Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Quản lý Nhà nước đối với Thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.35 KB, 121 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình toàn cầu hoá, trước hết là toàn cầu hoá về kinh tế đã ảnh hưởng
mạnh mẽ với sự quốc tế hoá của TTCK. Ngày nay, TTCK không chỉ tồn tại ở
các nước công nghiệp phát triển lâu đời mà nó còn có vị thế to lớn ở nhiều nước
đang phát triển và mới phát triển, trở thành biện pháp quan trọng để lưu thông
vốn.
Ở Việt Nam, từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế xã hội chủ nghĩa đã đặt ra yêu cầu phải hình thành và phát triển
từng bước TTCK và quan điểm này đã được thể hiện trong các văn kiện chính
thức của Đảng và Nhà nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đề ra yêu cầu chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng
bước xây dựng TTCK phù hợp với điều kiện và định hướng phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Chính phủ đã
tiến hành hàng loạt các bước chuẩn bị để thành lập và đưa vào vận hành TTCK.
Với việc chủ động xây dựng khung pháp lý, xâydựng mô hình TTCK, tạo dựng
bộ máy QLNN chuyên ngành, thành lập các cơ quan tổ chức thị trường và chuẩn
bị các điều kiện cần thiết khác mà bước đi đầu tiên là thành lập TTGDCK
Tp.HCM, tháng 7/2000, TTCK nước ta chính thức ra đời và đi vào hoạt động,
mở ra kênh huy động vốn trung và dài hạn mới cho nền kinh tế, phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Sự góp mặt của TTCK ở Việt
Nam còn là một sự bổ xung hoàn chỉnh cho một cấu trúc thị trường tài chính
theo hướng phát triển nền tài chính phù hợp với chính sách xây dựng nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và thêm một lần nữa khẳng định
đường lối nhất quán của Đảng phù hợp với xu hướng quốc tế hoá và đưa nền
kinh tế hội nhập khu vực và quốc tế.
TTCK Việt Nam không hình thành một cách tự phát mà xuất phát từ chủ
trương của Đảng và Nhà nước. Nhà nước đóng vai trò là người xây dựng và tạo
lập thị trường. Bởi vậy Nhà nước cũng là chủ thể quản lý mọi hoạt động của
TTCK theo yêu cầu của các quy luật kinh tế, đảm bảo tính công khai, minh bạch
của thị trường. Đó là yêu cầu mang tính khách quan, xuất phát từ chức năng


nhiệm vụ QLNN. Qua gần 7 năm hoạt động, trước sự chuyển biến tích cực của
TTCK Việt Nam trong thời gian qua, hoạt động QLNN đối với TTCK đã có
những bước tiến đáng kể, trong đó phải kể đến động thái hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý, tạo hàng hoá cho thị trường, xây dựng và vận hành các SGDCK,
TTGDCK, thành lập TTLKCK,…
Với mục đích đi sâu tìm hiểu những vấn đề về QLNN đối với TTCK Việt
Nam, em đã chọn đề tài luận văn là: “Quản lý Nhà nước đối với Thị trường
chứng khoán Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá và làm rõ một số một số nội dung cơ bản về TTCK, và QLNN
đối với TTCK.
- Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động QLNN đối với TTCK Việt Nam trong
thời gian qua, từ đó chỉ ra các kết quả đạt được và hạn chế.
- Nghiên cứu mô hình cơ quan quản lý và kinh nghiệm quản lý đối với TTCK ở
một số nước để áp dụng bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; đồng thời đề xuất
giải pháp để nâng cao vai trò QLNN đối với TTCK Việt Nam.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: vai trò của Nhà nước trong quản lý các hoạt động của
TTCK Việt Nam. Vai trò này được biều hiện qua các hoạt động cụ thể của Nhà
nước trong quản lý các hoạt động của TTCK.
- Phạm vi nghiên cứu: Về cơ sở lý thuyết, tập trung nghiên cứu nội dung cơ bản
của TTCK và QLNN đối với TTCK. Về phân tích đánh giá thực tiễn thì luận
văn đã tập trung nghiên cứu thực trạng và hoạt động QLNN đối với TTCK Việt
Nam trong thời gian qua. Các nội dung chủ yếu là hoạt động xây dựng và hoàn
thiện bộ máy quản lý, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý, quản lý, giám sát
các hoạt động trên TTCK. Đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu và tổng kết các
bài học kinh nghiệm của một số nước trong quản lý TTCK; đề xuất một số giải
pháp để nâng cao vai trò QLNN đối với TTCK Việt Nam.
2.3. Phương pháp nghiên cứu

Dựa trên các phương pháp luận nghiên cứu khoa học, các quan điểm, đường
lối của Đảng và Nhà nước để nghiên cứu, đánh giá các hoạt động trên TTCK;
nghiên cứu các chính sách pháp luật và công cụ quản lý đang vận dụng cũng
như xu hướng vận dụng của TTCK; phương pháp hệ thống hoá, diễn giải, quy
nạp, so sánh.
2.4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu, luận văn muốn góp phần làm sáng tỏ một số vấn
đề cơ bản về TTCK và QLNN đối với TTCK. Từ thực trạng QLNN đối với
TTCK Việt Nam, luận văn sẽ tổng hợp và đưa ra những đánh giá về những kết
quả đã đạt được cũng như những hạn chế cần khắc phục. Các giải pháp đưa ra
đều xuất phát từ thực tiễn công tác QLNN đối với TTCK Việt Nam trong thời
gian qua cùng với việc tham khảo bài học kinh nghiệm từ một số nước trên thế
giới, cùng với việc gắn với chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010
nhằm góp phần hoàn thiện, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác QLNN
đối với TTCK Việt Nam.
2.5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mục lục, danh mục chữ viết tắt, tài liệu tham khảo, phụ lục, danh
mục các bảng biều, sơ đồ thì nội dung của luận văn được chia thành 3 chương.
Cụ thể là:
Chương I : Cơ sở lý luận chung về TTCK và QLNN đối với TTCK.
Chương II : Thực trạng QLNN đối với TTCK Việt Nam .
ChươngIII : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLNN đối với TTCK
Việt Nam
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TTCK VÀ QLNN ĐỐI VỚI TTCK
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TTCK:
1.Tính tất yếu khách quan của sự hình thành và phát triển của TTCK trong
nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh có
thể chia thành hai nhóm đối tượng đối lập nhau: nhóm người có vốn cần tìm nơi

đầu tư để kiếm lợi nhuận, nhóm kia là những người cần vốn đầu tư cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh của mình. Làm sao để người có vốn gặp được người
cần vốn thì đó là quá trình giao lưu vốn. Quá trình giao lưu vốn này không phải
lúc nào, nơi nào cũng được khuyến khích phát triển làm nền tảng cho sự kích
thích tăng trưởng của một quốc gia. Chức năng điều hoà quá trình giao lưu vốn
trong xã hội thuộc về các định chế tài chính trung gian với các kênh huy động
vốn ngày càng đa dạng. Nói chung, trong nền kinh tế thị trường có hai kênh huy
động vốn: kênh dẫn vốn gián tiếp và kênh dẫn vốn trực tiếp.
- Kênh dẫn vốn gián tiếp: được hình thành thông qua các định chế tài chính
trung gian. Kênh dẫn vốn này hình thành ngay từ thời kì đầu của quá trình sản
xuất hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Nó ra đời nhằm huy động và tập trung những
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để tái phân phối cho nền kinh tế quốc
dân theo phương thức tín dụng. Đặc trưng của kênh dẫn vốn gián tiếp là nguồn
vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi hình thành trong xã hội, nguồn vốn này chủ yếu là
ngắn hạn. Bởi vậy, sự xuất hiện của Ngân hàng là bước tiến quan trọng trong
quá trình giao lưu vốn. Ngân hàng làm vai trò trung gian giữa người có vốn và
người cần vốn bằng cách huy động tiền gửi rồi cho vay. Ngân hàng cùng các tổ
chức tín dụng khác đã làm cho quá trình giao lưu vốn được phát triển nhanh
chóng.
- Kênh dẫn vốn trực tiếp không thông qua hệ thống trung gian tài chính. Bên có
vốn khi có đủ điều kiện về môi trường pháp lý, môi trường tài chính …sẽ trực
tiếp đầu tư vốn của mình vào sản xuất kinh doanh thông qua thị trường chứng
khoán (TTCK ). Đặc trưng của kênh dẫn vốn trực tiếp là nguồn vốn trung và dài
hạn cho những doanh nghiệp (DN) và nguồn tiền huy động dài hạn cho ngân
sách Nhà nước.
Sơ đồ 1: Mô hình dòng vốn đầu tư vào ngân sách các DN [36 ]
A gọi chung là nhà đầu tư
B gọi chung là nhà doanh nghiệp
A B
Khảo sát kênh dẫn vốn theo sơ đồ trên cho thấy:

