Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam - chi nhánh tỉnh Tuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.49 KB, 128 trang )

Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
LMỤC LỤC
3.2.1. Giải pháp đối với môi trường quản trị rủi ro 111
Luận văn Thạc sỹ
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam, lợi nhuận từ hoạt động tín dụng vẫn đang
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong thu nhập của các ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn
luôn tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt
Nam bởi hệ thống thông tin thiếu minh bạch và không đầy đủ, trình độ quản trị ngân
hàng nói chung, quản trị rủi ro nói riêng còn nhiều hạn chế, tính chuyên nghiệp của cán
bộ ngân hàng chưa cao. Do đó, yêu cầu xây dựng một mô hình quản trị rủi ro tín dụng có
hiệu quả và phù hợp với điều kiện Việt Nam là một đòi hỏi bức thiết để đảm bảo hạn chế
rủi ro trong hoạt động tín dụng, hướng đến các chuẩn mực quốc tế trong quản trị rủi ro và
phù hợp với môi trường hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam - chi nhánh tỉnh Tuyên Quang trong những năm
qua đã không ngừng lớn mạnh và có những đóng góp vào sự phát triển kinh tế tỉnh Tuyên
Quang. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, ngân hàng cũng gặp phải không
ít khó khăn, đặc biệt là trong công tác quản trị RRTD. Quản trị RRTD vẫn còn những bất
cập, chưa đồng bộ, chưa có chiến lược rõ ràng, việc triển khai quy trình quản trị rủi ro
còn khó khăn. Nội dung chủ yếu trong quản trị rủi ro tín dụng là phòng ngừa, hạn chế
trong phạm vi từng khoản vay mà chưa xây dựng được chiến lược quản trị rủi ro cũng
như triển khai quy trình quản trị rủi ro hiệu quả.
Góp phần đáp ứng những yêu cầu và tính cấp thiết nêu trên, tôi đã chọn đề tài:
“Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt
Nam - chi nhánh tỉnh Tuyên Quang” để nghiên cứu với mong muốn có thể phân tích,
đánh giá chính xác thực trạng và đề xuất giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng của
chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam tỉnh Tuyên Quang.
Luận văn Thạc sỹ
1


Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam - chi nhánh tỉnh Tuyên Quang nhằm hướng tới các mục
đích cụ thể sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng
thương mại;
- Phân tích thực trạng Quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam - chi nhánh tỉnh Tuyên Quang trong thời gian qua;
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - chi nhánh tỉnh Tuyên Quang.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam - chi nhánh tỉnh Tuyên Quang.
- Phạm vi nghiên cứu:
Quản trị rủi ro tín dụng với hoạt động cho vay trong giai đoạn từ 2008-2010 của Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - chi nhánh tỉnh Tuyên Quang.
- Giác độ nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu trên giác độ của nhà quản lý ngân hàng với hoạt động quản trị
rủi ro tín dụng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên và đưa ra kết luận chính xác và phản
ánh đúng thực tế hoạt động ngân hàng, tác giả đã sử dụng hệ thống các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp lý thuyết hệ thống duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;
- Phương pháp phân tích, so sánh;
- Phương pháp đánh giá.
4. Kết cấu của luận văn
Luận văn Thạc sỹ

2
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm những nội dung sau:
- Chương 1. Cơ sở lý luận về Quản trị Rủi ro Tín dụng của ngân hàng thương mại
- Chương 2. Thực trạng Quản trị Rủi ro Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Tuyên Quang
- Chương 3. Giải pháp tăng cường Quản trị Rủi ro Tín dụng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Tuyên Quang
Luận văn Thạc sỹ
3
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1.1. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1.1.Khái niệm hoạt động tín dụng
Tín dụng là mối quan hệ vay mượn trong đó các chủ thể chuyển cho nhau quyền sử
dụng về một lượng giá trị hoặc hiện vật với những điều kiện mà hai bên thoả thuận như
số lượng, thời hạn, lãi suất theo nguyên tắc hoàn trả cả vốn và lãi.
Theo nguyên tắc hoàn trả, người cho vay chỉ tạm thời nhường quyền sử dụng tiền hoặc
tài sản của mình cho người đi vay trong một khoảng thời gian nhất định. Hết thời hạn
vay, người đi vay sẽ phải hoàn trả cho người cho vay một số tiền hay tài sản nhất định
theo thoả thuận. Về nguyên tắc, giá trị khoản hoàn trả sẽ lớn hơn giá trị khoản cho vay.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng rất đa dạng về hình thức nhưng nhìn chung hoạt
động tín dụng Ngân hàng là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa một bên là ngân hàng và
bên kia là các chủ thể kinh tế khác như các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội, dân cư dựa
trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định.
Hoạt động tín dụng rất đa dạng về hình thức như cho vay, chiết khấu, cho thuê tài
chính, bảo lãnh ngân hàng. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, hoạt
động quản trị rủi ro tín dụng tập trung vào nghiên cứu quản trị rủi ro tín dụng đối với hoạt

động cho vay.
1.1.1. Phân loại hoạt động tín dụng
Phân loại hoạt động tín dụng là việc sắp xếp các khoản tín dụng theo từng nhóm
dựa trên một số tiêu chí nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để
thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng.
Tuỳ vào mục đích nghiên cứu mà người ta có thể phân loại tín dụng ngân hàng
theo mục đích sử dụng tiền vay, theo thời hạn cho vay, theo tính chất bảo đảm
• Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay:
Luận văn Thạc sỹ
4
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
- Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất
động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lãnh vực công nghiệp, thương mại và dịch
vụ.
- Cho vay nông nghiệp là hình thức cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu
- Cho vay các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty
tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế
tài chính khác.
- Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm
vật dụng đắt tiền, trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát
hành thẻ tín dụng.
• Căn cứ vào tính chất bảo đảm:
- Tín dụng có bảo đảm là hình thức cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp
hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.
- Tín dụng không có bảo đảm là hình thức cho vay dựa trên cơ sở uy tín, tình hình tài
chính của người vay, mà không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của
người thứ ba.
• Căn cứ vào thời hạn cho vay:
- Tín dụng ngắn hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn dưới 1 năm nhằm đáp ứng

