Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

cải cách ngân hàng thương mại việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.34 KB, 94 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt thời kỳ đổi mới hơn 15 năm qua, các ngân hàng thơng mại
Việt Nam đã thực sự trở thành chỗ dựa đáng tin cậy và không thể thiếu của
các thành phần kinh tế, có những đóng góp lớn lao trong việc thúc đẩy nền
kinh tế quốc dân phát triển toàn diện với tốc độ khá cao và ổn định. Đặc biệt
từ khi tiến hành cải cách lĩnh vực ngân hàng, hoạt động của các ngân hàng đã
có nhiều tiến bộ đáng kể.
Tuy nhiên, thực tiễn cải cách NHTM trong thời gian qua cho thấy các
hoạt động cải cách còn nhiều tồn tại, cha có sự phối hợp chặt chẽ, linh hoạt
giữa các Bộ, Ngành cũng nh cha có đợc một cơ chế chính sách đồng bộ cho
hoạt động cải cách ngân hàng. Kết quả là tuy đã giảm đợc số lợng các ngân
hàng hoạt động không hiệu quả và tăng vốn điều lệ nhng tỷ lệ nợ quá hạn tại
các ngân hàng vẫn còn rất cao, hoạt động của các ngân hàng vẫn cha thực sự
đợc ổn định.
Trớc tình hình đó, việc nghiên cứu và tìm ra những giải pháp thiết thực
nhằm đẩy mạnh một cách có hiệu quả hơn nữa hoạt động cải cách các
NHTM đang là một nhiệm vụ cấp thiết của nhiều Bộ, Ban, Ngành từ Trung -
ơng đến địa phơng và các ngân hàng.
2. Mục đích và ý nghĩa của khoá luận
a. Mục đích của khoá luận
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng cải cách các NHTM Việt
Nam, khoá luận đa ra một số định hớng phát triển chính cho giai đoạn tới,
đồng thời tìm ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động cải cách NHTM
ở Việt Nam với mục tiêu xây dựng hệ thống ngân hàng phát triển ổn định,
vững mạnh và có khả năng cạnh tranh trong thời kỳ mới.
1
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
b. Nhiệm vụ của khoá luận
Để đạt đợc mục đích trên, nhiệm vụ của khoá luận là:


- Thống nhất chung về mặt lý luận.
- Phân tích, đánh giá để từ đó đa ra những định hớng, giải pháp và kiến
nghị.
c. ý nghĩa của khoá luận
Về lý luận, khoá luận có ý nghĩa tổng hợp, thống nhất và phát triển
những vấn đề bức xúc đã, đang và sẽ tiếp tục đợc bàn luận, nghiên cứu.
Về mặt thực tiễn, khoá luận góp phần bàn luận các vấn đề nhằm thúc
đẩy cải cách NHTM Việt Nam trong những năm tới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một bài khóa luận, do những hạn chế nhất định về thời
gian và kinh nghiệm nghiên cứu, đề tài chỉ đề cập đến những vấn đề lý luận
có liên quan đến tình hình hoạt động của hệ thống NHTM, cùng với một số
giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh cải cách trong thời gian tới.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Đề tài đợc nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phơng pháp phân tích -
tổng hợp - đúc kết - phát triển, kết hợp lý luận với thực tiễn, từ phân tích đến
đánh giá để đa ra các định hớng phát triển cùng với các giải pháp và kiến
nghị hoàn thiện.
6. Nội dung bố cục của khoá luận
Nội dung chính của khoá luận đợc chia làm 3 chơng:
Chơng 1: Tính cấp thiết của việc tiến hành cải cách ngân hàng thơng
mại Việt Nam.
Chơng 2: Thực trạng cải cách ngân hàng thơng mại Việt Nam trong thời
gian qua.
Chơng 3: Một số định hớng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động cải
cách ngân hàng thơng mại Việt Nam trong thời gian tới.
2
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
Ch ơng I
Tính cấp thiết của việc tiến hành cải cách

ngân hàng thơng mại Việt Nam
I. tổng quan về hệ thống Ngân hàng thơng mại Việt
Nam
1. Khái niệm chung
1.1. Khái niệm ngân hàng thơng mại
1.1.1. Sự ra đời và phát triển Ngân hàng thơng mại
Hệ thống ngân hàng thơng mại là một bộ phận quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân ở mỗi quốc gia. Có thể nói, sự ra đời và phát triển của hệ thống
NHTM gắn liền với quan hệ cho vay nặng lãi đã từng tồn tại trong thời kỳ
phân rã của chế độ công xã nguyên thủy. Các hoạt động tơng tự nh ngân hàng
đã xuất hiện khoảng 3000 năm trớc Công nguyên tại các ngôi đền xứ Chaldée
(thuộc Irak ngày nay). Thực chất, đó là các hoạt động tiếp nhận lễ vật và tài
sản do các tín đồ gửi rồi cho nông dân vay với lãi suất cao.
Đến thế kỷ IV trớc Công nguyên, các ngân hàng thô sơ bắt đầu đợc thiết
lập ở nhiều nơi. Các ngân hàng cho vay nặng lãi đã xuất hiện ở ý khoảng 500
năm trớc Công nguyên, chủ thể đi vay là giai cấp thống trị và những ngời sản
xuất hàng hoá giản đơn, với mức lãi suất cao từ 40%-100%. Tuy nhiên, các
ngân hàng hoạt động với quy mô lớn, đúng chức năng thì chỉ xuất hiện từ thế
kỷ 16 về sau, bao gồm các ngân hàng của ý nh Banco di Napoli (1591),
Istituto Bancario Sanpaolo di Torino (1563)
Khi chủ nghĩa t bản hình thành và phát triển, các ngân hàng cho vay nặng
lãi buộc phải hạ lãi suất cho vay do áp lực của cuộc đấu tranh chống cho vay
nặng lãi của các nhà t bản. Mặt khác, cũng chính trong quá trình này, các nhà
t bản công thơng nghiệp đã liên kết lập thành các hội tín dụng cho vay lẫn
3
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
nhau với lãi suất vừa phải. Dần dần, những hội tín dụng này đã phát triển trở
thành những NHTM cổ phần.
Ngân hàng quốc gia Việt Nam, ngân hàng đầu tiên của nớc ta đã đợc
thành lập ngày 6-5-1951, theo Sắc lệnh số 15/LCT của Chủ tịch nớc. Từ năm

1951 đến trớc khi có Nghị định 53/HĐBT(26/3/1988), hệ thống ngân hàng ở
Việt Nam là hệ thống ngân hàng một cấp, gồm có NHNN và các ngân hàng
chuyên nghiệp trực thuộc NHNN nh Ngân hàng Ngoại thơng, Ngân hàng
Đầu t và Xây dựng. Chính hệ thống ngân hàng đơn nhất với cơ chế quản lý bao
cấp, quan liêu đã làm cho hoạt động của toàn ngành ngân hàng trở nên đơn
phơng, cứng nhắc, không đáp ứng đợc các yêu cầu đổi mới của nền kinh tế thị
trờng. Vì thế, mô hình hệ thống ngân hàng hai cấp theo Nghị định 53 là một
bớc tiến bộ đa hoạt động tiền tệ, tín dụng thoát khỏi tình trạng cũ, thích hợp
với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Sau 3 năm hoạt động trong cơ chế
mới, ngân hàng đã tỏ ra năng động và linh hoạt hơn trong huy động và sử
dụng vốn, nhng vẫn còn nhợc điểm là cha định hớng rõ ràng, chính sách tiền
tệ, tín dụng vẫn còn bao cấp, cho vay vốn lu động tràn lan,
Trớc tình hình đó, Hội đồng Nhà nớc đã ban hành 2 Pháp lệnh ngân
hàng. Theo đó, các ngân hàng chuyên doanh đợc chuyển thành NHTM quốc
doanh gồm có: Ngân hàng công thơng Việt Nam (NHCTVN); Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (NHNN&PTNTVN); Ngân
hàng ngoại thơng Việt Nam (NHNTVN). Pháp lệnh ngân hàng cũng quy định
các NHTM Việt Nam có thể đợc thành lập dới dạng công ty cổ phần và đợc
phép thực hiện đa dạng các nghiệp vụ, tạo điều kiện cho các NHTM có thêm
khả năng làm các nghiệp vụ tài chính, từng bớc lặp lại trật tự kinh doanh tiền
tệ, thu hút đầu t nớc ngoài.
Nh vậy, hệ thống các NHTM nớc ta là một bộ phận trong hệ thống ngân
hàng hai cấp, trong đó NHNN làm nhiệm vụ của Ngân hàng Trung ơng, còn
các NHTM và các TCTD khác hoạt động nh các ngân hàng trung gian thực
hiện chức năng kinh doanh.
1.1.2. Định nghĩa Ngân hàng thơng mại:
4
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
Định nghĩa NHTM thờng đợc xây dựng theo tính chất và mục đích hoạt
động của ngân hàng. Theo Luật ngân hàng của Pháp năm 1941, NHTM đợc

