Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Ước lượng hệ số rủi ro β của danh mục đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.75 KB, 54 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán chứng khoán
trung và dài hạn. Trong đó các chứng khoán được chào bán lần đầu trên thị
trường chứng khoán sơ cấp và được giao dịch qua lại giữa các nhà đầu tư trên
thị trường thứ cấp. Thị trường chứng khoán với vai trò là kênh dẫn vốn của nền
kinh tế, tạo tính thanh khoản cho các tài sản, tập trung và phân phối lại nguồn
vốn, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Xu thế
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới cùng với thị trường chứng khoán
của các nước phát triển càng khẳng định lại vai trò của nó và sự phát triển của
thị trường chứng khoán là tất yếu.
Thị trường chứng khoán ngày càng thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà
đầu tư, sự đầu tư này tuy là rất hấp dẫn song cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Do
vậy, việc tìm hiểu, phân tích nhằm giảm thiểu rủi ro đầu tư là rất cần thiết. Trên
thế giới đặc biệt là ở các thị trường tài chính hiệu quả có những vấn đề mà các
nhà đầu tư tìm hiểu rất kĩ trước khi tham gia đầu tư. Người ta thường đặt câu hỏi
“ một cổ phiếu có rủi ro không?” hay “hệ số beta của cổ phiếu là bao nhiêu?”.
Rất nhiều người đều biết rằng beta là một thước đo khả năng biến động của một
cổ phiếu ( hay một danh mục) trong mối quan hệ với phần còn lại của thị trường.
Tuy nhiên, làm thế nào để lượng hoá rủi ro, tại sao lại dùng beta để đo lường rủi
ro, ý nghĩa của hệ số beta như thế nào và các ứng dụng của nó trên thị trường
chứng khoán thì chưa thật nhiều người biết đến.
Từ lí do đó em xin lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Ước lượng hệ số rủi ro β
của danh mục đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam” để qua đó đóng
góp một phần nhỏ làm rõ thêm về vấn đề này.
Trong chuyên đề sẽ không tránh khỏi những thiếu sót do thời gian tìm hiểu
về đề tài có hạn nên em rất mong được sự giúp đỡ chỉ bảo của các thầy cô và các
bạn.
1
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
II. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM


CHƯƠNG II: HỆ SỐ BETA CỦA DANH MỤC ĐẦU TƯ
VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH
I. HỆ SỐ BETA CỦA DANH MỤC ĐẦU TƯ
II. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH HỆ SỐ BÊTA CỦA DANH MỤC
CHƯƠNG III: ÁP DỤNG TÍNH TOÁN HỆ SỐ BÊTA CHO MỘT DANH
MỤC CỔ PHIẾU TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I. LỰA CHỌN DANH MỤC THÔNG QUA MỘT SỐ CHỈ TIÊU TÀI
CHÍNH
II. XÁC ĐỊNH HỆ SỐ BÊTA CỦA DANH MỤC
III. ĐỀ XUẤT VIỆC SỬ DỤNG HỆ SỐ BÊTA CỦA DANH MỤC
II.
2
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm và bản chất thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của
nền kinh tế hiện đại. Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, thị
trường chứng khoán được hiểu một cách chung nhất, là nơi diễn ra các giao dịch
mua bán, trao đổi các chứng khoán – các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các
chủ thể tham gia thị trường. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo các
quy tắc ấn định trước.
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường
sơ cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao
dịch chứng khoán (Stock Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung
(Over the Counter Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường
kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở
hữu chứng khoán, và như vậy, thực chất đấy chính là quá trình vận động của tư
bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán không giống với các thị trường hàng hoá thông
thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc

biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử
dụng. Như vậy, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối
quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá trị của chứng khoán chứa
đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng
khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Với những đặc điểm đó, thị trường chứng khoán đã trở thành một kênh
huy động vốn quan trọng và hiệu quả, một thực thể không thể thiếu được đối với
nền kinh tế hiện đại.
3
2. Chức năng của thị trường chứng khoán
2.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền
nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp
phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ và
chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích
sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã
hội.
2.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư
lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị
trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư
có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của
mình.
2.3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các
chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ
muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng
khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của
vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán hoạt động càng năng động và có hiệu quả
thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.

2.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh
một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động
của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi
trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp
dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
4
2.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh
tế vĩ mô
Các chỉ báo của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh
tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu
tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ
cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, thị trường chứng khoán
được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp
Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng
khoán, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù
đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử
dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm
định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
3. Các chủ thể trên thị trường chứng khoán
3.1. Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường
chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán- hàng hoá của
thị trường chứng khoán:
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu
chính phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành và các công cụ tài chính như các
trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng ... phục vụ cho hoạt động của họ.
3.2. Nhà đầu tư

Nhà đầu tư là người kinh doanh chứng khoán thông qua các công ty môi
giới chứng khoán mua bán chứng khoán. Nhà đầu tư có thể chia thành 2 loại:
nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia
mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích kiếm lời.
- Các nhà đầu tư có tổ chức hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường
xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp
chính là các công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu lương và các quỹ
5
bảo hiểm xã hội khác. Điểm nổi bật của các tổ chức này là nó có thể đa dạng hoá
danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có
kinh nghiệm.
Các nhà đầu tư tham gia với mục đích lớn nhất là kiếm lời nhưng hiếm khi
thấy các nhà đầu tư tập trung toàn bộ của cải vào một loại chứng khoán. Thay vì
làm như vậy họ thường đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau. Lý do là
tất cả các nhà đầu tư đều thích đạt được lợi nhuận cao từ đầu tư chứng khoán
nhưng hầu hết không thích các rủi ro lớn thường đi kèm với chứng khoán có lợi
nhuận kỳ vọng cao. Hay nói cách khác: Hầu hết các nhà đầu tư đều e ngại rủi ro.
Ta có thể phân chia thành 3 dạng nhà đầu tư. Nhà đầu tư e ngại rủi ro là nhà
đầu tư mà cùng một mức lợi nhuận kỳ vọng họ sẽ chọn danh mục có mức độ rủi
ro nhỏ hơn. Nhà đầu tư thờ ơ với rủi ro là không quan tâm đến rủi ro. Nhà đầu tư
thích rủi ro là nhà đầu tư thích chọn một danh mục có rủi ro cao hơn để kì vọng
vào tỉ suất lợi nhuận lớn hơn có thể đạt được.
Đứng trên quan điểm là người phân tích và tư vấn chứng khoán, việc xác
định thái độ đối với rủi ro của nhà đầu tư là rất quan trọng, từ đó để xây dựng và
tư vấn cho nhà đầu tư chọn lựa một danh mục tốt nhất. Mặt khác, môi trường
kinh tế là bất định, luôn có sự biến động về giá trị của các tài sản trên thị trường,
do vậy các nhà đầu tư luôn phải điều chỉnh danh mục đầu tư của mình, không
những giảm thiểu rủi ro cho mình mà còn có thể tận dụng được các cơ hội xuất
hiện trên thị trường.