nhu cầu vốn ngắn hạn của người vay như nhu cầu về vốn lưu động.
- Tín dụng trung hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm phục vụ
nhu cầu sửa chữa, nâng cấp tài sản cố định của các doanh nghiệp, cải tiến kỹ thuật
hoặc xây dựng những công trình loại nhỏ, thời hạn thu hồi vốn không dài.
- Tín dụng dài hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn trên 5 năm, phục vụ nhu
cầu trang bị tài sản cố định cho sản xuất kinh doanh, hay xây dựng những công trình
lớn, thời hạn thu hồi vốn lâu hơn.
• Căn cứ vào mức độ rủi ro:
Luận văn Thạc sỹ
5
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước, các khoản vay được phân chia theo mức độ của dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao
cho các khoản mục tài sản:
- Nợ đạt tiêu chuẩn
- Nợ cần chú ý
- Nợ dưới tiêu chuẩn
- Nợ nghi ngờ
- Nợ có khả năng mất vốn
1.1.2. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Bản chất rủi ro tín dụng
Rủi ro là sự việc xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của con người, đem lại những hậu quả
mà người ta không thể dự đoán được. Theo Ủy ban Basel về giám sát nghiệp vụ ngân
hàng, rủi ro tín dụng là rủi ro khi khách hàng hoặc đối tác vay nhưng không thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ cam kết theo hợp đồng tín dụng.
Theo Quyết định số 493/2005/QD-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN, rủi
ro tín dụng được định nghĩa như sau:
“ Rủi ro tín dụng hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn
thất do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết”.

Rủi ro tín dụng là rủi ro xảy ra đối với ngân hàng do khách hàng vay không thể hoàn
thành nghĩa vụ tín dụng theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng bao gồm tất cả những
điều khoản về thời hạn vay, kỳ hạn trả gốc, lãi suất vay và những cam kết khác dẫn tới
thiệt hại cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng là hiện tượng khách quan, tồn tại song song với
hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên không thể tránh mọi rủi ro mà chỉ có thể hạn
chế rủi ro và chấp nhận rủi ro ở một mức độ nhất định. Do vậy, chúng ta cần tập trung
xác định nguyên nhân gây rủi ro tín dụng từ đó thực hiện quản trị rủi ro hiệu quả để đáp
ứng yêu cầu quản lý trong hoạt động ngân hàng.
Luận văn Thạc sỹ
6
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
Rủi ro cũng có thể xem là sự sai lệch của lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng.
Những khoản đầu tư nào có khả năng có sự sai lệch càng lớn được xem như có rủi ro lớn
hơn.
Mỗi khoản đầu tư đều có thể gặp phải hai loại rủi ro là rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ
thống.
- Rủi ro hệ thống là rủi ro do sự biến động lợi nhuận của chứng khoán, hay của danh
mục đầu tư do sự thay đổi lợi nhuận trên thị trường nói chung, được gây ra bởi các
yếu tố như: tình hình nền kinh tế, chính trị, do chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của
Nhà nước trong từng thời kỳ hoặc sự thay đổi trong việc cung cấp và sử dụng các
nguồn năng lượng trên thế giới v.v. Loại rủi ro này tác động đến tất cả các loại chứng
khoán, do đó không thể giảm được bằng việc đa dạng hoá danh mục đầu tư. Loại rủi
ro này còn gọi là rủi ro thị trường và được đo lường bằng hệ số bê-ta.
- Rủi ro phi hệ thống là loại rủi ro khi xảy ra chỉ ảnh hưởng đến một, hoặc một số loại
tài sản hay một chứng khoán (rủi ro vỡ nợ, rủi ro tín dụng…). Loại rủi ro này thường
do chính doanh nghiệp gây ra, như: do năng lực quản lý kinh doanh yếu kém, quyết
định về cơ cấu tài sản và nguồn vốn (sử dụng đòn bẩy kinh doanh và đòn bẩy tài
chính) không phù hợp Loại rủi ro này có thể giảm được bằng chiến lược đầu tư đa
dạng hoá.
Tổng rủi ro = Rủi ro hệ thống + Rủi ro phi hệ thống

1.1.2.2. Nguyên nhân gây rủi ro tín dụng
Tín dụng Ngân hàng lại là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong số các hoạt động
nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại. Vì vậy, việc tìm hiểu rõ các nguyên nhân gây ra
rủi ro trong nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng là vấn đề mà các nhà Ngân hàng cần phải quan
tâm làm rõ để từ đó có cơ sở đưa ra các giải pháp hợp lý quản trị rủi ro.
Có thể phân loại các nguyên nhân chủ yếu gây ra rủi ro tín dụng cho các Ngân hàng
thương mại theo hai nhóm là nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nhóm nguyên nhân khách quan
a. Môi trường tự nhiên:
Luận văn Thạc sỹ
7
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
Nói chung môi trường tự nhiên tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp mà hoạt động của chúng phụ thuộc vào môi
trường tự nhiên như các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nông nghiệp, ngư
nghiệp, dich vụ. Điều kiện tự nhiên diễn biến thuận lợi hay bất lợi sẽ ảnh hưởng tới hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho
ngân hàng.
b. Môi trường kinh tế:
Là một thành phần trong nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng cũng như
doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi môi trường kinh tế. Sự biến động của nền
kinh tế sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp biến động theo
chiều hướng tương tự. Những tác động do môi trường kinh tế gây ra có thể là trực tiếp
với ngân hàng như những rủi do thay đổi tỷ giá, lãi suất, lạm phát làm cho ngân hàng bị
thiệt về thu nhập hoặc gián tiếp tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
đều có thể là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
c. Môi trường pháp lý:
Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ
đồng bộ, không bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh cũng là một nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, gây nên các khoản

