Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

hoàn thiện công tác phân tích tài chính dn trong hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương việt nam – chi nhánh đống đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.61 KB, 90 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
DN : Doanh nghiệp
BCTC : Báo cáo tài chính
BCKQHĐKD : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
BCLCTT : Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
BCĐKT : Bảng cân đối kế toán
NHTMCPCTVN : Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam
NHCT Đống Đa : Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam
– Chi nhánh Đống Đa
QHKH : Quan hệ khách hàng
QLRR : Quản lý rủi ro
CBTĐ : Cán bộ thẩm định
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2012 là một năm đầy những khó khăn, thử thách đối với nền kinh tế nói
chung và đối với hệ thống ngân hàng nói riêng. Nhiệm vụ hết sức nặng nề cần giải
quyết trong thời gian sắp tới là cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, cơ cấu lại các DN và
hoạt động đầu tư, trong đó cơ cấu lại hệ thống ngân hàng là một công việc hết sức
khó khăn và phức tạp. Đây không chỉ là nhiệm vụ của toàn ngành ngân hàng mà còn
là nhiệm vụ của các DN và toàn xã hội. Để thực hiện việc cơ cấu lại hệ thống ngân
hàng với một kết quả tốt, công việc đầu tiên phải giải quyết tốt là vấn đề nợ xấu ở các
tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại. Tỷ lệ nợ xấu cao như hiện nay là hệ quả
tất yếu của nhiều năm chất lượng tín dụng yếu kém ở các ngân hàng, mà trong đó
nguyên nhân chính là việc quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại còn
yếu kém. Do vậy nếu chỉ quan tâm đến việc xử lý nợ xấu mà không thực hiện các
biện pháp phòng, tránh các rủi ro nhằm nâng cao chất lượng tín dụng thì sau vài năm
tiếp theo thì nợ xấu vẫn còn tồn tại và có thể gây tác hại hơn trước. Một trong các
biện pháp phòng và tránh rủi ro tín dụng chính là việc sàng lọc khách hàng cho vay


một cách kỹ càng, chỉ cho vay đối với các cá nhân, tổ chức có tình hình tài chính lành
mạnh và khả năng sinh lời tốt đồng thời đảm bảo các yêu cầu khác của ngân hàng. Để
thực hiện được điều đó điều kiện tiên quyết chính là thực hiện tốt công tác phân tích
tài chính DN trong hoạt động cho vay của ngân hàng khi cho vay đối với khách hàng
DN chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng dư nợ của ngân hàng.
Trong bối cảnh đó, sau thời gian thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Công thương Việt Nam - chi nhánh Đống Đa, em nhận thấy hoàn thiện công tác
phân tích tài chính DN trong hoạt động cho vay là yêu cầu bức thiết nhằm nâng cao
chất lượng tín dụng cũng như kết quả kinh doanh của chi nhánh. Do đó, em đã chọn
đề tài : “Hoàn thiện công tác phân tích tài chính DN trong hoạt động cho vay tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – chi nhánh Đống Đa”
làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương không kể lời mở đầu và kết luận:
Chương 1: Công tác phân tích tài chính doành nghiệp trong hoạt động cho
vay của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính DN trong hoạt động cho
vay của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – chi nhánh Đống
Đa trong năm 2009 – 2011.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính DN trong hoạt
động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – chi
nhánh Đống Đa.
1
Tình hình và số liệu để viết chuyên đề này là từ năm 2009 - 2011, đồng thời
có tính tới tình hình của năm 2012.
Hoàn thành bản chuyên đề tốt nghiệp này là nhờ có sự giúp đỡ tận tình của
Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – chi nhánh Đống Đa mà
trước hết là ban giám đốc của chi nhánh. Đồng thời em xin cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ
bảo tận tình của các anh, các chị trong phòng Khách hàng 2, trực tiếp là chị Hoàng
Thị Lan Phương - Trưởng phòng, chị Bùi Lê Trà Loan, chị Trần Thị Phương
Giang… đã cung cấp cho em rất nhiều tình hình, số liệu trong hoạt động kinh doanh

của chi nhánh nói chung và công tác phân tích tài chính DN trong hoạt động cho
vay nói riêng, để em có thể hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp này.
Sau cùng em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của thầy
GVC Lục Diệu Toán trong suốt quá trình làm bản chuyên đề tốt nghiệp này. Xin
cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Kinh tế quốc dân, Viện Ngân hàng –
Tài chính đã dạy dỗ em trong suốt 4 năm học ở trường.
Dù có nhiều nỗ lực, cố gắng của bản thân song chuyên đề không thể tránh
khỏi có những sai sót. Do vậy, em rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của các
thầy cô để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn.
Hà Nội, ngày 05 tháng 12 năm 2012
Sinh viên: Trần Thị Hoa Lê
2
CHƯƠNG I
CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay của NHTM:
1.1.1. Khái niệm:
Theo khoản 14, điều 4 - Luật Các tổ chức tín dụng 2010, ta có khái niệm :
“ Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản
tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả
bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”. Đối với các Ngân hàng thương mại
(NHTM), tín dụng thường chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản đồng thời nó là
tài sản mang lại tổng thu lãi cao nhất. Tuy nhiên, nó có tính thanh khoản thấp do
phải phụ thuộc vào kế hoạch hoàn trả nợ vay, khả năng trả nợ của khách hàng và sự
phát triển của thị trường mua bán nợ.
Trong các nghiệp vụ tín dụng thì cho vay là hình thức cấp tín dụng phổ biến
nhất và cũng là quan trọng nhất đối với các NHTM. Theo đó, ngân hàng giao hoặc
cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định

trong một thời gian nhất định theo thoản thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và
lãi ( khoản 16, điều 4 - Luật Các tổ chức tín dụng 2010).
1.1.2. Nguyên tắc cho vay của NHTM:
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, do đó hoạt động cho vay của NHTM
cũng dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo mục tiêu an toàn và sinh
lời trong chính sách quản lý tín dụng của NHTM. Các nguyên tắc đó đã được cụ thể
hóa trong các quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các NHTM.
Nguyên tắc cho vay chính là cơ sở để NHTM đưa ra các quy định trong suốt
quá trình cho vay, đồng thời nó cũng là căn cứ để đưa ra các quyết định xử lý khi
quá trình cho vay nảy sinh các vấn đề:
- Một là, khách hàng phải cam kết sử dụng vốn vay theo mục đích được thỏa
thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định
khác của ngân hàng cấp trên.
Đây là điều kiện chuyển tiếp để xét phương án, dự án kinh doanh của khách
hàng có hiệu quả hay không? Đồng thời nó cũng là căn cứ để ngân hàng kiểm soát
việc vay vốn của khách hàng trong suốt quá trình cho vay.
3
- Hai là, ngân hàng tài trợ dựa trên phương án hoặc dự án có hiệu quả. Đây
là căn cứ đánh giá tính thực tiễn, hợp lý của nhu cầu vay vốn cũng như nguồn trả nợ
của khách hàng.
- Ba là, khách hàng phải cam kết hoàn trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn đã
thỏa thuận với ngân hàng.
Nguyên tắc thứ ba là sự phát triển và là kết quả của 2 nguyên tắc trên.
Phương án/ dự án kinh doanh có khả thi, hiệu quả và sử dụng vốn vay vào đúng
mục đích đã đặt ra ban đầu thì người vay mới có khả năng thu hồi vốn đầu tư và có
lãi để trả nợ ngân hàng; khi đó ngân hàng mới cho vay. Có một số trường hợp,
khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích thỏa thuận, nhưng vẫn chủ động cân đối
được các nguồn khác để trả nợ ngân hàng đầy đủ, tuy nhiên điều này vẫn chứa đựng
nhiều rủi ro cho ngân hàng.
Trong trường hợp có dấu hiệu kém an toàn, ngân hàng sẽ đòi hỏi người vay

