Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

bài 7 bệnh tai giữa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 48 trang )

Bài 7
BỆNH TAI GIỮA
I. Viêm tai giữa cấp tính.
Tùy theo nguyên nhân gây bệnh và sức đề kháng của cơ thể mà tai giữa có thể bò
viêm ở nhiều mức độ khác nhau. Thông thường có ba loại viêm tai giữa là viêm tai
giữa xuất tiết, viêm tai giữa sung huyết và viêm tai giữa mũ.
1. Viêm tai giữa cấp xuất tiết dòch thấm (Otite aigue catarrhale
transsudative).

Viêm tai giữa cấp xuất tiết dòch thấm có đặc điểm là màng nhó bò sung huyết và
trong hòm nhó có dòch thấm (transsat), (dòch thấm là một chất lỏng, trong, không có
tế bào viêm, do nguyên nhân cơ học sinh ra).
Nguyên nhân của viêm tai giữa xuất tiết được xếp làm ba loại:
- U ở vòm mũi họng hoặc phù nề ở loa vòi làm tắc sự thông hơi của tai giữa.
Không khí trong hòm nhó tiêu dần, áp lực không khí ở tai ngoài cao hơn áp lực trong tai
giữa, gây ra sung huyết và xuất tiết ở niêm mạc.

Sự mất thăng bằng này còn được thấy ở phi công khi lao từ trên cao xuống thấp
hoặc ở những người thợ lặn làm việc trong cái chuông khí nén ở đáy sông.
Dò ứng cũng có thể gây giãn mao mạch và dòch thấm ở tai giữa.
Nói chung, trong viêm tai xuất tiết do nguyên nhân cơ học là chủ yếu, vấn đề
viêm ở đây không đáng kể vì dòch thấm lấy từ trong tai giữa ra đều vô trùng.
a. Triệu chứng:
Viêm tai giữa xuất tiết dòch thấm thường gặp ở phi công hoặc hành khách đi máy
bay.
Triệu chứng chức năng:
Khi máy bay lao nhanh từ trên cao xuống, người trên máy bay thấy tai bò căng
hoặc đau nhói. Độ nửa giờ sau cảm giác đau mất đi và chỉ còn lại cảm giác đầy tai,
kèm theo đó bệnh nhân ù tai, ù giọng trầm và khi đi nện gót mạnh xuống đất nghe có
tiếng vang trong tai.
Bệnh nhân bò điếc nhẹ: điếc giảm bớt khi bệnh nhân nuốt nước bọt hoặc xì mũi.


Khi bệnh nhân nói thì lại nghe tiếng của mình vang lên trong tai. Khám bằng âm thoa
cho kết quả điếc kiểu dẫn truyền. Trong một số ít trường hơp bệnh nhân chóng mặt.
Triệu chứng thực thể:
Màng nhó màu hồng, đôi khi ở dọc theo cán búa chúng ta thấy có mạch máu chảy
dài từ trên xuống dưới.


Ở một số bệnh nhân màng nhó không đỏ nhưng có mức nước ngang tầm rốn nhó
hoặc những bong bóng không khí nhỏ bằng đầu đinh ghim rải rác ở mặt trong của
màng nhó.
Màng nhó bò lõm vào trong với ba hiện tượng:
- Cán búa có xu hướng nằm ngang.
- Mỏm ngắn của cán búa nhô ra ngoài .
- Tam giác sáng thu hẹp lại thành hai vệt sáng hoặc có khi mất hẳn.
Màng Srapnen (Shrapnell) bò chùng nhiều hơn bình thường, khi bơm không khí vào
vòi ơxtasi bằng ống Ita có thể nghe tiếng thổi rít (do hẹp vòi) hoặc tiếng ran ướt (trong
hòm nhó có tiết dòch).
b. Diễn tiến bệnh:
Nếu được điều trò bệnh sẽ khỏi trong vòng 3 đến 7 ngày. Nếu không, bệnh có thể
kéo dài và biến thành viêm tai xuất tiết mãn tính. Viêm tai sung huyết chuyển thành
viêm tai mủ rất hiếm.
Bệnh hay tái phát và gây hại cho thính lực .
c. Điều trò:
Đưa không khí vào hòm nhó : bơm không khí vào mũi bằng quả bóng Pôlitze hoặc
vào vòi ơxtasi bằng ống thông Ita (xem cách làm ở phần những phương pháp điều trò
đại cương về tai).

Tiêm atropin, sáng l/4mg, chiều 1/4mg để chống xuất tiết.
Nếu là viêm tai do dò ứng kéo dài chúng ta có thể tiêm hydrococtaxyn (1 ml) vào
hòm nhó qua vòi ơxtasi (bằng ống thông Ita) hoặc qua màng nhó (tiêm vào gốc sau trên

của màng nhó).
Trong trường hợp tiết nhầy đặc quánh chúng ta tiêm anpha chymotripxin (alpha
chymotrypsine) vào hòm nhó để làm tan chất nhầy hoặc cũng có thể rạch nhó hút chất
nhầy ra.
Nếu là viêm tai do u vòm mũi họng thì phải giải quyết nguyên nhân bệnh
d. Phòng bệnh:
Không nên đi máy bay hoặc lặn xuống nước khi bò xổ mũi, ngạt mũi.
Nên nuốt nước bọt hoặc làm nghiệm pháp Vansava (Valsalva) khi bắt đầu có
triệu chứng thiếu không khí trong tai (nhói trong tai, nghe kém).
2. Viêm tai giữa cấp sung huyết (Otite aigue congestive).
Viêm tai giữa sung huyết còn gọi là viêm tai giữa xuất tiết dòch ró là một loại viêm tai
giữa cấp tính không mũ.

Bệnh này ít khi được phát hiện vì triệu chứng nghèo nàn và thường bò các bệnh viêm
đường hô hấp trên che mờ. Nguyên nhân chính của bệnh là viêm vòm mũi họng. Bệnh có
thể gặp ở các lứa tuổi nhưng trẻ em dễ mắc hơn người lớn vì viêm mũi, viêm V.A lan vào
vòi ơxtasi và làm tắc vòi, gây xuất tiết hòm nhó và tạo điều kiện cho vi trùng phát triển.
Nhưng vi trùng ở đây độc tố không mạnh, không đưa đến mưng mủ mà thường dừng lại ở
giai đoạn dòch rỉ (exudate).
Ở người lớn, viêm tai giữa xuất tiếc dòch rỉ có thể thấy trong viêm mũi cấp (cảm),
cúm hoặc viêm xoang cấp.
a. Triệu chứng:
Đau tai là triệu chứng chính và và cũng là triệu chứng độc nhất. Thỉnh thoảng
bệnh nhân đau nhói trong một vài phút, đau sâu trong ống tai, đau lan xuống hàm dưới
giống đau răng. Lúc đầu đau nhiều về sau gảm dần. Đặc điểm đau là không kéo dài
nhưng hay tái diễn. Các triệu chứng khác như ù tai, điếc thường không có hoặc có rất
ít, không làm cho bệnh nhân chú ý. Thể trạng nói chung là tốt và phụ thuộc vào diễn
tiến của viêm VA, viêm mũi, viêm xoang.
Các triệu chứng thực thể cũng kín đáo: màng nhó hồng hơn bình thường, mạch
máu bò giãn đỏ dọc theo cán búa. Tư thế của màng mhó có thay đổi, màng nhó bò lõm

vào trong nhưng không rõ rệt như trong viêm tai giữa xuất tiếc dòch thấm. Trong hòøm
nhó có tràn dòch nhưng không nhìn thấy mức nước vì khối lượng ít. Tràn dòch này là
dòch ró có tính chất viêm (phản ứng Rivalta dương tính).
Bệnh diễn biến trong một thời gian rồi khỏi. Khi em bé bò viêm mũi, viêm V.A. thì
hiện tượng đau xuất hiện trở lại. Trong một số trường hợp bệnh có thể chuyển thành
viêm tai giữa mũ.
b. Điều trò:
Điều trò cục bộ rất đơn giản, để tự nhiên cơn đau cũng sẽ giảm. Để an ủi bệnh
nhân, người ta thường nhỏ glyxerin boratê ấm (40
0
) vào tai, hai giờ một lần, mỗi lần 5
giọt, hoặc chườm nước nóng vào tai ngoài.
Đối với người lớn, cho uống thuốc giảm đau như aspririn, pramidon
Điều trò bệnh chủ yếu là phải điều trò viêm mũi, viêm V A, viêm xoang bằng nhỏ
mũi, xông thuốc hoặc kháng sinh.
Sau mười ngày, khi hiện tượng viêm cấp đã qua và nếu tai có bò ù hoặc có cảm
giác nặng thì nên bơm không khí vào vòi ơxtasi.
Quan trọng nhất là phải điều trò nguyên nhân gây bệnh, đề phòng những đợt tái
phát. Đối với trẻ em nên tiến hành nạo V.A., còn đối với người lớn nên điều trò viêm
xoang, mổ vẹo vách ngăn, cắt đuôi cuốn mũi quá phát
3. Viêm tai giữa cấp tính có mủ.
Theo đònh nghóa truyền thống, viêm tai giữa cấp tính có mủ là mưng mủ ở hòm
nhó, còn viêm xương chũm cấp tính là mưng mủ và viêm xương ở xương chũm. Viêm
xương chũm được coi như là một biến chứng của viêm tai giữa.