nợ quá hạn cho ngân hàng. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý không chặt chẽ, nhiều khe
hở và bất cập sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo lẫn
nhau và lừa đảo ngân hàng. Đồng thời, môi trường pháp lý không ổn định cũng khiến các
nhà đầu tư trung thực e dè, không dám mạnh dạn đầu tư phát triển kinh doanh, do đó hạn
chế về nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng.
Nhóm nguyên nhân chủ quan
a. Về phía khách hàng
Nguyên nhân từ phía khách hàng là một trong những nguyên nhân chính gây ra rủi ro
tín dụng. Người vay có thể do nhiều lý do khác nhau mà không thể thực hiện trả nợ ngân
hàng đúng hạn.
Luận văn Thạc sỹ
8
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
- Khả năng của doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng khoản vay còn hạn chế
Khi lập các phương án kinh doanh, dự án đầu tư nếu doanh nghiệp không tính hết những
biến động thụ trường sẽ có thể dẫn đến thua lỗ, không trả được nợ cho ngân hàng. Mặt
khác, việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp cũng phải đúng mục đích, phân phối có
hiệu quả nếu không đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng sẽ không đạt hiệu quả cao, thậm
chí thua lỗ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
- Năng lực tài chính của các doanh nghiệp yếu kém
Năng lực tài chính là chỉ tiêu cơ bản thể hiện tình trạng sức khoẻ của một doanh nghiệp,
từ đó mà xác định được khả năng trả nợ cho ngân hàng. Kế hoạch trả nợ của doanh
nghiệp cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu doanh nghiệp phải thanh toán những khoản chi nhất
thời quá lớn như thanh toán thuế, tiền lương hoặc cơ cấu vốn đầu tư của doanh nghiệp
không hợp lý đều có thể gây nên khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng đúng hạn dẫn đến
rủi ro tín dụng.
- Đạo đức, thiện chí của khách hàng
Nếu như khách hàng không có thiện chí thì sẽ rất khó khăn cho ngân hàng trong việc
thu hồi nợ. Sự thiếu thiện chí của khách hàng có thể biểu hiện như cố tình sử dụng vốn
sai mục đích, tìm cách lừa đảo ngân hàng, cố ý lừa gạt ngân hàng như lập hồ sơ giả, dùng

tài sản thế chấp tại nhiều ngân hàng khác nhau, xây dựng phương án kinh doanh không
đúng thực tế hoặc cũng có thể là các hành vi gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng hoạt
động tín dụng như kinh doanh trái pháp luật, lừa đảo chiếm dụng vốn lẫn nhau.
Ngoài ra có một số khách hàng có thiện chí thanh toán nhưng gặp yếu tố bất khả kháng
nên bị mất khả năng thanh toán như thiên tai, hỏa hoạn, biến động thị trường ngoài tầm
kiểm soát của khách hàng
b. Về phía ngân hàng
Rủi ro tín dụng có thể xuất phát từ nguyên nhân chủ quan của ngân hàng, ví dụ như
chính sách tín dụng chưa hợp lý làm gia tăng các khoản tín dụng không tốt, hoặc ngân
Luận văn Thạc sỹ
9
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
hàng không thực hiện đầy đủ các biện pháp hợp lý trong quy trình tín dụng, không có
biện pháp đối với sự suy giảm chất lượng tín dụng
Trong giai đoạn xét duyệt:
Trong giai đoạn này, cán bộ tín dụng cần phải phân tích đánh giá khách hàng trước
khi cho vay. Giai đoạn này có thể tiềm ẩn sự rủi ro do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất là sự hạn chế về khả năng phân tích của cán bộ tín dụng. Nếu yếu về
chuyên môn, các cán bộ Ngân hàng không thể đánh giá chính xác về khách hàng và dự án
vay vốn, từ đó sẽ làm phát sinh những hợp đồng tín dụng kém an toàn.
Thứ hai, gắn liền với sự hạn chế về khả năng phân tích là vấn đề phẩm chất đạo đức
của cán bộ. Đánh giá rủi ro tín dụng là một công việc hết sức phức tạp. Đặc thù nghề
nghiệp buộc một cán bộ tín dụng vừa phải có trình độ và phẩm chất đạo đức tốt.
Thứ ba, ở Việt Nam hiện nay, luôn có tư tưởng cho rằng cho vay có tài sản thế chấp
là an toàn nhất. Bởi khi món vay không được hoàn trả, Ngân hàng chỉ việc phát mại tài
sản thế chấp để thu hồi vốn. Nhưng trên thực tế chính việc quá tin tưởng vào tài sản thế
chấp đã gây ra những hạn chế lớn trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng. Do hiện
nay các tài sản thế chấp để vay vốn Ngân hàng còn thiếu các yếu tố pháp lý, gây nhiều
khó khăn cho Ngân hàng. Ở Việt Nam hiện nay, môi trường pháp lý về thế chấp, cầm cố
tài sản chưa đầy đủ.