định nghĩa là: những xí nghiệp hay cơ sở th ờng xuyên nhận tiền của công
chúng dới hình thức ký thác hay hình thức khác. Bên cạnh đó, cũng có một số
quốc gia đa ra định nghĩa về NHTM dựa trên sự kết hợp với đối tợng hoạt
động. Ví dụ nh Luật ngân hàng của Đan Mạch năm 1930 định nghĩa: NHTM
là những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán
vàng bạc, hành nghề thơng mại và các giá trị địa ốc, các phơng tiện tín dụng
và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm v.v.
ở Việt Nam, không có một định nghĩa riêng về NHTM mà NHTM đợc
coi là một loại hình TCTD. Do đó, định nghĩa các TCTD cũng đợc xem là
định nghĩa NHTM. Theo điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam
có nêu: TCTD là doanh nghiệp đ ợc thành lập theo quy định của luật này và
các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ
ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng số tiền gửi để cấp tín dụng,
cung ứng các dịch vụ thanh toán .
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhng các NHTM đều có
chung một tính chất, đó là: việc nhận tiền ký thác, tiền gửi không kỳ hạn và có
kỳ hạn để sử dụng vào nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh
doanh khác của chính ngân hàng.
1.2. Các loại hình NHTM ở Việt Nam
Hệ thống ngân hàng thơng mại Việt Nam đợc tổ chức căn cứ vào nguồn
vốn hình thành, bao gồm 4 loại: NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân
hàng liên doanh và các Chi nhánh ngân hàng nớc ngoài.
1.2.1. Ngân hàng thơng mại quốc doanh
Ngân hàng thơng mại quốc doanh là NHTM thuộc sở hữu của Nhà nớc,
đợc thành lập bằng 100% vốn Ngân sách. Các ngân hàng này đợc phép hoạt
động trong lĩnh vực ngắn hạn, trung hạn, dài hạn tùy theo tính chất nguồn vốn
5
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
huy động, đợc hoạt động cả trong nớc và nớc ngoài và các dịch vụ khác theo
luật quy định.

Từ năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam đợc sắp xếp lại thành 6
NHTM quốc doanh trong đó 4 ngân hàng hoạt động nh những NHTM (Ngân
hàng Ngoại thơng, Ngân hàng Công thơng, Ngân hàng Đầu t &Phát triển,
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn), 2 ngân hàng hoạt động nh
những ngân hàng chính sách (Ngân hàng phục vụ ngời nghèo, Ngân hàng
phát triển Nhà đồng bằng Sông Cửu Long). Các NHTM quốc doanh hoạt động
rộng khắp trên cả nớc với 238 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố và hơn 1000
chi nhánh cấp 3 trực thuộc tại khắp các vùng dân c.
Đặc điểm chính của các NHTM quốc doanh :
- Giữ vai trò chủ đạo trong các hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam,
chiếm 75% vốn huy động và 80% đầu t cho vay vốn (Bảng 1).
- Tổ chức theo mô hình Tổng công ty Nhà nớc hạng đặc biệt và hệ thống
mạng lới theo địa d hành chính
- Thực hiện cho vay chính sách nh một trong các hoạt động chính và còn
mang tính ngân hàng chính sách, rõ nhất là NHNN&PTNTVN.
- Đã và đang thực hiện mạnh mẽ việc chuyển từ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp sang kinh doanh thị trờng định hớng XHCN.
1.2.2. Ngân hàng thơng mại cổ phần
Ngân hàng thơng mại cổ phần là các ngân hàng đợc hình thành trên cơ sở
vốn góp của các cổ đông với nội dung và phạm vi hoạt động nh các NHTM
quốc doanh. Tính đến nay, trên cả nớc có 36 NHTM cổ phần trong đó có 21
NHTM cổ phần đô thị và 15 NHTM cổ phần nông thôn, tiêu biểu là: NHTM
cổ phần á Châu (ACB); NHTM cổ phần Quân đội; NHTM cổ phần Hàng
hải; NHTM cổ phần Đông á; NHTM cổ phần Bắc á; NHTM cổ phần nhà
Hà Nội (Habubank); NHTM cổ phần Châu á Thái Bình Dơng; NHTM cổ
phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; NHTM cổ phần Sài Gòn thơng tín
(Sacombank); NHTM Nam Phơng; NHTM cổ phần Quế Đô Theo số liệu
6
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
tại Bảng 1, các ngân hàng này hiện chiếm 10% vốn huy động và 10% đầu t

cho vay vốn.
Đặc điểm chính của các NHTM cổ phần :
- Hoạt động gần nh thuần túy vì lợi nhuận, có thể mở rộng quy mô bằng
việc phát hành cổ phiếu mới hoặc trái phiếu để bổ sung vốn.
- Tỷ lệ NHTM cổ phần chất lợng kém cao, một số NHTM cổ phần đang
bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt của Nhà nớc.
- Hội đồng quản trị trong các NHTM cổ phần giữ vai trò chủ sở hữu thật,
bộ máy điều hành mang nặng tính làm thuê.
Bảng 1: Thị phần của từng loại hình trong toàn hệ thống đến hết 5/2002
NHTM
quốc
doanh
NHTM cổ
phần
Ngân hàng
liên doanh
và chi
nhánh nớc
ngoài
Loại hình

Vốn huy động
75% 10% 11% 4%
Đầu t cho vay vốn
80% 10% 9% 1%
Tỷ trọng vốn
38.9% 20% 39.1% 2%
Nguồn: Thị trờng tài chính - tiền tệ 7-2002
1.2.3. Ngân hàng liên doanh
Ngân hàng liên doanh là ngân hàng đợc thành lập trên cơ sở hợp đồng liên