3.3. Các tổ chức tài chính trung gian
Tổ chức tài chính trung gian là cầu nối giữa người mua và bán chứng
khoán. Các tổ chức tài chính trung gian hoạt động trên thị trường chứng khoán
bao gồm:
- Tổ chức bảo lãnh phát hành: Có chức năng thay mặt cho các tổ chức
phát hành chào bán chứng khoán ra công chúng. Các tổ chức bảo lãnh phát hành
thường là các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư.
6
- Tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán: Thực hiện vai trò làm trung
gian giữa người mua và người bán chứng khoán để hưởng phí môi giới hay tư
vấn cho khách hàng về đầu tư chứng khoán hoặc kinh doanh chứng khoán cho
bản thân công ty, tư vấn tài chính, định giá tài sản, lập hồ sơ đăng kỳ chào bán
hoặc đăng ký niêm yết trên SGDCK... Các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng
khoán là công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ...
- Tổ chức định mức tín nhiệm: Thực hiện việc đánh giá và xếp hạng tín
nhiệm của một tổ chức phát hành chứng khoán về khả năng thanh toán nợ vay
hoặc là đánh giá mức độ rủi ro gắn liền với các loại đầu tư khác nhau.
3.4. Sở Giao dịch chứng khoán, thị trường phi tập trung (OTC) và Trung tâm
lưu ký
Sở giao dịch chứng khoán và thị trường phi tập trung là những tổ chức cung
cấp phương tiện, hệ thống máy tính, địa điểm cho các hoạt động giao dịch mua
bán chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán là thị trường giao dịch tập trung, là
nơi cung cấp, duy trì và bảo đảm việc giao dịch chứng khoán niêm yết theo
nguyên tắc trung gian, đấu giá và công khai. Thị trường phi tập trung (OTC) là
loại thị trường không có địa điểm giao dịch tập trung như SGDCK, các giao dịch
được tiến hành thông qua hệ thống giao dịch của các công ty chứng khoán, điện
thoại, internet...
Trung tâm lưu ký chứng khoán có chức năng tổ chức, quản lý và giám sát
hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, cung cấp dịch vụ
hỗ trợ việc giao dịch mua, bán chứng khoán.

3.5. Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán
Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán có chức năng xây dựng kế hoạch
và chính sách phát triển thị trường chứng khoán, quản lý và giám sát hoạt động
của thị trường, hoạt động của các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường bảo đảm
cho hoạt động của thị trường hoạt động an toàn, công bằng và công khai; cấp,
gia hạn, đình chỉ, thu hồi các loại giấy phép liên quan đến hoạt động về chứng
khoán và thị trường chứng khoán; thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm trong
lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
7
Hầu hết các nước thành lập cơ quan quản lý thị trường có tên gọi chung là
Ủy ban Chứng khoán, cơ quan này có thể là một cơ quan độc lập trực thuộc
Chính phủ, Quốc hội hay trực thuộc một Bộ hoặc là một cơ quan quản lý đa
ngành. Ở Việt Nam cơ quan quản lý thị trường là Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước, trực thuộc Bộ tài chính, chịu tránh nhiệm quản lý, giám sát đối với toàn bộ
hoạt động thị trường chứng khoán.
4. Hàng hoá trên thị trường chứng khoán
Chứng khoán là hàng hoá của thị trường chứng khoán. Theo Markowitz: tài
sản tài chính là các chứng từ thể hiện quyền của người sở hữu các tài sản đó đối
với các nguồn thu nhập tương lai của chủ thể phát sinh. Như vậy chứng khoán
được coi là một tài sản tài chính.
Trong quá trình phát triển của thị trường, hàng hoá ngày càng đa dạng,
phong phú, và người ta chia chứng khoán thành 4 loại chính: cổ phiếu, trái
phiếu, các công cụ chuyển đổi và các công cụ phái sinh.
Cổ phiếu là một chứng khoán vốn xác nhận các quyền sở hữu và lợi ích
hợp pháp của một cổ đông đối với một công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ tài
chính có thời hạn thanh toán vô hạn. Có thể chia thành các loại cổ phiếu sau:
- Cổ phiếu thường: Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường có quyền tham gia
kiểm soát, theo dõi, quản lý công việc của công ty thông qua cơ chế đại diện và
biểu quyết.
- Cổ phiếu ưu đãi: Cổ đông nắm giữ không được tham gia vào bán bầu