Trong giai đoạn giám sát tiền vay:
Giám sát là một biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro đạo đức. Việc giám sát sẽ
giúp Ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm bảo đồng vốn được sử
dụng hiệu quả, đúng mục đích. Nếu việc giám sát không được thực hiện thường xuyên và
chặt chẽ, nhiều khả năng khách hàng sẽ sử dụng vốn vào những mục đích không như cam
kết ban đầu làm phát sinh rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam cho thấy, hệ
thống kiểm soát của các Ngân hàng yếu kém và lỏng lẻo khiến cho nhiều khoản tín dụng
được tập trung quá lớn vào một vài đối tượng vay, làm nguy cơ tổn thất tín dụng của
ngân hàng tăng cao, phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của chính những khách
hàng này.
Luận văn Thạc sỹ
10
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
Trong giai đoạn thu nợ:
Xử lý nợ quá hạn cứng nhắc, không hiệu quả và chưa thực sự hợp tác với người vay
là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự gia tăng của số nợ quá hạn, số nợ khó đòi
trong giai đoạn này. Việc xử lý thu nợ cứng nhắc theo hợp đồng mà không chú ý đến điều
kiện của người vay có thể đẩy khách hàng đến một hoàn cảnh khó khăn hơn và hoàn toàn
mất khả năng trả nợ. Ngoài ra, việc Ngân hàng xử lý cứng nhắc theo hợp đồng, không
thực sự hợp tác với khách hàng sẽ làm Ngân hàng mất đi nhiều đối tác kinh doanh lâu
dài.
1.1.2.3. Hậu quả rủi ro tín dụng
Rủi ro là yếu tố gắn liền với mọi hoạt động đầu tư nói chung, trong đó có hoạt động
cho vay của các ngân hàng. Rủi ro tín dụng là một trong những loại rủi ro lâu đời và quan
trọng nhất mà các ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính trung gian khác phải đối
mặt.
Hoạt động tín dụng được thực hiện trên cơ sở có sự tin tưởng, tín nhiệm giữa ngân
hàng và khách hàng. Do vậy, bản thân hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn rủi ro. Khi thực
hiện cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng mặc dù đã xem xét tất cả những yếu tố rủi
ro có thể xẩy ra nhưng không thể lường hết được khả năng gây ra tổn thất ngoài dự kiến.

Ngay cả khi khách hàng có đủ điều kiện về tình hình tài chính, ý thức thanh toán đầy đủ
cho ngân hàng thì vẫn có khả năng xảy ra tình huống bất khả kháng làm ảnh hưởng đến
khả năng thanh toán khoản vay của khách hàng. Vì vậy, rủi ro tín dụng là hoạt động có
tính chất khách quan, tồn tại song song với hoạt động tín dụng ngân hàng.
Rủi ro luôn đi cùng khái niệm chấp nhận rủi ro. Chấp nhận rủi ro là một tất yếu trong
hoạt động ngân hàng, các ngân hàng cần phải xác định mức độ rủi ro tương ứng mà ngân
hàng có thể chấp nhận và kiểm soát được.
Trên quan điểm rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, có thể đề phòng, hạn chế, chứ
không thể loại trừ. Do vậy, ngày nay việc tìm ra các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín
dụng luôn trở thành vấn đề mang tính sống còn, là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ
ngân hàng nào.
Luận văn Thạc sỹ
11
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
Rủi ro tín dụng là khách quan, là không thể tránh khỏi, chúng ta chỉ có thể đề phòng,
hạn chế, chứ không thể loại trừ. Có rất nhiều lý do khiến người ta phải quan tâm đến vấn
đề rủi ro trong hoạt động tín dụng. Sở dĩ như vậy là do rủi ro tín dụng nếu không được dự
kiến trước sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng bất lợi cho cả ngân hàng lẫn người gửi tiền vào
ngân hàng.
Nếu một khoản cho vay nào đó bị thất thoát, không thu hồi được thì ngân hàng phải
sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền. Trường hợp không đủ nguồn
vốn để trả lại cho người gửi tiền, ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán, thậm chí phá sản. Vì hoạt động ngân hàng có tính xã hội hoá cao nên dù chỉ một
ngân hàng có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng không được ứng cứu kịp thời của
ngân hàng trung ương thì có thể ảnh hưởng đến cả hệ thống ngân hàng.
Rủi ro tín dụng tăng lên làm chi phí của ngân hàng tăng cao ngoài dự kiến, thu nhập
giảm sút, phần nộp vào ngân sách nhà nước giảm. Việc tích luỹ để đầu tư hiện đại hoá
công nghệ và đầu tư đào tạo lại cán bộ, nâng cao trình độ gặp nhiều khó khăn về kinh phí.
Ngân hàng bị mất vốn, phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí là xoá nợ; ngoài một phần ngân
sách Nhà nước cấp bù thì phần chủ yếu do ngân hàng phải trích lập phòng ngừa rủi ro

nên thu nhập bị giảm.
Ngoài ra, rủi ro tín dụng cao khiến cho uy tín trong nước và uy tín quốc tế của ngân hàng
bị giảm sút. Điều này cũng gây tâm lý hoang mang, dao động cho cán bộ ngân hàng nói
chung và cán bộ tín dụng nói riêng.
Luận văn Thạc sỹ
12
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
Có thể nói, rủi ro tín dụng là rất nguy hiểm, nó có ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động
của ngân hàng. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để có thể quản trị rủi ro
tín dụng.
1.2. Quản trị rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro là quá trình xác định các rủi ro và tìm cách quản lý, hạn chế các rủi ro
đó xảy ra với tổ chức. Một cách tổng quát, quản trị rủi ro là quá trình xem xét toàn bộ
hoạt động của tổ chức, xác định các nguy cơ tiềm ẩn, và khả năng xảy ra các nguy cơ đó.
Từ đó có sự chuẩn bị các hành động thích hợp để hạn chế các rủi ro đó ở mức thấp nhất.
Luận văn Thạc sỹ
RỦI RO TÍN DỤNG
Không
thu
được lãi
đúng
hạnk
Không
thu đủ
lãi
Không
thu
được
vốn