Thật ra các bộ phận của tai giữa như hòm nhó, sào bào, tế bào chũm đều ăn thông
với nhau nên mưng mủ ở tai giữa thường kèm theo viêm niêm mạc ở sào bào, do đó
nếu quy trình viêm chỉ khu trú ở niêm mạc hòm nhó hoặc lan ra niêm mạc sào đạo, sào
bào thì chúng ta vẫn gọi là viêm tai giữa, nhưng nếu quy trình viêm ăn sâu vào đến
xương chũm thì chúng ta gọi là viêm tai xương chũm cấp. Giữa hai trạng thái bệnh lý

này có những bước trung gian mà bác só cần phải biết vì nếu có bệnh tích xương chũm
thì hướng điều trò sẽ khác. Để tiện cho việc trình bày, chúng tôi xin theo phương pháp
kinh điển tức là tách viêm tai giữa cấp tính có mủ ra khỏi viêm tai xương chũm cấp.
a. Nguyên nhân:
Nguyên nhân chính của viêm tai giữa có mủ là viêm vòm mũi họng. Viêm nhiễm
xâm nhập vào tai bằng vòi ơxtasi là chủ yếu, ít khi xâm nhập bằng đường máu hoặc
đường bạch huyết. Sự viêm nhiễm này có thể gây ra bởi các bệnh nhiễm trùng toàn
thân như cúm, sởi hoặc những bệnh cục bộ như viêm mũi, viêm xoang, viêm V.A, u
vòm mũi họng, hoặc đút nút mũi sau để quá lâu.
Viêm tai giữa cấp tính thường gặp ở trẻ em có V.A. hoặc có thể đòa bạch huyết.
Rách màng nhó do chấn thương cũng là một nguyên nhân viêm tai giữa cấp tính.

b. Cơ thể bệnh:
Vi trùng gây bệnh thường là streptôcôc, pnơmôcôc, đặc biệt là loại pneumococcus
mucosus. Ngoài ra còn có vi trùng staphylôcôc, proteus, trực trùng PPeiffer. Trước khi
màng nhó vỡ, chỉ có một loại vi trùng trong mủ nhưng sau khi vỡ, nhiều loại vi trùng
khác xâm nhập vào. Tính chất của mủ chảy ra thay đổi tùy theo giai đoạn của bệnh,
lúc đầu lỏng như thanh dòch, đôi khi có máu, sau biến thành vàng loãng, rồi vàng đặc ở
thời kỳ toàn phát và cuối cùng trở nên trong sánh và keo thành sợi như tiết nhầy khi
viêm sắp hết.
Bệnh tích chính là viêm niêm mạc hòm nhó. Niêm mạc trở nên dày, đỏ, chứa
nhiều bạch cầu và tiết ra chất dòch rỉ có tính chất viêm rõ rệt (bạch cầu thoái hóa,
anbumin nhiều ). Đồng thời niêm mạc của vòi ơxtasi cũng bò viêm và nề làm cho sự
lư thông của vòi bò hạn chế. Niêm mạc của sào bào và các tế bào chũm cũng tham gia
vào quá trình viêm. Sào bào có thể có mủ nhưng chưa chắc là viêm xương chũm.
c. Triệu chứng:
Bệnh cảnh của viêm tai giữa cấp tính thay đổi tùy theo tuổi tác, cơ đòa của bệnh
nhân và tuỳ theo vi trùng gây bệnh
Giai đoạn đầu:
Bệnh nhân thường là em bé đang bò xổ mũi, ngạt mũi, đột nhiên bò đau tai nhiều

kèm theo sốt cao 40
0
. Khám màng nhó thấy một vùng sung huyết đỏ ở góc sau hoặc ở
dọc theo cán búa, hoặc ở màng Srapnen.
Giai đoạn toàn phát:
Mủ bắt đấu xuất hiện trong hòm nhó.
- Màng nhó chưa vỡ: Mủ bò tích trong hòm tai như trong một cái apxe và gây ra
những triệu chứng chức năng, toàn thân và thực thể rõ rệt.
Triệu chứng chức năng:

Đau tai mỗi ngày một tăng, đau nhiều, sâu trong tai, đau
theo nhòp đập của mạch, đau lan ra sau tai, ra vùng thái dương hoặc xuống răng làm
bệnh nhân không ngủ được.

Điếc là triệu chứng quan trọng và thường xuyên. Điếc
khá nhiều, điếc theo kiễu dẫn truyền tức là nghiệm pháp Svabach kéo dài, nghiệm
pháp Rinơ âm tính, nghiệm pháp Vơbe thiên về bên bệnh (tam chứng Bezold). Bệnh
nhân nghe giọng trầm khó khăn.
Ngoài ra, còn có những triệu chứng phụ như ù tai, cảm giác đầy tai, tự thính,
chóng mặt
Triệu chứng toàn thân: Nhiệt độ lên cao và sẽ xuống khi mủ được dẫn lưu. Trẻ
nhỏ sốt cao có thể vật vã, co giật hoặc ở trạng thái lả.
Triệu chứng thực thể: Toàn bộ màng nhó bò nề và đỏ, không thấy được tam giác
sáng, cán búa, mỏm ngắn. Màu sắc của màng nhó hòa lẫn với màu sắc của da ống tai.
Ở mức độ nặng hơn màng nhó sẽ phồng lên như mặt kính đồng hồ đeo tay. Điểm
phồng nhiều nhất thường khu trú về phía sau.

Riêng đối với những màng nhó bò xơ hóa, màng nhó của người già, màu sắc sẽ
không đỏ mà trắng bệch, có nhiều mạch máu đỏ tỏa ra từ cán búa như nan hoa bánh
xe.

Xương chũm có vẻ bình thường nhưng nếu ấn vào đấy bệnh nhân sẽ kêu đau. Hiện
tượng này không có gì đáng ngại, nó chỉ là viêm niêm mạc ở sào bào và ở các tế bào
mà người ta quen gọi là phản ứng xương chũm.
Khám mũi và họng có thể cho chúng ta thấy nguyên nhân của bệnh viêm mũi,
viêm xoang, viêm V.A, viêm aman.
- Màng nhó vỡ:
Màng nhó có thể vỡ do bác só chích để tháo mủ, hoặc vỡ tự phát vào ngày thứ tư
của bệnh do sức ép của mủ. Để cho màng nhó tự vỡ lấy không tốt bằng chích rạch vì
hai lý do sau:
- Lỗ vỡ xuất hiện muộn, mủ tích tụ trong nhiều ngày có khả năng gây ra bệnh tích
xương.
- Lỗ vỡ thường ở cao và nhỏ, dẫn lưu mủ không được tốt, tạo điều kiện cho viêm
kéo dài.
Khi màng nhó đã vỡ và mủ chảy ra ngoài thì các triệu chứng sẽ thay đổi.
Triệu chứng chức năng và toàn thân: các triệu chứng chức năng bớt hẳn, bệnh
nhân không đau tai nữa, nhiệt độ trở lại bình thường, bệnh nhân ăn được ngủ được.
Triệu chứng thực thể: Ống tai ngoài đầy mủ, không có mùi. Lúc đầu mủ loãng
màu vàng nhạt, sau biến thành mủ vàng đặc. Cần phải chùi sạch mủ mới thấy được
màng nhó.
Lỗ thủng của màng nhó sẽ khác nhau tùy theo tai có được chích rạch hay không.
Nếu có chích rạch thì lỗ thủng sẽ rộng và ở về góc sau dưới của màng nhó. Màng nhó
hết phồng.
Khi bệnh nhân ngậm miệng, bòt mũi và thổi mạnh vào vòi ơxtasi (nghiệm pháp
Valsalva) thì mủ và bọt trào ra ở lỗ thủng, đồng thời có tiếng kêu trong tai của bệnh
nhân.
Nếu không chích rạch, để cho màng nhó tự vỡ thì lỗ thủng có thể ở bất cứ chỗ nào,
bờ dày, đỏ, nham nhở. Trong trường hợp lỗ thủng lớn, mủ được dẫn lưu tốt chúng ta
thấy có những triệu chứng giống như là chích rạch. Trái lại nếu lỗ thũng nhỏ, sự dẫn
lưu bò hạn chế và triệu chứng ứ đọng tồn tại (đau nhức, sốt, phồng màng nhó), làm
nghiệm pháp Vansava không thấy mủ trào ra ở lỗ thủng. Có khi lỗ thủng nhỏ bằng

đầu kim và thể hiện bằng một chấm mủ óng ánh đập theo nhòp mạch. Lỗ thủng có thể
ở góc sau và trên màng nhó, trên một cái ụ phồng căng giống như cái vú bò .
Riêng trong trường hợp viêm tai do cúm, sởi, bạch hầu, màng nhó có thể bò tiêu
hủy toàn bộ.
Diễn tiến:
Nếu mủ được dẫn lưu tốt và cơ thể có sức đề kháng cao thì viêm tai giữa cấp tính
mủ có xu hướng lành bệnh. Trường hợp này thường gặp ở những trẻ em khỏe, được
chích rạch màng nhó kòp thời. Sau vài tuần mủ bớt dần, trở nên trong, sánh như nhựa
chuối và cuối cùng hết hẳn vào tuần thứ ba, bệnh nhân cũng nghe rõ trở lại, màng nhó
hết đỏ và trở thành xám, các mạch máu tỏa chung quanh cán búa xuất hiện trở lại
trong vòng năm ba ngày rồi biến mất. Mầu ngắn và cán búa rõ dần. Lỗ thủng thường
được hàn kín lại, thính lực trở lại bình thường.
Nếu mủ không được dẫn lưu tốt và vi trùng có độc tố quá mạnh, bệnh sẽ kéo dài
hoặc sinh ra biến chứng.
d. Biến chứng:
Bệnh có những biến chứng cấp tính và biến chứng kéo dài.
Biến chứng cấp tính thường rất nặng và chúng ta sẽ nghiên cứu riêng từng biến
chứng trong những phần sau. Biến chứng phổ biến và quan trọng nhất là viêm xương
chũm vì từ đấy quy trình viêm sẽ lan ra các bộ phận khác gây ra viêm mê nhó, liệt dây
thần kinh mặt, viêm tắc tónh mạch bên, viêm màng não, apxe não Đôi khi quá trình
viêm nhiễm không lan bằng đường xương mà qua đường máu, gây ra những biến
chứng nội sọ kể trên.
Biến chứng kéo dài, hay nói cho đúng hơn sự chuyển thành viêm tai mãn tính là
hậu quả của việc không điều trò hoặc điều trò không đúng. Cơ đòa của bệnh nhân cũng
đóng một vai trò quan trọng trong sự chuyển biến thành mãn tính viêm mũi, viêm
xoang, viêm V.A.Viêm tai giữa cấp tính có mủ có thể để lại những di chứng như: lỗ
thủng không hàn lại, màng nhó dính vào hòm nhó, cứng khớp các tiểu cốt, xơ nhó
(tympanosclcrose).
Những biến chứng này thường gặp ở những trường hợp không được điều trò, không
được theo dõi.