phải có tài sản đảm bảo khi vay. Tài sản đảm bảo có ý nghĩa nhằm để nâng cao trách
nhiệm của khách hàng trong việc sử dụng vốn vay, đồng thời nó cũng tạo ra nguồn
trả nợ thứ hai cho ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả được nợ.
1.1.3. Phân loại cho vay:
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại hoạt động cho vay:
(1) Phân loại theo kì hạn:
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn từ 12 tháng trở xuống và
các NHTM thường cho vay để tài trợ tài sản lưu động đối với khách hàng DN hoặc
các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn, các món vay có giá trị nhỏ của khách hàng cá nhân.
- Cho vay trung hạn: với thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Loại cho vay này
thường được NHTM tài trợ cho khách hàng để đầu tư, mua sắm các tài sản cố định,
cải tiến và đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh hay xây dựng
các dự án có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn với thời hạn: từ 5 năm trở lên và tối đa có thể lên tới 20
đến 30 năm, đây là hình thức cho vay để đáp ứng các nhu cầu dài hạn và có thời
gian thu hồi vốn chậm.
(2) Phân loại theo đối tượng cho vay:
- Cho vay khách hàng cá nhân: Đây là hình thức cho vay nhằm đáp ứng các
nhu cầu tiêu dùng của khách hàng như: mua sắm nhà cửa, các vật dụng đắt tiền; để
trang trải các khoản phí thường ngày hay cho vay để chữa bệnh, cho vay để đi du
học…
- Cho vay khách hàng doanh nghiệp( DN): cho vay để đáp ứng nhu cầu sản
xuất kinh doanh, đầu tư dự án của các DN.
4
- Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cho vay các ngân hàng, công ty
tài chính, công ty bảo hiểm, công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng và các định chế
tài chính khác.
(3) Phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay hay theo uy tín của khách
hàng vay:
- Cho vay có bảo đảm: đây là việc ngân hàng cho vay vốn, theo đó nghĩa vụ

trả nợ của khách hàng được cam kết thực hiện bằng tài sản thế chấp, cầm cố; tài sản
được hình thành từ vốn vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Loại cho vay này áp
dụng đối với những khách hàng chưa có uy tín cao, ngân hàng cần có thêm nguồn
thu nợ thứ hai để bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
- Cho vay không đảm bảo bằng tài sản: đây là hình thức ngân hàng cho vay
dựa vào uy tín của khách hàng; những khách hàng có uy tín, có quan hệ truyền
thống, khả năng tài chính tốt, có tín nhiệm với ngân hàng trong việc sử dụng vốn
vay, hoàn trả nợ vay. Ngoài ra còn áp dụng với các khoản vay theo chỉ định của
Chính phủ, các khoản vay đối với các công ty lớn hoặc những khoản vay trong thời
gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng.
(4) Phân loại theo ngành, lĩnh vực kinh tế:
- Cho vay công nghiệp, thương mại và dịch vụ: ngân hàng cho vay để bổ
sung vốn lưu động cho các DN hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: loại cho vay để trang trả các chi phí sản xuất trong
nông nghiệp như thức ăn gia sức, phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng…
Ngoài ra còn có rất nhiều tiêu thức phân loại cho vay khác như: quy mô
khoản vay, loại hình DN, vùng địa lý, chất lượng các khoản vay …
Phân loại cho vay theo các tiêu thức khác nhau rất có ý nghĩa đối với hoạt
động của Ngân hàng. Đầu tiên, nó cho thấy tính đa đạng và chuyên môn hoá trong
hoạt động cho vay của NHTM, phù hợp với các mục đích, nhu cầu cũng như đặc
điểm kinh tế của đối tượng sử dụng vốn vay. Bên cạnh đó, với xu hướng đa dạng
hóa các loại hình cho vay, các ngân hàng có thể mở rộng phạm vi tài trợ của mình
với các lĩnh vực, loại hình khác nhau, đồng thời vẫn tập trung duy trì những lĩnh
vực, loại hình thế mạnh của mình. Ngoài ra, phân loại theo nhiều tiêu thức giúp cho
ngân hàng có những chính sách quản lý các khoản cho vay phù hợp đối với từng
lĩnh vực, loại hình như chính sách bảo đảm, hạn mức mở rộng, theo dõi rủi ro cũng
như sinh lời…nhằm quản lý, sử dụng hiệu quả vốn tín dụng cũng như tiền đề thiết
lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng.
5

1.1.4. Rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM:
Rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM là rủi ro về sự tổn thất tài chính
trực tiếp hoặc gián tiếp xuất phát từ người đi vay (khách hàng), khi không thực hiện
nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết với ngân hàng hoặc mất khả năng thanh toán.
Nó phá vỡ mục tiêu trong hoạt động tín dụng của các NHTM là an toàn và sinh lời,
ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh cũng như làm giảm uy tín của ngân hàng trên thị
trường. Không chỉ dừng lại ở đó, nó có thể gây ra tổn thất lớn, ảnh hưởng tiêu cực
cho hệ thống ngân hàng đồng thời đe dọa tới sự phát triển bền vững của kinh tế
nước nhà bởi vai trò to lớn của các NHTM.
Rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM rất phức tạp bởi nó xuất phát từ
rất nhiều nguyên nhân. Từ nguyên nhân chủ quan do chính ngân hàng cho vay đến
các nguyên nhân khách quan xuất phát từ phía khách hàng, từ môi trường xung
quanh, chính sự đa dạng đó đã làm tăng thêm mức độ nguy hiểm của nó đến ngân
hàng cũng như nền kinh tế.
Rủi ro là vấn đề không thể tránh khỏi trong hoạt động cho vay của NHTM
bởi vấn đề thông tin không cân xứng trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, để hạn
chế rủi ro trong hoạt động cho vay, các NHTM cần có những biện pháp phòng ngừa
cũng như khắc phục nó để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả tốt nhất.
Theo Tiến sỹ Nguyễn Đức Hưởng – Phó Chủ Tịch Hội đồng quản trị
LienvietPostbank, nguyên nhân phổ biến nhất gây ra rủi ro trong hoạt động cho vay
là khách hàng cố tình lừa đảo, chây lỳ, không trả nợ đúng hạn hoặc sử dụng vốn sai
mục đích, do yếu kém trong kinh doanh trong quản lý. Và rủi ro xuất phát từ
nguyên nhân này có thể hoàn toàn giảm thiểu nếu các ngân hàng thực hiện tốt khâu
sàng lọc khách hàng trước khi cấp tín dụng hay nói các khác là thực hiện tốt công
tác phân tích tài chính khách hàng trước khi cho vay.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, chúng ta đi sâu tìm hiểu về công tác phân tích
tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay của NHTM. Tuy nhiên trong chuyên
đề này chỉ đề cập tới phân tích tài chính với khách hàng doanh nghiệp, đối tượng
chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu cho vay của NHTM.
1.2. Phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của NHTM:

1.2.1. Quan niệm phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho
vay của NHTM:
Theo Tiến sỹ Lê Thị Thanh Hà - Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ
Chí Minh : “Phân tích tài chính doanh nghiệp là quá trình đi sâu nghiên cứu kết cấu
và mối ảnh hưởng qua lại của các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính để có thể đánh giá
tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua so sánh với các mục tiêu mà doanh
6
nghiệp đã đề ra hoặc so với các doanh nghiệp cùng ngành nghề, từ đó đưa ra quyết
định và các giải pháp phù hợp”.
Có thể thấy rằng quan niệm trên vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý:
- Để phân tích tài chính của một doanh nghiệp, không chỉ dựa vào những số
liệu, thông tin có trên các báo cáo tài chính ( BCTC). Qua các BCTC, chúng ta mới
chỉ nắm được các thông tin về tài chính kế toán của DN. Để có thể phân tích một
cách toàn diện và sâu sắc về tình hình tài chính, hiệu quả hoạt động đồng thời đưa
ra những dự báo, chúng ta còn sử dụng rất nhiều thông tin khác, chẳng hạn như các
thông tin chung về DN, báo cáo quản trị, về ngành lĩnh vực hoạt động, về điều kiện
kinh tế xã hội… Bó hẹp thông tin chỉ trong các BCTC, chúng ta đã tự giới hạn hiệu
quả cũng như chất lượng của công việc phân tích tài chính.
- Sự tồn tại, phát triển cũng như suy thoái của DN phụ thuộc rất nhiều yếu
tố. Ngoài các yếu tố nội tại thuộc về bên trong DN, còn có các yếu tố mang tính
khách quan như tình hình kinh tế chính trị xã hội, thông tin về ngành kinh tế, về sản
phẩm kinh doanh… Sự suy thoái hay tăng trưởng của nền kinh tế, những thuận lợi
và khó khăn trong ngành, lĩnh vực hoạt động … có tác động mạnh mẽ đến kết quả
kinh doanh của DN. Do đó, khi nghiên cứu, đánh giá về các chỉ tiêu tài chính của
DN, không chỉ dừng lại ở việc so sánh với các mục tiêu của DN hay các DN khác,
mà phải đặt nó trong sự tương tác của biến động kinh tế, biến động ngành cũng như
sản phẩm.
Chúng ta có thể tham khảo định nghĩa phân tích tài chính doanh nghiệp
(PTTCDN) trong giáo trình Tài chính doanh nghiệp của Đại học Kinh tế quốc dân
do Tiến sỹ Lưu Thị Hương chủ biên: “Phân tích tài chính doanh nghiệp là sử dụng

một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông
tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của
một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp đó”. Qua việc đánh giá thực trạng tài chính, dự tính các rủi ro cũng
như tiềm năng tương lai của một DN, các nhà phân tích có thể đưa ra những quyết
định tài chính đúng đắn liên quan tới DN đó.
Trong nền kinh tế thị trường, phân tích tài chính là mối quan tâm của nhiều
nhóm người. Mỗi đối tượng quan tâm theo các giác độ cũng như mục tiêu khác
nhau. Không giống các nhà quản trị hay các nhà đầu tư, NHTM là những người cho
DN vay vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi cho
vay, ngân hàng phải biết chắc được khả năng hoàn trả tiền vay, do đó mục tiêu phân
tích tài chính đối với ngân hàng là xác định khả năng hoàn trả nợ của DN. Đối với
các khoản cho vay ngắn hạn, ngân hàng đặc biệt quan tâm tới khả năng thanh toán
7
ngay của DN, đó chính là khả năng ứng phó của DN khi nợ vay đến hạn trả. Còn
với các khoản vay dài hạn, ngân hàng lại phải tin chắc về khả năng hoàn trả cũng
như khả năng sinh lời của DN. Những điều này rất quan trọng bởi việc DN vay vốn
có hoàn trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn hay không tác động trực tiếp tới thu
nhập, vốn cũng như tình hình hoạt động của các NHTM.
Có thể nói: PTTCDN giúp các NHTM đưa ra các quyết định trước, trong và
sau khi cho vay trên cơ sở xác định đúng tình hình tài chính và khả năng trả nợ của
DN nhằm đảm bảo an toàn và sinh lời cho các khoản tín dụng.
Thứ nhất, phân tích tài chính DN (PTTCDN) giúp cho ngân hàng đánh giá
được tình hình tài chính của DN vay vốn.
Thứ hai, ngân hàng có thể đánh giá được vị thế của DN vay vốn trong lĩnh
vực DN đang kinh doanh.
Thứ ba, dựa trên kết quả PTTCDN ngân hàng chấm điểm và đánh giá xếp
loại DN để đưa ra các chính sách cho vay phù hợp.
Thứ tư, từ những việc trên ngân hàng hạn chế được phần nào rủi ro trong
hoạt động cho vay. Đây là kết quả cuối cùng đồng thời quan trọng nhất của việc

PTTCDN trong hoạt động cho vay của NHTM. Chất lượng các khoản vay phụ
thuộc rất nhiều bởi công tác PTTCDN vay vốn trước khi cho vay. Việc PTTCDN
chính xác và đầy đủ sẽ xác định được nhu cầu vay vốn thực sự của DN xin vay, khả
năng thực hiện phương án/dự án vay vốn và khả năng trả nợ của DN cũng như các
rủi ro tiềm ẩn liên quan tới DN. Ngân hàng sẽ đồng ý cho vay với kết quả phân tích
tài chính của DN là tốt, nhu cầu vốn là thực sự đồng thời phương án/dự án vay vốn
khả thi và khả năng trả nợ vay tốt với một rủi ro thấp nhất.
Bên cạnh việc PTTCDN trước khi cho vay, trong quá trình cho vay các ngân
hàng vẫn tiến hành phân tích tình hình tài chính của DN nhằm theo dõi việc vay vốn
của khách hàng, xem xét việc sử dụng vốn vay đúng như cam kết hay việc sử dụng
đồng vốn có hiệu quả hay không, có ảnh hưởng gì tới khả năng trả nợ hay không
đồng thời đưa ra các quyết định bổ sung như dừng việc cho vay hay tăng tài sản bảo
đảm. Không chỉ dừng lại ở đó, ngân hàng có thể thực hiện PTTCDN sau khi cho
vay, khi đã hết hợp đồng tín dụng, để có thể đánh giá việc vay vốn của DN có tạo ra
hiệu quả gì cho bản thân DN cũng như nền kinh tế hay không; đồng thời đó là căn
cứ, lưu trữ thông tin của DN để phục vụ cho các giao dịch khác sau này.
Như vậy, ta có thể hiểu nôm na phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt
động cho vay của NHTM là việc thu thập, phân tích các thông tin kế toán và các
thông tin khác để đánh giá thực trạng và xu hướng tài chính, khả năng tiềm lực của
DN nhằm mục đích đảm bảo an toàn vốn tín dụng.
8
1.2.2. Quy trình phân tích tài chính DN trong hoạt động cho vay của
NHTM:
Có thể nói PTTCDN trong hoạt động cho vay chính là phân tích, thẩm định
tín dụng đối với khách hàng DN vay vốn và nó được thực hiện xuyên suốt quá trình
cấp vốn. Với mục tiêu xác định khả năng và ý muốn của DN trong việc hoàn trả nợ
vay, nhằm hiểu biết rõ hơn về DN để giảm thiểu rủi ro, PTTCDN trong hoạt động
cho vay của NHTM có các bước sau:
Bước 1: Tìm kiếm và thu thập các thông tin về khách hàng ( DN xin vay vốn)
Đây là khâu chuẩn bị cho quá trình phân tích, có vai trò quan trọng, ảnh

