối với khách hàng , thu
hút được nhiều khách hàng hơn . Thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng đối
với khách hàng có ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn cho ngân hàng . Do
đó , để thu hút khách hàng gửi tiền , đi đôi với việc trau dồi kiến thức , nghiệp
vụ , cán bộ ngân hàng phải thường xuyên chú ý đến thái độ phục vụ của mình
sao cho vừa lòng khách hàng .
Các ngân hàng thương mại hiện nay đã từng bước học tập và ứng dụng
nghệ thuật thông tin quảng cáo , các hình thức khuyến mãi…Tuy việc đầu tư
cho công tác này còn hạn chế , nhưng có thể nói đây cũng là mặt mạnh của
ngành ngân hàng trong việc cạnh tranh để huy động tiền gửi . Thông tin
quảng cáo , tiếp thị khuyến mại , các dịch vụ hậu mãi rõ ràng sẽ phát triển
mạnh mẽ trong cơ chế thị trường . Và tuỳ vào chu kỳ sống của sản phẩm dịch
vụ mà ngân hàng cung cấp để các nhà quản trị ngân hàng chọn thời điểm ,
thời gian sử dụng , chiến lược quảng cáo khuyến mãi cũng như hậu mãi phù
hợp.
1.3.2 Nhân tố khách quan
• Thứ nhất là môi trường pháp lý
Như chúng ta đã biết, hoạt động của ngân hàng có mức độ ảnh hưởng, tác
động hết sức mạnh mẽ đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Cụ thể
việc huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng đều tác động trực tiếp đến
tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của các chủ thể, tốc độ chu
chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát. Chính vì lẽ đó, hoạt động
của ngân hàng phải chịu sự quản lý chặt chẽ gắt gao hơn so với các doanh
nghiệp khác. Thực tế là ngân hàng phải chịu sự điều chỉnh của rất nhiều chính
sách, các quy định của chính phủ , của NHTW; đó là Luật các tổ chúc tín

dụng, luật kinh tế, luật dân sự, hàng loạt hệ thống các quy định cụ thể trong
từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ, hạn mức. Trong sự ràng buộc về luật pháp này
thì các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn chắc chắn sẽ bị thay đổi và kết quả
làm ảnh đến quy mô và hiệu quả của việc huy động vốn. Bởi khi chính sách
của Nhà nước, của NHTW: chính sách tiền tệ, tài chính, lãi suất, tín dụng thay
đổi sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất lượng nguồn vốn
của NHTM.
• Thứ hai là môi trường kinh tế - chính trị - xã hội
Hoạt động của NHTM nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng
không thể thoát ly khỏi môi trường kinh doanh đặc biệt là môi trường kinh tế
- chính trị - xã hội .
Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động huy động vốn và sử
dụng vốn luôn bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng , thu nhập , tình
trạng thất nghiệp , lạm phát … tác động trực tiếp. Khi nền kinh tế tăng trưởng,
sản xuất phát triển , từ đó tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn , do đó tạo môi
trường cho việc thu hút vốn của ngân hàng thuận lợi . Ngược lại , khi nền
kinh tế suy thoái , lạm phát tăng làm cho môi trường đầu tư của ngân hàng bị
thu hẹp khiến quá trình tạo vốn của ngân hàng gặo khó khăn .
Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu môi trường chính trị không
ổn định. Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động
mạnh mẽ đến quan hệ vốn của ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực
và trên thế giới. Điều này cũng là nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động
vốn của ngân hàng.
Nhân khẩu học cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới nguồn vốn thông qua
việc phân bổ dân cư , trình độ , lứa tuổi …Ngân hàng cũng nên xem xét yếu
tố này trong hoạt động huy động vốn của mình
• Thứ ba là môi trường văn hoá
Môi trường văn hoá là yếu tố quyết định đến tập quán , tâm lý , thói quen
trong việc sử dụng tiền của dân cư . Và những tập quán tiêu dùng này sẽ ảnh
hưởng đến nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng . Nếu ở những vùng mà người

dân quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ thì việc huy động
vốn của ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn .
Hơn nữa , mức độ chấp nhận rủi ro của xã hội , thói quen tích luỹ ảnh
hưởng đến quyết định của những thành viên trong xã hội về phương thức tiêu
dùng và tiết kiệm , giữ tiền ở nhà , gửi tiền ở ngân hàng , đầu tư vào chứng
khoán hoặc bất động sản …
• Thứ tư là yếu tố cạnh tranh trên thị trường tài chính
Hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng có sự tham gia của nhiều loại
hình ngân hàng mới và các tổ chức tài chính phi ngân hàng . Do đó , cạnh
tranh có xu hướng gia tăng mạnh , làm giảm đi sự khác biệt giữa ngân hàng
thương mại với các tổ chức tài chính phi ngân hàng . Xu hướng cạnh tranh
trong ngành ngân hàng càng gia tăng do các yếu tố như thay đổi chính sách tài
chính tiền tệ , đổi mới tài chính của doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ…
Cạnh tranh về tiền gửi diễn ra dưới nhiều hình thức . Các ngân hàng có thể
áp dụng những điều kiện giống nhau cho tất cả các khách hàng gửi tiền . Vì lý
do này , các sản phẩm dịch vụ liên quan đến tiền gửi được mở rộng và được
phổ biến nhanh chóng . Thêm vào đó , nhiều tổ chức tài chính phi ngân hàng
có thể huy động tiền gửi có kỳ hạn , thậm chí còn cung cấp các tài khoản
không kỳ hạn .
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THỊ XÃ TAM ĐIỆP
TỈNH NINH BÌNH
2.1 Khái quát về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nong thôn thị xã
Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Tam Điệp là một thị xã trẻ , ra đời ngày 17/12/1982 nằm ở phía Tây
Nam tỉnh Ninh Bình
Địa bàn thị xã Tam Điệp nhỏ hẹp , nhưng có tới 6 tổ chức tín dụng ( 3
Ngân hàng TMQD , 3 quỹ tín dụng nhân dân), kho bạc Nhà nước ,bưu điện