doanh, có trụ sở chính tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt
Nam. Vốn điều lệ của các ngân hàng liên doanh là vốn góp của bên ngân hàng
Việt Nam và bên ngân hàng nớc ngoài.
Theo luật, Ngân hàng liên doanh đợc hoạt động cả bằng đồng tiền Việt
Nam và ngoại tệ theo quy định trong giấy phép. Các ngân hàng này chỉ đủ t
cách pháp nhân khi đợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Hiện nay,
trên lãnh thổ Việt Nam có 5 ngân hàng liên doanh đang hoạt động chiếm 11%
vốn huy động và 9% đầu t cho vay vốn, đó là: ChohungVina Bank (ngân hàng
liên doanh giữa NHNT Việt Nam và Hàn Quốc)
7
Loại hình
Chỉ tiêu
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
Đặc điểm chính của các Ngân hàng liên doanh tại Việt Nam :
- Thờng là liên doanh giữa một NHTM quốc doanh với một ngân hàng
của các nớc đang phát triển .
- Phía Việt Nam luôn giữ vị trí Chủ tịch Hội đồng quản trị, còn phía nớc
ngoài là Tổng giám đốc điều hành.
- Mạng lới chi nhánh chủ yếu tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội với doanh
số hoạt động còn khiêm tốn.
1.2.4. Chi nhánh ngân hàng nớc ngoài
Chi nhánh ngân hàng nớc ngoài là một bộ phận của Ngân hàng nớc ngoài
hoạt động tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Các chi
nhánh ngân hàng nớc ngoài chỉ có đủ t cách pháp nhân khi đợc cấp giấy đăng
ký kinh doanh. Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng trên 20 chi nhánh ngân hàng
nớc ngoài đang hoạt động nh : chi nhánh Citibank (Hoa Kỳ); chi nhánh
HongKong Bank; ANZ Bank; Mitsui Bank (Nhật Bản)
Đặc điểm của các chi nhánh ngân hàng nớc ngoài tại Việt Nam :
- Phần lớn thuộc các ngân hàng ở các nớc đang phát triển (HongKong,
Indonesia ) và các n ớc phát triển (Hoa Kỳ, Nhật Bản )

- Bộ máy điều hành của các chi nhánh ngân hàng nớc ngoài do ngời nớc
ngoài trực tiếp nắm giữ.
- Công nghệ ngân hàng tại các chi nhánh này thờng là công nghệ tiên
tiến.
- Có tiềm lực vốn lớn nhờ vào nguồn vốn của ngân hàng mẹ.
2. Đánh giá nguồn lực và hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam
2.1. Đánh giá nguồn lực tại các NHTM Việt Nam
2.1.1. Quy mô vốn tự có và tình hình tài chính
2.1.1.1. Quy mô vốn tự có
Vốn tự có là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá tiềm lực tài chính của các
NHTM. Theo thông lệ quốc tế, vốn tự có của NHTM bao gồm vốn điều lệ, các
quỹ đầu t và một số tài sản nợ khác của ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng
8
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
thờng chiếm tỷ trọng nhỏ, dới 10% tài sản Có nhng lại đợc đặt lên hàng đầu
do tiềm lực vốn của ngân hàng quy định quy mô hoạt động, năng lực thanh
toán, năng lực cạnh tranh và tạo ra uy tín cho ngân hàng.
Tuy vậy, lợng vốn tự có của hệ thống NHTM Việt Nam hầu hết không
đáp ứng đợc yêu cầu. Vốn tự có tại các NHTM quốc doanh tính đến cuối năm
1999 nh sau:
Ngân hàng Ngoại thơng (NHNT): 963 tỷ đồng
Ngân hàng Công thơng (NHCT): 537 tỷ đồng
Ngân hàng Đầu t & Phát triển (NHĐT&PT):792 tỷ đồng
NHNN&PTNTVN: 655 tỷ đồng
(1)
.
Thử so sánh với số tài sản của một số ngân hàng trên thế giới vào thời
điểm năm 1995: Deutsche Bank (Đức) 502,3 tỷ USD; Sumitomo Bank (Nhật)
498,9 tỷ USD; Credit Lyonnais (Pháp) 337,6 tỷ USD; hay Chase Mahattan
Bank (Mỹ) 333,8 tỷ USD thì mới thấy sự nhỏ bé và khoảng cách rất xa của

các NHTM Việt Nam. Ngay cả so sánh với khu vực thì vốn điều lệ của các
NHTM Việt Nam cũng chỉ bằng 10-20% vốn điều lệ của các NHTM trong
khu vực; vốn tự có/tổng tài sản chỉ đạt khoảng 3-4%, xếp hạng gần cuối trong
số 500 ngân hàng lớn nhất Châu á năm 2000 (xem Bảng 2).

Bảng 2: Xếp hạng các NHTM quốc doanh Việt Nam trong khu vực Châu
á theo quy mô tài sản Có
Tên ngân hàng Xếp hạng
Tài sản Có
(triệu USD)
NHNN&PTNT
335 2575
NH Ngoại thơng
345 2401
NH Công thơng
347 2392
NH Đầu t & Phát triển
364 2054
Nguồn: Tạp chí Asia Week ngày 15/9/2000
1(1)
Nghiên cứu kinh tế số 290, tháng 7/2002.
9
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
Trong khi vốn điều lệ của các NHTM quốc doanh còn nhỏ bé thì vốn
điều lệ của các NHTM cổ phần còn thấp hơn rất nhiều lần. Trong tổng số 48
NHTM cổ phần, NHTM đô thị có vốn điều lệ cao nhất là 350 tỷ đồng, có 20
NHTM cổ phần nông thôn có tổng số vốn điều lệ là 45 tỷ đồng (gần 3 triệu
USD) còn ngân hàng có số vốn điều lệ nhỏ nhất là 1 tỷ đồng
(2)
. Vốn điều lệ

nhỏ thì đơng nhiên vốn tự có của các ngân hàng cũng nhỏ, dẫn đến khả năng
cạnh tranh kém.
2.1.1.2. Tình hình tài chính
Tình hình tài chính của các NHTM hiện nay đang trong tình trạng thiếu
lành mạnh nghiêm trọng. Theo tính toán của IMF, tình hình nợ khó đòi phải
xử lý theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam hiện đang ở mức báo động, lên tới
13,3% vào thời điểm năm 2001 so với tổng d nợ toàn quốc (trong khi mức an
toàn là dới 5%) với tổng trị giá lên đến 18.000 tỷ VND, tơng đơng hơn 1 tỷ
USD (trong khi tổng vốn tự có của toàn ngành ngân hàng vào khoảng 20.000
tỷ VND). Theo Hình 1, tỷ lệ nợ khó đòi của riêng 4 NHTM quốc doanh tính
đến cuối tháng 8/2001 đã lên đến gần 10 %. Nếu căn cứ theo tiêu chuẩn kế
toán quốc tế thì số nợ khó đòi trong hệ thống NHTM Việt Nam thời kỳ 1996-
1998 còn lên tới 3-4 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng d nợ tín dụng đối với
nền kinh tế
(3)
.
Hình 1: Tình hình nợ khó đòi của 4 NHTM quốc doanh theo tiêu
chuẩn kế toán Việt Nam
4
5
6
7
8
9
10
11
1999Q4 2000Q1 2000Q2 2000Q3 2000Q4 2001Q1 8/2001
Nguồn: Dự báo của Ngân hàng Nhà nớc và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), 7/2001.
Nguyên nhân gây nợ khó đòi trong hệ thống NHTM Việt Nam:
2(2)