hưởng nhiều tới chất lượng, thời gian và tác dụng của công tác phân tích. Bên cạnh
việc xác định loại hình DN, ngành nghề lĩnh vực kinh doanh cũng như mục tiêu vay
vốn thì các CBTĐcòn phải thu thập các thông tin liên quan tới DN, tới phương án/
dự án sản xuất kinh doanh xin vay vốn.
Các thông tin thu thập trong bước này có thể là các thông tin từ nội bộ DN
hoặc bên ngoài DN, là thông tin tài chính hoặc thông tin phi tài chính liên quan tới
DN cũng như phương án/ dự án sản xuất kinh doanh. CBTĐcó thể lựa chọn một số
hoặc tất cả các kênh thông tin trên để sử dụng. Ngoài việc tìm kiếm và thu thập,
trong bước này các CBTĐcòn phải kiểm chứng các tài liệu, thông tin như: kiểm tra
độ tin cậy, tính trung thực hợp lý các số liệu, tài liệu do DN cung cấp, điển hình là
các BCTC; xem xét cũng như sàng lọc các thông tin cần thiết phục vụ cho việc đưa
ra quyết định liên quan tới việc cho vay.
Bước 2: Phân tích các thông tin thu thập được
Trong bước này, trên cơ sở các thông tin thu thập ở bước 1, CBTĐbằng các
phương pháp phù hợp, phân tích DN từ tư cách, năng lực pháp lý đến kết quả hoạt
động cũng như các chỉ số tài chính, tuy nhiên chú ý đặt trong môi trường kinh
doanh và có sự so sánh với các DN hoạt động trong cùng lĩnh vực, ngành nghề. Qua
đó, có thể đưa ra các nhận xét về tình hình hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính
của DN cũng như năng lực lãnh đạo, điều hành của ban giám đốc. Đồng thời, các
CBTĐphải xem xét khả năng thực hiện phương án/dự án sản xuất, kinh doanh xin
vay vốn của DN. Sau đó, dựa trên những phân tích, nhận xét CBTĐđưa ra các nhận
định có thể xảy ra trong tương lai cũng như rủi ro tiềm ẩn đối với DN. Ngoài ra,
CBTĐcòn chấm điểm xếp hạng tín dụng đối với khách hàng, định giá tài sản đảm
bảo…
Bên cạnh việc sử dụng các thông tin tài chính, để kết quả phân tích được
chính xác và hiệu quả, cán bộ tín dụng phải sử dụng thêm các thông tin phi tài chính
liên quan đến DN như triển vọng phát triển kinh tế, ngành nghề lĩnh vực mà DN
9
đang hoạt động; sự phát triển của khoa học công nghệ, kĩ thuật; cơ cấu tổ chức cũng
như trình độ của nguồn nhân lực, cơ hội kinh doanh của DN, mạng lưới phân phối,

tính chu kì sản phẩm, thương hiệu, thị phần….
Bước 3: Đưa ra báo cáo đánh giá tình hình tài chính, hiệu quả hoạt động
cũng như mức độ rủi ro của DN, phương án/ dự án kinh doanh xin vay vốn.
CBTĐtiến hành viết báo cáo phân tích: báo cáo thẩm định và đề xuất cấp tín
dụng, báo cáo thẩm định và đề xuất quyết định tín dụng…trong đó đưa ra các nhận
xét, đánh giá chung về tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của
DN, về phương án/ dự án kinh doanh xin vay vốn cũng như đề xuất các chính sách,
điều kiện cho vay đối với DN. Đây là một trong các cơ sở quan trọng để ban lãnh
đạo đưa ra cách ứng xử phù hợp đối với DN.
Đối với các DN được cho vay, trong quá trình vay vốn, định kì ngân hàng
còn tiến hành theo dõi, phân tích tình hình tài chính, hoạt động của DN để phục vụ
cho mục tiêu đảm bảo an toàn và sinh lời của vốn tín dụng.
Ngoài ra còn có thêm bước: lưu trữ thông tin và sử dụng trong tương lai.
1.2.3. Các phương pháp phân tích tài chính DN :
Lấy phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng làm nền tảng, PTTCDN
sử dụng các phương pháp phân tích khoa học để đi sâu nghiên cứu, xem xét đưa ra
kết luận cũng như giải thích cho các chỉ tiêu tài chính và quá trình hoạt động của
DN. Giống như các nhà phân tích tài chính khác, NHTM xem xét các chỉ tiêu tài
chính của DN và các thông tin khác sử dụng trong công tác phân tích trong trạng
thái vận động và phát triển, đặt kết quả hoạt động của DN trong một thời gian và
không gian cụ thể. Và không chỉ dừng lại ở việc đi sâu vào từng bộ phận cấu thành
các chỉ tiêu tài chính nhằm xem xét tác động của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích,
ngân hàng còn nghiên cứu các chỉ tiêu tài chính trong mối quan hệ biện chứng giữa
chỉ tiêu đó và các chỉ tiêu khác.
Từ phương pháp luận trên, có thể khái quát các phương pháp chủ yếu được
dùng để PTTCDN mà rất nhiều NHTM đã áp dụng:
1.2.3.1. Phương pháp đánh giá:
Đây là phương pháp luôn được các NHTM sử dụng và nó được sử dụng
trong nhiều giai đoạn của quá trình phân tích. Thông thường, để đánh giá người ta
thường sử dụng các phương pháp :

a.Phương pháp so sánh:
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến và quan trọng trong phân tích,
người ta thường so sánh, đối chiếu các chỉ tiêu tài chính với nhau để biết được mức
biến động của các đối tượng đang nghiên cứu.
10
- Điều kiện để kết quả so sánh có ý nghĩa: phải tồn tại ít nhất 2 đại lượng
hoặc 2 chỉ tiêu; các đại lượng, chỉ tiêu phải đảm bảo tính chất so sánh được. Đó là
sự thống nhất về nội dung kinh tế, về cách tính toán, về thời gian và đơn vị đo
lường.
- Xác định gốc để so sánh: Tùy vào mục đích so sánh thì có nhiều cách xác
định gốc.
+ Muốn xác định xu hướng hay tốc độ phát triển của chỉ tiêu phân tích thì
gốc so sánh được xác định là trị số của chỉ tiêu phân tích kì trước hoặc hàng loạt kì
trước (năm trước).
+ Muốn đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra thì gốc so
sánh thường được lấy là trị số kế hoạch của chỉ tiêu phân tích.
+ Muốn xác định vị trí của DN thì gốc so sánh được lấy làm căn cứ là giá trị
trung bình của ngành hay chỉ tiêu phân tích của đối thủ cạnh tranh.
- Các kỹ thuật so sánh:
+ So sánh bằng số tuyệt đối để thấy được sự biến động về số tuyệt đối của
chỉ tiêu phân tích.
+ So sánh bằng số tương đối để thấy được thực tế so với kì gốc chỉ tiêu tăng
hay giảm bao nhiêu phần trăm.
Ưu điểm của phương pháp này là so sánh được nhiều loại chỉ tiêu tùy mục
đích của việc phân tích; đơn giản, ít tính toán do đó nó được sử dụng rộng rãi.
b.Phương pháp phân chia ( chi tiết hóa chỉ tiêu phân tích ):
Phương pháp này được sử dụng để chia nhỏ quá trình và kết quả thành
những bộ phận khác nhau, phục vụ cho mục tiêu nhận thức quá trình và kết quả đó
trên những khía cạnh khác nhau. Thông thường trong phân tích, người ta thường
chi tiết quá trình phát sinh và kết quả đạt được thuộc tài chính DN thể hiện qua