đúng
hạn
Không
thu đủ
vốn vay
Phát
sinh nợ
khó đòi
Phát
sinh lãi
treo
đóng
bắng
Phát
sinh nợ
quá hạn
Phát
sinh lãi
treo
Khả năng thanh toán giảm, hiệu quả
kinh doanh giảm, thất thoát vốn,
phá sản
13
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
Chính do tầm quan trọng của công tác quản trị rủi ro tín dụng nên các ngân hàng cần
tập trung chú ý xây dựng hệ thống quản trị rủi ro tín dụng để có thể đáp ứng yêu cầu hoạt
động của ngân hàng.
Về bản chất, quản trị rủi ro tín dụng là hệ thống các phương pháp nhằm xác định
loại rủi ro, định lượng rủi ro, đưa ra biện pháp quản lý và giám sát rủi ro tín dụng một
cách hiệu quả. Việc xây dựng chương trình quản trị rủi ro cần đầu tư nguồn lực và thời

gian để có thể phù hợp với yêu cầu cũng như đặc thù hoạt động của ngân hàng trong từng
thời kỳ.
Mục tiêu của hệ thống quản trị rủi ro tín dụng trong các ngân hàng là xây dựng một
hệ thống quản trị đảm bảo mức rủi ro tín dụng ở mức độ có thể chấp nhận được. Muốn
vậy, hệ thống quản trị rủi ro tín dụng cần xây dựng trên cơ sở các chiến lược định hướng
về quản trị rủi ro tín dụng của Ban Điều hành các ngân hàng. Bên cạnh đó các ngân hàng
cần xây dựng các quy trình quản trị rủi ro từ đó có thể xác định các loại rủi ro tín dụng,
định lượng mức độ rủi ro, từ đó sẽ có biện pháp quản lý và giám sát rủi ro hiệu quả. Vậy
có thể thấy rằng, để có hệ thống quản trị rủi ro vận hành tốt, chúng ta cần có nguồn nhân
lực và hệ thống quy trình đầy đủ để làm định hướng triển khai.
Sự cần thiết tăng cường quản trị rủi ro tín dụng
Thực tế cho thấy, hiện nay các ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều tồn đọng trong
hoạt động quản trị rủi ro tín dụng. Trong khi đó, mức độ tăng trưởng tín dụng không
ngừng gia tăng dẫn đến rủi ro tín dụng ngày càng tăng cao, điều này làm ảnh hưởng rất
nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn và làm hạn chế việc mở rộng tín dụng của các ngân hàng
thương mại. Bên cạnh đó, rủi ro tín dụng có thể gây những tổn thất rất lớn cho ngân hàng,
công tác quản lý tín dụng yếu kém, chất lượng tín dụng thấp có thể dẫn đến những thất
bại nghiêm trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Rủi ro tín dụng nếu xảy ra sẽ có thể gây nên các thiệt hại sau đây:
Thứ nhất, đối với nền kinh tế, hoạt động ngân hàng có liên quan đến hoạt động của
nhiều đối tượng khác nhau trong nền kinh tế. Bởi vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra đối với
một ngân hàng nào đó thì sẽ tác động đến tâm lý những người gửi tiền ở những ngân
Luận văn Thạc sỹ
14
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
hàng khác và dẫn đến tình trạng đổ xô đến ngân hàng rút tiền. Như vậy, chỉ một ngân
hàng phá sản cũng có thể khiến một loạt các ngân hàng khác gặp khó khăn. Ngoài ra,
ngân hàng phá sản sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự hoảng
loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh
tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Thêm

nữa, với xu thế toàn cầu hóa hiện nay thì nền kinh tế của một quôc gia có vấn đề còn có
thể tác động xấu đến nền kinh tế thế giới, bởi mỗi quốc gia đều có sự phụ thuộc hay liên
hệ với một vài quốc gia nào đó trong khu vực hoặc trên thế giới. Thực tế cho thấy cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á (1997) hay gần hơn là cuộc khủng hoảng tài chính Nam
Mỹ (2001-2002) đã làm ảnh hưởng đến toàn cầu.
Thứ hai, đối với ngân hàng thì khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được
vốn và lãi của khoản cho vay nhưng vẫn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền đã vay từ
người gửi khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Nợ
không thu được làm giảm vòng quay vốn tín dụng và do đó việc kinh doanh không hiệu
quả. Rủi ro tín dụng xảy ra thì ngân hàng phải tiếp tục đối mặt với rủi ro thanh khoản
tức là mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền và do đó mất uy tín với khách hàng.
Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng khi đã xảy ra có thể gây nên thiệt hại ở
mức độ khác nhau. Ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay
hoặc ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị
lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá
sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói
riêng. Chính vì vậy trong công tác quản trị ngân hàng thương mại, quản trị rủi ro trong
hoạt động tín dụng đóng vai trò hết sức quan trọng.
1.2.2. Nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng
- Lập chiến lược quản trị rủi ro và thường xuyên đánh giá hiệu quả chiến lược;
- Xây dựng các chính sách định hướng mục tiêu quản trị rủi ro;
- Tạo dựng các quy trình, thủ tục hướng dẫn quản trị rủi ro;
- Công tác quản trị rủi ro phải thực hiện trên tất cả các sản phẩm tín dụng;
Luận văn Thạc sỹ
15
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
- Hệ thống quản trị rủi ro cần được đánh giá chất lượng hoạt động một cách độc lập,
khách quan;
1.2.3. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng
Như chúng ta đã biết, rủi ro tín dụng là khách quan, do vậy chúng ta cần có những