cử, ứng cử vào ban kiểm soát công ty, cổ đông thường nhận mức cổ tức cố định,
được hưởng những ưu đãi về tài chính, có quyền nhận lãi trước cổ phiếu thường,
được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty trong trường hợp công ty
thanh lý hoặc giải thể.
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành
(người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một
khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải
hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
8
Có nhiều cách phân loại trái phiếu: theo lãi suất thì có trái phiếu discount
bonds, trái phiếu coupon bonds; theo tổ chức phát hành có trái phiếu công ty,
trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình.
Chứng khoán chuyển đổi là loại chứng khoán tùy theo những điều kiện cụ
thể mà cho phép người nắm giữ nó đổi lấy một chứng khoán khác. Thông
thường là cổ phiếu ưu đãi được chuyển thành cổ phiếu thường và trái phiếu
được chuyển thành cổ phiếu thường.
Các nhà đầu tư có kinh nghiệm có thể sử dụng những chứng khoán chuyển
đổi để làm rào chắn rủi ro trước những dao động của giá thị trường
Chứng khoán phái sinh là một loại chứng khoán được phát hành trên cơ
sở các loại chứng khoán đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm mục đích giảm
thiểu rủi ro, bảo toàn nguồn vốn đầu tư và thu lợi nhuận. Có 4 loại chứng khoán
phái sinh cơ bản là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn và hợp
đồng hoán đổi.
II. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1. Lịch sử hình thành
Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là mục tiêu được Đảng và
chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu của thập kỉ 90 (thế kỉ 20)
nhằm xác lập một kênh huy động vốn cho việc đầu tư phát triển kinh tế.
Vào những năm 1995-1996, sau gần một thập niên đổi mới, kinh tế Việt
Nam có những bước chuyển biến rõ rệt. Tuy nhiên, mô hình doanh nghiệp nhà

nước bộc lộ nhiều bất cập, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ cần
phải sắp xếp đổi mới. Ỏ thời điểm này còn nhiều quan điểm không đồng ý tư
nhân hóa và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước- thành phần chủ đạo trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhưng trước yêu cầu đổi mới do phát triển kinh tế, chiến lược công nghiệp
hóa, chủ trương cổ phần hóa đã được đưa ra với văn bản pháp quy đầu tiên là
nghị định 28/CP ngày 7/5/96 của chính phủ về chuyển đổi một số doanh nghiệp
nhà nước thành công ty cổ phần. Sau hơn 2 năm thực hiện chỉ có hơn 10 doanh
nghiệp được cổ phần. Để thúc đầy quá trình này, ngày 29/6/98 chính phủ ban
9
hành nghị định 44/1998/NĐ-CP thay thế NĐ 28/CP với mục tiêu từ 5-10 năm cổ
phần hóa phần lớn các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong những ngành
nghề không phải ngành kinh tế trọng điểm. Cùng chung với nỗ lực này, ý tưởng
hình thành thị trường chứng khoán để tạo ra môi trường thuận lợi giúp cho quá
trình cổ phần hóa nhanh hơn.
Mặt khác, giai đoạn này nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế xã hội ở Việt
Nam rất lớn. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế là 7-7.5% hằng năm. Cùng thời điểm
này, hệ thống ngân hàng vừa trải qua cú sốc năm 1989 và bắt đầu chuyển sang
kinh tế thị trường nên chưa phát huy được vai trò. Tín dụng cung cho nền kinh
tế chỉ chiếm trên 10%. Trước yêu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển cần
phát triển một kênh huy động vốn mới cho nền kinh tế.
Và thị trường chứng khoán ra đời giải quyết được hai yêu cầu trên: Vừa thúc
đẩy cổ phần hóa, vừa tạo một kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế.
Trước yêu cầu đó, ngày 28/11/96 chính phủ ban hành nghị định 75/CP về
thành lập UBCK. Ngày 4/7/1998 chính phủ ban hành nghị định 48/1998/NĐ-CP
về chứng khoán và thị trường chứng khoán...Và ngày 20/07/2000 trung tâm giao
dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động đánh dấu sự phát
triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam.
2. Thị trường chứng khoán Việt Nam
Sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam có thể

được đánh dấu bằng 2 mốc quan trọng: Đó là sự ra đời của Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ngày 28/7/2000; và Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán Hà Nội ngày 8/3/2005. Tuy mới hình thành và đi vào hoạt động
trong một thời gian ngắn nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những
bước phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn và
luôn chuyển vốn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày 20/07/2000, TTGDCK Tp.HCM đã chính thức khai trương đi vào vận
hành, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 với 02 loại cổ
phiếu niêm yết.
Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
10
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh được thành
lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày11/07/1998 của Thủ tướng
Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên
ngày 28/7/2000 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng trong đời sống kinh tế- xã
hội của đất nước.
Qua 7 năm với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với TTCK thế
giới, Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM đã chính thức được Chính phủ
ký Quyết định số:599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 chuyển đổi thành Sở giao dịch
Chứng khoán Tp.HCM. Ngày 08/08/2007, SGDCK TP.HCM đã chính thức
được khai trương. Cho đến nay, SGDCK TP.HCM đã đạt những thành quả rất
đáng khích lệ. Tính đến ngày 31/12/2007, toàn thị trường đã có 507 loại chứng
khoán được niêm yết, trong đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365
ngàn tỷ đồng, đặc biệt có 6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia
niêm yết; 03 chứng chỉ quỹ đầu tư với khối lượng 171,4 triệu đơn vị và 366 trái
phiếu các loại.
Dự kiến thời gian tới, số lượng cổ phiếu niêm yết tại SGDCK TP.HCM sẽ
tăng lên rất nhiều do Chính phủ đã có chủ trương đưa cổ phiếu của một số tổng
công ty lớn, các ngân hàng thương mại quốc doanh cổ phần hoá vào niêm yết
trên thị trường Trước sự tăng trưởng của TTCK, số lượng công ty chứng khoán