những chỉ tiêu kinh tế theo các tiêu thức sau:
- Chi tiết theo yếu tố cấu thành của chỉ tiêu nghiên cứu nhằm biết được vai
trò của từng bộ phận trong việc hợp thành chỉ tiêu tổng hợp, qua đó xác định được
mức biến động của chỉ tiêu do ảnh hưởng của các nhân tố.
- Chi tiết theo thời gian phát sinh quá trình và kết quả thực tế để biết được
nhịp độ phát triển, tính thời vụ cũng như khả năng mất cân đối trong quá trình kinh
doanh của các chỉ tiêu.
- Chi tiết theo không gian phát sinh hoạt động và kết quả kinh tế: Việc chia
nhỏ quá trình và kết quả theo địa điểm phát sinh và phát triển của chỉ tiêu nghiên
cứu nhằm bổ sung cho chi tiết theo không gian để cho kết quả phân tích đầy đủ và
sâu sắc.
11
Việc chi tiết hóa các chỉ tiêu phân tích càng đa dạng, đầy đủ thì kết quả phân
tích càng chính xác và sâu sắc, đánh giá trên nhiều góc độ khía cạnh khác nhau. Tuy
nhiên, phương pháp này có điểm hạn chế là chỉ ra định tính của việc phân tích,
không cho biết định lượng.
c. Phương pháp liên hệ đối chiếu:
Đây là phương pháp phân tích sử dụng để nghiên cứu, xem xét mối liên hệ
kinh tế giữa các sự kiện và hiện tượng kinh tế, đồng thời xem xét tính cân đối của
các chỉ tiêu kinh tế trong quá trình thực hiện các hoạt động.
Phương pháp này chú ý tới các mối liên hệ mang tính nội tại, ổn định, chung
nhất và được lặp đi lặp lại; các mối liên hệ ngược xuôi, tính cân đối tổng thể, cân
đối từng phần. Do đó, việc thu thập được thông tin đầy đủ và thích hợp trên các
khía cạnh liên quan đến các luồng chuyển dịch giá trị và sự vận động của các nguồn
lực trong DN là yếu tố cần để việc phân tích theo phương pháp đạt hiệu quả cao.
1.2.3.2. Phương pháp phân tích nhân tố:
Phương pháp phân tích nhân tố được sử dụng để thiết lập công thức tính toán
các chỉ tiêu kinh tế, tài chính trong mối quan hệ với các nhân tố ảnh hưởng. Dựa
trên mối quan hệ giữa chỉ tiêu được sử dụng để phân tích và các nhân tố ảnh hưởng
mà sử dụng hệ thống phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố và

phân tích tính chất ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích.
a.Phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố:
Đây là phương pháp được sử dụng để xác định mức độ ảnh hưởng cụ thể của
từng nhân tố đến chỉ tiêu nghiên cứu. Có nhiều phương pháp xác định ảnh hưởng
của các nhân tố, việc sử dụng phương pháp nào tùy thuộc mối quan hệ giữa các chỉ
tiêu phân tích với các nhân tố ảnh hưởng. Một số phương pháp xác định mức độ ảnh
hưởng của các nhân tố thường được sử dụng trong PTTCDN là:
- Phương pháp thay thế liên hoàn: Phương pháp này được sử dụng khi chỉ
tiêu phân tích có quan hệ với nhân tố ảnh hưởng thể hiện dưới dạng phương trình
tích hoặc thương.
- Phương pháp số chênh lệch: Đây là hệ quả của phương pháp thay thế liên
hoàn, áp dụng khi nhân tố ảnh hưởng có quan hệ tích với chỉ tiêu phân tích.
- Phương pháp cân đối: Là phương pháp được sử dụng để xác định mức độ
ảnh hưởng của các nhân tố nếu chỉ tiêu phân tích có quan hệ với nhân tố ảnh hưởng
dưới dạng tổng hoặc hiệu.
b.Phương pháp phân tích tính chất của các nhân tố:
Sau khi xác định được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố, để có đánh giá và
dự đoán hợp lý, trên cơ sở đó đưa ra các quyết định và cách thức thực hiện các
12
quyết định cần phân tích tính chất ảnh hưởng của các nhân tố. Việc phân tích được
thực hiện thông qua: chỉ rõ và giải quyết các vấn đề như chỉ rõ mức độ ảnh hưởng,
xác định tính chất chủ quan, khách quan của từng nhân tố, đồng thời xác định ý
nghĩa của nhân tố tác động tới chỉ tiêu đang nghiên cứu, xem xét.
1.2.3.3. Phương pháp dự đoán:
Phương pháp dự đoán được sử dụng để dự báo tài chính DN. Có nhiều
phương pháp khác nhau để dự đoán các chỉ tiêu kinh tế, tài chính trong tương lai
song người ta thường sử dụng các phương pháp: phương pháp hồi quy, sử dụng mô
hình kinh tế lượng, sử dụng bài toán quy hoạch, thống kê kinh nghiệm…
Ngoài việc thực hiện các phương pháp phân tích nêu trên, sau khi thu thập được
thông tin, các nhà phân tích có thể sử dụng một số kĩ thuật phân tích cơ bản như:

(1) Kĩ thuật phân tích dọc: kĩ thuật phân tích sử dụng để xem xét tỉ trọng của
từng bộ phận trong tổng thể quy mô chung. Điều quan trọng khi sử dụng kĩ thuật
này là xác định quy mô chung được làm tổng thể để xác định tỉ trọng của từng thành
phần.
(2) Kĩ thuật phân tích ngang: Là sự so sánh về lượng trên cùng một chỉ tiêu.
Thực chất đây là việc áp dụng phương pháp so sánh cả về số tuyệt đối và tương đối
với những thông tin thu thập được sau khi xử lý và thống kê dưới dạng bảng.
(3) Kĩ thuật phân tích qua hệ số: Xem xét mối quan hệ giữa các chỉ tiêu
dưới dạng phân số. Tùy theo cách thiết lập quan hệ mà gọi tên chỉ tiêu là hệ số, tỷ
số hay tỷ suất.
(4) Kĩ thuật phân tích độ nhạy: Là kĩ thuật nêu và giải quyết các giả định đặt
ra khi xem xét một chỉ tiêu trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác.
(5) Kĩ thuật chiết khấu dòng tiền: kĩ thuật sử dụng để xác định giá trị của
tiền tệ tại các thời điểm khác nhau.
1.2.4. Thông tin sử dụng trong công tác phân tích tài chính DN trong
hoạt động cho vay của NHTM:
Có rất nhiều thông tin cần sử dụng trong công tác PTTCDN phục vụ hoạt
động cho vay của NHTM.
Phân loại theo nguồn thông tin, ta có:
- Thông tin do bản thân khách hàng, DN xin vay vốn cung cấp: có thể qua
hồ sơ do khách hàng cung cấp, qua trao đổi phỏng vấn trực tiếp với lãnh đạo, nhân
viên của DN hoặc từ việc thăm cơ sở và kiểm tra trực tiếp trụ sở của DN.
- Thông tin thu thập từ bên thứ ba: từ các cơ quan quản lý, cơ quan kiểm
toán, cơ quan thuế, CIC Ngân hàng nhà nước, các bạn hàng của DN, các tổ chức tín
dụng khác hay từ các phương tiện thông tin đại chúng…
13
Xét theo loại thông tin ta có:
- Thông tin tài chính của DN bao gồm:
+ Các báo cáo tài chính: bảng Cân đối kế toán, báo cáo Kết quả hoạt động
kinh doanh, báo cáo Lưu chuyển tiền tệ, bản thuyết minh báo cáo tài chính.