biện pháp để hạn chế rủi ro tín dụng ở mức độ có thể chấp nhận được. Do vậy để có thể
quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng một cách tổng thể chúng ta cần bắt đầu từ xây dựng
quản điểm và chiến lược quản trị rủi ro tín dụng. Đây chính là cơ sở ban đầu phản ánh ý
chí chủ quan của Ban lãnh đạo ngân hàng đối với vấn đề rủi ro tín dụng. Bên cạnh quan
điểm của Ban lãnh đạo, chúng ta cũng cần thiết lập các quy trình quản trị rủi ro để đảm
bảo triển khai hiệu quả công tác quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng. Đồng thời chúng ta
cũng cần có cơ chế để kiểm tra, đánh giá chất lượng hoạt động quản trị rủi ro một cách
độc lập, khách quan.
1.2.3.1. Nhận biết rủi ro
Để có thể triển khai hệ thống quản trị rủi ro tín dụng thì việc đầu tiên là phải nhận biết
và xác định các loại rủi ro tín dụng mà ngân hàng có thể sẽ gặp phải trong quá trình hoạt
động. Ngân hàng có thể sẽ không tránh hết mọi loại rủi ro tuy nhiên việc nhận biết các
loại rủi ro là vấn đề sống còn trong hoạt động của ngân hàng. Đối với ngân hàng, do hoạt
động kinh doanh ngày càng trở nên phức tạp chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách
quan nên các rủi ro cũng có xu hướng gia tăng. Do vậy các ngân hàng cần nhận biết được
các rủi ro trọng yếu ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng ngân hàng từ đó có biện pháp ứng
phó hợp lý
Để có thể nhận biết rủi ro tín dụng hiệu quả, việc đầu tiên là các ngân hàng phải xây
dựng các quy trình hoạt động tín dụng hiệu quả, từ đó xem xét các giai đoạn của quá trình
hoạt động tín dụng từ đó có thể xem xét các yếu tố cấu thành cũng như các loại rủi ro
phát sinh trong mỗi giai đoạn của quá trình hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó ngân hàng
nên xây dựng một hệ thống các dấu hiệu cảnh báo rủi ro tín dụng, từ đó có thể xác định
Luận văn Thạc sỹ
16
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
các loại rủi ro tín dụng gặp phải và có biện pháp định lượng rủi ro cũng như quản lý và
giám sát rủi ro hợp lý, phù hợp.
Rủi ro tín dụng có thể được nhận biết dựa trên các yếu tố gây ra rủi ro tín dụng:
- Các khách hàng, ngành kinh tế khác nhau có các rủi ro khác nhau
- Các loại hình tín dụng khác nhau có rủi ro khác nhau

- Khả năng cấp tín dụng và trình độ cán bộ tín dụng
- Mức độ tập trung của danh mục tín dụng
Chúng ta có thể xếp các dấu hiệu của rủi ro tín dụng thành các nhóm sau:
Nhóm 1: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng
• Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản của
khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan
trọng gồm:
- Khó khăn trong thanh toán lương;
- Sự dao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản tiền gửi;
- Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản;
- Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác nhau;
- Không có khả năng thực hiện các hoạt động cắt giảm chi phí;
- Gia tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán khi đến
hạn.
• Các hoạt động cho vay:
- Mức độ vay thường xuyên gia tăng;
- Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi;
- Thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn;
- Yêu cầu các khoản vay vượt nhu cầu dự kiến.
• Phương thức tài chính:
- Sử dụng nhiều các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển dài hạn;
- Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất;
- Giảm các khoản phải trả và tăng các khoản phải thu;
- Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu;
- Có biểu hiện giảm vốn điều lệ.
Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới phương pháp quản lý của khách hàng
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành. Hệ thống
quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, quản trị, điều hành độc
đoán hoặc ngược lại quá phân tán;
Luận văn Thạc sỹ

17
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
- Cách thức hoạch định của khách hàng có dấu hiệu:
 Được hoạch định bởi Hội đồng Quản trị hoặc Giám đốc điều hành ít hay không
có kinh nghiệm.
 Hội đồng Quản trị hoặc Giám đốc điều hành các doanh nghiệp lớn tham gia
quá sâu vào vấn đề thường nhật;
 Thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông, của chủ nợ;
 Thuyên chuyển nhân viên diễn ra thường;
 Lập kế hoạch xác định mục tiêu kém, xuất hiện các hành động nhất thời, không
có khả năng đối phó với những thay đổi;
- Việc lập kế hoạch những người kế cận không đầy đủ;
- Quản lý có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những người quản lý
không thuộc gia đình; cho thành viên của gia đình chưa được đào tạo, huấn luyện
đầy đủ đảm đương vị trí then chốt;
- Có tranh chấp trong quá trình quản lý: bao gồm các mối quan hệ tranh chấp giữa
Hội đồng Quản trị và Giám đốc điều hành với các cổ đông khác, chính quyền địa
phương, nhân viên, người cho vay, khách hàng chính.
- Có các chi phí quản lý bất hợp lý: Tập trung quá mức chi phí để gây ấn tượng như
thiết bị văn phòng rất hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền, Ban Giám đốc có
cuộc sống xa hoa, lẫn lộn giữa chi phí kinh doanh và tài chính cá nhân.
Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới các ưu tiên trong kinh doanh
- Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: Khách hàng bị ấn tượng bởi một khách hàng có
tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc, Ban Giám đốc cắt giảm lợi nhuận
nhằm đạt được hợp đồng lớn;
- Sự cấp bách không thích hợp như: do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung sản phẩm
dịch vụ ra quá sớm; các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không thực tế; tạo
mong đợi trên thị trường không đúng lúc.
Nhóm 4: Nhóm các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật và thương mại
- Khó khăn trong phát triển sản phẩm;

- Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất, thay đổi thị hiếu, cập nhập kỹ thuật mới;
mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối thủ cạnh tranh.
- Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước;
- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao;
Nhóm 5: Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin về tài chính, kế toán
- Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính, chậm trễ hoặc trì hoãn các báo cáo tài
chính;
Luận văn Thạc sỹ
18
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
- Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy:
 Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên;
 Khả năng tiền mặt giảm;
 Tăng doanh số bán nhưng lãi giảm hoặc không có;
 Lập kế hoạch trả nợ mà nguồn vốn không đủ;
 Thường xuyên không đạt mức kế hoạch về sản xuất và bán hàng…
1.2.3.2. Định lượng rủi ro
Để có thể quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả thì công việc định lượng rủi ro đóng vai trò
hết sức quan trọng. Như chúng ta biết, có rất nhiều loại rủi ro tín dụng khác nhau, tuy
nhiên để có thể quản lý tốt thì việc lượng hóa thành các chỉ tiêu định lượng để phân tích
sẽ hỗ trợ hiệu quả cho việc quản lý và giám sát.
Đo lường rủi ro là điều mà các nhà quản lý ngân hàng rất quan tâm, vì rủi ro nếu đo
lường được thì việc phòng ngừa sẽ dễ dàng hơn. Trong hoạt động ngân hàng thì đo lường
rủi ro được thể hiện trên 2 phương diện:
Một là, đo lường hay xác định số thiệt hại do rủi ro gây ra: phản ánh hậu quả rủi
ro được xác định sau khi rủi ro đã xảy ra rồi. Số này có thể là số tuyệt đối, hoặc số tương
đối theo các tiêu thức khác nhau như giá trị thiệt hại, số lần bị rủi ro, tỉ lệ tài sản bị rủi ro.
Sau một thời gian nhất định, các con số phản ánh rủi ro trong kỳ có thể như sau:
Tổng giá trị tài
sản bị rủi ro kỳ

báo cáo
=
Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại
rủi ro mỗi lần trong kỳ
Tổng %
tài sản
=