Tạp chí Tài chính số tháng 5/2002
3(3)
Báo cáo tài chính Ngân hàng của WB tháng 7/2001
10
Nợ ngoại tệ
Tổng nợ
Nợ nội tệ
Năm
%
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
Một là, vốn tín dụng ngân hàng bao cấp chiếm tỷ trọng lớn trong vốn lu
động của doanh nghiệp. Trong khi đó, hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp không hiệu quả, NHTM cho vay vốn nhng không thu hồi đợc nợ.
Hai là, nhiều NHTM, nhất là các NHTM quốc doanh dùng vốn huy động
ngắn hạn, kể cả ngoại tệ để cho vay trung dài hạn đối với mọi thành phần kinh
tế. Trong khi đó, các doanh nghiệp sử dụng khoản vay này không hiệu quả
nên không có khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Ba là, hầu hết các NHTM cho vay nhận tài sản thế chấp là bất động sản,
trong khi đó giá bất động sản thờng xuyên biến động theo thị trờng và bị ảnh
hởng bởi chủ trơng, chính sách của Nhà nớc.
Bốn là, các NHTM cho vay còn lấy giá trị vật t, tài sản hình thành từ vốn
vay để làm tài sản đảm bảo tiền vay trong khi giá cả luôn có xu hớng biến
động do cạnh tranh về mẫu mã và tính năng của hàng hoá.
Năm là, nhiều NHTM cho vay nhận tài sản thế chấp mà pháp luật cấm.
Do đó, khi xiết nợ, toà án không cho phép các NHTM đợc thu hồi tài sản đó.
Bảng 3: Nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng Việt Nam
giai đoạn 1995-2001
Đơn vị: %
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Nợ quá hạn/Tổng vốn

tự có
61,9 75,7 112,3 - - - -
Nợ quá hạn/Tổng d nợ 7,8 9,3 12,4 12 13,2 13,1 13,3
Tổng vốn tự có/Tổng
tài sản
4,8 5,5 7,4 6,8 7,2 7,1 -
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam tháng 2/1998; Thống kê của Ngân hàng Thế giới/2001
Có thể thấy, trong giai đoạn 1995-1996, nợ quá hạn trong các ngân hàng
có xu hớng giảm dần. Tuy nhiên, kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ Châu á, tình hình nợ quá hạn (nợ khó đòi) của hệ thống NHTM Việt
Nam càng trầm trọng. Vào thời điểm năm 1997, tỷ lệ nợ quá hạn/tổng vốn tự
có đã lên đến 112,3% và nợ quá hạn/tổng d nợ cũng lên đến 12,4%.
11
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
Ngoài các khoản nợ khó đòi, khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam
cũng còn rất thấp. Mức chênh lệch giữa tổng thu nhập so với tổng chi phí toàn
ngành chỉ đạt gần 800 tỷ/năm, tơng đơng gần 60 triệu USD, thấp hơn nhiều so
với mức lợi nhuận của các ngân hàng trong khu vực (OUB Singapore: 100
triệu USD; HSBH Hong Kong: khoảng 1392 triệu USD; Maybank Malaysia:
62.8 triệu USD). Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thu nhập thấp của
các NHTM là chi phí hoạt động kinh doanh hiện quá cao khi so sánh với các
nớc láng giềng. Chẳng hạn, tỷ lệ chi phí hoạt động/tổng tài sản Nợ tại NHNT
vào khoảng 5,5%; tại NHCT là 9,3%; tại NHNN&PTNT là 8,5%; tại
NHĐT&PT là 7,5% trong khi tỷ lệ ở các nớc công nghiệp phát triển OECD là
1-2%
(4)
.
2.1.2. Công nghệ cung ứng dịch vụ
Công nghệ cung ứng dịch vụ của các NHTM Việt Nam hiện đang ở mức
quá lạc hậu so với các NHTM khác trên thế giới và trong khu vực. Trong khi

xu hớng điện tử hoá hoạt động ngân hàng đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới
thì cho đến nay, vẫn cha có một NHTM nào lắp đặt các hệ thống chơng trình
nhằm chuẩn hoá dịch vụ ngân hàng cũng nh thực hiện đợc việc nối mạng
trong toàn hệ thống để có đợc một cơ sở dữ liệu thông tin thống nhất về khách
hàng. Chính vì vậy, các NHTM Việt Nam vẫn cha thực hiện đợc các dịch vụ
khá đơn giản nh gửi tiền một nơi rút tiền mọi nơi hay vay vốn nơi này rút vốn
nơi khác
Công nghệ thẻ tín dụng trong hệ thống NHTM Việt Nam còn rất yếu.
Mặc dù, hiện nay ở Việt Nam đã có một số NHTM phát hành thẻ tín dụng, thẻ
thanh toán nh NHNT, NHTM cổ phần á Châu (ACB), Ngân hàng
Eximbank , song do công nghệ không đồng bộ và không hiện đại nên tỷ lệ
giao dịch gặp trục trặc trong thanh toán khá cao. Đồng thời, đó cũng là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng các NHTM Việt Nam mất dần thị trờng sang
các chi nhánh ngân hàng nớc ngoài có công nghệ cao hơn nh Hongkong Bank,
ANZ
4(4)
Tạp chí Ngân hàng số 3/2001
12
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
2.1.3. Cấu trúc tổ chức và nguồn nhân lực
2.1.3.1. Cấu trúc tổ chức
Hiện nay, tất cả các NHTM Việt Nam đều hoạt động theo mô hình tổ
chức trực tuyến, tức là các quyết định đợc ban hành từ trên xuống dới. Các
ngân hàng tiến hành phân chia các phòng ban theo từng mảng nhiệm vụ của
ngân hàng hoặc theo từng công đoạn của quy trình cung ứng dịch vụ chứ
không phải phân chia theo đặc điểm của từng nhóm khách hàng hoặc dịch vụ.
Nói cách khác, các NHTM Việt Nam đều không đợc tổ chức theo định hớng
thị trờng. Vì vậy, các thông tin về một khách hàng, thậm chí của một nhóm
khách hàng không thể tổng hợp đợc do có quá nhiều đầu mối theo dõi; các
nghiệp vụ trong ngân hàng bị đan xen chồng chéo; số liệu báo cáo không

chính xác.
2.1.3.2. Nguồn nhân lực
Trong toàn hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay có khoảng 60.000 lao
động trong đó khu vực quốc doanh đông nhất (70%) và khu vực nớc ngoài là ít
nhất (3%). Về trình độ nhân sự, lực lợng có trình độ đại học và sau đại học
chiếm 36%; trình độ trung học chiếm 43%; sơ học và lao động giản đơn
chiếm khoảng 21%
(5)
.
Trong những năm gần đây, chất lợng nhân lực tại các NHTM đã đợc chú
ý nâng lên một bớc. Số cán bộ mới đợc tuyển chọn công khai với kiến thức tối
thiểu là đại học kinh tế, có trình độ tiếng Anh và vi tính thành thạo. Mặt khác,
số lợng cán bộ cũ đợc các ngân hàng chú ý đào tạo lại. Đặc biệt, ngày càng có
nhiều cán bộ đợc đi thực tập khảo sát ở nớc ngoài và cử đi học ở các lớp sau
đại học. Bên cạnh đó, các NHTM hiện đã chú trọng hơn đến công tác khách
hàng nên thái độ, tác phong phục vụ khách hàng của đội ngũ cán bộ nhân viên
ngân hàng đã đợc cải thiện rất nhiều.
Ngoài những u điểm đã nêu ở trên, tình hình nhân lực tại các NHTM hiện
nay vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Công tác tuyển chọn và đào tạo tại các ngân
hàng không đợc chơng trình hoá, kế hoạch hoá cùng với việc phân công sử
(5)
Tạp chí Ngân hàng số tháng 10/2001
13
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
dụng lực lợng cán bộ cha hợp lý dẫn đến tình trạng những kiến thức đợc học
không đợc sử dụng và ngợc lại. Ngoài ra, thái độ, tác phong phục vụ khách
hàng tuy đã đợc nâng lên một bớc song vẫn cha đáp ứng đợc mong mỏi của
khách hàng. Kỹ năng ứng xử giao tiếp với khách hàng cha đợc các NHTM
quan tâm đúng mức. Đặc biệt, vấn đề đạo đức nghề nghiệp trong các NHTM
cha đợc rèn giũa thờng xuyên. Chất lợng nhân lực kém không những ảnh hởng