+ Sổ tổng hợp và sổ chi tiết các tài khoản: công nợ, chi phí trả trước, hàng
tồn kho, đầu tư tài chính, chi phí phải trả…
+ Biên bản kiểm kê vật tư, sản phẩm, hàng hóa.
+ Các tài liệu liên quan khác như: báo cáo quan hệ tín dụng với các TCTD,
hợp đồng xây dựng, mua bán có giá trị lớn hoặc cần thiết phải kiểm tra, biên bản
xác nhận công nợ…
+ Thông tin về phương án/ dự án sản xuất kinh doanh của DN : tìm hiểu thị
trường, kế hoạch sản xuất sản phẩm…
- Thông tin phi tài chính như:
+ Báo cáo sơ kết, tổng kết tình hình hoạt động của DN.
+ Chiến lược phát triển, kế hoạch kinh doanh từng thời kì.
+ Các thông tin liên quan tới cơ cấu tổ chức, trình độ cán bộ quản lý, quy
trình công nghệ, dự án cơ hội kinh doanh chính, loại hình và tính chất sản phẩm, sự
đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, tính chu kì của sản phẩm, thương hiệu, mạng lưới
phân phối, thị phần…
Tuy nhiên đó mới chỉ là các thông tin của bản thân DN đó. Để có thể
PTTCDN một cách chính xác và hiệu quả, còn phải sử dụng các thông tin chung về
nền kinh tế, chính trị cũng như các thông tin riêng về ngành, lĩnh vực mà DN đang
hoạt động:
- Các thông tin chung như: tình hình kinh tế chính trị, môi trường pháp lý,
cơ hội đầu tư, cơ hội về kỹ thuật công nghệ… Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của
nền kinh tế có tác động mạnh mẽ tới kết quả sản xuất kinh doanh của DN, còn
những thông tin về các cuộc thăm dò thị trường hay triển vọng phát triển trong sản
xuất, kinh doanh và dịch vụ thương mại thì ảnh hưởng lớn đến chiến lược cũng như
sách lược kinh doanh trong từng thời ‚ của DN.
- Các thông tin về ngành, lĩnh vực mà DN hoạt động như đặc điểm của
ngành nghề liên quan tới thực thể của sản phẩm, tiến trình kỹ thuật cần tiến hành,
cơ cấu sản xuất cũng như nhịp độ phát triển của các chu kì kinh tế, độ lớn của thị
trường và triển vọng phát triển trong thời gian tới … bên cạnh đó còn có thông tin
liên quan tới các đối thủ cạnh tranh…

Với mục đích to lớn của công tác PTTCDN, để có thể có được kết quả phân
tích chính xác, hiệu quả thì CBTĐnói riêng, ngân hàng cho vay nói chung cần phải
14
sưu tầm, thu thập đầy đủ những thông tin thích hợp liên quan tới hoạt động của DN:
tính đầy đủ thể hiện ở số lượng của thông tin, tính thích hợp thể hiện ở chất lượng
của thông tin.
1.2.5. Một số nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động
cho vay của NHTM:
1.2.5.1. Đánh giá chất lượng tài sản nợ, tài sản có của DN:
Mục đích của đánh giá chất lượng tài sản nợ, tài sản có của DN nhằm có
được những số liệu chính xác hơn về tình hình tài chính của DN, giúp cho ngân
hàng có thể đánh giá thực chất tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của DN cũng
như tiền đề để phân tích kĩ hơn về nó thông qua các BCTC.
Để có thể đánh giá chất lượng tài sản nợ/có của DN, CBTĐphân tích các
khoản mục tài sản nợ/có và bóc tách các khoản mục kém chất lượng và khó thu hồi
cũng như kiểm tra xem DN đã hạch toán đúng và đủ doanh thu, chi phí hay chưa.
Từ đó xác định lợi nhuận thực (hay lỗ) chưa được thể hiện hết trên các BCTC. Các
khoản mục cần được phân tích là: đầu tư tài chính (cả ngắn hạn và dài hạn), các
khoản phải thu, hàng tồn kho, tài sản ngắn hạn khác cũng như tài sản cố định và đặc
biệt là chi phí phải trả.
Từ các kết quả thẩm định BCTC của DN, CBTĐlập bảng các khoản cần điều
chỉnh trên bảng CĐKT và báo cáo KQHĐKD đồng thời tính toán lại các chỉ tiêu
tương ứng trên bảng CĐKT cũng như báo cáo KQHĐKD. Và căn cứ vào các số liệu
đã được điều chỉnh, CBTĐtiến hành phân tích BCTC của DN gắn liền với các thông
tin phi tài chính.
1.2.5.2. Phân tích bảng CĐKT:
a.Phân tích cơ cấu và sự biến động tài sản:
Mục đích của việc phân tích nhằm đánh giá sự biến động của tài sản cũng
như sự hợp lý của cơ cấu vốn đối với hoạt động của DN. Trong nội dung này, cán
bộ tín dụng:

- Xem xét sự biến động của tổng tài sản cũng như của từng loại tài sản thông
qua việc so sánh giữa số cuối kì và số đầu kì về cả số tuyệt đối lẫn số tương đối.
Qua đó đánh giá sự biến động về quy mô hoạt động của DN, xem xét tác động của
từng loại tài sản đối với quá trình kinh doanh, tài chính củ DN và ngược lại.
- Xem xét sự hợp lý của cơ cấu vốn bằng việc xác định tỷ trọng của từng
loại tài sản trong tổng tài sản của DN, đồng thời so sánh tỷ trọng của từng loại giữa
cuối kì với đầu kì để thấy được sự biến động của cơ cấu vốn.
Việc đánh giá cơ cấu vốn hợp lý hay không phụ thuộc vào tính chất của DN.
Ngoài ra nhận xét sự thay đổi tổng tài sản, sự thay đổi trong từng tài sản cũng như
15
cơ vốn có tác động gì tới quá trình hoạt động, kinh doanh của DN hay không và
ngược lại, sự thay đổi có phù hợp hay không.
b.Phân tích cơ cấu và sự biến động nguồn vốn:
Mục đích của nó nhằm đánh giá khái quát khả năng tự tài trợ, mức độ tự chủ
về mặt tài chính của DN cũng như những khó khăn mà DN gặp phải trong việc khai
thác nguồn vốn.
CBTĐso sánh từng loại nguồn vốn giữa số cuối kì và số đầu kì cả về tuyệt
đối lẫn tương đối, so sánh tỷ trọng của từng loại nguồn vốn trong tổng số để xác
định khoản mục nào chiếm tỷ trọng cao hơn. Xem xét DN đang tài trợ cho hoạt
động chủ yếu bằng nguồn vốn vay, vốn chủ sở hữu hay đi chiếm dụng? Nguồn vốn
của DN biến động như thế nào và nguyên nhân chính làm tăng/giảm nguồn vốn
cũng như làm thay đổi cơ cấu vốn là gì?
Nếu nguồn vốn của chủ sỡ hữu chiếm tỷ trọng cao và có xu hướng tăng cho
thấy khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính của DN cao, mức độ phụ thuộc về tài
chính đối với các chủ nợ thấp và ngược lại. Tuy nhiên khi xem xét cần quan tâm
đến chính sách tài trợ của DN và hiệu quả kinh doanh mà DN đạt được cũng như
những thuận lợi khó khăn mà trong tương lai DN có thể phải đương đầu.
c. Phân tích tình hình công nợ:
Phân tích tình hình công nợ của DN nhằm đánh giá tình hình biến động của
các khoản phải thu và các khoản phải trả của DN cũng như mối tương quan giữa

