Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh sở giao dịch 1 ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.39 KB, 67 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
MỤC LỤC
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
BIDV
(NHĐT&PTVN)
Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam
DN Doanh nghiệp
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng Trung Ương
QHKH Quan hệ khách hàng
SGD1 Sở giao dịch 1
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
BẢNG
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kì biến đổi của nền kinh tế, thời kì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển và nâng
cao chất lượng cuộc sống. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương “phát huy nội lực bên
trong, nguồn vốn trong nước đóng vai trị quyết định, nguồn vốn nước ngoài đóng vai
trị quan trọng”. Đồng thời, quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đang diễn ra
hết sức sôi động. Điều đó đồng nghĩa với sự cạnh tranh đã đang và sẽ diễn ra ngày
càng khốc liệt trong toàn bộ nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng.
Chính vì vậy, việc khai thông nguồn vốn đối với hoạt động huy động vốn của các


NHTM nói chung được đặt ra rất bức thiết. Các ngân hàng hiện nay hoạt động đòi hỏi
phải có hiệu quả cao, vấn đề huy động vốn không chỉ được quan tâm “từ đâu?” mà
phải được tính đến “như thế nào?”, “bằng cách gì?” để có hiệu quả cao nhất, đáp ứng
nhu cầu cho vay của ngân hàng nhưng lại đòi hỏi chi phí thấp nhất.
Là một thành viên của hệ thống ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam phải chung sức thực hiện nhiệm vụ chung của toàn ngành, làm thế
nào để huy động được vốn đáp ứng cho sự nghiệp Công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước, phát triển kinh tế là một vấn đề đang được ngân hàng rất quan tâm.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác huy động vốn trong hoạt động của
ngân hàng, với những kiến thức đã học và qua thực tế tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam, em xin mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp tăng cường
huy động vốn tại Chi nhánh Sở giao dịch 1 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam” làm khóa luận tốt nghiệp.
Đề tài được hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết cơ bản về hoạt động huy động
vốn của ngân hàng cùng với việc phân tích thực trạng công tác huy động vốn tại Chi
nhánh Sở giao dịch 1 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong những năm gần
đây. Qua đó nhận thấy được những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân để trên cơ sở
đó em mạnh dạn đề xuất một số giải pháp và đưa ra một số kiến nghị nhằm phát triển
hoạt động huy động vốn tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Ngoài phần mở đầu và kết thúc, khóa luận tốt nghiệp được trình bày theo 3
chương:
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
1
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Sở giao dịch
1 NHĐT&PTVN.
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn tại Sở giao dịch 1
NHĐT&PTVN.

SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
2
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về NHTM
NHTM là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là
huy động vốn và cho vay vốn. NHTM là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, thu hút
vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Hoạt động của NHTM nhằm mục đích
kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là “vốn – tiền”, trả lãi suất huy động thấp hơn lãi
suất cho vay vốn, và phần chênh lêch lãi suất đó chính là lợi nhuận của NHTM. Hoạt
động của NHTM phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại
hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của ngân hàng
Có thể khái lược hoạt động ngân hàng theo ba loại nghiệp vụ chính: nghiệp vụ
huy động vốn, sử dụng vốn và nghiệp vụ trung gian.
Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM được thực hiện qua hoạt động mở tài
khoản để thực hiện thanh toán cho khách hàng, hoặc huy động các loại tiền gửi có kỳ
hạn, không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, dân cư, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đi
vay các tổ chức tín dụng khác, vay NHTW… Đây là nguồn gốc cơ bản để NHTM phát
ra tín dụng vào nền kinh tế, còn phần vốn tự có của NHTM chủ yếu là phục vụ cho
việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm trang thiết bị, máy móc… Như vậy,
NHTM kinh doanh bằng nguồn vốn huy động là chủ yếu tùy theo luật pháp mỗi nước
mà NHTM được huy động một tỷ lệ cao hay thấp.
Như vậy, bằng nghiệp vụ huy động vốn có thể nói NHTM đã nắm trong tay một
bộ phận rất lớn của cải xã hội. Để huy động được số tiền như vậy, các NHTM phải bỏ ra
một khoản chi phí nhất định, đó là tiền lãi phải trả cho người gửi tiền và các chi phí khác.
Khi đã huy động được nguồn vốn trong tay, để có thể tạo ra lợi nhuận, NHTM

phải tiến hành kinh doanh dưới hình thức sử dụng vốn huy động được nhưng chủ yếu
là cấp tín dụng. Các NHTM sử dụng nguồn vốn đó để kinh doanh dưới dạng đầu tư
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
3
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
khác như: kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh chứng khoán, đầu tư vốn trực tiếp vào các
doanh nghiệp dưới dạng vốn góp… Nghiệp vụ sử dụng có hiệu quả, góp phần mở rộng
quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế, thu hút được nhiều khách hàng đến giao
dịch với ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng huy động vốn.
Bên cạnh đó, NHTM cũng có thể tạo ra doanh thu bằng các nghiệp vụ như:
thanh toán, chuyển hộ tiền, tư vấn khách hàng,… và thu phí dịch vụ. Ngày nay, do nhu
cầu phát triển của nền kinh tế, đòi hỏi hoạt động dịch vụ ngân hàng ngày càng phải mở
rộng về số lượng và chất lượng. Các ngân hàng phải đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật
chất, áp dụng các công nghệ tiên tiến vào hoạt động ngân hàng…để đáp ứng nhu cầu
của khách hàng, đồng thời nâng cao lợi nhuận cho mình.
Các hoạt động của ngân hàng có quan hệ tác động tới nhau, vì vậy, ngân hàng
phải thực hiện đồng bộ, thống nhất tất cả các khâu. Có như vậy mới đáp ứng được nhu
cầu phát triển của nền kinh tế và của mỗi ngân hàng.
1.2.Hoạt động huy động vốn của NHTM
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động được,
dựng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.Thực chất, vốn của
ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản
xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng để
thực hiện các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền sử
dụng vốn tiền tệ cho ngân hàng, để ngân hàng phải trả lại cho họ một khoản thu nhập.
Như vậy, ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức
tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt
động kinh tế phát triển. đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại
và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ
các hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM.