e. Tiên lượng:
Tiên lượng bệnh nói chung không nặng.
Nếu phát hiện kòp thời những biến chứng nội sọ và dùng kháng sinh đúng mức thì
không có gì đáng ngại. Nhưng riêng trong trường hợp bệnh nhân đã bò vỡ xương đá cũ,
viêm tai giữa mủ cấp tính hay đưa đến viêm màng não thậm cấp thì các phương tiện
điều trò hiện nay thường bất lực.
Về mặt chức năng, sự phục hồi lại hoàn toàn chức năng nghe là hiện tượng phổ
biến trừ những trường hợp có biến chứng như viêm mê nhó hoặc xơ dính trong hòm
nhó
g. Các thể lâm sàng:
Ngoài thể điển hình, viêm tai giữa mủ cấp tính còn nhiều thể lâm sàng khác nhau
do tuổi tác, thể đòa của bệnh nhân, do bản chất của vi trùng, do sự khu trú của bệnh
tích.
Viêm tai giữa ở trẻ sơ sinh:
Tai giữa của trẻ em dễ bò viêm vì những đặc điểm sau:
- Vòi ơxtasi ngắn và rộng, mủ ở vòm mũi họng dễ xâm nhập vào tai.
- Chung quanh mạc treo của tiểu cốt còn có nhiều chất thâm nhiễm dạng thạch
(infỉltrat gélatiniforme) chưa tan hết.
- Mạch máu phân bố nhiều ở chung quanh sào bào.
Bệnh cảnh của viêm tai giữa cấp tính ở trẻ em thường thay đổi tùy theo sức đề
kháng của bệnh nhân và được phân ra làm hai loại là thể khỏe và thể suy yếu
- Thể khỏe:
Thể khỏe thường gặp những trẻ bụ bẫm, bú sữa mẹ. Nhờ sức đề kháng cao nên
bệnh khu trú và diễn biến một cách rõ rệt. Em bé sốt 38 – 39
0
, nôn, bỏ bú, hay quấy
khóc, tối không ngủ. Bệnh thường khu trú ở một bên. Khám tai thấy màng nhó đỏ, nề,
có nhiều tia máu hoặc xám với những chấm óng ánh như hạt sương. Xem màng nhó
của rất khó vì ống tai hẹp, có nhiều lông tơ, màng nhó quá nghiêng và có màu đỏ khi
em bé khóc, thường phải bôi vaselin và dùng kính lúp mới thấy được chi tiết. Nếu

màng nhó được chích rạch sớm thì bệnh sẽ khỏi trong thời gian ngắn (hai tuần) .
- Thể suy yếu:
Thể suy yếu thường thấy ở nhà trẻ thiếu vệ sinh, trẻ sơ sinh không được bú sữa mẹ
hay bò rối loạn đường tiêu hóa. Bệnh thường ở cả hai tai và các triệu chứng lu mờ.
Bệnh bắt đầu bằng sốt, chảy mũi, ngạt mũi, bỏ bú, thường có cả triệu chứng tiêu
hóa (đi tướt, mất nước, tụt cân ).
Các bác só Nhi khoa hay nhấn mạnh vào các triệu chứng như lắc đầu, mặt lúc đỏ
lúc tái.
Hình ảnh của màng nhó phức tạp, có khi màng nhó đỏ mà lại không có mủ trong
hòm nhó hoặc ngược lại màng nhó trắng đục nhưng lại có mủ. Không nên chờ đợi triệu
chứng căng phồng màng nhó ở trẻ vì màng nhó của trẻ dày. Hình ảnh được nhiều tác
giả nhắc đến là màng nhó mất tam giác sáng, biểu mô nhăn như giấy vò hoặc có những
hạt óng ánh như hạt sương.
Nói chung, trong thể viêm tai cấp tính suy nhược, hình ảnh của màng nhó không
thống nhất. Những triệu chứng mà sách kinh điển thường hay nhắc đến làkhông thống
nhất thay đổi màu sắc ở mặt một cách đột ngột, ấn vào bình tai đau, triệu chứng lắc
đầu chỉ có giá trò gợi ý.
Trên thực tế nếu thấy hình ảnh màng nhó khả nghi, nên chích rạch màng nhó càng
sớm càng tốt. Nếu được điều trò kòp thời và đúng mức, thể viêm này cũng có thể khỏi
trong vài ba tuần nhưng cũng cần phải theo dõi sau khi chích rạch vì hiện tượng ứ đọng
mủ do tắc lỗ rạch cũng thường gặp.
Nếu không được điều trò, viêm tai giữa cấp tính thể suy nhược sẽ đưa đến những
biến chứng như viêm sào bào, viêm tai xương chũm hài nhi kèm theo nhiễm độc thần
kinh. Sự xuất hiện của viêm tai sào bào (oto-antrite) được thể hiện trên lâm sàng bằng
những triệu chứng như sốt cao, gày nhanh, nôn mửa thường xuyên, ỉa chảy nhiều lần,
thở nóng và nhanh, mạch nhanh, yếu, thỉnh thoảng lên cơn co giật. Bệnh cảnh nặng
nhưng chưa đến nỗi tuyệt vọng, phẫu thuật mở sào bào kèm theo hồi sức có thể cứu
được bệnh nhân.
Viêm tai xương chũm trẻ sơ sinh sẽ được trình bày ở một bài riêng.
Viêm tai giữa cấp tính ở trẻ em:

Viêm tai cấp tính trẻ em có triệu chứng ở ạt và thường xuất hiện sau bệnh nhiễm
trùng nặng (cúm) hoặc bệnh sởi. Bệnh bắt đầu đột ngột với nhiệt độ cao (40
0
) kèm
theo nôn, cứng gáy, co giật.
Bệnh hay đưa đến biến chứng viêm xương chũm.
Viêm tai giữa cấp tính ở người già:
Thể này ít gặp bệnh biến diễn theo kiểu bán cấp, các triệu chứng toàn thân không
ồ ạt và lỗ thủng xuất hiện muộn. Hình dáng của màng nhó trước khi thủng cũng không
điển hình, màng nhó chỉ đỏ ở phía sau hoặc có nhiều mạch máu đỏ dọc theo cán búa.
Hiện lượng căng phồng rất hiếm có.
Chỉ đònh chích rạch màng nhó dựa vào hai triệu chứng: đau và giảm thính lực.
Thể khu trú:
Viêm nhiễm có thể khu trú ở một phần của hòm nhó bởi mạc treo hoặc dây chằng
ngăn chặn. Loại viêm tai giữa khu trú này có tính chất bán cấp và ít triệu chứng toàn
thân nhưng hay làm đau nhức. Có hai loại đáng lưu ý: viêm túi Trônsơ (Trõlsech) và
viêm túi Prutsăc (Prussak).
Viêm túi Trônsơ (Viêm thượng nhó trong): Túi Trônsơ ở dưới dây chằng nhó búa
sau. Khi túi này bò viêm thì phần tư sau trên của màng nhó sẽ căng phồng và đỏ, trong
khi đó phần còn lại của màng nhó có vẻ bình thường, tam giác sáng vẫn tồn tại. Bệnh
nhân đau nhức trong tai và nghe kém. Sau ít hôm túi mủ sẽ vỡ. Bệnh có thể khỏi nhanh
chóng hoặc biến thành viêm tai mãn tính.
Trước một lỗ thủng ở góc sau và trên phải hết sức dè dặt vì lỗ thủng có thể che
đậy ổ viêm thượng nhó hoặc xương chũm.
Viêm túi Prutsăc (Viêm thượng nhó ngoài): Túi Prutsăc là khoảng rỗng ở ngang
tầm cổ xương búa và được bòt kín bằng màng Srapnen. Túi Prutsăc ăn thông với ngăn
Kretmalt (Kretschmann) ở phía trên (tức là khoảng cách giữa đầu búa và tường thượng
nhó). Viêm túi Prutsăc là sự thể hiện lâm sàng của viêm thượng nhó. Các triệu chứng
toàn thân và chức năng không rõ rệt: không sốt, không điếc, không đau tai, bệnh nhân
chỉ kêu nhức nửa bên đầu.

Phần căng của màng nhó có vẻ bình thường nhưng màng Srapnen thì đỏ và căng,
có khi màng này bò thổi phồng lên giống một cái pôlyp che lấp phần trên của màng
nhó. Túi mủ sẽ vỡ ra nhưng sự dẫn lưu không được tốt lắm vì lỗ thủng nhỏ chỉ bằng đầu
kim, khó nhìn thấy.
Trên thực tế, trước một màng nhó có vẻ bình thường nhưng ống tai lại rỉ mủ, chúng
ta phải lau sạch toàn bộ màng nhó rồi dùng kính lúp soi màng Srapnen.
Trong đa số trường hợp, chúng ta sẽ thấy lỗ thủng rất nhỏ, bò che đậy bởi một cái
vảy con, đó là viêm thượng nhó.
Bệnh có xu hướng biến thành mãn tính do sự thờ ơ của bệnh nhân hoặc do sự chẩn
đoán nhầm của bác só.
Viêm tai giữa cấp do các bệnh nhiễm trùng nặng:
Những bệnh nhiễm trùng nặng (cúm) hoặc những bệnh sốt phát ban thường hay
gây ra một thể viêm tai cấp đặc biệt.
Trong viêm tai cúm, triệu chứng toàn thân khá nặng: sốt cao, mất ngủ, mệt nhọc,
bệnh nhân kêu đau nhói trong tai hoặc nhức đầu nhiều.
Khám tai thấy ở màng nhó hoặc thành ống tai ngoài có những phỏng nước màu nâu
hoặc tím đen chứa thanh dòch lẫn máu. Màu sắc của màng nhó có khi bò biến đổi, trở
thành xanh chàm, chứng tỏ có xuất huyết trong hòm nhó. Sau đó màng nhó sẽ thủng và
lỗ thủng tương đối rộng, ít khi hàn lại được.
Viêm tai giữa cấp tính hoại tử: thể này thường gặp trong các bệnh sởi, cúm, bạch
hầu, Scaclatin; vi trùng gây bệnh thường là Streptôcôc. Đặc điểm của bệnh tích là sự
hoại tử rất nhanh của các tổ chức (biểu mô, dưới biểu mô và cả cốt mạc).
Trong những ngày đầu, màng nhó chỉ đỏ vừa và nề, không phồng, không đau lắm.
Nhưng độ vài hôm sau màng nhó lại thủng, lỗ thủng lan rộng nhanh chóng và tiêu hủy
toàn bộ màng nhó. Tiểu cốt cũng bò hoại tử, mủ lúc đầu không thối nhưng độ mươi hôm
sau có mùi thối. Thể này thường đưa đến biến chứng viêm xương chũm với mảnh
xương mục và có thể kéo dài khá lâu.
Kháng sinh có tác dụng tốt đối với loại viêm tai này nếu được dùng sớm trước khi
xương chũm biến thành xương mục.
Viêm tai do vi trùng Pneumoceccus mucosus:

Thể này thường gặp ở những bệnh nhân có tuổi. Đặc điểm của bệnh là biến diễn
âm thầm mà chỉ có vài triệu chứng chức năng như chảy nước tai và nghe kém.
Bệnh sẽ đưa đến viêm xương chũm trong đại đa số trường hợp.
h. Chẩn đoán: Chẩn đoán viêm tai giữa cấp có ba vấn đề quan trọng:
Không được bỏ sót viêm tai giữa cấp tính: Ở trẻ nhỏ và nhất là trẻ sơ sinh, viêm
tai giữa cấp tính ít khi được phát hiện kòp thời. Do đó chúng ta phải khám tai cho tất cả
các em bé bò sốt không có nguyên nhân rõ rệt, những trẻ sơ sinh ỉa chảy và nôn hoặc có
những triệu chứng màng não.
Không được nhầm viêm tai giữa cấp với các bệnh khác: Nếu ống tai ngoài
rộng, chúng ta có thể nhìn thấy màng nhó và loại ra các bệnh như nhọt ống tai ngoài,
viêm màng nhó, eczêma ống tai ngoài
- Eczêma ống tai ngoài của trẻ em tương đối khó chẩn đoán vì màng nhó đôi khi bò
nề và mất bóng. Trong trường hợp khả nghi nên đặt vào tai một cái bấc thấm nitrat bạc
2% trong 24 giờ, nếu là eczêma thì bệnh tích màng nhó sẽ giảm, nếu là viêm tai giữa
thì bệnh tích sẽ tăng lên. Ở người lớn, viêm thượng nhó với lỗ thủng nhỏ có thể làm cho
chúng ta nhầm với eczêma.
- Trong viêm màng nhó đơn thuần chúng ta chỉ thấy màng nhó đỏ, sung huyết,
không có điếc, không có triệu chứng toàn thân.
- Trong nhọt ống tai ngoài, bệnh nhân có những điểm đau khác biệt ở nắp tai, rãnh
trước xương chũm, bờ trên ống tai (kéo vành tai).
- Ngoài ra chúng ta còn có thể nhầm bệnh với zôna tai. Zôna cũng gây đau tai,
chảy tai và điếc nhưng trong zôna có mụn nước ở nắp tai, vành tai,ở thành sau ống tai
va ở màng nhó kèm theo giảm cảm giác da ở vùng nói trên (vùng Ramsay-Hunt).
Những mụn nước này sẽ khô đi và biến thành vảy nâu.
Nếu ống tai ngoài bò tắc do viêm thì vấn đề đặt ra là phân biệt viêm ống tai ngoài
đơn thuần với viêm tai giữa kèm theo viêm ống tai ngoài, ở đây chúng ta không soi
màng nhó được nên không thể dựa vào đó để chẩn đoán. Nhưng có hai cách phân loại,
đó là:
- Đặt spêculum nhỏ, cỡ trẻ sơ sinh vào tai bệnh và thử sức nghe của bệnh nhân
bằng tiếng nói thầm, nếu bệnh nhân nghe rõ thì không có viêm tai giữa, nếu nghe kém

thì bò viêm tai giữa.
- Điều trò thử bằng kháng sinh, sau vài ngày, ống tai ngoài bớt nề, chúng ta có thể
nhìn thấy được màng nhó và đánh giá tai giữa.
Không được nhầm bệnh với viêm tai giữa mãn tính hồi viêm:
Trong viêm tai giữa mãn tính hồi viêm, bệnh nhân có tiền sử chảy mủ tai từ lâu,
có triệu chứng thực thể mãn tính như bờ lỗ thủng rõ rệt, mủ thối , cholestêatôma mấp
mé ở lỗ thủng, pôlyp ở ống tai, xương bò viêm và bộc lộ.
Chụp X quang rất cần thiết để khám phá bệnh tích của xương chũm trong viêm tai
giữa mãn tính hồi viêm. Hướng điều trò của bệnh này khác hẳn với viêm tai giữa cấp
tính.
i. Điều trò: Tùy theo màng nhó có thủng hay chưa mà có cách điều trò có khác
nhau.
Màng nhó chưa thủng:
- Điều trò bằng thuốc: Ngay trong ngày đầu màng nhó chưa phồng và chưa có
triệu chứng toàn thân, có thể làm giảm sung huyết bằng chườm nước nóng ngoài tai
hoặc nhỏ adrenalin pha với glyxerin ấm 40
0
vào ống tai, thuốc này không vào đến hôm
nhó vì màng nhó chưa vỡ nhưng nó có tác dụng tâm lý tốt đối với bệnh nhân. Ngoài ra
nên nhỏ algyrôl vào mũi.
Có thể cho uống sunfamit nhưng không nên dùng kháng sinh (pênixilin,
aureomyxin ) trước khi chích rạch màng nhó vì những thuốc này sẽ làm mờ các tnệu
chứng viêm, không dập tắt hẳn bệnh và dẫn đến thể bệnh tiềm tàng.
- Chích rạch màng nhó:
Chúng ta phải chích rạch màng nhó trong những trường hợp sau:
- Triệu chứng toàn thân xấu: nhiệt độ cao, mất ngủ, mặt nhiễm trùng. Với trẻ sơ
sinh bò viêm tai, khi có triệu chứng sốt, nôn, ỉa chảy, chúng ta phải chích rạch màng
nhó.
- Triệu chứng chức năng quá rõ rệt: đau tai, nhức nửa bên đầu và điếc. Với bệnh
nhân trước kia thính lực bình thường bây giờ bò viêm tai và nghe tiếng nói thầm dướỉ

10 cm, chúng ta phải nghó đến có mủ hoặc tiết dòch trong hòm nhó.
- Triệu chứng thực thể nói lên có mủ trong hòm nhó là màng nhó căng phồng như
mặt kính đồng hồ đeo tay.
- Có những phản ứng đáng ngại như triệu chứng màng não, triệu chứng mê nhó,
triệu chứng viêm xương chũm.
- Viêm tai giữa cấp tính đã kéo dài trên bốn ngày rồi và không tự vỡ.
Nói chung, trong trường hợp nghi ngờ có mủ chúng ta nên chích rạch màng nhó để ngăn
chặn viêm mủ tiến vào xương chũm.
- Cách chích rạch màng nhó:
Gây tê: đối với người lớn nên đặt một cái bấc nhỏ thấm Bônanh vào sát màng nhó.
Khi màng nhó nên trắng bệch chúng ta bắt đầu chích rạch. Đối với trẻ em nên gây mê
bằng êtyl clorua. Riêng đối với trẻ sơ sinh chúng ta không gây tê mà cũng không gây
mê, chỉ dùng khăn quắn chặt em bé lại và giao cho mẹ bế, trong khi đó y tá giữ đầu
không cho bé giãy dụa.
Kỹ thuật: Phẫu thuật viên tập trung ánh sáng đèn clar vào màng nhó. Tay trái đặt
cái spcêulum lớn nhất mà ống tai có thể chòu được vào lỗ tai bệnh. Tay phải cầm dao
chích nhó loại khuỷu rạch một đường dọc dài 3 mm (từ góc tư sau dưới lên góc tư sau
trên) giữa cán búa và khung nhó. Trong trường hợp lỗ rạch có xu hướng đóng lại quá
sớm, chúng ta nên rạch thêm một đường nằm dưới cán búa. Rạch xong, máu và mủ
chảy ra, chúng ta đặt một cái tăng (tente) bằng gạc có thấm kháng sinh hoặc
mecurôcrôm vào ống tai ngoài rút tăng ra sau 24 giờ. Sau khi rạch nhó các triệu chứng
sốt, đau, ỉa chảy sẽ giảm nhanh chóng.
Chích rạch màng nhó không gây điếc vì màng nhó sẽ lành và không có sẹo.
Nói chung, người ta ít thấy tai biến trong thủ thuật chích rạch màng nhó. Nhưng nếu
em bé giãy dụa, mũi dao có thể làm rách màng nhó kèm theo sai khớp các tiểu cốt,
hoặc trầy da ống tai. Biến chứng rách vònh cảnh chỉ thấy trong trường hợp dò hình bẫm
sinh mà vònh cảnh chui vào trong hòm nhó. Với trương hợp này chúng ta cầm máu bằng
cách nhét bấc nhỏ vào tai.

Màng nhó đã thủng:

Nếu màng nhó thủng, chúng ta phải làm thuốc tai hàng ngày. Có hai cách làm
thuốc, đó là làm thuốc khô và làm thuốc ướt.
- Làm thuốc khô: Phương pháp này phải được bác só chuyên khoa thực hiện. Bác
só dùng que bông hoặc kẹp khuỷu Pôlitze chùi sạch ống tai ngoài và màng nhó hoặc
dùng máy hút sạch mủ. Sau đó đặt vào ống tai một cái tăng hoặc bấc nhỏ có thấm
thuốc kháng sinh (bột cloramphenicon). Sau cùng chúng ta nhét vào cửa tai một cục
bông sạch to bằng đầu ngón tay.
- Làm thuốc ướt: Phương pháp này có thể do người nhà bệnh nhân thực hiện.
Bình thường nên làm mỗi ngày hai lần nhưng nếu mủ chảy nhiều chúng ta có thể làm
ba bốn lần mỗi ngày.
Đầu tiên, chùi sạch vành tai và cửa tai bằng cồn 90 độ rồi để bệnh nhân ngả đầu
lên bàn hướng tai bệnh lên trên và chúng ta nhỏ vào ống tai năm giọt thuốc hỗn hợp
của nước oxy 12 thể tích 40g và dung dòch borat natri 2% 60g. Đợi hai phút cho bọt xùi
lên rồi dùng bông thấm hết bọt và thuốc thừa. Sau đó lặp lại động tác như vậy ba lần.
Khi mủ, tiết nhầy trong ống tai bò đẩy ra ngoài và chùi sạch tai, chúng ta có thể nhỏ
vào tai vài giọt penixilin hoặc hỗn dòch cloramphenicon hoặc văcxin chống vi trùng
gây mủ và đặt vào cửa tai một cục bông bằng đầu ngón tay. Cục bông này phải được
thay mỗi khi bò mủ thấm ướt.
Nhiệm vụ của bác só là phải theo dõi tình hình của lỗ thủng và các triệu chứng
toàn thân. Nếu thấy lỗ thủng đóng lại nhưng bệnh nhân sốt và đau tai thì phải chích
rạch lại đễ dẫn lưu.
Nếu sau bốn tuần mủ vẫn tiếp tục chảy, chúng ta phải nghó đến các nguyên nhân
viêm xoang mũi, viêm vòm mũi họng (V.A), viêm xương chũm, thể trạng suy nhược…
và tìm cách giải quyết.
Trong trường hợp viêm tai giữa cấp tính kéo dài chúng ta nên bơm hydrococtison
và clolamphenicon vào hòm nhó qua lỗ thủng.
Cách làm: trộn 50mg bột cloramphêmcon vào 1ml hydrococtison trong bơm tiêm 5
ml rồi lắc cho đều và nhỏ tất cả thuốc đó vào ống tai, bệnh nhân ngả đầu lên bàn
hướng tai bệnh lên trên. Sau đó dùng spêculum Siecglơ đặt vào ống tai, bơm mạnh
đẩy thuốc vào vòi hòm nhó và vòi ơtasi. Khi không khí và thuốc vượt qua vòi, chúng ta