Theo kênh dẫn vốn gián tiếp ( qua hệ thống trung gian tài chính )
- Bên A nhượng quyền sử dụng vốn cho ngân hàng để ngân hàng tái chuyển
nhượng vốn cho các doanh nghiệp đi vay vốn, còn quyền sở hữu vốn vẫn thuộc
về bên A. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng vốn này có điều kiện, nghĩa là chỉ
chuyển nhượng vốn trong thời hạn nhất định, hết hạn ngân hàng phải hoàn trả lại
vốn cho bên A kèm theo tiền lãi. Trong vị thế này, ngân hàng chỉ là người trung
gian.
- Chi phí vay cao vì các doanh nghiệp không thể vay trực tiếp từ bên A mà phải
qua các trung gian tài chính.
- Vì là vốn vay nên thời hạn thường có hạn ( ngắn hạn hoặc trung hạn). Các
doanh nghiệp chỉ có thể bổ xung vốn đi vay qua kênh này, còn huy động vốn và
bổ xung vốn điều lệ của doanh nghiệp ( thường là dài hạn) phải thông qua kênh
dẫn vốn trực tiếp. Như vậy, hệ thống ngân hàng khó có thể đảm bảo sự ổn định
đầu tư trong điều kiện huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ xã hội để đầu tư dài
hạn trong các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có nhu cầu thu hút vốn
lớn, dài hạn phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh.
- Mặc khác, qua kênh dẫn vốn gián tiếp, các chủ thể của bên A không thể tham
gia quản lý các doanh nghiệp mà mình đầu tư, do đó làm cho quyền sở hữu và
quyền sử dụng vốn tách rời nhau làm giảm động lực tiềm năng trong quản lý
mà động lực này chứa đựng trong quyền sở hữu vốn của người đầu tư. Sự tách
rời này càng có khoảng cách lớn thì càng gây nên tính ỳ trong hoạt động quản
lý, trong điều kiện xã hội hoá sản xuất còn chưa cao nó còn gây nên tình trạng
ăn bám của người nắm quyền sở hữu về vốn.
Theo kênh dẫn vốn trực tiếp ( thông qua TTCK), bên A đã thực sự được góp
quyền sử dụng và quyền sở hữu về vốn và các doanh nghiệp để cùng nhau quản
lý, khai thác chia lợi nhuận từ nguồn vốn đầu tư mà không phải thông qua các
trung gian tài chính. Đặc biệt các doanh nghiệp cổ phần rất coi trọng hình thức
huy động thông qua kênh dẫn vốn trực tiếp này. Điều này đã được Mác đánh giá
rất cao: “ Nhờ vào công ty cổ phần mà chủ nghĩa tư bản đã làm được hệ thống
đường xe lửa xuyên châu Âu dễ như trở bàn tay”.

Như vậy hệ thống kênh dẫn vốn trực tiếp đã đem lại những ưu điểm hơn hẳn
trong việc huy động vốn mà kênh dẫn vốn gián tiếp không thể có được. TTCK
sẽ là công cụ rất quan trọng cho việc đa dạng hoá các hình thức tạo vốn và tạo ra
môi trường lưu thông các nguồn vốn một cách dễ dàng, là phương tiện rất hữu
hiệu nhằm tạo điều kiện cho việc điều hoà, luân chuyển vốn trong nền kinh tế
quốc dân. TTCK có một ý nghĩa quyết định trong chiến lược phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia và cũng là tính tất yếu khi nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế
thị trường.
Nếu trong thời kỳ đầu TTCK chỉ xuất hiện ở các nước có nền kinh tế tự do phát
triển như Hà Lan, Đức, Mỹ…thì hiện nay mô hình này đã lan rộng và trở thành
hiện tượng phổ biến của các quốc gia có nền kinh tế thị trường. Mặc dù vậy, để
phù hợp với trình độ phát triển nền kinh tế, thực lực nền kinh tế, mà mức độ
phức tạp, đa dạng cũng như mức độ sôi động của TTCK tại các quốc gia là khác
nhau. Sự khác nhau đấy không chỉ dừng lại giữa các quốc gia. Ngay ở những
khu vực phát triển kinh tế khác nhau trong một quốc gia, mức độ lưu hoạt vốn
của các bộ phận thị trường ( mang tính địa phương) cũng khác nhau rõ rệt. Điều
đó có thể thấy rất rõ qua hoạt động của các loại TTCK Mỹ, Cộng hoà liên bang
Đức… Cùng với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, hoạt động của TTCK các
quốc gia này càng trở nên gần nhau hơn, thông qua các liên kết giao dịch, nhu
cầu kinh doanh đầu tư của tất cả các đối tượng.
2.Khái niệm về TTCK:
Có nhiều cách tiếp cận với khái niệm về TTCK. Nếu tiếp cận từ góc độ thuần
tuý thị trường thì:
“ Thị trường chứng khoán ( Securities market) là một thị trường mà ở đó
người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích
kiếm lời.”
Theo Longman- Dictionary of Business English, 1985 thì:
“ Thị trường chứng khoán là nơi những người có vốn hoặc là góp quyền sử
dụng và sở hữu về vốn cho những người cần vốn để cùng nhau quản lý, khai
thác, và chia lợi nhuận từ nguồn vốn đầu tư hoặc là chuyển nhượng quyền sử