thành viên của SGDCK TP.HCM cũng không ngừng tăng về số lượng, quy mô
và chất lượng dịch vụ. Tính đến hết ngày 31/12/2007, toàn thị trường đã có 62
công ty chứng khoán đăng ký làm thành viên của Sở với tổng số vốn đăng ký là
9.960 tỷ đồng. Các thành viên hầu hết được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh
với các nghiệp vụ gồm: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư.
Sự gia tăng nhanh chóng lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường đã thu hút
được thêm nhiều nhà đầu tư, trong cũng như ngoài nước, cá nhân cũng như có tổ
chức. Đến cuối năm 2006, số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các công ty
chứng khoán thành viên lên tới trên 106 ngàn tài khoản, thì cho đến hết năm
2007 số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các CTCK đã lên tới gần 298
ngàn tài khoản trong đó có trên 7 ngàn tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài. Đối
11
với hoạt động giao dịch, SGDCK TP.HCM đã thực hiện giao dịch khớp lệnh
liên tục từ ngày 30/07/2007 và từng bước triển khai giao dịch nhập lệnh từ xa để
đáp ứng với tình hình thị trường đang phát triển. Tính đến ngày 31/12/2007,
SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 1699 phiên giao dịch với khối lượng
khoảng 4.225 triệu chứng khoán và gía trị khoảng 384.452 tỷ đồng. Riêng trong
năm 2007, khối lượng giao dịch đạt khoảng gần 2.390 triệu chứng khoán với
tổng giá trị giao dịch là 245.651 tỷ đồng.
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
Tháng 6/2004, Bộ tài chính ra Thông báo số 136/TB/BTC nêu kết luận
của Lãnh đạo Bộ về mô hình tổ chức và xây dựng thị trường giao dịch chứng
khoán Việt Nam. Trong đó, định hướng xây dựng Trung tâm GDCK Hà Nội
thành một thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) đơn giản, gọn nhẹ. Ngày
8/3/2005 TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh dấu một
bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chức năng của trung tâm là :
- Tổ chức đấu giá cổ phần cho các doanh nghiệp.
- Tổ chức đấu thầu trái phiếu.
- Tổ chức giao dịch theo cơ chế đăng kí giao dịch.

Hiện nay trên sàn Hà Nội đang áp dụng phương thức giao dịch sau :
- Giao dịch báo giá trung tâm.
- Giao dịch thỏa thuận: là phương thức giao dịch trong đó các thành viên tự
thỏa thuận với nhau về các điều kiện giao dịch. Việc giao dịch cổ phiếu, chứng
chỉ quỹ đầu tư với khối lượng lớn, trái phiếu được thực hiện theo phương pháp
thỏa thuận.
3. Quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán
Ủy ban Chứng khoán nhà nước có các chức năng và thẩm quyền xây dựng
kế hoạch và chính sách phát triển thị trường chứng khoán; tổ chức, quản lý và
giám sát trực tiếp hoạt động của thị trường chứng khoán có tổ chức; quản lý,
giám sát các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và thị
12
trường chứng khoán; cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi các loại giấy phép, giấy
chứng nhận liên quan đến các hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng
khoán; giám sát việc tuân thủ các điều kiện, quy định đối với các tổ chức, cá
nhân được cấp phép; chấp nhận các tổ chức kiểm toán độc lập thực hiện kiểm
toán trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán; thực hiện thanh
tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán.
Hầu hết các nước trên thế giới có thị trường chứng khoán đã thành lập cơ
quan quản lý thị trường với tên gọi phổ biến là Ủy ban chứng khoán, có tính độc
lập tương đối cao, ít nhất là trong hoạt động quản lý và giám sát thị trường
chứng khoán. Cơ quan quản lý thị trường ở các nước có thể là một cơ quan độc
lập trực thuộc chính phủ, quốc hội hoặc trực thuộc một bộ hoặc là một cơ quan
quản lý đa năng: ở Mĩ là Ủy ban Giao dịch và Chứng khoán, ở Nhật cơ quan
dịch vụ tài chính, Ở Trung Quốc là Ủy ban Giám quản chứng khoán...Về chức
năng và thẩm quyền, cơ quan quản lý thị trường ở một số nước có thể không có
chức năng hoạch định chính sách nhưng tất cả đều có chức năng cơ bản là quản
lý, giám sát hoạt động của thị trường, thanh tra kiểm tra và xử lý vi phạm về
chứng khoán và thị trường chứng khoán. Về mô hình tổ chức quản lý thị trường
chứng khoán, tất cả các nước đều tổ chức dưới dạng hội đồng (không phải cơ

quan hành chính): tham gia hội đồng là các thành viên đại diện cho bộ, ngành
tổng hợp; bên dưới là các cơ quan quản lý hàng ngày. Theo kinh nghiệm quốc
tế, hầu hết các cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán đều có tính
độc lập tương đối cao, có thẩm quyền quản lý được quy định trong luật. Ở Việt
Nam Bộ tài chính là cơ quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực của Chính phủ,
có chức năng, quyền hạn rất rộng liên quan đến lĩnh vực kinh tế, tài chính.
Nhưng với tính đặc thù của lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán,
Bộ tài chính cần có một cơ quan chuyên trách trực tiếp thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán – là Ủy ban chứng
khoán nhà nước. Dù Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là một cơ quan trực thuộc
bộ tài chính như hiện nay nhưng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban có
tính độc lập tương đối, khác với các quan khác trong Bộ - điều này thể hiện tính
13
đặc thù của quản lý lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán và cũng
phù hợp với các kiến nghị có tính chất nguyên tắc của IOSCO (Tổ chức quốc tế
các Ủy ban chứng khoán), chẳng hạn như: trách nhiệm của cơ quan quản lý cần
được quy định rõ ràng và khách quan, cơ quan quản lý cần được được độc lập
trong hoạt động và chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các chức năng và thẩm
quyền của mình, cần có đủ thẩm quyền, nguồn lực phù hợp và khả năng thực
hiện chức năng và quyền lực của mình, cơ quan quản lý cần có thẩm quyền đầy
đủ trong việc thi hành giám sát, kiểm tra, thanh tra và trong hoạt động cưỡng chế
thực thi.
Thanh tra Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong chức năng, thẩm quyền của
mình có thể xử phạt hành chính các vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thị
trường chứng khoán tùy theo tính chất, mức độ vi phạm. Các vi phạm này nếu
cấu thành tội phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp
luật.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy để duy trì một thị trường phát triển lành
mạnh, ổn định, hiệu quả, bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư, các nước trên thế
giới trong quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán đều rất chú