=
Tổng giá trị TS rủi ro trong kỳ x 100%
Tổng giá trị các TS có sinh lời trong kỳ
Luận văn Thạc sỹ
19
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
Hai công thức trên dùng để xác định tài sản bị rủi ro đã xảy ra. Theo quan điểm xác suất
thống kê, ta có thể lượng hoá được khả năng bị rủi ro của mỗi loại tài sản có của ngân
hàng.
Hai là, đo lường khả năng bị rủi ro: dựa vào công thức tính xác suất của một
biến cố ngẫu nhiên theo quan điểm thống kê, xác định xác suất rủi ro tín dụng ngân hàng
như sau:
P rủi ro
=
Số món cho vay bị rủi ro trong kỳ báo cáo
x100%
Tổng số lần cho vay trong kỳ báo cáo
hoặc
P rủi ro
=
Tổng giá trị tài sản bị rủi ro
Tổng giá trị các món cho vay trong kỳ

Đồng thời, ngân hàng còn có thể tính xác suất rủi ro dự kiến, hay tổn thất dự
kiến EL (Expected Loss) theo khả năng vỡ nợ PD (Probability of Default) với mức độ tổn
thất khi vỡ nợ LGD (Loss Given Default) theo công thức sau:
EL = Giá trị khoản vay x PD x LGD
Theo các công thức này, nếu mỗi món cho vay coi như thực hiện một phép thử
và nếu có số liệu thống kê rủi ro đầy đủ, xác suất bị rủi ro của từng loại tài sản của ngân
hàng có thể xác định được một cách tương đối chính xác trong từng thời kỳ, từng lĩnh
vực đầu tư, từng loại hình tín dụng, Điều này có ý nghĩa rất quan trọng thể hiện ở các
góc độ sau:
- Trên cơ sở xác suất rủi ro đã tính toán, ngân hàng có thể xây dựng cơ cấu lãi suất
cho phù hợp đảm bảo kinh doanh có lãi. Bởi vì, lợi nhuận ngân hàng thu được trên
cơ sở lãi cho vay, lãi suất này phải đảm bảo chi trả phần tiền lãi đi vay, chi phí quản
lý ngân hàng, bù đắp được rủi ro và có lãi. Đối với mỗi tài sản có của ngân hàng,
nếu mức độ rủi ro cao, độ an toàn thấp thì lãi suất của chúng phải cao hơn.
Luận văn Thạc sỹ
20
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
- Dựa vào xác suất rủi ro của từng loại tài sản có, người ta xây dựng các hệ số rủi ro
của từng loại tài sản làm cơ sở tính hệ số an toàn vốn của ngân hàng hoặc làm cơ sở
để tính phí bảo hiểm cho từng loại tài sản.
Ngoài ra chúng ta có thể sử dụng mô hình chấm điểm tín dụng với tư tưởng của
mô hình này là dùng một đại lượng tổng hợp “Z” để đánh giá độ rủi ro tín dụng của một
người vay. Thước đo này được tính toán dựa trên giá trị các chỉ số tài chính của người
vay và tầm quan trọng của các chỉ số đó trong việc quyết định xác suất vỡ nợ của người
vay vốn.
Công thức tính Z là:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5
Với:
X1 : vốn lưu động ròng / tổng tài sản ( NC/TA)
X2 : lợi nhuận giữ lại / tổng tài sản ( NI/TA)

X3 : lợi nhuận trước thuế và lãi vay/ tổng tài sản ( EBIT/ TA)
X4 : thị giá cổ phiếu / giá trị ghi sổ nợ dài hạn
X5 : doanh thu / tổng tài sản ( S/TA)
Giá trị của Z càng nhỏ thì xác suất vỡ nợ của khách hàng càng cao. Do vậy khi Z mang
dấu âm thì khách hàng thuộc nhóm có nguy cơ vỡ nợ rất cao. Theo mô hình này khách
hàng có trị số Z< 1,81 bị coi là có độ rủi ro cao nên ngân hàng sẽ không cho vay ít nhất
khi khách hàng chưa cải thiện được điểm số lớn hơn 1,81.
Ưu điểm của mô hình này tính toán đơn giản dựa trên các chỉ tiêu tài chính quen thuộc
đánh giá khách hàng và kết quả tính toán rất dễ xử lý, thuận tiện cho ngân hàng ra quyết
định. Tuy nhiên mô hình vẫn có một số nhược điểm:
- Chỉ phân chia khách hàng thành 2 loại là vỡ nợ và không vỡ nợ nên tương
đối cứng nhắc với thực tế đa dạng và phức tạp.
- Các trọng số của các chỉ tiêu trong công thức chưa được chứng minh rõ
ràng, hơn nữa khi điều kiện kinh tế thay đổi thì tầm quan trọng của các chỉ tiêu cũng
thay đổi nhưng trong công thức đã không được tính đến.
Luận văn Thạc sỹ
21
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
Không tính đến các yếu tố định tính nhưng khá quan trọng trong thực tế như “mối
quan hệ truyền thống” giữa khách hàng và ngân hàng hay “uy tín” đã có của khách hàng
trên thị trường.
Rủi ro được xem như là sự không chắc chắn hay sự sai lệch của lợi nhuận thực tế
so với lợi nhuận kỳ vọng, một biến cố có khả năng xảy ra và cũng có khả năng không xảy
ra. Để đo lường (đánh giá) rủi ro người ta sử dụng phân phối xác suất với 2 tham số là giá
trị kỳ vọng và độ lệch chuẩn.
- Giá trị kỳ vọng hay tỷ suất sinh lời kỳ vọng (
r
) là giá trị trung bình tính theo
phương pháp bình quân gia quyền của tỷ suất sinh lời có thể xảy ra trong các tình huống.