dụng vốn cho những người cần vốn trong một thời gian nhất định theo
nguyên tắc hoàn trả và có đền bù dưới hình thức lợi tức.”
Theo quy định của pháp luật hiện hành tại Việt Nam về chứng khoán và thị
trường chứng khoán thì không có khái niệm thị trường chứng khoán mà chỉ có
khái niệm Trung tâm giao dịch chứng khoán và Sở giao dịch chứng khoán.
3.Đặc điểm của TTCK:
3.1. Hàng hoá trao đổi trên TTCK là những hàng hoá đặc biệt:
Giá trị sử dụng của chứng khoán với tư cách hàng hóa không phải là tính
năng vốn có chứa đựng ngay trong bản thân hình thái vật chất của chứng khoán ,
mà phụ thuộc vào kết quả hoạt động và khả năng trả nợ của tổ chức phát hành.
Chính vì vậy, TTCK đòi hỏi khá nghiêm ngặt về chế độ cung cấp thông tin so
với tất cả các thị trường khác. Mức độ đầy đủ, rõ ràng, chính xác và kịp thời của
thông tin là yếu tố hàng đầu làm cho TTCK vận hành một cách có hiệu quả.
Giá cả của chứng khoán được xác định bằng cách vốn hoá thu nhập mà nó có
thể đem lại. Phương thức vốn hoá phụ thuộc vào lãi suất thị trường, vào lãi suất
trái phiếu, vào cổ tức và mức độ rủi ro…Đến lượt mình, lãi suất lại phụ thuộc
vào cung cầu vốn, cổ tức lại phụ thuộc vào hoạt động của tổ chức phát hành
cũng như rủi ro của yếu tố tâm lý của người tham gia TTCK gây ra…
3.2.Phương thức giao dịch trên TTCK khá đặc thù:
Ngoài một số giao dịch thoả thuận giữa các định chế tài chính lớn, đa phần
các giao dịch của các nhà đầu tư cá nhân đều phải thực hiện thông qua các công
ty môi giới. Để có thể vận hành được TTCK, yêu cầu cần có trình độ tổ chức
cao, trong đó các công tác trung thực, công khai, công bằng được đặt lên hàng
đầu. Bởi vì các giao dịch chứng khoán thường xuyên liên quan đến những giá
trị tài sản lớn, do đó, nếu xảy ra gian lận sẽ gây ra thiệt hại cho những người liên
quan. Chính vì thế, khi tham gia giao dịch, các chủ thể phải đáp ứng yêu cầu
trung thực, phải tuân thủ các nguyên tắc khắt khe của TTCK và hoạt động công
khai để phòng ngừa gian lận.
3.3.TTCK mang tính cạnh tranh khá hoàn hảo:
Những hành vi gian lận, độc quyền, câu kết để lũng đoạn giá…đều có các

chế tài ngăn cấm, xử phạt một cách nghiêm khắc hơn các loại thị trường khác.
Đồng thời TTCK phải có hệ thống thông tin công khai về giá cả, động thái giao
dịch cũng phải được tổ chức kiểm soát chặt chẽ nhằm duy trì tính công bằng,
minh bạch. Các giao dịch trên thị trường phải được chuẩn hoá và được điều
hành một cách công khai…Tất cả những nét đặc thù đó đã làm cho TTCK
không những là thị trường trong đó cơ chế cung cầu tự phát quyết định giá cao
hơn giá ở các loại thị trường khác.
4.Chức năng của TTCK:
4.1.TTCK tạo ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế:
So với huy động vốn qua các tổ chức tín dụng, TTCK có ưu thế hơn ở chỗ nó
cung cấp vốn đầu tư mạo hiểm để phát triển các ngành, lĩnh vực mới, tạo cơ chế
chuyển hóa vốn ngắn hạn thành vốn dài hạn, mở rộng quy mô huy đông vốn cho
các doanh nghiệp và Nhà nước; cung cấp khả năng chủ động lựa chọn cho cả
người có vốn và người cần vốn.
4.2. TTCK tham gia phân phối lại thu nhập quốc dân.
Cùng với hệ thống các tổ chức tín dụng, thị trường tiền tệ, TTCK thực thi
quá trình phân phối dựa trên quyền sở hữu thông qua giá cả chứng khoán. Tuy
nhiên có thể thấy đâylà hệ thống phân phối ít nhiều không công bằng bởi lợi
nhuận kiếm được qua chênh lệch giá không phản ánh công sức đóng góp của
nhà đầu tư hay nhà kinh doanh chứng khoán. Lợi nhuận này ở một mức độ nào
đó phụ thuộc vào tài năng dự đoán của người kinh doanh chứng khoán, nhưng
chủ yếu phụ thuộc vào sự may rủi và xu thế biến động của thị trường. Trên
TTCK, nhà đầu tư có thể giầu nên rất nhanh, nhưng có thể mất rất nhanh.
4.3.TTCK là kênh giao lưu vốn trong nước và nước ngoài:
Thông qua TTCK, nhà đầu tư có thể mua chứng khoán của nước ngoài hoặc
phát hành chứng khoán thu hút vốn đầu tư của nước ngoài một cách dễ dàng.
Ưu thế của việc mua chứng khoán nước ngoài so với đầu tư trực tiếp là các nhà
đầu tư có thể nhanh chóng chuyển đổi vốn giữa các ngành, các doanh nghiệp,
cũng như có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư nhằm tránh rủi ro. Thu hút vốn
qua TTCK nước ngoài giúp cho các doanh nghiệp có thể tìm kiếm các nguồn

vốn mạo hiểm, hoặc mở rộng quy mô phát hành chứng khoán.
4.4.TTCK điều hoà phân bổ vốn đầu tư xã hội giữa các lĩnh vực, ngành
nghề, doanh nghiệp:
Sự lên xuống của giá cổ phiếu tác động đến mức lợi nhuận mà các cổ đông
thu được từ cổ phiếu và các thông tin để họ quyết định chuyển dịch vốn của
mình từ cổ phiếu có lợi nhuận thấp sang cổ phiếu có lợi nhuận cao. Thông qua
quyết định của người đầu tư, các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, giá cổ
phiếu giảm sẽ khó huy động vốn, còn các doanh nghiệp có mức doanh lợi cao,
giá cổ phiếu lên dễ dàng huy động vốn. Tuy nhiên trong thực tế, chức năng này
của TTCK thường hay bị nhiễu loạn do đầu cơ và sự không đầy đủ của thông
tin.
4.5. TTCK cung cấp một chỉ báo và một môi trường điều tiết vĩ mô:
Các chỉ số giá cả của TTCK cho thấy một cách tổng hợp thực trạng nền kinh
tế một cách nhạy bén và chính xác. Thông qua TTCK, Nhà nước có thể điều tiết
nền kinh tế bằng cách mua, bán cổ phiếu hoặc xử lý nghiệp vụ phát hành trái
phiếu Nhà nước. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đều thừa nhận tín hiệu từ TTCK
không phải bao giờ cũng phản ánh trung thực thực trạng của nền kinh tế bởi vì
sự biến động của các chỉ tiêu chứng khoán còn chịu ảnh hưởng rất lớn của các
yếu tố phi kinh tế.
4.6.TTCK cung cấp tính thanh khoản cho nhà đầu tư:
Những giao dịch liên tục trên TTCK cung cấp cho nhà đầu tư khả năng
chuyển đổi chứng khoán ra tiền mặt khi cần thiết, do đó họ có thể huy động
được các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi, ngắn hạn để mua chứng khoán.
Những TTCK có quy mô lớn, thời gian giao dịch kéo dài và thường xuyên sẽ có
tính thanh khoản cao hơn những TTCK nhỏ bé và thời gian giao dịch ngắn.
4.7.TTCK có chức năng định giá thị trường doanh nghiệp có cổ phiếu giao
dịch:
Thông qua các giá trị thị trường này, các hoạt động mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp có điều kiện thực hiện dễ dàng hơn. Hơn nữa, TTCK cũng buộc
ban quản lý các công ty cổ phần phải làm ăn đàng hoàng, chú trọng hiệu quả.