trọng đến công tác giám sát, thanh tra xử lý vi phạm thị trường chứng khoán.
Các cơ quan quản lý thường được giao thẩm quyền khá lớn trong việc cưỡng
chế thực thi, thanh tra các hành vi trái pháp luật, được tiếp cận các hồ sơ, tài
liệu, yêu cầu các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường thuộc đối tượng thanh tra
phải cung cấp đầy đủ sổ sách, báo cáo, tài liệu, được xử phạt tiền và ở một số
nước (Thái Lan, Đài Loan) trong luật chứng khoán có quy định các tổ chức, cá
nhân vi phạm ngoài việc bị phạt tiền ra còn có thể bị phạt tù hoặc cả hai hình
thức trên. Nói chung ở một số nước có thị trường phát triển, các biện phát thanh
tra xử lý vi phạm, cưỡng chế thực thi luôn được thực hiện chặt chẽ nhằm ngăn
chặn các hành vi giao dịch không công bằng, tăng cường hiệu quả của công việc
quản lý nhà nước đối với thị trường, giúp thị trường phát triển ổn định và hiệu
quả.
14
15
CHƯƠNG II: HỆ SỐ BETA CỦA DANH MỤC ĐẦU TƯ
VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH
I. HỆ SỐ BETA CỦA DANH MỤC ĐẦU TƯ
Khi nhà đầu tư thiết lập một danh mục đa dạng hoá đầu tư, rủi ro phi hệ
thống là loại đầu tư không được thị trường trả giá. Nói cách khác, thị trường chỉ
chấp nhận mang lại thu nhập cao hơn cho tài sản có mức rủi ro thị trường lớn
hơn chứ không phải mức tổng rủi ro lớn hơn. Do đó, vấn đề đặt ra là để xác định
mức thu nhập mong đợi của đầu tư vào một tài sản người ta cần phải đo lường “
mức rủi ro thị trường” của tài sản đó ( mức mà thị trường trả giá cho nó). Hệ số
bêta là hệ số đo lường mức rủi ro thị trường này của từng tài sản cũng như của
từng danh mục.
Các chuyên gia tài chính cho rằng các tài sản khác nhau mang theo mình
những rủi ro không đa dạng hoá được khác nhau phụ thuộc vào sự biến động của
chúng so với sự biến động của toàn thể thị trường. Hệ số bêta là hệ số đo lường
sự biến động trong lợi suất của lợi suất toàn thể thị trường trong từng thời kỳ.
Theo định nghĩa trong từ điển tài chính Collins thì : hệ số bêta là một đại

lượng đo lường sự phản ứng của lợi suất kỳ vọng của một chứng khoán tài chính
riêng biệt, có liên quan tới những biến động trong lợi suất kỳ vọng trung bình
của các chứng khoán còn lại trong thị trường. Hệ số bêta được coi như một
thước đo rủi ro thị trường của một cổ phiếu. Hệ số bêta liên kết lợi suất của cổ
phiếu với lợi suất của cổ phiếu với lợi suất trung bình của thị trường. Rủi ro thị
trường bình quân của tất cả các cổ phiếu trên thị trường bằng 1, đó là, việc tăng
10% trong lợi nhuận thị trường được phản ánh như 10% tăng thêm trong lợi
nhuận một chứng khoán A. Nếu lợi suất của một chứng khoán B, là 20%, nhưng
chỉ có 10% tăng thêm trong lợi suất thị trường, thì chứng khoán này có β =2 chỉ
ra một rủi ro lớn hơn của thị trường. Nếu một chứng khoán C có β =0.5, điều đó
nói lên chứng khoán này ít rủi ro hơn thị trường chung”.
16
Hệ số beta cũng được xem như là một yếu tố “ đòn bẩy” đối với lợi nhuận
của tài sản tài chính. Khi phần bù rủi ro thị trường (R
m
-R
f
) thay đổi 1% thì lợi
nhuận kỳ vọng của tài sản tài chính thay đổi β %.
Trên thị trường đầu tư, hệ số bêta được tính toán và sử dụng rất rộng rãi
trong việc tạo ra các quyết định đầu tư và đánh giá hoạt động của các nhà quản
lý đầu tư, trong phân tích cũng như hoạch định chiến lược đầu tư.
Do hệ số bêta là hệ số đo lường mức độ rủi ro, khi xác định được hệ số đo
lường mức độ rủi ro, khi xác định được hệ số bêta của công ty mình, các nhà
quản lý đồng thời ước lượng được rủi ro mà công ty mình đang gánh chịu, trên
cơ sở đó họ có thể đưa ra những đối sách hợp lý trong chiến lược phát triển của
công ty.
Trên một thị trường tài chính chuyên nghiệp, nơi mà việc đầu tư vào các
tài sản tài chính được thực hiện theo các danh mục và được quản lý bởi các nhà
quản lý đầu tư, hệ số bêta sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để các nhà

quản lý lựa chọn tài sản vào danh mục của mình. Hơn thế dựa vào thước đo này
các nhà quản lý sẽ cho người đầu tư của mình biết mức rủi ro thị trường (rủi ro
hệ thống) mà họ gánh chịu theo mục tiêu họ đặt ra. Với hệ số bêta, thước đo về
mức độ thành công trong hoạt động đầu tưu và quản lý được đo lường và thể
hiện rõ ràng hơn.
Như vậy, chúng ta có thể thấy hệ số bêta có vai trò rất quan trọng trong
việc đánh giá cổ phiếu, tài sản tài chính của các công ty trên thị trường cũng như
trong các hoạt động đầu tư. Một thị trường phát triển cần phải có những danh
mục công bố bêta của các tài sản trên thị trường.
Có rất nhiều phưong pháp để ước lượng hệ số rủi ro bêta cho các cổ phiếu
trên thị trường chứng khoán. Việc sử dụng phương pháp nào tuỳ thuộc vào sự
phù hợp của phương pháp đó với thị trường đang xét, tuỳ thuộc vào ý muốn chủ
quan của người đánh giá, cũng như phụ thuộc vào hiệu quả mà phương pháp đó
mang lại. Các phương pháp thường được sử dụng là:
+ Ước lượng bêta thông qua các phương pháp đơn giản bằng đồ thị.
17
+ Ước lượng bêta bằng mô hình chỉ số đơn.
+ Ước lượng bêta bằng mô hình CAPM dựa trên số liệu lịch sử
Trong đó ước lượng beta qua mô hình CAPM là phương pháp được sử dụng phổ
biến nhất.
1. Khái niệm về hệ số beta trong mô hình CAPM
- Hệ số beta của một chứng khoán theo mô hình CAPM :
E(r
i
) = r
f
+
[ ]
fm
rrE