đến hoạt động của các NHTM mà còn ảnh hởng đến tốc độ và hiệu quả cải
cách hệ thống NHTM Việt Nam trong thời gian tới.
2.1.4. Hệ thống thông tin và kiểm toán, kiểm soát nội bộ tại các NHTM
2.1.4.1.Hệ thống thông tín
Hệ thống thông tin tại NHTM Việt Nam hiện nay gồm 2 bộ phận: hệ
thống thông tin bên trong và hệ thống thông tin bên ngoài
- Hệ thống thông tin bên trong: Các NHTM hiện thu thập thông tin bên
trong theo hệ thống báo cáo đợc lập từ dới lên trên. Nh đã đề cập ở trên, do cơ
cấu tổ chức của các NHTM hiện cha theo nhóm khách hàng và dịch vụ chào
bán nên các thông tin thu thập đợc mang tính chất chung chung, không có ý
nghĩa trong việc đánh giá mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng cũng
nh khả năng kinh doanh hiện thực của Ngân hàng đối với từng loại dịch vụ.
Hơn nữa, các số liệu thu thập đợc không có độ chính xác cao do chức năng
nhiệm vụ của một số phòng ban còn chồng chéo.
- Hệ thống thông tin bên ngoài: Cho đến nay, hầu hết các NHTM Việt
Nam đều đã thành một phòng ban chuyên trách công tác Marketing/khách
hàng hoặc nh là một nhiệm vụ kiêm nhiệm nằm trong phòng kinh doanh. Tuy
nhiên, các thông tin bên ngoài vẫn cha đợc xử lý một cách có hệ thống. Phần
lớn các thông tin đều do các cá nhân tự thu thập, hoặc đợc truyền đạt tại các
cuộc họp chuyên môn. Chính vì vậy, hiệu quả điều hành kinh doanh của ban
lãnh đạo ngân hàng phần nào bị ảnh hởng do không có đợc nguồn thông tin từ
bên ngoài. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do các NHTM cha
nhận thức đầy đủ về sức mạnh nguồn lực thông tin, từ đó dẫn đến việc đầu t
14
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
cha thích đáng cả về mặt tổ chức, nhân sự, quản lý và công nghệ cho công tác
đặc biệt quan trọng này.
2.1.4.2. Hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ
Hoạt động KTNB là một trong những công cụ quan trọng trong công tác
tổ chức quản lý của ban lãnh đạo Ngân hàng. Nó thực hiện chức năng chính là

kiểm tra, xác nhận và đánh giá các hoạt động kinh doanh và hoạt động tài
chính nhằm nâng cao hiệu quả và góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý của
NHTM. Thông qua hoạt động này, các ngân hàng có thể phát hiện những sơ
hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong bảo vệ tài sản của NHTM, đề xuất
các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống quản lý điều hành kinh doanh, giữ
vững ổn định và phát triển bền vững của NHTM. Tuy nhiên, hệ thống KTNB
của các NHTM Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập, biểu hiện:
- Tính độc lập của bộ phận KTNB bị hạn chế. Trởng ban kiểm tra,
KTNB, Trởng phòng kiểm tra nội bộ, kiểm tra viên tham gia vào Hội đồng tín
dụng hoặc kiểm tra viên kiêm nhiệm một số công việc khác không đúng chức
năng nhiệm vụ của KTNB.
- Chất lợng kiểm tra viên cha cao, nhiều cán bộ làm công tác KTNB cha
đợc đào tạo để có đủ khả năng thực hiện nghiệp vụ cũng nh nhận biết rủi ro.
Có nơi bố trí cả cán bộ vừa mới ra trờng làm công tác hoặc có cán bộ không
thể sắp xếp vào các bộ phận nghiệp vụ khác thì mới bố trí vào làm công tác
này dẫn đến hiệu quả kiểm toán còn kém.
- Về nội dung kiểm toán đối với hoạt động tín dụng: chủ yếu còn thiên về
kiểm tra hồ sơ tín dụng và đối chiếu khách hàng để phát hiện ra những sai
phạm. Các NHTM cha chú trọng đến việc đánh giá tách các chức năng trong
quy trình nghiệp vụ tín dụng, cha chú trọng đến kiểm toán cơ cấu tín dụng.
Nói cách khác, hệ thống kiểm toán tại các NHTM cha định hớng rõ theo
những rủi ro tiềm ẩn.
- Về phơng pháp kiểm toán: chủ yếu thực hiện phơng pháp kiểm toán
riêng lẻ, cha chú trọng đến phơng pháp kiểm toán hệ thống. Các ngân hàng
15
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
cha có tiêu chí chọn mẫu phù hợp, kỹ thuật chọn mẫu chủ yếu đợc áp dụng là
chọn mẫu phi xác suất hay còn gọi là lựa chọn xét đoán.
2.1.5. Danh tiếng và uy tín của các ngân hàng
Nhìn chung, danh tiếng và uy tín của các NHTM Việt Nam hiện cha cao.

Hầu hết các ngân hàng còn khá non trẻ (NHTM lâu đời nhất thành lập năm
1963, NHTM trẻ nhất thành lập năm 1997). Hơn nữa, các NHTM Việt Nam
lại đang hoạt động kinh doanh trong một nền kinh tế còn nghèo nàn và phát
triển cha ổn định, song đã phải chống chọi với hàng loạt các vấn đề nan giải
nh tốc độ lạm phát phi mã trong những năm 80, thất bại của đợt đổi tiền 1985
và sự đổ vỡ của một số NHTM cổ phần trong năm 1997-1998 và hàng loạt các
vụ án hình sự liên quan đến các cán bộ lãnh đạo ngân hàng Chính những
điều này đã ảnh hởng không ít đến danh tiếng và uy tín của các NHTM Việt
Nam trong những năm qua.
Tuy nhiên, nhờ những nỗ lực trong thời gian gần đây cùng với sự hỗ trợ
của Chính phủ, các NHTM đã bớc đầu khẳng định đợc vị thế của mình trên thị
trờng. Uy tín của các ngân hàng ngày càng đợc nâng cao thể hiện bằng lợng
tiền gửi của các tổ chức kinh tế và dân c tập trung vào nhóm ngân hàng này
ngày càng tăng, chiếm đến 80% tổng lợng tiền huy động đợc trong toàn
ngành. Bên cạnh đó, một số NHTM cổ phần cũng đã bớc đầu khẳng định đợc
danh tiếng của mình trên thị trờng nh NHTM cổ phần á Châu (ACB), NHTM
cổ phần Quân đội, NHTM cổ phần Phơng Đông
2.2. Đánh giá chung hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM
Việt Nam
Đánh giá chung về hoạt động của các NHTM Việt Nam, Bộ chính trị đã
có kết luận: Từ khi chuyển sang kinh doanh, các NHTM đã thực hiện huy
động một khối lợng đáng kể vốn trong và ngoài nớc; thúc đẩy đầu t cho sản
xuất của các thành phần kinh tế, coi trọng đầu t tín dụng u đãi để phục vụ xoá
đói giảm nghèo và thực hiện một số chính sách xã hội. Trên thực tế, khi
chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, các
16
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
NHTM còn nhiều bỡ ngỡ nên hiệu quả kinh doanh nhiều mặt bị hạn chế. Nh-
ng cùng với nố lực của bản thân các NHTM, sự ủng hộ từ nhiều phía tạo môi
trờng kinh doanh thuận lợi hơn, các NHTM đã quen dần với cơ chế mới, đã