5. Phân loại TTCK:
5.1. Căn cứ vào sự luân chuyển của nguồn vốn:
5.1.1. Thị trường sơ cấp hay thị trường phát hành (Primary market):
Là thị trường mua bán các loại chứng khoán mới phát hành, vốn từ nhà đầu
tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc mua bán chứng khoán
mới. Hay nói cách khác, thị trường sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát
hành.
Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà chứng khoán đem lại vốn cho người
phát hành bằng việc chứng khoán hoá các nguồn vốn cần huy động. Với chức
năng này, thị trường sơ cấp thực hiện chức năng chu chuyển tài chính trực tiếp
đưa các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân chúng vào đầu tư và chuyển tiền
sang các dạng vốn dài hạn. Người bán trên thị trường sơ cấp được xác định
thường là Kho bạc, ngân hàng, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát
hành…Các tổ chức này thường ấn định giá chứng khoán và in ngay giá đó trên
tờ chứng khoán. Trừ TPCP, tất cả các tổ chức kinh tế muốn PHCK đều phải
được phép của cơ quan Nhà nước về CK&TTCK.
Thị trường sơ cấp tạo môi trường cho các doanh nghiệp gọi vốn để mở rộng
sản xuất kinh doanh, giúp Nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách thông
qua việc phát hành trái phiếu, có thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng. Thị
trường sơ cấp cũng đồng thời trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dùng
bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm của họ tốt hơn.
5.1.2. Thị trường thứ cấp hay thị trường lưu hành chứng khoán( Secondary
market):
Là thị trường mua đi bán lại các loại chứng khoán đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp. Khoản tiền chênh lệch thu được từ việc mua bán chứng khoán
thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về
các nhà phát hành. Thị trường thứ cấp không ảnh hưởng đến nguồn vốn của các
tổ chức phát hành chứng khoán mà còn tạo cho chứng khoán hấp dẫn các nhà
đầu tư bởi tính thanh khoản của nó.
Thị trường thứ cấp có một số đặc điểm sau:

- Là thị trường cạnh tranh tự do, các nhà đầu tư và các công ty môi giới kinh
doanh chứng khoán được tự do tham gia vào thị trường.
- Là thị trường hoạt động liên tục.
- Các nhà đầu tư tham gia trên thị trường thứ cấp bao gồm các nhà đầu tư cá
nhân và các nhà đầu tư chuyên nghiệp.
- Các công ty thực hiện nghiệp vụ môi giới và tự doanh chứng khoán là cầu nối
giữa những người đầu tư trên thị trường thứ cấp.
5.2.Căn cứ vào phương thức hoạt động:
5.2.1.TTCK tập trung ( SGDCK, TTGDCK):
Là thị trường trong đó việc mua bán chứng khoán được thực hiện tại một địa
điểm tập trung gọi là sàn giao dịch chứng khoán của SGDCK hay TTGDCK.
Thị trường này hoạt động theo quy định của pháp luật, thời gian biểu được quy
định rõ. Các chứng khoán được niêm yết tại SGDCK hay TTGDCK thường là
chứng khoán của những công ty lớn, có danh tiếng và phải đáp ứng được yêu
cầu của thị trường giao dịch chứng khoán tập trung.
SGDCK hay TTGDCK là thị trường có tổ chức, nơi các chứng khoán được
mua bán bởi các thành viên của SGDCK hay TTGDCK với tư cách môi giới
hoặc chính chủ.
5.2.2. Thị trường phi tập trung:
- Thị trường giao dịch qua quầy ( thị trường OTC- Over the counter): là thị
trường trong đó việc giao dịch không diễn ra tại một địa điểm tập trung và
thông qua hệ thống nối mạng giữa các thành viên, không có giấy tờ hay thủ tục
nhất định mà chỉ do thoả thuận giữa người mua và người bán. Các chứng khoán
trên thị trường OTC thường có mức độ tín nhiệm thấp hơn, nhiều chủng loại hơn
các chứng khoán được niêm yết trên SGDCK hay TTGDCK. Sự khác biệt cơ
bản giữa thị trường giao dịch tập trung và thị trường OTC là ở các điều kiện để
chứng khoán tham gia thị trường giao dịch tập trung ngặt nghèo hơn so với thị
trường OTC.
- TTCK “ trao tay” hay “chợ đen”: là thị trường hoạt động mua bán tự do, phân
tán không qua thị trường tập trung hay thị trường OTC. Thị trường này không

thực hiện giao dịch bằng hệ thống đấu giá của TTCK tập trung hay thị trường
OTC, mà việc mua bán diễn ra một cách trực tiếp, trao tay giữa người mua và
người bán chứng khoán. Vì thế người ta gọi đây là thị trường “ trao tay” hay
“chợ đen”.
5.3.Căn cứ vào hàng hoá trên TTCK:
5.3.1.Thị trường cổ phiếu ( The stock market): là thị trường phát hành cổ phiếu
mới và mua đi bán lại cổ phiếu cũ. Hoạt động của thị trường cổ phiếu chứa đựng
cả hai lĩnh vực đầu tư chứng khoán và kinh doanh chứng khoán.
5.3.2.Thị trường trái phiếu ( Bond market): là thị trường phát hành trái phiếu
và mua đi bán lại trái phiếu cũ. Trái phiếu thường bao gồm hai loại cơ bản: Trái
phiếu doanh nghiệp (Corporate Bond) và TPCP (Government bond). Tương ứng
đó thị trường trái phiếu tách ra thành Thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị
trường TPCP
5.3.3.TTCK phái sinh: là thị trường mua đi bán lại các công cụ có nguồn gốc
chứng khoán và bao gồm các loại: quyền lựa chọn ( Options), quyền mua trước
(Rights), chứng quyền (Warrents), hợp đồng kì hạn…
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TTCK:
1.Khái niệm cơ bản về quản lý và QLNN đối với TTCK:
Khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu quản lý cũng hình thành. Trình độ
quản lý phát triển theo sự phát triển của xã hội qua các phương thức sản xuất
khác nhau. Trong thời đại ngày nay, trong ba yếu tố cơ bản quyết định tới sự
phát triển của xã hội là sức lao động, tri thức và trình độ quản lý thì quản lý
được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu.
“Quản lý là sự tác động liên tục, có định hướng, có tổ chức của chủ thể
quản lý ( người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể ( đối tượng bị quản lý)
trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá,xã hội …thông qua hệ thống pháp luật,
các chính sách, các nguyên tắc, các quy định và bằng các biện pháp cụ thể
nhằm tạo ra mội trường và tạo điều kiện cho sự phát triển của đối tượng bị
quản lý”.
Quy mô của quản lý có thể khác nhau: toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành,

đơn vị…Quy mô khác nhau thì tính chất của quản lý cũng khác nhau. Quản lý ở
phạm vi quốc gia được coi là quản lý Nhà nước, quản lý ở một đơn vị kinh
doanh được coi là quản lý kinh doanh ( quản trị kinh doanh)…
TTCK là một lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế một quốc gia. Vì vậy:
“Quản lý Nhà nước đối với TTCK của một quốc gia là sự quản lý vĩ mô của
Nhà nước đối với các hoạt động xây dựng, vận hành và phát triển của TTCK”.
Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên các khách thể chịu sự quản lý,
làm cho các khách thể vận động theo hướng mà chủ thể mong muốn. Bản chất
của hoạt động quản lý là quá trình đề ra các luật lệ, quy tắc, quy định và thực
hiện việc giám sát, cưỡng chế thực thi các luật lệ, quy tắc, quy định đó nhằm
kích thích và phát triển các yếu tố tích cực, đồng thời loại bỏ những yếu tố tiêu
cực không mong muốn. Hoạt động có sự quản lý là hoạt động phải tuân thủ các
luật lệ, quy tắc do con người là chủ thể quản lý đặt ra. Lịch sử hình thành và
phát triển TTCK ở các nước cho thấy TTCK ở những nước phát triển ra đời và
hoạt động tự do nhiều năm trước khi có sự quản lý về lĩnh vực này. Việc quản lý
TTCK xuất hiện với mục đích chống lại những hành vi thao túng, lừa đảo,
chống lại sự lạm dụng trong hoạt động chứng khoán. Cùng với sự phát triển với
quy mô ngày càng rộng lớn và đa dạng, phức tạp của TTCK thì phương thức,
nội dung, chức năng của quản lý ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Nếu
như trong thời kì sơ khai của TTCK, việc quản lý TTCK chủ yếu do các tổ chức
tự nhiên đảm trách, không có sự tham gia của các tổ chức quản lý Nhà nước và
pháp luật, thì cho đến ngày nay, ở hầu hết các nước đã có sự tham gia quản lý
của Nhà nước để tăng cường hiệu quả của quản lý. Nếu như trước đây, chức
năng chủ yếu của các chủ thể quản lý là duy trì sự ổn định kỷ luật của thị trường
thì ngày nay, ngoài các chức năng đó, các chủ thể quản lý còn phải thực hiện
chức năng phát triển thị trường và ngăn ngừa những rủi ro lây lan của toàn bộ hệ
thống.
Có thể khẳng định rằng, xu thế của tất cả các quốc gia là đưa TTCK vào quỹ
đạo quản lý Nhà nước có kết hợp với chế độ tự quản.
Quá trình hình thành và mức độ phát triển phức tạp, đa dạng của TTCK và