nghe tiếng kêu ót đặc hiệu, đồng thời bệnh nhân cũng kêu đắng miệng. Mỗi ngày tiến
hành bơm một lần.
Nếu lỗ thủng nhỏ bằng đầu kim, không bơm thuốc được thì chúng ta tiêm thuốc
trực tiếp vào hòm nhó qua góc phần tư dưới sau của màng nhó. Nên dùng kim dài 8cm,
cỡ to và mép vạt ngắn. Tiêm ba ngày một lần.
Điều trò toàn thân:
Một số bệnh nhân sau khi chích rạch màng nhó, mủ chảy ra nhiều nhưng bệnh vẫn
tiếp tục tiến triển, sốt không giảm, đau tăng lên, các triệu chứng tiêu hóa như nôn, ỉa
chảy không bớt ta phải dùng thêm thuốc kháng sinh.
Chúng ta có thể phối hợp sunfamit với pênixilin theo liều lượng thông thường từ
200.000 đến 1.000.000 đơn vò tùy theo độ tuổi hoặc dùng aurêômyxin phối hợp với
sunfmit, hoặc dùng tetraxyclin, hoặc cloramlthênicon uống… theo kháng sinh đồ. Trong
khi dùng kháng sinh, chúng ta nên chụp X quang xương chũm để phát hiện viêm xương
chũm tiềm tàng.
Nhớ nhỏ mũi với acgyrol 3% mỗi ngày 3 lần, mỗi lần ba giọt.
Theo chúng tôi, bác só chỉ nên sử dụng thuốc kháng sinh sau khi đã chích rạch
màng nhó. Thuốc kháng sinh chỉ cần thiết khi bệnh kéo dài hoặc có đe dọa biến chứng.
Bệnh viêm tai giữa cấp tính bình thường có thể điều trò khỏi bằng chích rạch màng
nhó mà không cần uống hoặc tiêm kháng sinh. Dùng kháng sinh bừa bãi gây hại hơn là
làm lợi cho bệnh nhân (viêm xương chũm tiềm tàng).
k. Phòng bệnh:
Tuyệt đối không xó mũi bằng cách bòt cả hai lỗ mũi cùng một lúc, chỉ bòt một bên
và để hở bên kia cho mũi và tiết dòch thoát ra ngoài.
Không nên bơi lội, lặn hụp khi bò viêm mũi, viêm xoang.
Nên điều trò viêm mũỉ, viêm xoang càng sớm càng tốt.
Nên nạo V.A. và cắt amydan ở những em bé hay bò viêm tai tái phát.
Nên điều trò thể đòa hạch huyết bằng canxi, vitamin D2, dung dòch Faolơ (liqueur
de Fowler), acsenic, iodôtanic phốtphatê
Ở những em bé bò sởi, cúm, thương hàn, phải luôn nhỏ thuốc sát trùng vào mũi
(dầu gômênon, argyrôn ) và khám màng nhó thường xuyên.

II. Viêm tai giữa mãn tính.
Thông thường viêm tai giữa sẽ trở thành mãn tính khi thời gian chảy tai kéo dài
trên ba tháng. Tuy nhiên khoảng thời gian này không có tính chất cố đònh, có thể có
những viêm tai giữa mãn tính ngay từ tháng thứ hai.
Có ba loại viêm tai giữa mãn tính chính là viêm tai giữa mãn tính xuất tiết, viêm
tai giữa mãn tính tiết nhầy mủ và viêm tai giữa mãn tính mủ.
Trong viêm tai giữa tiết nhầy mủ, bệnh tích khu trú ở niêm mạc, còn trong viêm
tai giữa ra mủ bệnh tích vượt khỏi niêm mạc và làm thương tổn đến xương.
Loại sau nặng hơn loại trước.
1. Viêm tai giữa mãn tính xuất tiết xơ nhó (Otite catarrhale chronique
Tympanosclérose).
Tuy được gọi là viêm tai xuất tiết nhưng bệnh này chỉ là viêm tai xơ ít khi thủng
màng nhó, không chảy nước ra ngoài tai. Bệnh tích chính diễn biến trong phạm vi mũi
và vòi nhó còn hậu quả ở tai. Bệnh này còn được gọi là xơ nhó.


Viêm tai giữa xuất tiết mãn tính là hậu quả của viêm tai giữa xuất tiết cấp tính tái
diễn nhiều lần. Loa vòi và phần sụn của vòi ơxtasi bò hẹp, tắc do sẹo dính niêm mạc
gây ra do những đợt viêm kéo dài từ lâu.
Nguyên nhân của xuất tiết vòi kéo dài là sùi vòm, vẹo vách ngăn, quá phát đuôi
cuống mũi, u lành tính vòm mũi họng Ngoài ra thể đòa của bệnh nhân cũng ảnh
hưởng đối với xuất tiết kéo dài ở vòi. Những người bò suy gan, dò ứng, thấp khớp, rối
loạn nội tiết, tạng bạch huyết dễ bò viêm tai xơ hơn những người bình thường. Khí hậu
ẩm ướt cũng ảnh hưởng xấu đối với bệnh này.
Khi vòi ơxtasi bò tắt, không khí không vào được hòm nhó, áp lực bên ngoài làm
màng nhó lõm vào trong. Niêm mạc và các mạc treo bò xơ hóa. Các tiểu cốt bò cố đònh
vì xơ khớp. Các cửa sổ tròn và bầu dục bò lớp xơ bòt kín.
Từ xơ nhó còn dùng để chỉ những thương tổn ở tai giữa do viêm tai mủ hoặc mủ
nhầy để lại, niêm mạc hòm nhó bò thoái hóa trong (degénéresecnce hyaline) và thâm
nhiễm vôi dẫn đến sự cứng khớp của chuỗi xương con và xơ dày màng nhó.


a. Triệu chứng:
Triệu chứng chính của bệnh này là điếc. Bệnh nhân bò điếc một cách từ từ, lúc đầu
điếc không thường xuyên, thỉnh thoảng có những lúc nghe rõ trở lại nhưng sau mỗi đợt
sổ mũi thì tai bò điếc trở lại và điếc nặng hơn trước. Cuối cùng bệnh nhân bò điếc liên
tục. Điếc có tính chất dẫn truyền Svabach trên 20 giây, Rinơ âm tính, Vơbe thiên về
tai bệnh và thường khu trú ở một bên tai. Trong trường hợp điếc cả hai tai thì bao giờ
cũng có một bên nặng hơn. Nếu bệnh kéo dài lâu năm điếc trở nên nặng hơn và trở
thành điếc hỗn hợp: Svabach sấp xỉ 20 giây, Rinơ nhập nhằng, khi âm khi dương, Vơbe
không rõ về bên nào. Hiện tượng này chứng tỏ rằng quá trình xơ đã tác động vào mê
nhó. Triệu chứng ù tai cũng thường có, ù giọng trầm như tiếng xay lúa, bệnh nhân ít
khi chóng mặt.
Bệnh nhân không đau tai, không chảy nước tai, không sốt, toàn thể trạng tốt.
Khám tai thấy màng nhó lõm, nghiêng về phía trong, mỏm ngắn nhô ra ngoài, cán
búa ngả về phía sau và có vẻ như bò thu ngắn lại. Tam giác sáng bò méo mó hoặc mất.
Màng nhó đục.

Dùng speculum Siecglơ bơm vào hoặc hút không khí ở ống tai ngoài thì không
thấy cán búa di động.
Nghiệm pháp Vansava âm tính (bòt mũi, ngậm miệng, thổi hơi vào vòi ơxtasi). Soi
mũi trước và mũi sau sẽ thấy được nguyên nhân của bệnh, có thể là vẹo vách ngăn,
viêm xoang mãn tính, quá phát cuốn mũi, sùi vòm, u lành tính ở vòm mũi họng, xuất
tiết mãn tính ở vòm mũi họng
b. Diễn tiến:
Triệu chứng điếc ngày càng tăng và như đã nói ở trên, tính chất của điếc cũng sẽ
thay đổi, điếc tai giữa biến thành điếc hỗn hợp. Bệnh tích ở tai trở thành cố đònh và các
biện pháp thông vòi không còn tác dụng.
c. Chẩn đoán:
Chẩn đoán được tiến hành hai bước là kiểm tra các triệu chứng có nghi ngờ viêm
tai khô vàloại ra các bệnh viêm tai khô khác.

Trong khi chẩn đoán quyết đònh, phải dựa vào tiền sử của bệnh, bệnh tích ở mũi,
xoang, vòm mũi họng và sự tắc của vòi nhó ơxtasi.
Trong chẩn đoán phân loại nên gạt ra bệnh viêm tai khô do thể tạng vì trong bệnh
này màng nhó hoàn toàn bình thường và vòi ơxtasi không bò tắc.
Đồng thời nên loại ra sẹo xơ do viêm tai mủ khi thấy có những biến dạng của
màng nhó rõ rệt như lỗ thủng, sẹo mỏng, mảng vôi hóa
d. Điều trò:
Đối với người lớn nên dùng các thuốc kích thích tiết mật, thuốc chống táo bón.
Kali iôdua có tác dụng chống xơ và cần được uống trong thời gian dài (mỗi ngày
0,50g). Vấn đề vệ sinh cũng rất quan trọng, phải kiêng thuốc lá, rượu, tránh ăn nhiều,
ăn nhanh, khí hậu ẩm ướt. Nên kích động sự tuần hoàn toàn thân bằng cách vận động
thường xuyên hoặc tập thể dục đều đặn.
2. Viêm tai giữa mãn tính tiết nhầy mủ (Otite moyenne muco-purulente
chronique).