đạt đợc những thành quả nhất định trong kinh doanh. Đến nay, chỉ xét riêng
mảng huy động vốn của hầu hết các NHTM, cả quy mô và chất lợng đều đ-
ợc phát triển.
Theo báo cáo của NHNN qua mấy năm gần đây, các TCTD trong nớc
cũng nh chi nhánh ngân hàng nớc ngoài, ngân hàng liên doanh đều có tốc độ
tăng liên tục. Năm 1995, các NHTM quốc doanh huy động đợc 31,7 nghìn tỷ
VND (kể cả ngoại tệ quy đổi) thì năm 1999 đã huy động đợc 115,508 nghìn tỷ
VND (tăng 3,64 lần). Đối với các chi nhánh ngân hàng nớc ngoài và ngân
hàng liên doanh, năm 1995 huy động đợc 2,085 nghìn tỷ VND (quy đổi); đến
năm 1999 số vốn huy động đã tăng lên 14,413 nghìn tỷ đồng. Riêng trong
năm 2000, quán triệt nhiệm vụ ngay từ đầu năm, toàn hệ thống NHTM đã tích
cực nắm bắt thị trờng, tình hình biến động trong nớc và thế giới, có nhiều giải
pháp phù hợp để đẩy mạnh huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế
nh: áp dụng lãi suất linh hoạt nội và ngoại tệ; phát hành trái phiếu ngân hàng
để nâng cao tỷ trọng vốn trung và dài hạn; huy động vốn bằng vàng Tính
đến cuối năm 2000, số d tiền gửi tại các NHTM tăng 30% so với đầu năm, cao
hơn nhiều so với mức tăng năm trớc và vợt kế hoạch đề ra
(6)
. Nhìn chung, số
vốn các NHTM huy động đợc từ nền kinh tế tăng đều đặn trong những năm
gần đây rất có ý nghĩa đối với sự phát triển trong bối cảnh vốn đầu t trực tiếp
nớc ngoài vào nớc ta bị giảm sút.
Ngoài ra, các NHTM Việt Nam đã đóng góp rất nhiều vào tốc độ tăng tr-
ởng đầu t cho vay, đặc biệt là cho vay trung dài hạn. Các NHTM cũng giữ vai
trò là trung tâm thanh toán của nền kinh tế, cung cấp các dịch vụ, nghiệp vụ
ngân hàng hiện đại.
Tuy nhiên, tình hình hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam
hiện còn không ít vấn đề bất cập. Về hoạt động huy động vốn, mặc dù đã đạt
6(6)
Tạp chí Ngân hàng số tháng 8/2001

17
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
đợc nhiều kết quả khả quan nhng hiện vẫn cha có nhiều hình thức huy động
vốn và nhận tiền gửi mới, phù hợp với nhu cầu của ngời dân và các tổ chức
kinh tế. Số tài khoản tiền gửi cá nhân, tài khoản vãng lai mở và duy trì hoạt
động còn ít, loại tiền huy động còn hạn chế. Bên cạnh đó, lợng vốn huy động
vẫn còn thấp so với nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế. Trong những năm
qua, theo số liệu của NHNN, số vốn huy động vủa hệ thống NHTM trung bình
mới đạt 15% GDP (giai đoạn 1991-1995) và 22% GDP (giai đoạn 1995-2000).
Đặc biệt cơ cấu nguồn vốn cha đợc hợp lý; chẳng hạn, số vốn huy động đợc
phần lớn là vốn ngắn hạn, cha phù hợp với kỳ hạn sử dụng vốn; vốn tự có và
việc bổ sung vốn tự có còn quá nhỏ so với quy mô hoạt động của các ngân
hàng.
Về hoạt động tín dụng, chất lợng, hiệu quả vốn tín dụng và bảo lãnh còn
quá thấp. Nợ quá hạn, nợ có liên quan đến vụ án, nợ chờ xử lý, nợ phải trả
thay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng d nợ. Đây là tồn tại lớn nhất, ảnh hởng
nghiêm trọng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM trong những năm qua,
đặc biệt là ở Ngân hàng Công thơng và NHNN&PTNT Việt Nam. Theo số
liệu Báo cáo thờng niên, tỷ lệ Nợ có vấn đề của NHCT Việt Nam là
23,5%/Tổng d nợ năm 1997; 35% năm 1998; 32% năm 1999 và 26% năm
2000
(7)
. Hơn nữa, các NHTM Việt Nam hiện nay cũng cha mở rộng các hình
thức cho vay mới nh: tín dụng thấu chi, chiết khấu thơng phiếu và các chứng
từ có giá; cho vay trả góp; bao thanh toán; cho vay tiêu dùng; cho vay mua cổ
phần để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế đang không ngừng phát triển. Các
hình thức tín dụng nh: cho thuê tài chính, bảo lãnh còn chậm phát triển nên
doanh số hoạt động thấp. Đáng lo ngại hơn là vấn đề thủ tục cho vay. Hiện
nay, các thủ tục cho vay, bảo lãnh tại các NHTM còn quá rờm rà, phức tạp,
gây tâm lý ngần ngại cho ngời vay vốn.

Mặt khác, đối với hoạt động đầu t, các NHTM Việt Nam cha có đợc
những hình thức đầu t mới, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế nh: mua cổ
phần trong các công ty có hiệu quả sản xuất cao hay đầu t chứng khoán. Bởi
7(7)
Tạp chí Ngân hàng số tháng 6/2002
18
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
vậy, doanh số hoạt động còn nhỏ, không đều, tập trung chủ yếu vào mua công
trái Nhà nớc và tín phiếu kho bạc Đối với hoạt động trung gian, doanh số
hoạt động và tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ và các nghiệp vụ khác trong tổng
thu nhập còn quá nhỏ so với tiềm năng và lợi thế của các NHTM nh số liệu
của một số NHTM tại Bảng 4 cho thấy.
Bảng 4: Tỷ trọng thu dịch vụ / Tổng doanh thu của một số NHTM giai
đoạn 1996-2001 (%)
Năm NH Công thơng NH Ngoại thơng
NH cổ phần á
Châu
1996 2,7 9,3 -
1997 3,6 8,5 -
1998 8,6 14,9 12,5
1999 7 10,5 13,2
2000 5,4 12,6 14,1
2001 4,1 13,1 15,3
Trung bình 5,2 11,5 13,7
Nguồn: Ngân hàng Công thơng; Ngân hàng Ngoại thơng; NHTM cổ phần á Châu
Các sản phẩm dịch vụ của các NHTM Việt Nam còn rất ít ỏi và đơn điệu,
chủ yếu vẫn chỉ là các dịch vụ thanh toán - chuyển tiền trong nớc và quốc tế
(trong khi một NHTM trung bình của Nhật đã có tới 6000 dịch vụ). Ngay
trong một loại hình dịch vụ, các hình thức, công cụ thực hiện cũng cha đầy đủ.
Thị trờng dịch vụ ngân hàng đối với cá nhân rất lớn nhng các NHTM cha khai

thác đợc nhiều: số lợng tài khoản tiền gửi cá nhân và thanh toán của cá nhân
qua ngân hàng còn rất thấp; các dịch vụ thanh toán thẻ, máy rút tiền tự động
(ATM), bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng tại nhà mới đợc áp dụng nhng vẫn đang
ở giai đoạn thí điểm Mặt khác, chất l ợng sản phẩm dịch vụ của các NHTM
còn nhiều hạn chế nên cha tạo ra đợc u thế cạnh tranh trên thị trờng.
Những tồn tại trên là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả kinh doanh của các
NHTM, đặc biệt là các NHTM quốc doanh trong thời gian qua không cao.
19
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
Theo số liệu tại Bảng 5, từ năm 1997 trở lại đây, số lãi của những năm sau
giảm nhiều so với năm trớc. Năm 2000, lợi nhuận ròng của các NHTM quốc
doanh chỉ đạt 417 tỷ đồng, bằng 62% so với năm trớc trong khi tài sản Có và
số lao động tăng nhanh. Sự giảm sút hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt
Nam đợc thể hiện rõ qua các chỉ tiêu tỷ lệ chi phí hoạt động/tổng tài sản Có
(CPHĐ/TTSC) và lợi nhuận ròng/tổng tài sản Có (LNR/TTSC) của các NHTM
quốc doanh trong thời gian qua.
Bảng 5: Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh của các NHTM quốc doanh
giai đoạn 1996-2001
Đơn vị: %
Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001
Chi phí hoạt động/Tổng tài sản Có
NH Ngoại thơng 6,5 5,5 5,5 4,4 4
NHNN&PTNT 13,8 12,6 9,5 9,3 6,4
NH Công thơng 14,4 9,6 9,3 7,6 4,5
NHĐT&PT 9,5 8,3 8,0 7,5 4,6
Lợi nhuận ròng/Tổng tài sản Có (*) 0,85 0,75 0,42 0,31 0,36
Nguồn: Báo cáo thờng niên của các NHTM quốc doanh và dự thảo ghi nhớ
của nhóm trợ giúp kỹ thuật cho việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng
Việt Nam 7/2001
Lu ý: Chỉ tiêu (*) tính chung cho cả 4 ngân hàng.