điều kiện cụ thể của mỗi nước dẫn đến sự đa dạng trong cơ chế và mức độ quản
lý thị trường. Trong khi hầu hết các TTCK ở các nước phát triển được hình
thành từ khu vực tư nhân nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, do các cá
nhân đứng ra tổ chức, vận hành và tự quản thì ngược lại, ở các nước đang phát
triển TTCK thường do Chính phủ đứng ra thành lập với những mục đích cụ thể
như hỗ trợ huy động vốn, tư nhân hoá hay thực hiện các mục tiêu kinh tế khác
của Nhà nước. Do vậy Chính phủ đóng vai trò chính trong việc tổ chức và quản
lý thị trường.
2. Vai trò của việc quản lý TTCK:
Vai trò của việc quản lý TTCK là hướng tới việc tạo lập một thị trường công
bằng, công khai, trung thực và hiệu quả.
- Tính công bằng trong hoạt động của TTCK được đảm bảo bằng các biện pháp
quản lý chống độc quyền và bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh
chứng khoán, đầu tư chứng khoán, đặc biệt là công bằng với các nhà đầu tư nhỏ.
- Tính công khai trong hoạt động của TTCK được đảm bảo bằng các biện pháp
quản lý bắt buộc công khai thông tin của các đối tượng tham gia thị trường,
nhằm tránh hoạt động lạm dụng, không lành mạnh.
- Tính trung thực trong hoạt động của TTCK được đảm bảo bằng các hoạt động
quản lý nhằm làm hạn chế những rủi ro phát sinh từ những hoạt động không
đúng đắn, rủi ro lây lan do mất lòng tin của công chúng đầu tư.
Một thị trường mà hệ thống quản lý được xem là có hiệu quả cần phải được
xem xét cả về khía cạnh tiết kiệm chi phí và lợi ích thu được.Tính hiệu quả tỷ lệ
thuận với kết quả và tỷ lệ nghịch với chi phí. Kết quả được đánh giá chủ yếu
thông qua việc thực hiện chức năng huy động vốn dễ, rẻ, luân chuyển vốn, phân
bổ và sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý…Chi phí được tính chủ yếu được tính
đến là chi phí cho bộ máy quản lý và những chi phí thất thoát, mất mát do quản
lý kém. Việc quản lý thái quá hoặc không đầy đủ có thể dẫn đến làm tăng chi
phí, làm giảm hiệu quả quản lý thị trường.
3. Chức năng của quản lý TTCK:
Quản lý là một hình thức đặc biệt của hoạt động điều hành, là sản phẩm của

tiến trình phân công lao động và chuyên môn hoá việc quản lý. ở hầu hết các
nước đang phát triển, các chủ thể quản lý luôn có hai chức năng chính: duy trì sự
hoạt động ổn định của thị trường; tạo điều kiện để phát triển thị trường, làm cho
thị trường có thể cạnh tranh và thích ứng với mọi thay đổi trong xã hội.
Với chức năng ổn định thị trường tức là phải tạo lập một thị trường có kỷ
luật, an toàn, trật tự, ít rủi ro thì các nhà quản lý phải xác định được nên cho
phép đối tượng nào tham gia thị trường, tiêu chuẩn tham gia gồm những yếu tố
gì, xác định phải quản lý cái gì và giám sát cái gì. Với chức năng phát triển thì
các nhà quản lý phải tạo động lực thúc đẩy thị trường. Các chức năng này được
sử dụng vào hoàn cảnh khác nhau, tuy nhiên trong hoạt động quản lý Nhà nước
thì các chức năng này thường được áp dụng một cách đồng bộ.
Đối với TTCK, hoạt động quản lý được cụ thể hoá ở một số lĩnh vực sau:
- Xây dựng kế hoạch hoạt động và phát triển TTCK với từng bước đi cụ thế và
thích hợp với điều kiện văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội, dân trí và các điều
kiện khác.
- Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy của TTCK như: cơ quan quản lý Nhà nước,
SGDCK, TTGDCK, TTLKCK, CtyCK, CtyQLQ…
- Xây dựng sự phối hợp giữa các tổ chức, các cá nhân là thành viên tham gia
TTCK để tạo được sự thống nhất trong mọi hoạt động của TTCK.
- Điều chỉnh, xử lý các hành vi sai phạm trên TTCK như mua bán gian lận, đầu
cơ,…Mặt khác, tạo các điều kiện thuận lợi, khuyến khích những hoạt động tiêu
cực trên thị trường.
- Thực hiện công tác kiểm tra định kỳ, bất thường nhằm phát hiện các hành vi vi
phạm pháp luật, thực hiện tổng kết thống kê nhằm tổng hợp hoạt động của thị
trường.
4. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý TTCK:
Nguyên tắc quản lý là những nguyên tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành vi
mà các chủ thể quản lý phải tuân theo khi thực hiện việc chỉ đạo, điều hành của
mình.
Các nguyên tắc trong quản lý được hình thành theo một hệ thống nhất quán.

Con người đề ra các nguyên tắc quản lý nhưng những nguyên tắc này cũng chỉ
mang tính chất khách quan vì nó nảy sinh từ chính bản chất xã hội. Khoa học
quản lý đã rút ra những nguyên tắc cơ bản của quản lý như sau:
4.1. Nguyên tắc thống nhất quản lý về chính trị và kinh tế:
Trong hoạt động con người thì chính trị và kinh tế là hai phạm vi khác nhau
nhưng lại có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thúc đẩy nhau. Giữa hai phạm vi
hoạt động này không phải lúc nào cũng thống nhất mà nhiều khi chúng có sự
độc lập tương đối nhưng lại có quan hệ tương hỗ và phụ thuộc nhau. Chính trị
nhiều khi là biện pháp để thực hiện các mục tiêu kinh tế và ngược lại, kinh tế lại
là đòn bẩy, là động lực để thực hiện các mục đích chính trị.
Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong QLNN đối với TTCK. Yếu tố kinh
tế của TTCK được thể hiện ở chỗ nó được coi như là một thị trường của các thị
trường. Bên cạnh đó, TTCK không chỉ mang lại lợi ích mang tính kinh tế mà
còn có cả các yếu tố chính trị trong đó. Chính vì thế, trong quản lý TTCK, sự kết
hợp giữa kinh tế và chính trị là một yêu cầu bắt buộc, và trong trường hợp có
xung đột giữa hai mục đích thì mục tiêu chính trị phải được đặt lên trên nhất vì
trong chính trị đã bao hàm cả kinh tế. Để TTCK phát huy được hết vai trò, chức
năng của mình thì TTCK phải ổn định, phát triển lành mạnh. Với đặc điểm đây
là một thị trường có tính rủi ro hệ thống rất cao, dễ bị ảnh hưởng khi có thông
tin bất cân xứng trên thị trường thì nếu nhà quản lý không đặt mục tiêu an toàn
ổn định của TTCK lên trước mục tiêu kinh tế thì nguy cơ xảy ra những tác động
không tốt là rất lớn. Tuy nhiên, nhà hoạch định chính sách và quản lý TTCK
cũng không thể lơi là tính kinh tế trong việc thực hiện công tác quản lý. TTCK
cần được hoạt động đúng theo nguyên tắc của thị trường là quy luật tự do cung
cầu và chỉ khi đó TTCK mới đem lại lợi ích thiết thực.
4.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Tập trung dân chủ là tập trung điều hành vào một cơ quan quyền lực cao
nhất. Đây là cơ quan vạch ra đường lối, điều lệ, quy chế, phương hướng, đường
lối, mục tiêu tổng quát và đề ra các biện pháp cơ bản, chủ yếu để thực hiện. Tính
dân chủ trong quản lý thể hiện ở chỗ mọi người có thể tham gia bàn bạc, đóng