Nguyên nhân của viêm tai giữa tiết nhầy mủ là do mũi, xoang, vòm mũi họng
(VA). Thêm vào đó, bệnh tích ở niêm mạc sào bào, niêm mạc thượng nhó hay làm
chảy tai kéo dài.
Nguyên nhân khác là do bệnh tích khu trú ở vòi ơxtasi, hòm nhó, màng nhó, sào
bào.
- Ở vòi ơxtasi niêm mạc bò viêm mãn tính, xuất tiết.
- Ở hòm nhó niêm mạc bò thâm nhiễm bạch cầu, phù nề, trở nên dày nhất là ở
thượng nhó.
- Ở màng nhó có một lỗ thủng hình trứng khu trú ở góc tư phía dưới và trước.

Lỗ thủng có thể lớn hoặc nhỏ, bờ nhẵn nhụi có biểu bì che phủ. Đặc biệt lỗ thủng
không bao giờ ăn vào khung nhó do đó biểu mô của da ống tai không xâm nhập được
vào hòm nhó và không gây ra cholestêatôm.
Ở sào bào và các tế bào chũm, niêm mạc cũng bò viêm làm cho sự thông bào của
xương chũm ngừng trệ. Xương chũm không đặc ngà và vẫn giữ nguyên thể xốp.

a. Triệu chứng:
Các triệu chứng chức năng rất nghèo nàn: bệnh nhân không đau tai, không ù tai,
không chóng mặt, thính lực gần như bình thường. Bệnh nhân chỉ than phiền một triệu
chứng là chảy tai. Tai chảy khá nhiều và tăng lên mỗi khi bệnh nhân bò viêm mũi, sổ
mũi. Chất dòch chảy ra màu vàng nhạt hoặc trong, đặc quánh, kéo dài thành sợi, không
tan trong nước, không thối như tiết nhầy ở mũi.

Với những bệnh nhân thiếu vệ sinh, mủ có thể thối nhưng đó là do sự ứ đọng lâu
ngày trong tai, chỉ cần rửa sạch ống tai ngoài thì mùi thối sẽ hết.
Lỗ thủng ở góc tư dưới trước của màng nhó hình quả trứng, có khi lỗ thủng lan đến
rốn cán búa. Bờ của lỗ thủng nhẵn hoặc thành sẹo hoặc có một viền đỏ bao quanh.
Lỗ thủng bao giờ cũng dừng lại cách khung nhó độ 1mm, phần còn lại của màng
nhó màu xám nhạt, mỏng, không bò viêm. Nhìn qua lỗ thủng thấy đáy hòm nhó màu
hồng, nhẵn, có vẻ bình thường. Khi thăm dò bằng que trâm không có hiện tượng chạm
xương.
Đôi khi ở bờ của lỗ thủng có polyp nhưng không bao giờ chúng ta gặp
cholestêatôma trong loại viêm tai này.
Khám thính lực bằng âm thoa hoặc bằng thính lực kế cho thấy tai bò điếc nhẹ theo
kiểu dẫn truyền. Mức độ điếc thay đổi tùy theo tình trạng của vòi ơxtasi, khi vòi không
viêm thì bệnh nhân nghe rõ, khi vòi xuất tiết và tắc thì bệnh nhân nghe kém. Chụp X
quang cho thấy xương chũm kém thông vào nhưng không có hình ảnh viêm xương.
b. Diễn tiến:
Bệnh diễn tiến từng đợt và kéo dài nhiều năm, nếu bệnh tích còn ở vòm mũi họng
hoặc ở niêm mạc sào bào thì tai còn chảy.
Những đợt mủ chảy trong xen kẽ với những đợt mủ chảy đục thời gian tai khô hẳn.
Bệnh này không gây ra biến chứng đáng kể. Thỉnh thoảng chúng ta có thể gặp
viêm da ống tai ngoài do mủ ứ đọng. Biến chứng này sẽ hết nếu chúng ta chùi sạch
ống tai.
Nhưng nếu bệnh kéo dài lâu (năm, mười năm), niêm mạc hòm nhó sẽ bò xơ hóa và
có sẹo chằng chòt, thính lực sẽ bò giảm nhiều. Hơn nữa nếu bệnh xảy ra ở trẻ em trong

thời kỳ phát triển của xương chũm, sự thông bào sẽ bò đình trệ, sào bào kém phát triển
và thu gọn vào phía sau sào đạo, tónh mạch bên nhô về phía trước.
c. Thể lâm sàng:
Chảy tai do vòi (otorrhée tubaire):
Bệnh tích khu trú ở vòm mũi họng hoặc ở vòi nhó. Lỗ thủng ở màng nhó nhỏ bằng
hạt gạo và bao giờ cũng khu trú về góc tư phía dưới trước. Bờ thành sẹo nhẵn. Chất
dòch chảy ra thường loãng và trong như nước bọt. Tai thường chảy về đêm khi bệnh
nhân nằm ngủ.
Có xu hướng coi chảy tai do vòi như là một di chứng của viêm tai cũ hơn là một
bệnh đang tiến triển.
Viêm tai mãn tính màng nhó đóng kín:
Ở trẻ em chúng ta hay gặp thể viêm tai màng nhó đóng kín. Mỗi lần thời tiết thay
đổi hay bò sổ mũi, bò viêm V.A thì em bé bò chảy tai. Khi bò chảy tai, bệnh nhân có
những triệu chứng của viêm tai cấp như sốt, quấy khóc, bỏ ăn, ỉa chảy Mỗi đợt chảy
tai kéo dài độ vài tuần sau đó tai khô trong một vài tháng rồi chảy trở lại. Càng về sau
thời gian tai khô càng ngắn.
Trong những đợt chảy tai, màng nhó bò thủng giống trong viêm tai cấp. Ngoài đợt
chảy tai thì màng nhó đóng kín lại nhưng không bình thường mà dày, đục, mất tam giác
sáng. Thính lực có giảm, nhưng vì bệnh nhân còn bé nên không đo được.
Nguyên nhân của bệnh là sự phù nề và quá sản của niêm mạc thượng nhó. Niêm
mạc dày gấp ba bốn chục lần so với niêm mạc bình thường, do đó sự dẫn lưu của sào
bào bò đình trệ và dễ đưa đến viêm sào bào. Phẫu thuật mở sào bào đục xương chũm
không giải quyết được bệnh. Sau khi mổ bệnh nhân vẫn tiếp tục chảy tai từng đợt. Độ
năm sáu tháng sau, chỗ mổ tai bò mưng mủ thành apxe sẹo. Nếu lần này cũng chỉ nạo
xương chũm đơn thuần thì apxe sẽ tái phát vì bệnh tích chính không phải ở xương chũm
mà ở niêm mạc thượng nhó. Chỉ có phẫu thuật mở thượng nhó hoặc mở sào bào - thượng
nhó mới giải quyết được bệnh (theo Võ Tấn, Lê Sỹ Nhơn).
Viêm tai mãn tính màng nhó đóng kín là một thể viêm tiềm tàng và khu trú ở niêm
mạc thượng nhó, không làm thủng màng nhó một cách trực tiếp nhưng khi mủ ứ đọng
nhiều trong sào bào thì nó có thể gây ra thủng màng nhó hoặc thủng vết sẹo mổ sau tai.

Viêm tai keo (glue ear):
Viêm tai keo cũng là một loại viêm tai màng nhó đóng kín mà chất tiết dòch trong
hòm nhó đặc như keo. Triệu chứng chính là điếc. Màng nhó đục và xanh. Khe chích
rạch màng nhó không có dòch chảy ra. Cần phải đặt một ống polyten nhỏ và ngắn (độ 1
mm) xuyên qua màng nhó để thông khí màng nhó (đặt ống yoyo).

d. Điều trò:
Điều trò cục bộ:
Tra vào tai thuốc làm se niêm mạc như kẽm sunfat 1%, chì axêtat 1%.
Hiện nay người ta hay dùng hỗn dòch hydrococtanxyn - doramphenicon bơm vào
tai bằng spêculum Siecglơ. Trong trường hợp viêm tai màng nhó đóng kín có thể tiêm
hrococtanxyn (1ml) vào hòm nhó qua màng nhó bằng kim tiêm hoặc bơm vào vòi
bằng ống thông Ita.
Một số tác giả hay phun axit boric bột vào tai sau khi đã lau khô ống tai.
Đông y hay dùng bột phèn phi (phèn chua đốt lên rồi tán thành bột mòn) phun vào
ống tai. Phương pháp này cũng giống như Tây y phun axit bôric. Mỗi lần phun chỉ nên
dùng độ một phần năm gam, nếu phun nhiều thuốc quá thì ống tai sẽ bò tắc và gây ra ứ
đọng mủ trong tai.
Những thuốc kể trên đều cho kết quả tốt nhưng không bền, sau một thời gian ổn
đònh tai sẽ chảy trở lại. Do đó chúng ta phải củng cố kết quả bằng điều trò nguyên
nhân.
Điều trò nguyên nhân:
Nguyên nhân của bệnh là ở mũi và ở vòm mũi họng.
Ở mũi chúng ta phải giải quyết vẹo vách ngăn mũi, quá phát cuống mũi, viêm
xoang
Ở vòm mũi họng chúng ta phải nạo V.A, thanh toán sùi lympô chung quanh loa vòi
ơxtasi (aman vòi) Đối với amiđan vòi chúng ta nên đặt ống Crôvơ (Sonde Crowe)
vào loa vòi ơxtasi khoảng 12 phút. ng Crôvơ tức là ống kim khí Mônen (Monel) chứa
50mg ri.
Điều trò bằng phẫu thuật:

Ở trẻ nhỏ bò viêm tai tiết nhầy mủ kéo dài, nhất là sau khi đã điều trò bằng những
phương pháp kể trên nhưng không có kết quả, chúng ta nên làm phẫu thuật mở thượng
nhó để dẫn lưu.
Cách tiến hành này cho kết quả tốt hơn hẳn phẫu thuật mở sào bào.
3. Viêm tai giữa mãn tính mủ (Otite moyenne chronique suppurée).