Tỷ lệ tổng chi phí/tổng tài sản Có của các NHTM giảm dần qua các năm
không có nghĩa là hiệu quả hoạt động của ngân hàng đợc nâng lên vì với tỷ lệ
chi phí hoạt động/tài sản Có là 4-6% nh hiện nay thì vẫn cao gấp 3 lần chênh
lệch lãi suất tiền gửi và cho vay (chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay hiện
nay chỉ dao động từ 1,2-1,5%/năm). Trong khi đó, nguồn thu chủ yếu của các
NHTM nớc ta hiện nay là hoạt động tín dụng, nên các ngân hàng không thể có
nhiều lợi nhuận. Hiệu quả hoạt động của các NHTM giảm dần còn đợc thấy
rất rõ qua sự giảm sút của hệ số ROA (Rate of Assets) (lợi nhuận ròng/tổng
20
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
tài sản Có). Năm 1997, hệ số ROA là 0,85%, tức là cứ 100 đồng tài sản Có sẽ
đem lại 0,85 đồng lợi nhuận ròng. Có thể thấy, hệ số này giảm dần qua các
năm, đến năm 2000 chỉ còn 0,36%, tức là 100 đồng tài sản có lúc này chỉ đem
lại 0,36 đồng lợi nhuận ròng, giảm 3 lần so với năm 1997
(8)
.
Việc xem xét tình hình hoạt động kinh doanh của các NHTM trong
những năm qua cho thấy, dù đã có rất nhiều đóng góp vào sự phát triển của
nền kinh tế nhng hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam còn thấp
và đang có xu hớng giảm sút rõ rệt. Điều đó buộc các NHTM phải đổi mới
toàn diện để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình
II. tính cấp thiết của việc cải cách NHTM Việt Nam
1. Bối cảnh kinh tế - xã hội của việc cải cách NHTM
Việt Nam đã và đang tiến hành đổi mới toàn diện nền kinh tế trong hơn
15 năm qua. Có thể nhận thấy, công cuộc đổi mới kinh tế đã đem lại nhiều
thay đổi quan trọng cả về số lợng và chất lợng. Tình trạng siêu lạm phát gây ra
bởi chính sách tiền tệ hoá các khoản nợ vào cuối những năm 80 đã đợc kiềm
chế bằng chính sách cân bằng thu chi ngân sách và chính sách tiền tệ chặt chẽ
vào đầu những năm 90, góp phần tạo nên sự ổn định giá trị của đồng tiền Việt
Nam, kết quả là đã thu hút đợc một lợng lớn vồn đầu t trực tiếp nớc ngoài. Mặt

khác, tình hình chính trị xã hội ở Việt Nam đã đợc ổn định, công ăn việc làm
và đời sống nhân dân đợc nâng cao. Môi trờng pháp lý và thể chế hiện đã đợc
cải thiện đáng kể. Có thể nói, nền kinh tế Việt Nam đã cơ bản thoát khỏi
khủng hoảng, chấm dứt tình trạng bao vây cấm vận từng bớc vững chắc phát
triển theo cơ chế thị trờng có sự quản lý vĩ mô của Nhà nớc và dần hội nhập
vào nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, gây ra bởi sự phá
giá bất ngờ của đồng Bạt Thái Lan vào giữa năm 1997, đã gián tiếp ảnh hởng
đến nền kinh tế Việt Nam. Cụ thể, xuất khẩu sang các nớc láng giềng giảm,
nguồn đầu t trực tiếp nớc ngoài vào trong nớc suy yếu đi. Do đó, nền kinh tế
8(8)
Tạp chí Ngân hàng số tháng 6/ 2002
21
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
Việt Nam có chững lại từ năm 1998 với tỷ lệ tăng trởng GDP thực tế giảm
xuống tới 4-5% so với cùng kỳ những năm trớc là 8-9%
(9)
.
Nhng từ năm 2000, nền kinh tế Việt Nam đã từ từ phục hồi nhờ mở rộng
đợc xuất khẩu. Mặt khác, Việt Nam đã chủ động trong lộ trình hội nhập, tham
gia tích cực trong các quan hệ kinh tế tài chính song phơng và đa phơng. Việt
Nam đã gia nhập AFTA, APEC, đã là thành viên thứ 7 của Liên đoàn kế toán
các nớc ASEAN (AFAC), thành viên thứ 130 của Liên đoàn kế toán quốc tế
(IFAC). Bằng chính sách tài chính linh hoạt, thích hợp, tháo gỡ từng vớng
mắc, chúng ta đã mở cửa thu hút khối lợng lớn vốn đầu t từ nớc ngoài và tăng
kim ngạch xuất khẩu. Dù còn khiêm tốn, nhng kinh tế Việt Nam đã bắt đầu
mở cửa đi ra nớc ngoài, tham gia và chiếm lĩnh thị trờng ngoài nớc.
Mặc dù đã đạt đợc những thành tựu quan trọng trong công cuộc phát
triển đất nớc nhng nền kinh tế Việt Nam những năm đầu thể kỷ XXI đã đợc
đặt trong một môi trờng kinh tế quốc tế khác trớc. Các quan hệ quốc tế đã

thay đổi, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội nớc ta. Đặc
biệt, xu thế hợp tác quốc tế và khu vực hiện đang là xu thế phổ biến trên thế
giới. Giữa các quốc gia đang diễn ra một chiều hớng vừa hợp tác, vừa cạnh
tranh mà cả hai mặt đều sâu sắc. Khu vực Châu á Thái Bình Dơng đã và sẽ
tiếp tục phát triển năng động và đạt tốc độ tăng trởng cao hơn các khu vực
khác. Nhiều dự báo cho rằng đến năm 2010, trung tâm kinh tế - thơng mại của
thế giới sẽ chuyển sang Châu á Thái Bình Dơng. Mặt khác, cách mạng khoa
học công nghệ mà nội dung cơ bản là cách mạng về công nghệ thông tin, sinh
học và vật liệu mới đang phát triển ở trình độ rất cao. Chính điều này đã tạo
nên động lực thúc đẩy quá trình tăng tiến của mỗi quốc gia.
Bối cảnh quốc tế tuy hết sức thuận lợi cho ta nhng khi tác động đến các
nhân tố bên trong lại tạo ra những thách thức và nguy cơ mới. Một trong
những nguy cơ đó là nguy cơ tụt hậu so với trình độ của thế giới. Để đối phó
với nguy cơ này, Việt Nam đã và đang hết sức nỗ lực để đổi mới mọi mặt của
9(9)
Những thành tựu cải cách hệ thống tài chính và vấn đề nợ khó đòi ở Việt Nam - Masahisa Koyama,
Toshiyuki Katagiri, 2000
22
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
đời sống kinh tế xã hội nhằm từng bớc tham gia sâu rộng hơn vào nền kinh tế
thế giới cũng nh đáp ứng những nhu cầu phát triển kinh tế đặt ra trong thời kỳ
mới. Việc cải cách hệ thống NHTM Việt Nam cũng đợc tiến hành trong điều
kiện không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế nói chung ở Việt Nam.
2. Yêu cầu cấp bách của việc cải cách các NHTM Việt Nam
Trong một giai đoạn lịch sử mà môi trờng quốc tế và bối cảnh kinh tế -
xã hội trong nớc có nhiều đặc thù nh trên, việc đổi mới hoạt động của hệ
thống NHTM Việt Nam đợc coi nh điều kiện và động lực đảm bảo cho công
cuộc phát triển kinh tế đất nớc và nhanh chóng hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng.
1.1. Yêu cầu chủ quan