góp ý kiến để tìm ra các biện pháp khả thi nhất cho quá trình thực hiện. Hai vấn
đề tập trung dân chủ có sự tác động qua lại với nhau. Tuy nhiên trong thực tế,
quá trình thực hiện hai nguyên tắc này thường dễ làm nảy sinh hai thái cực, hoặc
là tập trung quan liêu độc đoán chuyên quyền, hoặc là dân chủ quá trớn, vô
chính phủ.
Đối với TTCK, sự tập trung quản lý thể hiện ở việc tập trung quyền hạn
quản lý cho một cơ quan nhất định, thường là UBCK quốc gia, và ở các TTCK
trong giai đoạn mới hình thành và phát triển thì điều này đặc biệt quan trọng. ở
những TTCK mới hình thành thì chủ thể tham gia thị trường còn chưa có hiểu
biết tốt, tình trạng không minh bạch, lừa đảo có thể xảy ra; đồng thời TTCK còn
là thị trường của những thị trường do vậy cần phải có một cơ quan quyền lực đủ
khả năng thực hiện những biện pháp cần thiết để tạo lập được một thị trường
công bằng và điều khiển mọi hoạt động của TTCK theo những nguyên lý cơ bản
của thị trường về quy luật cung cầu, quy luật tự do cạnh tranh, nếu không tính
hiệu quả của thị trường sẽ không còn nữa. Trong quá trình hình thành và phát
triển của TTCK, chính những chủ thể tham gia trên thị trường lại là những người
khởi xuớng, thống nhất những quy ước và tập quán chung cho toàn TTCK, và ở
các TTCK lâu đời thì vai trò của những quy ước, tập quán tự thiết lập này là rất
lớn nếu không nói là vai trò chính. Trong một chừng mực nào đấy, chính những
quy ước, tập quán này đã tạo lập được trật tự của TTCK và giúp cho TTCK
hoạt động có hiệu quả. Vì vậy, nếu sự tập trung quyền hạn bị lạm dụng trong
quản lý TTCK thì sẽ làm hỏng các chức năng lành mạnh của TTCK. Do đó,
người làm công tác quản lý cần có sự điều chỉnh mức độ dân chủ tuỳ theo sự
phát triển của thị trường với sự tập trung quyền lực quản lý nhất định.
4.3. Nguyên tắc kết hợp giữa các lợi ích kinh tế:
Trên thực tế luôn có lơi ích khác nhau giữa chủ thể và khách thể quản lý, có
sự mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội. Vai trò
của công tác quản lý lúc này là phải tìm cách kết hợp, thoả mãn các lợi ích theo
đúng nhu cầu, đảm bảo cho các lợi ích không đối lập nhau, hỗ trợ thúc đẩy nhau
phát triển. Vấn đề này đòi hỏi công tác quản lý phải chú trọng tới từng loại lợi

ích trong từng mặt hoạt động như đầu tư, huy động vốn, phân chia lợi nhuận,
ban hành các quy định về thuế,…
Khi TTCK hoạt động ổn định, hiệu quả thì các nguồn vốn mới được sử dụng
tối đa nhât và đem lại lợi ích kinh tế. Người cần vốn có được chi phí vốn rẻ nhất
và lợi nhuận đem lại cho người đầu tư là cao nhất. Thực tế, bên cạnh sự thống
nhất chung thì luôn tồn tai mâu thuẫn giữa các lợi ích với nhau, mâu thuẫn giữa
lợi ích chung và lợi ích riêng, và nguyên nhân phát sinh lại chính từ tính chất
cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường. Các nguồn vốn đầu tư được thông
qua TTCK thì lại tập trung chủ yếu vào trong các lĩnh vưc sản xuất, dịch vụ là
những nơi đem lại mức sinh lời cao, dễ thu hồi vốn và mức độ rủi ro lại thấp.
Ngược lại, tại những ngành thuộc lĩnh vực đầu tư mang tính công cộng, tính xã
hội cao như giáo dục, y tế, khoa học…thì lại không mấy được các nhà đầu tư
mặn mà vì khó thu hồi vốn, lợi nhuận thu được thấp và mức độ rủi ro cao. Rủi ro
trên TTCK còn phát sinh khi các cá nhân vì lợi ích riêng mà có thể có những
hành vi không tốt, không minh bạch như tình trạng đầu cơ, các hành vi gian lận,
làm giá gây thiệt hại tới lợi ích chung của toàn bộ thị trường, và khi đó thì lợi
ích của toàn xã hội cũng bị ảnh hưởng. Như vậy, thứ tự ưu tiên trong quản lý là
quyền lợi xã hội nói chung, thể hiện là quyền của người đầu tư phải được đảm
bảo. Khi đó thị trường mới có thể vận hành tốt được và đem lại lợi ích cho
những chủ thể tham gia khác như người môi giới kinh doanh dịch vụ…Do đó
cần phải có sự điều tiết quản lý của Nhà nước mới có thể đảm bảo nguồn vốn
đầu tư cho các ngành phi lợi nhuận hoạt động, đảm bảo sự phát triển đồng đều
và toàn diện của xã hội.
4.4. Nguyên tắc hiệu quả:
Tiết kiệm là hạn chế chi phí đến mức tối thiểu mà vẫn đem lại hiệu quả tối
đa. Tiết kiệm là nhằm để giảm thiểu chi phí nhưng chỉ có ý nghĩa khi thực hiện
nó mang tính hiệu quả. Hiệu quả là kết quả cuối cùng của hoạt động được đo
bằng giá trị, vật phẩm, thời gian tác động,…Tiết kiệm và hiệu quả luôn đi với
nhau và nó là thước đo để đánh giá kết quả cuối cùng của quản lý.
TTCK là mô hình tiêu biểu nhất về tính hiệu quả vì bản thân TTCK đã mang