Viêm tai giữa mủ mãn tính là một bệnh thường gặp ở mọi lứa tuổi. Hiện nay vẫn
còn bệnh nhân cho chảy tai là xấu hổ và ngại đi khám bệnh. Thái độ này rất nguy
hiểm vì viêm tai mủ mãn tính có thể đưa đến những biến chứng chết người.
Viêm tai giữa mãn tính có mủ thường có kèm theo bệnh tích xương chũm nên
nhiều tác giả xếp hai bệnh viêm tai giữa mãn tính mủ và viêm xương chũm mãn tính
làm một với tiêu đề viêm tai xương chũm mãn tính. Ở đây chúng tôi tách rời hai bệnh
ra trình bày trong hai bài riêng.
a. Nguyên nhân và bệnh tích.
Nguyên nhân:
Viêm tai giữa mủ mãn tính có thể do viêm tai giữa mủ cấp tính chuyển thành.
Bệnh trở thành mãn tính vì không được điều trò hoặc có điều trò nhưng không đúng
cách như không chích rạch màng nhó hoặc chích rạch quá nhỏ, làm thuốc tai không
đảm bảo vô trùng, cho kháng sinh không đúng liều lượng. Bệnh cũng có thể trở thành
mãn tính vì có hoại tử xương ngay trong giai đoạn viêm tai cấp tính, thí dụ như trong
viêm tai do sởi, cúm, bạch hầu .
Bệnh cũng có thể biến thành mãn tính vì sức đề kháng của bệnh nhân giảm sút, thí
dụ như trong trường hợp bệnh lao, bệnh đái tháo đường.
Viêm tai giữa mủ có thể mãn tính ngay từ lúc đầu, bệnh không qua giai đoạn cấp
tính. Bệnh nhân không hề đau tai hoặc sốt, không có triệu chứng toàn thân.
Độc tố của vi trùng, tình trạng thông bào của xương chũm và sức đề kháng của cơ
thể đóng vai trò quan trọng trong thể bệnh này.
Bệnh tích:
Bệnh tích khu trú ở thượng nhó và sào bào là chủ yếu. Trong một số ít trường hợp
thương tổn có thể lan đến phần dưới của hòm nhó.

Niêm mạc sần sùi, nhiều nụ hạt hoặc có cả polyp. Lớp biểu mô phủ bên ngoài
thường bò mất. Dưới lớp niêm mạc sùi là xương viêm.
Xương: xương bò viêm ở vách hòm nhó hoặc ở tiểu cốt. Quá trình viêm xương có
thể lan vào mê nhó, màng não qua trần nhó.
Cholestêatôma là một khối mềm và trắng giống như bã đậu gồm những tế bào
biểu mô lẫn với chất mỡ và cholestêrin. Khối u này được bao phủ bên ngoài bởi một
cái khuôn gồm có tổ chức biểu mô lát dính sát vào lớp tổ chức liên kết mỏng chứa
đựng men collagenase có khả năng làm tiêu xương. Cholestêatôma ngày càng to dần
và có khả năng ăn mòn xương chung quanh. Loại cholestêatôma khô không thối còn
cholestêatôma ướt bò thấm mủ thì thối khẳm.
Để chẩn đoán chính xác cholestêatôma người ta dựa vào kính hiển vi và hóa học.
Kính hiển vi cho chúng ta thấy ở bọc ngoài có những lớp đỏ và vàng (nhuộm bằng
procarmín) do tế bào biểu mô bò bong và xếp thành lá mỏng tạo ra. Giữa những lớp đó
có hạt cholestêrin. Hóa học cho chúng ta thấy rằng trong cholestêatôma có nhiều chất
cholestêrin, phản ứng anhydrit axetic biến cholestêrin thành màu xanh. Phản ứng này
giúp chúng ta phân biệt cholestêatôma với mủ đặc (bã đậu).

b. Triệu chứng.
Triệu chứng chức năng:
- Chảy mủ là triệu chứng chứng quan trọng nhất. Mủ có các đặc điểm sau đây:
- Mủ đặc sánh hoặc loãng, có vón cục.
- Màu vàng hoặc xám xanh có khi lẫn máu.
- Mủ có mùi thối, chùi hết mủ vẫn còn mùi (bệnh tích xương).
- Khối lượng mủ có thể nhiều hoặc ít và thay đổi tùy từng thời gian. Khối lượng
mủ không nói lên mức độ nặng nhẹ của bệnh.
- Trong mủ có nhiều loại vi trùng sinh mủ cùng chung sống với nhau. Đôi khi có cả
vi trùng yếm khí.
- Điếc: Thính lực có thể bò giảm nhiều hay ít tùy theo vò trí của bệnh tích, nghe
giảm trong trường hợp thủng màng Srapnen, điếc nhiều nếu thủng ở phần sau trên.
Điếc ngày càng tăng khi bệnh kéo dài. Lúc đầu điếc theo kiểu dẫn truyền (kiểu điếc

tai giữa), về sau điếc hỗn hợp (có sự tham gia của tai trong).
Điếc thường kèm theo ù tai. Có một số bệnh nhân khi đến khám bệnh, vì xấu hổ,
không dám nói mình bò chảy mủ tai mà chỉ nói bò ù tai.
- Đau: viêm tai mãn tính thường không đau. Bệnh nhân chỉ có cảm giác nặng hoặc
váng đầu. Nhưng nếu mủ tích lại hoặc viêm trở thành bộc phát hồi viêm thì bệnh nhân
sẽ kêu đau. Triệu chứng đau nhức ở đây có giá trò báo hiệu đáng lưu ý, nhất là khi có
cả chóng mặt và mất thăng bằng .
Triệu chứng thực thể:
Triệu chứng thực thể giúp chúng ta chẩn đoán bệnh và đặt ra hướng điều trò.
- Mủ: đã được trình bày ở trên, ở đây chỉ nhấn mạnh hai đặc điểm: mủ tan trong
nước và lắng xuống đáy cốc sau vài ba phút, khác hẳn với tiết nhầy, chất này không
tan trong nước; trong mủ thường có những mảnh óng ánh như xà cừ, nổi trên mặt nước.
Hiện tượng này thường gặp khi chúng ta bơm nước rửa tai qua lỗ thủng bằng Canuyn
Haman (Canule Hartmann). Trong trường hợp mủ chảy ít chúng ta phải đặt vào tai
một cái tăng (bấc nhỏ) trong 24 giờ sau đó rút tăng ra để nghiên cứu mủ.
- Lỗ thủng: Nếu lỗ thủng rộng thì chúng ta có thể thấy dễ dàng sau khi chùi sạch
mủ hoặc rửa tai. Trái lại với những lỗ thủng nhỏ, có mảnh vảy khô che phủ, thường
khó thấy, nhất là lỗ thủng ở vùng Srapnen hoặc ở góc sau trên, phải chùi sạch vảy và
nhìn bằng kính lúp mới thấy được. Lỗ thủng thật rộng cũng có khi rất khó nhìn thấy vì
niêm mạc của thành trong (đáy hòm nhó) quá sản và thoát vò qua lỗ thủng, che kín lỗ
thủng. Với trường hợp này phải dùng cái móc đầu tù, bẻ khuỷu 90 độ, cho vào góc sau
và trên của khung nhó, mũi hướng về phía sau rồi kéo nhẹ ra. Cái móc chui vào hòm
nhó và bò vướng vào khung nhó không kéo thẳng ra được.
Lỗ thủng thường đơn độc và hay ở về góc trên sau. Những lỗ thủng ở màng
Srapnen, ở giữa, ở sau cũng không hiếm. Lỗ thủng có thể nhỏ bằng đầu kim hoặc
chiếm toàn bộ màng nhó.
Bờ của lỗ thủng rõ rệt, có khi đã thành sẹo và lan vào khung nhó. Riêng trong
trường hợp viêm bộc phát thì bờ sẽ phù nề hoặc lởm chởm, có hạt đỏ.
Đáy hòm nhó tức thành trong, có thể nhẵn nhụi hoặc xù xì, có chỗ lộ cả xương.
Qua lỗ thủng chúng ta có thể thấy cholestêatôma trắng mấp mé trong hòm nhó.

Đôi khi polyp to bằng đầu đũa che lấp cả ống tai và làm cho mủ không thoát ra
được. Chúng ta phải dùng thòng lọng cắt polyp thì mới xem được màng nhó.
Chụp X quang: Phim chụp trong tư thế Schuller cho thấy nhiều hình ảnh khác
nhau tùy từng trường hợp. Trong viêm tai giữa mãn tính đơn thuần, xương chũm có vẻ
bình thường hoặc xốp, kém thông bào. Trong viêm tai xương chũm mãn tính, xương
chũm xơ kém thông bào, vách của các tế bào bò mờ, cholestêatôma làm nở rộng hình
ảnh sào bào. Những hiện tượng này nói lên bệnh tích ở tai giữa vượt ra ngoài ranh giới
hòm nhó.
Tư thế Sôxê III cho chúng ta thấy bệnh tích ở tai giữa như viêm tiểu cốt, viêm sào
đạo, viêm thượng nhó, lỗ rò ống ở ống bán khuyên ngoài, mờ cựa sau trên nhó
c. Diễn tiến: Bệnh diễn tiến theo một trong ba hướng sau đây:
Hướng thứ nhất: bệnh tự khỏi. Khả năng này rất hiếm và chỉ thấy ở trường hợp
không có bệnh tích xương chũm và được dẫn lưu tốt.
Hướng thứ hai: bệnh kéo dài vô tận một cách lặng lẽ, không gây ra biến chứng.
Hướng thứ ba: bệnh gây ra những biến chứng nguy hiểm một cách đột ngột hoặc
sau nhũng cơn bộc phát hồi viêm. Khả năng này thường hay gặp.
Bệnh viêm tai giữa mãn tính có mủ hay để lại những di chứng mà chúng ta quen
gọi là xơ nhó, chúng có tác hại lớn đối vơiù thính lực, có thể làm cứng khớp tiểu cốt, xơ
đính màng nhó và đáy hòm nhó cán búa bò kéo về phía sau, các cửa sổ bò khối xơ bòt
kín, lỗ thủng không hàn lại
d. Các thể lâm sàng:
Xếp theo đặc điểm của lỗ thủng:
Tùy theo vò trí của lỗ thủng chúng ta có thể nghó đến bệnh tích ở thượng nhó ngoài,
thượng nhó trong hay ở sào bào, hoặc ở xương chũm.
- Thủng màng Srapllen: Lỗ thủng nhỏ, ngay trên mỏm ngắn, mủ rất ít. Lỗ thủng
không ăn thông với hòm nhó (nghiệm pháp Vansava: không khí không đi qua lỗ thủng).
Tai vẫn nghe rõ tiếng nói thầm độ 2,50 m.
Trước triệu chứng này chúng ta nghó đến viêm thượng nhó ngoài.
Ở một số ít trường hợp, toàn bộ màng Srapnen và một phần của tường thượng nhó
bò phá hủy do cholestêatôma. Các tiểu cốt bò hà và hệ thống dẫn truyền bò gián đoạn.