)(
*
i
β
(13)
Trong đó:
E(r
i
) : Là lợi suất kỳ vọng của cổ phiếu i.
R
f
: Là lợi suất phi rủi ro trên thị trường.
E(r
m
): Là lợi suất kỳ vọng của thị trường.

i
β
: Là thước đo về mức độ rủi ro của tài sản.
i
β
=
2
),(
m
mi
rrCov
σ
Hệ số bêta của một chứng khoán xác định theo mô hình CAPM là thước đo rủi

ro của chứng khoán, nó xác định số phần trăm thay đổi lợi suất kì vọng của một
chứng khoán khi có 1 % thay đổi trong lợi suất của danh mục thị trường. Hay
nói cách khác nó là thước đo mức độ biến động của lợi suất chứng khoán so với
danh mục thị trường.
- Danh mục đầu tư là việc một nhà đầu tư thực hiện đầu tư bằng cách lựa
chọn các vị thế của các tài sản và tập hợp chúng gọi là danh mục đầu tư.
- Hệ số bêta của một danh mục đầu tư : Là thước đo mức độ biến động của
một danh mục đầu tư so với danh mục thị trường. Nó được xác đinh dựa trên tỉ
trọng của các tài sản trong danh mục cùng với các hệ số bêta tương ứng. Hệ số
bêta của danh mục được xác định như sau :

i
n
i
iP
ωββ

=
=
1
*
Trong đó : - β
P
là hệ số beta của danh mục
- β
i
là hệ số beta của một chứng khoán
18
- ω
i

là tỉ trọng của chứng khoán i trong danh mục
2. Danh mục đầu tư và sự phòng hộ rủi ro cua danh mục đầu tư
2.1. Lý thuyết danh mục đầu tư
2.1.1. Khái niệm về danh mục đầu tư
Danh mục đầu tư là một nhóm các tài sản như cổ phiếu, trái phiếu, hoặc
một số tài sản khác như bất động sản, quyền chọn,.. do một nhà đầu tư hoặc một
tổ chức nắm giữ. Trên thị trường chứng khoán thì danh mục đầu tư ở đây nghĩa
là việc nắm giữ các tài sản là các chứng khoán.
Hay có thể nói danh mục đầu tư là việc một nhà đầu tư thực hiện việc đầu
tư bằng cách chọn lựa vị thế đối với các tài sản, và tập hợp các vị thế này gọi là
một danh mục đầu tư.
Có nhiều cách để thể hiện một danh mục đầu tư nhưng cách thuận lợi nhất
là thể hiện dưới dạng tỉ trọng các tài sản đầu tư trong danh mục. Ví dụ có danh
mục P:
1 2 N
(w , w ,..., w )
với
n
i
1
w 1
i
=
=

,
i
w
là tỉ trọng của tài sản thứ i.
Phân tích và quản lý danh mục đầu tư là dựa vào thái độ đối với rủi ro

của nhà đầu tư, phân tích biến động chứng khoán từ đó điều chỉnh vị thế các tài
sản trong danh mục. Hai yếu tố quan trọng phải xem xét đó là lợi suất, và độ rủi
ro của danh mục mà nhà đầu tư chấp nhận. Bởi vì có thể với cùng một tài sản
nhưng thái độ với tài sản đó của nhà đầu tư không giống nhau, hay cùng với một
danh mục nhưng thái độ với rủi ro của từng nhà đầu tư là khác nhau.
Quản lý danh mục đầu tư là việc công ty quản lý quỹ thực hiện quản lý theo
sự ủy thác của từng nhà đầu tư trên cơ sở hợp đồng thông qua việc mua bán,
nắm giữ các chứng khoán, tài sản. Công ty quản lý quỹ phải lưu giữ số tiền ủy
thác của nhà đầu tư trong tài khoản tại ngân hàng do hai bên thỏa thuận, bảo
quản chứng khoán, tài sản thuộc sở hữu của khách hàng tại một thành viên lưu
ký được cấp phép; được hưởng phí quản lý danh mục đầu tư, các khoản thưởng
nếu có theo thỏa thuận.
Vấn đề danh mục đầu tư không chỉ đơn giản là sự kết hợp của những chứng
khoán riêng lẻ mà còn cả những đặc trưng rủi ro và tỷ suất sinh lợi mong muốn
19
của danh mục. Điều đó chỉ ra rằng, chúng ta phải xem xét mối quan hệ giữa
những phương thức đầu tư để thiết lập được một danh mục tối ưu đáp ứng được
những yêu cầu đề ra. Điều đó được giải thích trong lý thuyết đa dạng hóa danh
mục đầu tư.
Nhà đầu tư mong muốn tối đa hóa tỷ suất lợi tức từ việc đầu tư với một
mức rủi ro cho phép. Các tài sản trong danh mục tác động qua lại lẫn nhau và
việc mục danh mục tốt không chỉ đơn giản là một danh mục gồm toàn các tài
sản tốt.
Bên cạnh đó, việc thành lập một danh mục tối ưu, chúng ta còn phải quan
tâm đến thái độ đối với rủi ro của từng nhà đầu tư. Từ đó xác định được mức rủi
ro mà nhà đầu tư có thể chấp nhận.
Như vậy việc phân tích và quản lý danh mục là việc thiết lập mối quan hệ
giữa rủi ro mà mỗi nhà đầu tư có thể chấp nhận và lợi suất kỳ vọng thu được của
danh mục.
2.1.2. Lý thuyết về thị trường hiệu quả