chúng.
CBTĐso sánh từng chỉ tiêu qua các năm để đánh giá tình hình biến động, so
sánh giữa tổng các khoản phải thu và tổng các khoản phải trả để đánh giá mối tương
quan:
Nếu các khoản phải thu > công nợ phải trả, nghĩa là DN đã bị chiếm dụng
vốn nhiều hơn khoản chiếm dụng được. Ngược lại, nếu các khoản phải thu < công
nợ phải trả thì DN đang có nguồn chiếm dụng nhiều hơn, cần tận dụng tối đa trong
điều kiện có thể ưu thế này. Tuy nhiên cần xem xét trường hợp DN có số dư phải trả
cán bộ công nhân viên nhiều có thể phản ánh tình trạng khó khăn về tài chính. Từ
đó, đánh giá chính sách tín dụng thương mại hay tình hình bị chiếm dụng vốn của
DN, kết hợp xem xét mức độ biến động của các khoản phải thu, phải trả; tìm ra
nguyên nhân của các khoản nợ quá hạn, khó đòi, những khoản tranh chấp, mất khả
năng thanh toán.
d.Phân tích tình hình sử dụng nguồn tài trợ:
Mục đích: xem xét những khoản đầu tư của DN và nguồn tài trợ các khoản
đầu tư. Để phân tích, đầu tiên cần liệt kê sự thay đổi các chỉ tiêu trên bảng CĐKT
16
giữa đầu kì và cuối kì, sau đó lập bảng phân tích sử dụng nguồn tài trợ theo nguyên
tắc:
- Nếu tăng phần tài sản,giảm phần nguồn vốn thì ghi số chênh lệch tăng,
giảm và phần sử dụng vốn.
- Nếu tăng phần nguồn vốn, giảm phần tài sản thì ghi số chênh lệch tăng,
giảm vào phần nguồn tài trợ vốn.
Bảng phân tích sử dụng nguồn tài trợ:
Nguồn tài trợ vốn Số tiền Tỷ trọng (%)
1. Giảm các khoản phải thu
2. Giảm hàng tồn kho
3. Giảm TSNH, DH khác
4. Tăng nguồn vốn, quỹ
Cộng

Sử dụng vốn Số tiền Tỷ trọng (%)
1. Tăng dự trữ tiền
2. Tăng đầu tư tài chính NH, DH
3. Mua sắm thêm TSCĐ
4. Trả nợ ngắn hạn, dài hạn
Cộng
Từ đó, đưa ra các nhận xét về tình hình sử dụng nguồn tài trợ của DN.
e. Phân tích vốn lưu chuyển:
Phân tích vốn lưu chuyển để đánh giá xem DN có đủ khả năng thanh toán
các khoản nợ ngắn hạn hay không, TSCĐ của DN có được tài trợ một cách vững
chắc bằng nguồn vốn dài hạn hay không.
Thông qua công thức tính vốn lưu chuyển để xác định nó dương hay âm từ
đó đưa ra những nhận định về khả năng thanh toán cũng như khả năng tài trợ:
VLC = NVDH – TSDH = TSNH – NVNH
- Nếu VLC > 0: phản ánh khả năng thanh toán của DN tốt, thừa nguồn vốn
dài hạn, có khả năng mở rộng kinh doanh. Đây là dấu hiệu an toàn, DN có thể
đương đầu với rủi ro phá sản của khách hàng lớn hay việc cắt giảm tín dụng của nhà
cung cấp cũng như việc thua lỗ nhất thời…
- Nếu VLC < 0: đồng nghĩa với việc DN đã dùng một phần nguồn vốn chỉ
có thể sử dụng trong ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn. Trường hợp này nếu
kéo dài sẽ không đem lại sự ổn định và an toàn cho DN, tài sản ngắn hạn không đáp
ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của DN đang mất cân
đối tạm thời. Để đối phó với tình trạng này, DN sẽ phải trì hoãn việc thanh toán các
khoản nợ.
17
- Ngoài ra, cần xem xét sự biến động của tài sản và nguồn vốn trong ngắn
hạn và dài hạn để xác định những nguyên nhân gây ra biến động.
1.2.5.3. Phân tích Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Qua việc phân tích báo cáo KQHĐKD, CBTĐđưa ra đánh giá tổng hợp về
tình hình và kết quả kinh doanh của DN trong kì, đồng thời xác định nguyên nhân

chính ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của DN.
Với việc sử dụng mẫu biểu báo cáo KQHĐKD đã được chuẩn hóa trong chế
độ tài chính DN hiện hành, CBTĐso sánh khoản mục chính như: doanh thu thuần từ
hoạt động bán hàng, lợi nhuận gộp, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh, doanh
thu từ hoạt động tài chính, chi phí tài chính, lợi nhuận sau thuế trong 3 năm liên tiếp
gần nhất trừ trường hợp DN hoạt động chưa đến 3 năm cả về số tuyệt đối lẫn số
tương đối để xác định dấu hiệu của tính hiệu quả hoặc không hiệu quả, làm tiền đề
cho việc đánh giá kết quả kinh doanh.
Bên cạnh đó, cần xem xét sự biến động của các khoản mục chính và xác định
tỷ trọng trên tổng doanh thu thuần để đánh giá biến động của các khoản chi phí,
KQHĐKD của DN cũng như tìm hiểu các nguyên nhân dẫn tới sự biến động lợi
nhuận.
Việc phân tích báo cáo KQHĐKD của DN còn được thể hiện trên phương
pháp phân tích các chỉ tiêu tài chính về khả năng hoạt động và khả năng sinh lời.
1.2.5.4. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Phân tích báo cáo LCTT với 2 mục đích cơ bản:
- Đánh giá sự bền vững của dòng tiền DN trong quá khứ, khả năng tạo tiền
và sự phù hợp của dòng tiền so với chiến lược kinh doanh của DN.
- Đánh giá sự thịnh vượng hay khó khăn về dòng vốn của DN trong từng
thời kì. DN có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn bằng dòng tiền từ hoạt
động kinh doanh mà không ảnh hưởng tới tình hình hoạt động của DN không?
Bằng cách phân tích, đánh giá lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh, từ
hoạt động đầu tư cũng như hoạt động tài chính, CBTĐcó thể đưa ra các đánh giá
chung, riêng về dòng tiền.
- Đánh giá lưu chuyển tiền thuần của DN dương hay âm? Nếu âm, tìm hiểu
và phân tích nguyên nhân.
- Đánh giá xu hướng lưu chuyển tiền thuần trong quá khứ của DN: tăng, ổn
định hay giảm? Qua đó đánh giá khả năng tạo tiền nhàn rỗi có thể sử dụng để đầu
tư, mở rộng hoạt động kinh doanh, nghiên cứu và phát triển…
- Xác định nguồn cơ bản tạo ra tiền và sử dụng tiền từ hoạt động kinh

doanh, hoạt động đầu tư, hay hoạt động tài chính. Lưu chuyển tiền của DN được
18
đánh giá tốt khi dòng tiền từ hoạt động kinh doanh dương và đủ trang trải chi phí
vốn.
Từ việc phân tích, đánh giá dòng tiền, CBTĐđưa ra các dự báo về dòng tiền
trong tương lai của DN nhằm xác định trong kì tới, DN có thặng dư tiền mặt để trả
nợ vay hay bội chi tiền mặt phải vay ngân hàng để bù đắp. Qua việc nghiên cứu
dòng tiền cũng như các khoản dễ chuyển đổi thành tiền, ngân hàng xác định được
khả năng thanh toán nợ đến hạn của DN.
1.2.5.5. Phân tích các chỉ tiêu tài chính:
Các chỉ tiêu tài chính được phân loại theo 6 nhóm chính:
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
- Nhóm chỉ tiêu về đòn bẩy tài chính ( cơ cấu vốn)
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng tăng trưởng
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
- Nhóm chỉ tiêu đánh giá dòng tiền
Ngoài ra, đối với các DN phát hành cổ phiếu, CBTĐcần phân tích thêm
nhóm chỉ tiêu đánh giá cổ phiếu của DN. Việc phân tích các chỉ tiêu tài chính phải
được gắn với đặc điểm kinh tế ngành, chiến lược kinh doanh và mục tiêu kinh
doanh của DN. CBTĐqua các chỉ tiêu cũng như thông tin phi tài chính, đưa ra được
những nhận xét đánh giá sau mỗi chỉ tiêu tính toán.
a.Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán:
Nhóm chỉ tiêu này cho biết khả năng của DN trong việc thanh toán các
nghiệp vụ tài chính ngắn hạn bằng cách sử dụng những tài sản dễ chuyển đổi thành
tiền. Bao gồm các chỉ tiêu sau:
• Hệ số thanh toán ngắn hạn:
- Công thức :
- Ý nghĩa: Hệ số này đánh giá khả năng của DN thanh toán các khoản nợ
đến hạn trong vòng một năm bằng các tài sản có khả năng chuyển hoá thành tiền