Yêu cầu tiến hành cải cách các NHTM Việt Nam trớc tiên xuất phát từ
chính bản thân hệ thống NHTM. Lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng ở nớc ta đang
vận hành theo cơ chế thị trờng và đã đạt đợc những kết quả bớc đầu. Hai luật
về ngân hàng đợc Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997
và có hiệu lực ngày 1/10/1998 đã từng bớc đáp ứng yêu cầu thiết lập hành lang
pháp lý trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng, xây dựng ngày một tốt hơn hệ
thống chính sách và quản lý Nhà nớc trong lĩnh vực này. Hệ thống các NHTM
Việt Nam với nhiều thành phần tham gia, nhiều loại hình sở hữu đã góp phần
phục vụ nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế, trong đó quan trọng nhất là
khu vực các NHTM quốc doanh.
Theo tính toán của WB, đến tháng 8/2002, chỉ riêng 4 NHTM quốc
doanh lớn của Việt Nam đó là: Ngân hàng Công thơng, Ngân hàng Ngoại th-
ơng Việt Nam, NHĐT&PT và NHNN&PTNT Việt Nam đã cung cấp 72,1% l-
ợng vốn cần thiết cho nền kinh tế. Các TCTD khác chỉ đóng góp 27,9%
(10)
.
Mặt khác, kể từ khi ra đời, hệ thống NHTM Việt Nam đã đóng vai trò là trung
gian thanh toán cho nền kinh tế, đảm bảo cho mọi giao dịch trong nớc và quốc
tế diễn ra thuận lợi, góp phần thúc đẩy tăng trởng kinh tế đất nớc. Tất cả
1(10)
Báo cáo tài chính Ngân hàng của WB tháng 7/2001
23
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
những điều này cho thấy vai trò hết sức quan trọng của các NHTM quốc
doanh nói riêng và hệ thống NHTM Việt Nam nói chung đối với sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nớc. Tuy nhiên, để có thể tiếp tục hoạt
động an toàn, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vốn trong thời kỳ mới của nền kinh
tế thì nhất thiết phải có sự cải tổ một cách sâu sắc và đầy đủ hơn hệ thống
NHTM Việt Nam.
Nh đã đề cập ở phần trên, hệ thống các NHTM hiện nay đang gặp phải

những khó khăn lớn. Khó khăn dễ nhận thấy nhất đó là quy mô vốn của các
NHTM Việt Nam còn nhỏ, đặc biệt là ở các NHTM cổ phần. Một số ngân
hàng có mức vốn điều lệ chỉ tơng đơng 100 triệu USD. Với quy mô vốn nhỏ
hẹp, các NHTM Việt Nam không có điều kiện phát triển hoạt động và các sản
phẩm của mình. Chính vì vậy, mạng lới chi nhánh và các sản phẩm dịch vụ
của các NHTM Việt Nam còn nhỏ hẹp. Nghiêm trọng hơn là tình trạng nợ quá
hạn, nợ khó đòi, nợ xấu tồn đọng đã lên tới mức báo động, không còn đảm
bảo hoạt động an toàn cho toàn bộ hệ thống NHTM. Hoạt động cho vay theo
chỉ đạo vẫn còn lẫn lộn với hoạt động cho vay thơng mại đã hạn chế rất nhiều
tính linh hoạt và tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Tất cả
những khó khăn trên đã dẫn đến hiệu quả kinh doanh của các NHTM không
cao, không đáp ứng đợc nhu cầu vốn để phát triển đất nớc. Nếu không sớm
khắc phục những tồn tại này sẽ gây hậu quả xấu đến hoạt động của nền kinh
tế và ổn định xã hội, làm giảm tích luỹ nội bộ của nền kinh tế cũng nh làm
cho các nguồn vốn đầu t không đến đợc nơi có nhu cầu. Do đó, việc cải tổ hệ
thống NHTM Việt Nam đang là đòi hỏi cấp thiết của nền kinh tế nớc ta trớc
yêu cầu đặt ra từ bản thân các NHTM, từ nền kinh tế thị trờng.
1.2. Yêu cầu khách quan
Cải cách hệ thống NHTM Việt Nam là yêu cầu cấp thiết để các NHTM
có thể chiếm lĩnh thị trờng trong nớc và vơn tới hội nhập quốc tế trong lĩnh
vực tiền tệ - ngân hàng.
Hiện nay, hệ thống NHTM Việt Nam đang từng bớc chuyển nhanh sang
hoạt động theo cơ chế thị trờng, nhanh chóng thay đổi phong cách và phơng
24
Khoá luận tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hằng A8-K37
thức phục vụ, từng bớc phát triển và thực hiện nhiều dịch vụ ngân hàng, đáp
ứng nhu cầu của sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, phục vụ đắc lực
cho chiến lợc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế và sự đổi mới về chính sách kinh tế, hệ thống NHTM đã có rất
nhiều loại hình khác nhau với số lợng không nhỏ, trong đó có các ngân hàng

nớc ngoài và ngân hàng liên doanh. Sau một số năm hoạt động, các chi nhánh
ngân hàng nớc ngoài và ngân hàng liên doanh đã từng bớc xâm nhập vào thị
trờng khách hàng Việt Nam, hoạt động kinh doanh dần bù đắp đợc chi phí và
có lãi. Tính đến hết Quý I/2002, đã có 22/25 chi nhánh ngân hàng nớc ngoài
có số lãi cao lên tới hàng trăm tỷ đồng và cả 4 ngân hàng liên doanh đều có
lãi. Thực tế cho thấy, mặc dù thị phần về cho vay tín dụng cũng nh các dịch vụ
ngân hàng của các ngân hàng trong nớc vẫn chiếm tới trên 70% trong toàn hệ
thống nhng chất lợng hoạt động tín dụng còn thấp hơn nhiều so với các chi
nhánh ngân hàng nớc ngoài và liên doanh. Trong khi tỷ lệ nợ quá hạn so với
tổng d nợ của khối NHTM trong nớc vào khoảng 10% thì ở khối ngân hàng n-
ớc ngoài và chi nhánh ngân hàng nớc ngoài và ngân hàng liên doanh chỉ vào
khoảng 0,5%
(11)
.
Bên cạnh chất lợng hoạt động tín dụng còn kém, vốn của các NHTM
Việt Nam so với các ngân hàng nớc ngoài còn thấp. Trên thực tế, vốn điều lệ
của 6 NHTM quốc doanh Việt Nam và 36 NHTM cổ phần chỉ vào khoảng
10.000 tỷ đồng trong khi đó chỉ trên 20 chi nhánh ngân hàng nớc ngoài và 4
ngân hàng liên doanh đã gần 7.000 tỷ đồng. Ngoài vốn, chất lợng hoạt động
của các ngân hàng nớc ngoài còn hơn hẳn các ngân hàng trong nớc về công
nghệ, kỹ thuật và đặc biệt là khả năng quản lý.
Nh vậy, có thể nói khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nớc và
ngân hàng nớc ngoài trong điều kiện nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế và tr-
ớc mắt là việc thực hiện Hiệp định thơng mại Việt-Mỹ (7/2000), gia nhập
WTO là hết sức khó khăn. Theo Hiệp định thơng mại Việt-Mỹ, Chính phủ
Việt Nam đã đồng ý một nguyên tắc chung và những cam kết cụ thể - một lộ
1(11)
Tạp chí Ngân hàng số tháng 8/2001
25

×