Nội dung chính của lý thuyết cho rằng thị trường hiệu quả là thị trường
trong đó giá cả của chứng khoán đã phản ánh đầy đủ, tức thời tất cả các thông
tin hiện có trên thị trường. Điều này có nghĩa là giá cả được xác định ở mức
công bằng và phản ánh đầy đủ thông tin hiện có trên thị trường. Giá cả chứng
khoán thay đổi một cách ngẫu nhiên do ảnh hưởng của những thông tin không
thể dự đoán được.
Có 3 hình thái của thị trường có hiệu quả, đó là hình thái yếu, hình thái
trung bình và hình thái mạnh.
• EMH cấp thấp - hình thái yếu của thị trường: Trong hình thái này, giá cả
của chứng khoán đã phản ánh đầy đủ và kịp thời những thông tin trong quá khứ
về giao dịch của thị trường như giá cả giao dịch, khối lượng, động thái,... Khi
hình thái yếu của thị trường tồn tại thì các nhà phân tích kỹ thuật sẽ bị “vô hiệu
hoá”.
20
• EMH cấp trung - hình thái trung bình của thị trường: Trong hình thái này
giá cả của chứng khoán đã phản ánh tất cả các thông tin liên quan đến công ty đã
được công bố công khai bên cạnh các thông tin trong quá khứ. Khi hình thái
trung bình tồn tại thì không có hình thức phân tích nào kể cả phân tích cơ bản và
phân tích kỹ thuật có thể đem lại lợi nhuận siêu ngạch cho nhà đầu tư nếu việc
phân tích chỉ dựa trên các thông tin trên thị trường.
• EMH cấp cao - hình thái mạnh của thị trường: Trong hình thái này giá cả
của chứng khoán phản ánh tất cả những thông tin cần thiết liên quan đến tổ chức
phát hành thậm chí đó là những thông tin nội gián, thông tin mật. Điều này có
nghĩa là thị trường sẽ phản ánh hết sức nhanh trước những thông tin. Và vì vậy,
trong hình thái này không thể thực hiện bất kỳ một hình thức phân tích nào.
2.1.3. Lý thuyết về đa dạng hoá rủi ro
Để đạt được mục tiêu tối đa hoá danh mục, nhà đầu tư phải đánh giá hai
thành phần quan trọng của danh mục đó là rủi ro và tỉ suất lợi nhuận. Tất cả các
quyết định điều chỉnh danh mục đều được cân nhắc dưới góc độ rủi ro và tỉ suất
lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đó. Các nhà đầu tư đều muốn cùng một mức độ

rủi ro của danh mục thì lợi suất kỳ vọng của danh mục là lớn nhất hoặc cùng với
một mức lợi suất nhất định thì mức độ rủi ro là nhỏ nhất. Ta biết mối quan hệ
giữa lợi suất và rủi ro: Rủi ro càng lớn thì lợi suất kỳ vọng càng cao. Do đó tùy
vào mục tiêu đầu tư của từng nhà đầu tư mà chọn cho mình một danh mục
chứng khoán với lợi suất thích hợp.
Trước hết tìm hiểu rủi ro là gì? Rủi ro được xem như là khả năng xuất hiện
những khoản thiệt hại không lường trước. Những chứng khoán nào có khả năng
xuất hiện các khoản lỗ lớn được xem như là có rủi ro lớn hơn những chứng
khoán có khả năng xuất hiện khoản lỗ thấp hơn. Nói cách khác rủi ro thể hiện sự
biến đổi không chắc chắn của các tỷ suất lợi nhuận liên quan đến một chứng
khoán hay một tài sản nào đó. Rủi ro danh mục được thể hiện bằng độ biến động
21
của danh mục đó, thể hiện sự biến động trong tương lai kết quả thu được của
việc đầu tư.
Lợi suất của một tài sản hay của một danh mục thể hiện phần trăm thay đổi
giá trị của tài sản (danh mục) tại thời điểm xem xét với giá trị của tài sản (danh
mục) ban đầu. Lợi suất của tài sản (danh mục) thể hiện đầy đủ các thông tin và
đặc điểm của tài sản (danh mục) và lợi suất của tài sản thì không phụ thuộc vào
quy mô của việc đầu tư.
Một danh mục đầu tư là sự kết hợp các vị thế của các tài sản tài chính với
nhau. Điều đó thể hiện một nguyên tắc trong đầu tư tài chính là “ không bỏ tất cả
trứng vào cùng một giỏ”. Sự đa dạng hoá đầu tư sẽ giảm thiểu rủi ro danh mục
bằng cách kết hợp đầu tư nhiều loại chứng khoán mà các chứng khoán này có
giá hoặc lợi suất biến động không cùng chiều với nhau.
Như vậy rủi ro có thể loại trừ được bằng cách đa dạng hoá danh mục đầu
tư.
2.2. Rủi ro của danh mục đầu tư
- Mỗi tài sản tài chính đều tiềm ẩn hai loại rủi ro: rủi ro hệ thống và rủi ro
phi hệ thống.
- Rủi ro hệ thống là loại rủi ro tác động đến toàn bộ hoặc hầu hết các

tài sản trên thị trường. Vì thế người ta gọi nó là rủi ro thị trường. Một số nguyên
nhân có thể dẫn đến rủi ro hệ thống như là thay đổi trong lãi suất, thay đổi trong
sức mua, thay đổi trong kỳ vọng của nhà đầu tư về triển vọng của nền kinh tế...
- Rủi ro phi hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc
một nhóm nhỏ các tài sản, nghĩa là loại rủi ro này chỉ liên quan đến từng doanh
nghiệp cụ thể. Một số nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro phi hệ thống này như
năng lực và quyết định quản trị, đình công, nguồn cung ứng nguyên vật liệu,
những tác động về cạnh tranh của nước ngoài, mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính
và đòn bẩy kinh doanh...
Tổng rủi ro = Rủi ro hệ thống + Rủi ro phi hệ thống
Tổng rủi ro của danh mục P:
2
2 2 2
*
P M P
PM
ε
β
σ σ σ
= +
22
Trong đó:

2 2 2
1
*
w
N
P i i
i

ε ε
σ σ
=
=

: rủi ro riêng, rủi ro phi hệ thống của danh mục.