trong nó tính tiết kiệm chi phí và nhằm tới hiệu quả kinh tế cao nhất vì đây là
môi trường thuận lợi nhất cho các nguồn vốn từ các nhà đầu tư được trực tiếp
đưa đến nơi cần vốn. Quá trình đầu tư thông qua TTCK được thực hiện với chi
phí thấp nhưng mang lại hiệu quả cao. Vì vậy, đảm bảo nguyên tắc này trong
TTCK tức là đảm bảo cho TTCK được hoạt động tự nhiên và phát huy những
chức năng vốn có của nó. Nguyên tắc này được coi là tiêu chí áp dụng cho bất kì
chính sách nào bởi mỗi chính sách đem lại lợi ích cũng kèm theo đó là chi phí.
Nếu chi phí lớn hơn lợi ích đem lại thì việc áp dụng các chính sách đó là không
có tác dụng.
5. Các biện pháp quản lý TTCK:
Biện pháp quản lý là tổng thể những cách thức tác động đến cá nhân hay tập
thể nhằm khuyến khích họ thực hiện tốt công việc.
Khác với nguyên tắc quản lý là những yêu cầu bắt buộc phải tuân theo thì
biện pháp quản lý là những cách thức linh hoạt mà người quản lý có thể tuỳ
chọn và sử dụng phối hợp theo ý mình nhằm tạo ra hiệu quả quản lý cao nhất.
Do đó biện pháp quản lý có rất nhiều, hình thức và cách áp dụng cũng khác
nhau. Đối với TTCK cần áp dụng phương thức quản lý nào thì lại phụ thuộc rất
nhiều vào mức độ phát triển của thị trường. Trên thực tế, xuất hiện hai trường
phái quản lý chính đối với TTCK là quản lý chặt chẽ của Nhà nước (phổ biến ở
những nước có TTCK mới phát triển) hoặc là tự quản (phổ biến ở những nước
có thị trường phát triển lâu đời).
QLNN được hiểu là Nhà nước giao quyền quản lý cho một hay nhiều cơ
quan của Nhà nước hoặc Chính phủ được phép đặt ra luật pháp hay quy định
cho thị trường và thực thi luật. Cho dù quyền quản lý này nằm trong tay một hay
nhiều cơ quan khác nhau thì vẫn thuộc quyền kiểm soát của Nhà nước. Khi một
nước theo trường phái Nhà nước tham gia nhiều vào quản lý, thông thường là
bẵng cách thông qua một cơ quan chuyên biệt trực thuộc Nhà nước thì việc áp
dụng biện pháp hành chính, luật pháp thường chiếm một vị trí lớn.
Trường phái tự quản lại cho phép chính người tham gia vào TTCK tự đặt ra
luật lệ. Ví dụ như rất nhiều SGDCK có tư cách là một hiệp hội và mọi hoạt động

của SGDCK đều do SGDCK tự đặt ra để mọi thành viên phải tuân theo…Trong
trường hợp này, biện pháp mà Nhà nước phải sử dụng là biện pháp tổ chức,
điều kiển và biện pháp kinh tế.
Mỗi trường phái đều có mặt mạnh và mặt yếu của nó. Tự quản cho phép các
quy định của thị trường phù hợp với yêu cầu của những người tham gia thị
trường, song chính các tổ chức tự quản này đôi khi có khả năng bất chấp và hi
sinh tính thống nhất của thị trường vì quyền lợi trước mắt của các hội viên. Mặt
tốt của các tổ chức tự quản này là thường xuyên có những đổi mới về tập quán
kinh doanh cho phù hợp với sự phát triển thực tế của thị trường, song cũng có
nguy cơ khi các tổ chức này có tính “ phản cạnh tranh” khi chúng tìm cách cố
định giá cả, hạn chế sự tham gia của các thành viên mới và phản đối sự thay đổi
cơ cấu ngành kinh tế khi sự thayđổi đó ảnh hưởng đến quyền lợi của các hội
viên. Trong trường hợp này, nếu có sự quản lý của cơ quan QLNN cùng với sự
hỗ trợ ngân sách cần thiết thì các cơ quan QLNN này có thể vượt qua được vấn
đề quyền lợi trước mắt và thực hiện các thay đổi cần thiết. Mặt khác, các cơ
quan QLNN thường lại thiếu nhân lực cũng như tài chính để vạch ra các chính
sách mang tính kĩ thuật và để trực tiếp giám sát, kiểm soát hoạt động của thị
trường. Trong công tác quản lý, người quản lý phải biết vận dụng khéo léo tất cả
các biện pháp trên để đạt được hiệu quả quản lý cao nhất.
Một số biện pháp điển hình thường được sử dụng là:
5.1. Biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng:
Hầu hết các TTCK mới nổi đều không phải theo con đường tự nhiên như các
thị trường lâu đời ở phương Tây. Những thị trường này ra đời là do lỗ lực của
Chính phủ trong việc thiết lập một thị trường tài chính. Nó còn mới mẻ với tất
cả các chủ thể tham gia trên TTCK. Hầu hết mọi người chưa có nhận thức và
hiểu biết về TTCK do đó họ còn dè dặt trong việc đầu tư vào thị trường này. Bởi
vậy, việc trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK để
họ có thể hiểu về những lợi ích của hình thức đầu tư mới mẻ này đem lại, đồng
thời trang bị cho họ những kĩ năng để họ có thể đầu tư một cách hiệu quả nhất,
tự chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình, tự phòng chống được các

rủi ro khi tham gia trên thị trường,… Vì thế yếu tố giáo dục, xây dựng tâm lý
cho người tham gia thị trường là cực kì quan trọng. Việc giáo dục bao gồm công
tác vạch đường lối chính sách phát triển kinh tế cho phù hợp, đào tạo phổ biến
kiến thức về thị trường, về chuyên môn nghiệp vụ; xây dựng và thiết lập những
chuẩn mực kinh doanh, kế toán, kiểm toán, xếp hạng cho hoạt động phát hành
và bảo lãnh chứng khoán.
5.2. Biện pháp hành chính luật pháp:
Bịên pháp này có tác động trực tiếp và có vai trò lớn nhất trong các biện pháp
quản lý của Chính phủ ở các TTCK mới nổi bởi ở những thị trường này mọi
hoạt động đang đều ở giai đoạn mới hình thành, hơn thế nữa nhiều khi lại ra đời
không theo con đường tự nhiên như ở các nước phát triển. Nhà nước đóng vai
trò chính trong việc điều hành và hướng dẫn thị trường. Ngoài ra, cho dù ở bất
kỳ TTCK nào thì hình thức quản lý cơ bản nhất vẫn là luật pháp. Bởi đây là một
thị trường đầy tính phức tạp thì luật pháp rõ ràng gần như là một điều kiện tiên
quyết để có một thị trường hoạt động trong khuôn khổ và ổn định. Luật pháp về
chứng khoán phải được hiểu là cả một hệ thống gồm Luật Chứng khoán và các
luật khác như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,… Và vì vậy, việc xây dựng một
hệ thống luật pháp không chỉ đơn thuần là việc cho ra đời Luật Chứng khoán mà
còn bao gồm cả việc điều chỉnh và hoàn thiện dần các luật liên quan để tạo môi
trường pháp lý đầy đủ cho sự hình thành và phát triển của thị trường.
Trên thực tế, rõ ràng không thể có được một hệ thống luật pháp hoàn thiện lý
tưởng ngay từ khi TTCK mới hình thành. Do dó, biện pháp quản lý hành chính
là điều cần thiết để điều chỉnh và xử lý những hành vi có nguy cơ hoặc đã gây
thiệt hại cho thị trường, nhất là những thị trường mới nổi và đặc biệt đang ở
trong giai đoạn đầu mới hình thành thị trường. Điều này còn đúng hơn với thị
trường đang còn thiếu những chuyên gia giỏi về kiểm toán, kế toán, hệ thống
hành pháp thiếu những người có hiểu biết về TTCK.
5.3.Biện pháp tổ chức và chỉ đạo:
Tổ chức là định hình các cơ cấu bộ phận tạo thành, xác lập chức năng, quyền
hạn, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của từng bộ phận, đặt các bộ phận trong