Trong trường hợp này thính lực bi giảm nhiều.
Lỗ thủng ở Srapnen có thể song song tồn tại với lỗ thủng ở giữa, hoặc ở góc sau
trên màng nhó. Hiện tượng này nói lên sự có mặt của nhiều ổ viêm xương.
- Thủng trước - trên: Lỗ thủng nhỏ ở ngay dưới dây chằng nhó búa trước và ăn
vào khung nhó. Với hiện tượng này nên nghó đến viêm khoang trước của thượng nhó có
kèm theo thương tổn đầu xương búa.
- Thủng sau - trên: Lỗ thủng ở phần góc tư sau - trên của màng nhó, ngay dưới
dây chằng nhó - búa sau và ăn vào khung nhó. Bệnh nhân bò điếc nhiều. Nên nghó đến
viêm thượng nhó trong với bệnh tích như hà xương đe (kèm theo mất liên lạc giữa
xương đe và xương bàn đạp), viêm sào bào
Hiện tượng này đôi khi có kèm theo cả bệnh tích ở thượng nhó ngoài như viêm cổ
xương búa.
- Thủng sau: Lỗ thủng hình trứng ở sát bờ sau khung nhó, xương khung nhó bò
viêm, bờ lỗ thủng sần sùi hoặc có polyp. Hiện tượng này chứng tỏ bệnh tích viêm đã
tràn lan vào sào bào hoặc xương chũm.

- Thủng gần hết màng nhó: Lỗ thủng rộng hình quả đậu, bao vây chung quanh
cán búa, khung nhó bò bộc lộ ở phía sau trên, cán búa bò cụt hoặc tiêu hủy, đáy hòm nhó
có thể sần sùi hoặc nhẵn. Chúng ta không nên nhầm lỗ thủng này với lỗ thủng lớn của
viêm tai tiết nhầy mủ. Trong viêm tai tiết nhầy mủ khung nhó không bò bộc lộ, luôn có
một vành đai màng nhó cách ly lỗ thủng với khung xương.

- Lỗ thủng ở giữa: Lỗ thủng ở dưới rốn nhó hoặc trước hay sau rốn nhó, không
chạm đến xương. Lỗ thủng chỉ nhỏ bằng hạt tấm nhưng bệnh tích bên trong có thể
nhiều.

- Lỗ rò Gơlê: Rò Gơlê là một cái hang nối liền tế bào chũm với ống tai ngoài
xuyên qua tường dây thần kinh mặt. Miệng lỗ rò Gơlê ở thành sau ống tai ngoài và
cách màng nhó độ vài milimet. Chung quanh miệng lỗ rò thường có nụ sùi và mủ.
Chúng ta phát hiện lỗ rò bằng cách đưa que trâm đầu khuỷu vào lỗ rò móc lấy xương.

Động tác này phải được làm một cách nhẹ nhàng vì có khi dây thần kinh số 7 đã bò bộc
lộ và que trâm có thể làm giập dây thần kinh gây liệt mặt.
Thể viêm tai giữa cholestêatôma: Viêm tai giữa mãn tính thường đi đôi với
cholestêatôma ở xương thái dương hoặc xương chũm. Vẫn còn nhiều ý kiến chưa
thống nhất về bệnh sinh của cholestêatôma.

Có ba giả thuyết để giải thích quan niệm về cholesteatôm:
- Giả thuyết di cư (migration): biểu bì ở màng Srapnen di nhập vào thượng nhó qua
lỗ thủng.
- Giả thuyết mảnh ngoại bì vùi (inclusions ectodermiques): cholestêatôma xuất
phát từ những mảnh ngoại bì của bào thai còn sót lại trong xương thái dương. Theo
thuyết này thì cholestêatôma là u nguyên phát.
- Giả thuyết di sản (métaplasie): biểu mô của niêm mạc hòm nhó biến thành biểu
bì của khuôn cholestêatôma (do viêm gây ra).
Trên lâm sàng ở tai chúng ta thấy có ba loại cholestêatôma là ướt, khô và loại vùi.
Cholestêatôma ướt: Cholestcatôma ở tai thường là loại ướt tức là ăn thông với ổ
viêm xương và có mủ. Khuôn bọc ngoài và biểu bì bò vỡ rộng. Đặc điểm của loại này
là rất thối. Mủ của cholestêatôma, khi hòa vào nước thì tan ra thành những mảnh nhỏ
nổi óng ánh trên mặt nước như xà cừ.
Trên phim, đường chu vi của cholestatôma vẫn giữ tính chất đa vòng nhưng có
đoạn rõ nét, có đoạn bò xóa mờ. Trong khối choleatêatôma mức độ sáng không đồng
đều: khoảng giữa sáng hơn, khoảng chung quanh mờ dần, có vùng đậm, vùng nhạt xen
kẽ, trông như làn khói uốn lên hoặc như đám mây trắng đang bay trên nền trời xám.
Xương chung quanh cholestêatôma thường bò viêm nhưng có chỗ thì đặc ngà lại, có
chỗ thì mủn nát.
Loại cholestêatôma này hay gây ra hơi viêm với những biến chứng nguy hiểm.
Cholestêatoma khô: loại này có 3 đặc tính là ăn thông với bên ngoài qua lỗ thủng
màng nhó, xuất tiết rất ít và không thối mấy, cái khuôn bọc ngoài còn nguyên vẹn trừ
phần ở gần lỗ thủng màng nhó. Phim chụp theo tư thế Sôxê III (Chaussé III) cho thấy
rõ bệnh tích ở thượng nhó.

Chúng ta hay gặp loại này ở thượng nhó cùng với lỗ thủng màng Srapnen.
Cholestêatôma không lan rộng lắm, có thể chữa khỏi bằng phương pháp nội khoa.
Cholestêatôma chôn vùi (cholestêatôme ínclus): Đây là những u bò vùi trong
những hốc xương thái dương và không được lưu thông với bên ngoài. Loại này còn
được gọi là cholestêatôma nguyên phát. Cholestêatôma này có sẵn trước khi tai bò
viêm.
Loại này thường không thối, không có triệu chứng biểu lộ ra ngoài, tiến triển âm ỉ
nhưng có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm không kém gì loại có mủ.
Cholestêatôma này được phát hiện ra nhờ bệnh viêm tai cấp tính: bệnh nhân bò
viêm tai cấp lần đầu tiên chưa đầy một tháng nhưng trong mủ lại có những mảnh
cholestêatôm. Phim cho chúng ta thấy hình ảnh cholestêatôma rõ rệt.
Trong loại này bờ chu vi của cholestêatôma thường rõ rệt và nguyên vẹn.

e. Biến chứng:
Viêm tai giữa mãn tính có mủ có thể gây ra những biến chứng cục bộ hoặc biến
chứng xa.
Biến chứng cục bộ:
- Viêm xương tường dây thần kinh mặt, tường thượng nhó, viêm xương tiểu cốt.
- Polyp bòt kín ống tai ngoài.
- Cholestêatôma xuất phát từ thượng nhó và lan rộng vào sào bào, vào xương
chũm.
- Viêm xương chũm cấp tính hoặc mãn tính.
- Sẹo xơ dính trong hòm nhó sau khi tai khỏi bệnh.
Biến chứng ở xa:
Những biến chứng này được chuẩn bò trước bởi một quá trình viêm xương kéo dài
thường là xương chũm và đột nhiên nổ bùng ra nhân dòp tai bò bội nhiễm hồi viêm. Do
đó những biến chứng xa của viêm tai giữa mãn tính giống như những biến chứng của
viêm xương chũm.
- Biến chứng ở xương: Cốt tủy viêm xương chung quanh tai, cụ thể là ở xương
chẩm, hoặc xương đá.

- Biến chứng nội sọ:
- Apxe ngoài màng não.
- Apxe đại não.
- Apxe tiểu não.
- Viêm tónh mạch bên.
- Viêm mê nhó.
- Viêm màng não.
- Biến chứng thần kinh:
- Liệt dây thần kinh mặt.
- Hội chứng Gradenigo (chảy mủ tai, đau nhức nửa bên đầu, liệt dây thần kinh số
VI).
Các biến chứng này sẽ được trình bày ở một phần riêng.
g. Tiên lượng:
Về mặt chức năng, tiên lượng của viêm tai giữa mãn tính có mủ xấu hơn viêm tai
giữa mãn tính tiết nhầy mủ. Bệnh nhân luôn nghe kém và có khả năng điếc nặng do
biến chứng gây ra. Riêng đối với viêm thượng nhó, nếu được điều trò tốt, mức độ giảm
thính lực sẽ rất ít.
Viêm tai giữa mủ mãn tính có thể đưa đến tử vong do những biến chứng đã kể ở
trên.
Những yếu tố làm cho tiên lượng xấu là:
- Lỗ thủng ăn vào bờ xương hoặc ở màng Srapnen.
- Sự có mặt của cholestêatôma.
- Những đợt bội nhiễm bộc phát mà chúng ta quen gọi là những đợt hồi viêm.
h. Chẩn đoán:
Chẩn đoán xác đònh tương đối dễ trừ trường hợp lỗ thủng nhỏ ở màng Srapnen
phải dùng kính lúp mới nhìn thấy được. Trong trường hợp màng nhó bò phá hủy gần hết
và niêm mạc của thành trong nổi phồng lên che lỗ thủng, phải dùng que trâm thăm dò
mới khẳng đònh được bệnh tích màng nhó.
Chúng ta chẩn đoán phân loại bệnh này vơiù những bệnh viêm tai lao, viêm tai cấp
tính, viêm xương chũm.

Viêm tai lao: trong bệnh này màng nhó bò thủng nhiều chỗ, vết thủng nhợt nhạt,
thiếu sinh lực, xương bò hà trắng và bò mục từng khối, dây thần kinh số VII thường bò

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×