thị xã Tam Điệp cùng tham gia trong lĩnh vực huy động vốn tạo nên sự canh
tranh gay gắt về sản phẩm và giá. Tuy nhiên NHNo & PTNT thị xã Tam Điệp
là Ngân hàng lớn nhất cả về tiềm lực tài chính ,mạng lưới tổ chức , thâm niên
hoạt động nên đã có uy tín lớn với khách hàng trên địa bàn thị xã Tam Điệp.
NHNo & PTNT thị xã Tam Điệp ra đời vào đầu tháng 3 năm 1983 xuất
phát từ phòng giao dịch thị trấn Tam Điệp , khi đó cơ sở vật chất của ngân
hàng còn nghèo nàn lạc hậu , chỉ có 17 cán bộ . Năm 1986 ngân hàng có tách
tỉnh Hà Nam Ninh thành 2 tỉnh Nam Hà và Ninh Bình thì ngân hàng đổi tên
thành Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Thị Xã Tam Điệp
thuộc NHNo & PTNT Tỉnh Ninh Bình.
NHNo & PTNT thị xã Tam Điệp có trụ sở chính tại tổ 10A phường Bắc
Sơn thị xã Tam Điệp Tỉnh Ninh Bình gồm một hội sở và 4 phòng giao dịch
với tổng số cán bộ là 54 người :
Trong đó : Trình độ đại học : 44 người
Trình độ cao đẳng : 6 người
Trình độ trung cấp : 4 người
Bước sang năm 2013 , NHNo&PTNT Thị Xã Tam Điệp tiếp tục thực hiện các
định hướng , mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động mở rộng các loại
hình kinh doanh mới , giữ gìn uy tín trong kinh doanh. Cụ thể là :
Củng cố và phát triển thị trường nông thôn theo phương thức cho vay trực
tiếp tới hộ sản xuất.
Gắn tín dụng thương mại với đầu tư phát triển , thúc đẩy quá trình liên kết
các thành phần kinh tế , đặc biệt là cho vay phát triển nông thôn.
Mở rộng các nghiệp vụ , dịch vụ ngân hàng trên cơ sở hiện đại hóa công
nghiệp ngân hàng.
Mở rộng các lĩnh vực cho vay có rủi ro thấp như : các Tổng công ty lớn ,
các doanh nghiệp trọng yếu của Nhà nước , hộ sản xuất chương trình chỉ
định…
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức được bố trí sắp xếp như sau :

Ban giám đốc gồm 3 người: 1 Giám đốc điều hành chung mọi hoạt động của
đơn vị.
1 Phó giám đốc phụ trách chung về mọi hoạt động kinh doanh.
1 Phó giám đốc phụ trách kế toán kho quỹ.
-Số cán bộ được bố trí thành 7 phòng nghiệp vụ:
+ Phòng Tín dụng : 12 người.
+ Phòng Kế toán ngân quỹ : 11 người.
+ Phòng Tổ chức - Hành chính : 7 người.
+ Phòng giao dịch Nam Sơn : 5 người
+ Phòng giao dịch Ngặt Kéo : 5 người.
+ Phòng giao dịch Yên Bình : 5 người.
+ Phòng giao dịch Trung Sơn : 5 người.
Sơ đồ mô hình tổ chức NHNo & PTNT Thị Xã Tam Điệp:
Ghi chú: Chỉ đạo trực tiếp.
Kiểm tra đôn đốc về mặt nghiệp vụ chuyên môn.
Ở ngân hàng cấp 3 được hoạt động gồm 2 tổ: Tổ tín dụng và Tổ kế toán
hoạt động dưới sự chỉ đạo của một giám đốc và một phó giám đốc . Mọi giao
dịch đều được thực hiện trên máy tính , hoạt động độc lập lấy thu bù chi , cuối
ngày khóa sổ nộp tiền về Hội sở giao dịch chính .
Căn cứ vào tình hình thực tế của mình và nhu cầu của khách hàng
NHNNo&PTNT thị xã Tam Điệp đã dần đổi mới về tổ chức , mở rộng mạng
lưới hoạt động đến tận các thôn xã đấp ứng kịp thời thuận tiện các nhu cầu
của khách hàng . Chú trọng đến đầu tư hiện đại hóa công nghệ , đào tạo
chuyên sâu cho các cán bộ nhân viên , xắp xếp bố trí công việc phù hợp với
năng lực của từng người , tăng cường đội ngũ cán bộ tín dụng trực tiếp xuống
dân làm công tác huy động vốn và đầu tư cho vay , đảm bảo cho hoạt động
kinh doanh ngân hàng an toàn hiệu quả.
GIÁM ĐỐC
PHÒNG
TÍN DỤNG

PHÒNG KẾ TOÁN
NGÂN QUỸ
PHÒNG
TỔ CHỨC - HC
Phòng
giao dịch
Nam Sơn
Phòng
giao dịch
ngặt kéo
Phòng
giao dịch
Yên Bình
Phòng
giao dịch
Trung Sơn

×