trong vòng một năm.
Tỷ lệ này được đánh giá ở mức trên 1 lần là an toàn. Tuy nhiên một tỷ lệ quá
cao có thể do: quá nhiều tiền nhàn rỗi, quá nhiều khoản phải thu hay quá nhiều hàng
tồn kho. Tỷ lệ nhỏ hơn 1 có thể do DN đang dùng các khoản vay ngắn hạn để tài trợ
TSCĐ.
• Hệ số thanh toán nhanh:
19
- Công thức:
- Ý nghĩa: Hệ số này đánh giá khả năng sẵn sàng thanh toán nợ ngắn hạn
cao hơn so với hệ số thanh toán ngắn hạn do đó có thể kiểm tra tình trạng tài sản
một cách chặt chẽ hơn. Mức độ an toàn của hệ số này là 0,5 lần tuy nhiên đối với
DN xây lắp, do đặc điểm của các khoản phải thu thường chiếm tỷ trọng cao trong
phần tài sản nên hệ số thanh toán nhanh của các DN xây lắp thường cao hơn các
DN trong các lĩnh vực khác.
• Khả năng thanh toán lãi vay ( dựa trên lợi nhuận):
- Công thức:
- Ý nghĩa: Hệ số này cho biết mức độ lợi nhuận trước khi trả lãi vay đảm
bảo khả năng trả lãi hằng năm. Hệ số này càng cao thể hiện khả năng của DN sử
dụng thu nhập từ hoạt động kinh doanh để đáp ứng các chi phí lãi vay hằng năm
càng lớn và lợi nhuận của các nhà đầu tư càng cao.
• Khả năng thanh toán lãi vay ( dựa trên lưu chuyển tiền tệ ):
- Công thức:
- Ý nghĩa: Hệ số này đánh giá chính xác hơn khả năng thanh toán lãi vay so
với hệ số khả năng thanh toán lãi vay dựa trên lợi nhuận bởi vì DN trả lãi vay bằng
tiền mặt chứ không từ lợi nhuận hạch toán, nó cho biết mức độ dòng tiền từ hoạt
động kinh doanh để đảm bảo trả lãi vay.
• Khả năng hoàn trả nợ vay ( dựa trên lợi nhuận ):
- Công thức:
+ Trường hợp vay ngắn hạn:
+ Trường hợp vay trung, dài hạn:

+ Trường hợp DN vay cả ngắn hạn và trung dài hạn:
20
- Ý nghĩa: Hệ số này xem xét khả năng của DN khi trả nợ gốc và lãi vay từ
các nguồn tiền như lợi nhuận thu được trong kì và khấu hao cơ bản. Chỉ số này càng
cao thể hiện khả năng trả nợ gốc và lãi vay càng lớn và khả năng chống chọi với các
biến động trong lãi suất và dòng tiền càng cao. Mức an toàn tối thiểu là 1 lần, chỉ số
này bằng 1 thể hiện lợi nhuận của DN tạo ra lợi nhuận chỉ đủ trả nợ lãi và gốc đến
hạn.
b.Nhóm chỉ tiêu đòn bẩy tài chính ( cơ cấu vốn):
Các chỉ tiêu đòn bẩy tài chính được sử dụng mức vay nợ của DN. Đây là
nhóm chỉ tiêu rất quan trọng khi xem xét đến cơ cấu vốn của DN, nó đánh giá mối
quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro. Vay nợ bao giờ cũng gắn với rủi ro do đi kèm với
cam kết phải thanh toán các nghĩa vụ trả nợ lãi và gốc. Việc phân tích cơ cấu vốn
hay đòn bẩy tài chính cũng là cơ sở để xác định mức vốn vay và chi phí khoản vay.
• Hệ số tự tài trợ:
- Công thức:
- Ý nghĩa: Hệ số này cho thấy mức độ tự chủ về tài chính của DN và khả
năng bù đắp tổn thất bằng vốn chủ sở hữu. Hệ số này thấp, trong trường hợp DN ở
môi trường kinh doanh thuận lợi, cơ hội tăng trưởng cao, sản phẩm tiêu thụ tốt, ít
cạnh tranh thì cơ cấu tài chính này sẽ mang lại tỷ suất lợi nhuận cao cho DN. Ngược
lại, khi DN lâm vào tình trạng kinh doanh khó khăn, thua lỗ thì cơ cấu tài chính này
sẽ đẩy DN đến chỗ thua lỗ nhanh hơn, mất khả năng thanh toán. Hệ số này cao tuy
không đem lại cho DN tỷ suất lợi nhuận cao nhưng mức độ an toàn cao.
Mục tiêu của ngân hàng là bảo đảm an toàn vốn vay nên ngân hàng muốn chỉ
tiêu này càng cao càng tốt nhưng DN thì ngược lại.
• Hệ số đòn bẩy tài chính:
- Công thức:
- Ý nghĩa: Hệ số này thể hiện mối quan hệ giữa nguồn vốn vay và vốn chủ
sở hữu, thể hiện khả năng tự chủ về tài chính của DN. Hệ số này cũng cho phép
đánh giá tác động tích cực hoặc tiêu cực của việc vay vốn đến khả năng sinh lời của

vốn chủ sở hữu.
21
• Hệ số tài sản cố định:
- Công thức:
- Ý nghĩa: Hệ số này cho thấy mức độ ổn định của việc đầu tư vào tài sản
cố định. Hệ số này càng nhỏ càng an toàn, chứng tỏ phân lớn TSCĐ của DN được
tài trợ bằng nguồn vốn chủ sở hữu chứ không phải từ nợ vay. Nếu hệ số này cao,
cần kiểm tra tiếp tra tiếp hệ số thích ứng dài hạn của TSCĐ và tình hình hoàn trả
các khoản vay dài hạn. Nếu việc hoàn trả những khoản vay dài hạn được thực hiện
trong phạm vi thu nhập ròng hiện tại và chi phí khấu hao, có thể nói hiện tại DN
đang ở mức độ an toàn.
• Hệ số thích ứng dài hạn:
- Công thức:
- Ý nghĩa: Hệ số này cho biết khả năng DN có thể trang trải tài sản dài hạn
của mình bằng các nguồn vốn ổn định dài hạn, bao gồm vốn chủ sở hữu, nợ vay dài
hạn và trái phiếu công ty có kỳ hạn hoàn trả dài hạn.
c. Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động:
Đây là nhóm chỉ tiêu rất quan trọng để xem xét mức độ tăng trưởng của lợi
nhuận DN được sinh ra bởi tổng tài sản hoặc một bộ phận của tài sản như hàng tồn
kho, phải thu… Trong khi tỷ lệ tăng trưởng doanh thu đánh giá mức độ về mặt số
lượng thì tỷ lệ này đánh giá mức độ mở rộng về mặt chất lượng với các chỉ tiêu:
• Hệ số vòng quay tổng tài sản:
- Công thức:
- Ý nghĩa: Hệ số này có biết tổng tài sản được chuyển đổi bao nhiêu lần
thành doanh thu trong một năm. Việc đánh giá chỉ tiêu này hoàn toàn phụ thuộc vào
đặc điểm ngành và đặc điểm kinh doanh của DN, nhìn chung hệ số này càng cao
phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản càng cao.
• Chu kì hàng tồn kho:
- Công thức:
22

×