=
×=
n
1i
ii
rpr

Trong đó: r
i
: Tỷ suất sinh lời của khoản đầu tư ở tình huống i
p
i
: Xác suất tương ứng với tình huống i
n: Số trường hợp (số tình huống) có thể xảy ra.
Rủi ro được xem xét thông qua việc theo dõi phân bố xác suất của tỷ suât sinh lời.
Tỷ suất sinh lời càng phân tán, biến động càng lớn thì rủi ro càng cao.
- Phương sai (
2

) là giá trị trung bình tính theo phương pháp bình quân quyền của
các bình phương của độ lệch giữa giá trị thực tế so với giá trị trung bình. Độ lệch bình
phương đo lường độ phân tán của phân phối xác suất.

2
1
2
)( rrP
n
i
ii

−=

=
σ
Trong đó: r
i
, p
i
: như trên.
r
: Tỷ suất sinh lời kỳ vọng (trung bình).
Luận văn Thạc sỹ
22
Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
- Độ lệch chuẩn (

) là căn bậc hai của phương sai. Độ lệch chuẩn cũng được
dùng để đo lường độ phân tán của phân phối xác suất. Khi áp dụng đối với tỷ suất sinh lời
trong đầu tư nó cho biết mức độ phân tán hay sự biến động của tỷ suất sinh lời (r
i
) xung
quanh tỷ suất sinh lời kỳ vọng, từ đó đánh giá mức độ rủi ro của khoản đầu tư.
2
1
2
)( rrP
i
n
i
i

−==

=
σσ
Nếu hai khoản đầu tư có cùng tỷ suất sinh lời kỳ vọng, khoản đầu tư nào có độ
lệch chuẩn càng cao thì mức rủi ro càng lớn. Trường hợp nếu hai khoản đầu tư có tỷ suất
sinh lời kỳ vọng khác nhau thì không thể đưa ra kết luận như trên, mà phải sử dụng hệ số
biến thiên để đánh giá mức độ rủi ro.
- Hệ số biến thiên (C
V
- Coefficient of variation) là thước đo rủi ro trên mỗi đơn
vị tỷ suất sinh lời kỳ vọng. Hệ số biến thiên càng cao mức rủi ro càng lớn.

r
C
V
σ
=

1.2.3.3. Quản lý rủi ro
Quản lý rủi ro tín dụng là việc xây dựng một hệ thống các công cụ, biện pháp quản lý
tín dụng, từ đó ngân hàng thể hiện các quan điểm, chiến lược quản trị rủi ro vào các bước
tác nghiệp để hạn chế rủi ro xảy ra. Các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng
là:
Xây dựng quy trình tín dụng
Các công cụ chủ yếu trong quản lý rủi ro tín dụng của một ngân hàng được áp dụng
xuyên suốt trong các giai đoạn của quy trình tín dụng:
Sàng lọc, đánh giá rủi ro và lựa chọn khách hàng
Luận văn Thạc sỹ
23

Đỗ Thị Nhung - CH17E PGS. TS Lưu Thị Hương
Để hạn chế được rủi ro tín dụng thì ngân hàng phải lựa chọn ra được những khách
hàng ít rủi ro nhất tức là chọn được những khách hàng có triển vọng tốt. Ngân hàng phải
thực hiện được đầy đủ các công việc sau:
- Thu thập tài liệu, thông tin cần thiết để xếp hạng tín dụng khách hàng bằng cách sử
dụng các tiêu chí tính điểm tín dụng cho khách hàng và chọn ra được những khách
hàng có xếp hạng đủ cao để xem xét việc cấp tín dụng.
- Đo lường mức độ rủi ro của mỗi khách hàng nhằm cụ thể hóa mức độ rủi ro của
khách hàng thì ngân hàng tiến hành phân tích định tính và định lượng rủi ro của
khách hàng.
- Thẩm định tài chính và dự án vay vốn của khách hàng nhằm xác định tính khả thi của
phương án cho vay vốn.
Cụ thể công tác sàng lọc khách hàng bao gồm các công việc được tiến hành như sau:
- Đối với khách hàng cá nhân: ngân hàng thu thập các thông tin như tuổi tác, thu nhập,
tình trạng hôn nhân, công việc, lịch sử tín dụng (đã từng vay vốn ở đâu, trả nợ vay
như thế nào, khoản nợ tồn đọng nếu có ra sao…) nhằm xác định khả năng trả nợ của
khách hàng và ra quyết định.
- Đối với khách hàng doanh nghiệp: ngân hàng không những thu thập thông tin về tình
hình tài chính, về hoạt động kinh doanh mà còn phải tiến hành thẩm định tính khả thi
của dự án vay vốn để ra quyết định tín dụng.
Giai đoạn này giúp ngân hàng có thể tránh gặp phải hai sai lầm cơ bản:
- Trường hợp thứ nhất là khách hàng được đánh giá tốt và ngân hàng chấp nhận cho
vay nhưng khách hàng đó lại không có khả năng trả nợ đúng hạn.
- Trường hợp thứ hai là khách hàng bị đánh giá là không tốt và ngân hàng không lựa
chọn để cho vay vốn nhưng thực tế là khách hàng đó lại có thể trả nợ vay đúng hạn
cho ngân hàng.
Ra quyết định và kiểm soát khoản vay
a) Ra quyết định cho vay:
Luận văn Thạc sỹ
24

×