2
2
*
M
PM
β
σ
: rủi ro hệ thống hay rủi ro thị trường.
Sự kết hợp giữa những tài sản rủi ro này sẽ tạo nên rủi ro cho danh mục.
Rủi ro phi hệ thống có thể loại trừ được bằng cách đa dạng hoá, còn rủi ro thị
trường thì không thể loại bỏ được. Điều đó thể hiện qua đồ thị sau:

Thực tế chứng minh khi tăng số lượng chứng khoán trong một danh mục thì
rủi ro của danh mục giảm xuống, nhưng việc giảm này chỉ đạt đến một điểm
nhất định chứ không thể giảm mãi được. Như vậy danh mục khi tăng số tài sản
lên thì nó đã giảm thiểu rủi ro phi hệ thống, còn rủi ro hệ thống là rủi ro do thị
trường tác động không thể giảm thiểu được.
2.3. Phòng hộ rủi ro của danh mục đầu tư bằng các công cụ phái sinh
Công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công
cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán
rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận.
2.3.1. Một số kiến thức cơ bản về các công cụ phái sinh
2.3.1.1. Quyền lựa chọn (Option)

- Khái niệm: Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó được
mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng
Rủi ro hệ thống
Rủi ro phi
hệ thống
N
23
nhất định hàng hoá với một mức giá xác định, và trong một thời gian nhất
định.Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ
số trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai.
- Những yếu tố cấu thành một quyền lựa chọn
+ Tên của hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua theo quyền.
+ Loại quyền (chọn mua hay chọn bán).
+ Thời hạn của quyền.
+ Mức giá thực hiện theo quyền.
- Những mức giá liên quan tới một quyền lựa chọn là:
+ Giá thị trường hiện hành của loại hàng hoá cơ sở.
+ Giá hàng hoá cơ sở thực hiện theo quyền.
+ Giá quyền lựa chọn.
Đối với quyền chọn mua, nếu giá thực hiện thấp hơn giá hiện hành của
chứng khoán cơ sở, thì quyền đó được gọi là đang được tiền (in the money), tức
là người có quyền có thể có lợi từ việc thực hiện quyền đó. Nếu giá thực hiện
bằng với giá thị trường, quyền đang ở trạng thái hoà vốn (at the money), và nếu
cao hơn, gọi là đang mất tiền (out of money).
Đối với quyền chọn bán thì ngược lại, người thực hiện quyền sẽ có lợi nếu giá
bán thực hiện quyền cao hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở và sẽ bị mất tiền
nếu giá thực hiện quyền thấp hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở mà họ muốn
cung cấp.
Giá trị mà người nắm giữ quyền lựa chọn sẽ nhận được bằng cách thực hiện
quyền được gọi là giá trị nội tại (intrinsic value). Nếu quyền ở trạng thái bị mất

tiền, giá trị nội tại bằng 0. Giá thị trường của một quyền thường ít nhất là bằng
giá trị nội tại.
Giá bán quyền được gọi là phần phụ trội, chênh lệch giữa giá bán quyền với
giá trị nội tại (trong trường hợp quyền đang được tiền) được gọi là phần phụ trội
giá trị theo thời gian. Nói cách khác, khi đó:
Giá trị theo thời gian của quyền chọn mua = Giá quyền - (giá thị trường - giá
thực hiện).
24
2.3.1.2. Quyền mua trước (right)
Quyền mua trước là một quyền lựa chọn mua có thời hạn rất ngắn, có khi
chỉ vài tuần. Quyền này được phát hành khi các công ty tăng vốn bằng cách phát
hành thêm các cổ phiếu thường. Quyền cho phép một cổ đông mua cổ phiếu mới
phát hành với mức giá đã ấn định trong một khoảng thời gian xác định.
Loại quyền này thường được phát hành theo từng đợt, mỗi cổ phiếu đang
lưu hành được kèm theo một quyền. Số quyền cần để mua một cổ phiếu mới
được quy định tuỳ theo từng đợt phát hành mới.Giá cổ phiếu ghi trên quyền
thường là thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu.
Giá của quyền tính bằng chênh lệch giữa giá thị trường hiện hành của cổ
phần đang lưu hành và giá mua cổ phần mới theo quyền, chia cho số lượng
quyền cần có để mua một cổ phần mới.
Ví dụ: cổ phiếu bán theo quyền (giá thực hiện) là 800.000 đồng/cổ phần, nhưng
có giá thị trường là 1.000.000 đồng, nếu cứ 10 quyền được mua một cổ phần
mới thì giá của quyền được xác định theo công thức:
Vr = P
o
- Pn/r
Trong đó: Vr là giá trị của một quyền, P
o
là giá thị trường của cổ phiếu
đang lưu hành, Pn là giá thực hiện cổ phiếu mới và r là số quyền cần có để mua

một cổ phiếu mới.
Vậy, giá quyền ở đây là Vr = (1.000.000 – 800.000)/10 = 20.000 đồng.
Nếu không muốn thực hiện quyền, cổ đông thường có thể bán quyền trên thị
trường trong thời gian quyền chưa hết hạn. Giá quyền có thể lên xuống trong
khoảng thời gian chào bán, tuỳ thuộc biến động giá thị trường của cổ phiếu.
2.3.1.3. Chứng quyền (warrants)
Chứng quyền là quyền cho phép mua một số cổ phần xác định của một cổ
phiếu, với một giá xác định, trong một thời hạn nhất định. Quyền này được phát
hành khi tiến hành tổ chức lại các công ty, hoặc khi công ty muốn khuyến khích
các nhà đầu tư tiềm năng mua những trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi nhưng có
những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những điều kiện đó, nhà đầu tư có
được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường.
25

×