quan hệ đối tác phù hợp, trong một tổng thể hoàn chỉnh. Thể chế hoá tổ chức là
quá trình Nhà nước quy định cơ cấu tổ chức, vạch ranh giới cho từng cấp quản
lý bằng các văn bản pháp luật, các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ
cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, là những cơ quan QLNN theo lĩnh
vực chuyên môn; quy định cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
DNNN hoặc cơ cấu tổ chức của các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, điều lệ
doanh nghiệp, điều lệ công ty…
Trong quản lý, sự tác động của tổ chức có ý nghĩa hiệu quả và thiết thực. Nó
chỉ cho mọi người, mọi cấp biết trước phải hoạt động theo trật tự quy định trước,
nhằm đạt được những chỉ tiêu định trước. Mặt khác, tổ chức có thể gây cản trở
nếu quy định quá chi tiết, cứng nhắc khiến người thừa hành không phát huy
được sáng kiến, mất tính linh hoạt, sáng tạo. Do đó, bên cạnh công tác tổ chức
phải có sự điều khiển trực tiếp. Điều khiển là sự đôn đốc, chỉ đạo cụ thể nhằm
điều chỉnh kịp thời những sai lệch so với mục tiêu đề ra. Đó là hình thức tác
động tích cực và linh hoạt nhất của biện pháp quản lý.Tổ chức và điều khiển cần
được thực hiện phối hợp lẫn nhau trong quá trình quản lý.
Đối với TTCK, vai trò của biện pháp tổ chức trong QLNN là rất quan trọng.
Chỉ khi Nhà nước thể chế hoá được hệ thống quản lý TTCK thì mới có thể thực
hiện được việc quản lý. Thông thường, các Chính phủ phải thành lập một uỷ ban
chuyên trách trực tiếp quản lý TTCK, thường là UBCK quốc gia. Ngoài ra, nếu
không thành lập một uỷ ban riêng thì Nhà nước phải giao quyền quản lý cho một
Bộ hay một cơ quan tương đương cấp, ví dụ như NHTW. Tuỳ thuộc vào chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà uỷ ban này được quy định, Nhà nước thực hiện
công tác quản lý của mình. Nếu việc thể chế hoá tổ chức được thực hiện kém thì
khả năng QLNN sẽ bị hạn chế đi rất nhiều.
Tuy nhiên, cần phải hết sức thận trọng khi sử dụng biện pháp này vì sự can
thiệp quá sâu vào TTCK thường để lại những hậu quả xấu. Trong trường hợp
cần thiết vẫn phải sử dụng biện pháp này vì các cơ quan quản lý thường chậm
thay đổi, khó có thể theo kịp những thay đổi và tiến bộ hàng ngày của thị
trường. Cách tốt nhất là hoàn thiện thể chế tổ chức quản lý và liên tục cải tiến,

đổi mới tổ chức quản lý.
5.4. Biện pháp kinh tế:
Biện pháp quản lý bằng kinh tế là cách thức vận dụng tổng hợp các đòn bẩy
kinh tế để kích thích các cá nhân, tập thể và toàn bộ xã hội thực hiện được mục
tiêu theo định hướng vạch sẵn. Những đòn bẩy này ở phạm vi vĩ mô là các chính
sách kinh tế, các chế tài, các chế độ thuế, chế độ hạch toán, kế toán,…Cơ sở lý
luận và thực tế của nhiều nước cho thấy chế độ thuế là một công cụ tích cực
trong quản lý TTCK. Chế độ thuế phù hợp có thể khuyến khích đầu tư vào
chứng khoán, làm tăng cầu chứng khoán, là động lực cho TTCK phát triển.
Nhiều quốc gia áp dụng chế độ hạch toán kinh tế độc lập cho các SGDCK, tạo
nguồn thu nhập cho các SGDCK, để chính các SGDCK này duy trì được vai trò
tự quản và thực hiện được những chương trình khoa học, áp dụng được những
công nghệ cần thiết cho quản lý.
Như vậy, biện pháp kinh tế có tác dụng rất lớn trong lĩnh vực QLNN đối với
TTCK. Biện pháp này có ưu điểm là không áp dụng những chỉ thị, mệnh lệnh
trực tiếp của chủ thể quản lý nhưng có tác động rất thiết thực và sâu rộng.
6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động QLNN đối với TTCK:
Hoạt động QLNN đối với TTCK chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau,
bao gồm:
- Các nhân tố kinh tế: quá trình QLNN đối với TTCK chịu ảnh hưởng chi phối
của các yếu tố kinh tế như: quy mô kinh tế, trình độ phát triển nền kinh tế,…Sự
đa dạng về hình thức tồn tại và tính phức tạp trong hoạt động của các thành phần
kinh tế tham gia TTCK sẽ đặt ra yêu cầu đối với công tác QLNN là phải có các
chính sách, biện pháp phù hợp để dung hoà lợi ích của các thành phần này khi
khai thác tối đa thế mạnh của họ. Cơ cấu kinh tế theo vùng miền phản ánh vị thế
và xu hướng phát triển của các vùng, miền. Từ đó sẽ chi phối định hướng và xây
dựng các SGDCK, TTGDCK. Quy mô và trình độ phát triển của nền kinh tế vừa
là xuất phát điểm để xây dựng các chính sách QLNN đối với TTCK, vừa ảnh
hưởng đến mục tiêu và định hướng chiến lược phát triển TTCK của mỗi quốc
gia.

- Các nhân tố về chính trị và thể chế Nhà nước: thể chế chính trị và đường lối
lãnh đạo của Đảng cầm quyền của một nước chi phối đến mục tiêu, phương
hướng xây dựng và phát triển TTCK nước đó. Bên cạnh đó, sự ổn định hay bất
ổn về mặt chính trị sẽ có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình phát
triển của TTCK, từ đó có tác động đến nội dung và biện pháp QLNN đối với
TTCK, cấu trúc và chức năng của hệ thống. Cơ quan quản lý về chứng khoán và
TTCK được thiết lập theo mô hình nào và đặt ở vị trí nào thường chịu ảnh
hưỏng bởi mô hình hệ thống tổ chức thiết chế Nhà nước.
- Môi trường pháp lý: công tác QLNN đối với TTCK bị chi phối và phụ thuộc
vào năng lực hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bên
cạnh đó, vấn đề này còn phụ thuộc cả vào tính chặt chẽ, đầy đủ, nhất quán của
các quy định pháp luật cũng như ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể
tham gia vào nền kinh tế.
- Thực trạng phát triển TTCK: trong mỗi hệ thống quản lý, chủ thể quản lý sử
dụng các công cụ và phương thức quản lý tác động nên đối tượng quản lý theo
mục tiêu đề ra. Ngược lại, đối tượng và khách thể của quản lý cũng phản ứng trở
lại đối với chủ thể quản lý. TTCK là đối tượng QLNN cho nên thực trạng phát
triển của TTCK có tác động đến việc ban hành và triển khai các chính sách quản
lý phát triển thị trường này. Thực trạng TTCK vừa là cơ sở để Nhà nước ban
hành các chính sách, biện pháp khắc phục những tồn tại của TTCK, vừa là căn
cứ để Nhà nước đề ra các biện pháp thúc đẩy thị trường phát triển theo định
hướng và mục tiêu đề ra.
- Xu thế hội nhập quốc tế: hiện nay thì hội nhập quốc tế đang diễn ra khá mạnh
mẽ trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, trong đó có TTCK. Việc mở
cửa TTCK hội nhập quốc tế sẽ đem lại những lợi ích thiết thực cho một quốc
gia, song cũng nảy sinh những rủi ro và thách thức không nhỏ. Điều này tác
động đến các chính sách quản lý và phát triển TTCK của các nước. Chính sách
QLNN không chỉ chỉ phải giải quyết các vấn đề nảy sinh do có sự xuất hiện của
các yếu tố quốc tế trên TTCK, mà còn phải tìm ra hướng hội nhập sao cho vừa
đảm bảo an toàn, vừa khai thác tốt nhất các lợi ích mà hội nhập mang lại

- Các nhân tố khác: hoạt động QLNN đối với TTCK còn chịu tác động bởi các
nhân tố khác như: trình độ ứng dụng tin học trong quản lý, truyền thống bản sắc
văn hoá dân tộc, trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ quản lý trong
ngành chứng khoán và các ngành có liên quan, lịch sử phát triển kinh tế và
TTCK…Trong đó yếu tố lịch sử thường đặt ra các vấn đề về cải cách và hoàn
thiện mô hình và tổ chức quản lý…

×