1.2.1. Các nguồn vốn của NHTM
Cũng giống như mọi hoạt động kinh tế khác, ngân hàng muốn hoạt động được
trước hết phải có vốn. Nhưng ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh
“tiền tệ”. Do đó, nhu cầu về vốn của NHTM là rất lớn và việc tạo vốn cho ngân hàng
là vấn đề quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
4
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
Vốn kinh doanh của các NHTM là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các tài sản Cú
của ngân hàng. Vốn kinh doanh của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác
nhau là vốn tự có, vốn huy động, vốn vay và các loại vốn khác.
• Vốn tự có
Vốn tự có là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được, thuộc sở hữu của
ngân hàng. Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn của ngân hàng, song lại là
điều kiện pháp lý băt buộc khi thành lập một ngân hàng. Vốn tự có của NHTM bao
gồm vốn điều lệ (vốn đã được cấp, vốn đã góp), các quỹ dự trữ và các tài sản Nợ khác.
• Vốn huy động
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ
chức kinh tế và cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín
dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn kinh doanh.
Vốn tiền gửi
Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào
và ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có lãi
suất thấp hoặc không được trả lãi và bao gồm:
- Tiền gửi thanh toán: là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử
dụng để thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và các khoản chi khác
phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện.
- Tiền gửi không kỳ hạn phi giao dịch: là khoản tiền được ký gửi với mục
đích an toàn tài sản, không mang tính phục vụ thanh toán. Khi cần khách hàng có thể
đến ngân hàng rút ra để chi tiêu.

Ngân hàng chỉ được phép sử dụng tồn khoản khi đã đám bảo khả năng thanh
toán chi trả đối với khoản tiền gửi không kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi có sự thỏa thuận về thời hạn rút tiền. Về
nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã thỏa thuận. Tuy nhiên,
trên thực tế, do quá trình cạnh tranh để thu hút tiền gửi, các ngân hàng thường cho
phép khách hàng được rút tiền ra trước thời hạn nhưng không được hưởng lãi, hoặc chỉ
được hưởng một mức lãi suất thấp hơn. Các ngân hàng luôn đa dạng hóa loại tiền gửi
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
5
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu
cầu mọi khách hàng.
Vốn huy động qua các giấy tờ có giá
Bên cạnh phương thức nhận tiền gửi, các NHTM còn phát hành chứng chỉ tiền
gửi và trái phiếu. Thực chất các nghiệp vụ này là ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng
việc phát hành chứng từ có giá. Trong đó, chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với
mệnh giỏ quy định; trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu nợ trên
được ngân hàng phát hành từng đợt tùy theo mục đích với sự chấp thuận của NHTW.
Trong huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu NHTM
phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động. Nghiệp vụ nà chỉ được tiến
hành khi ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy động tiền gửi không đủ. Vốn
này chỉ được huy động trong thời gian nhất định, khi đã huy động đủ khối lượng vốn
theo dự kiến các ngân hàng sẽ ngừng việc bán kỳ phiếu, trái phiếu.
• Vốn đi vay
Vốn đi vay là quan hệ vay vốn giữa các NHTM và NHTW, hoặc giữa các NHTM
với nhau hay các tổ chức tín dụng khác. Các NHTM sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn
hoạt động của mình khi ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn
hoạt động. Tùy theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay NHTW được chia
thành các loại: vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và vay tái cấp vốn.
Vốn vay ngắn hạn bổ sung là hình thức các NHTM xin vay vốn bổ sung vốn

ngắn hạn của mình. Các ngân hàng chỉ được vay khi còn hạn mức tín dụng và trong
hạn mức tín dụng đã thỏa thuận.
Vốn vay để thanh toán: các NHTM vay NHTW nhằm thực hiện công tác thanh toán
giữa các ngân hàng nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán.
Tái cấp vốn: NHTW cho NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá. Các chứng từ
này phải là các chứng từ có chất lượng, tức phải thỏa mãn những điều kiện hợp pháp,
hợp lệ, đảm bảo an toàn.
• Vốn khác
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một khoản vốn
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
6
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
gọi là vốn trong thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi,
séc định mức và các khoản tiền phong tỏa do ngân hàng chấp nhận hối phiếu thương mại…
Các khoản tiền tạm thời được trích khỏi tài khoản này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng
nên tạm được gọi là tiền nhàn rỗi.
Thông qua nghiệp vụ đại lý, NHTM cũng tu hút được một lượng vốn đáng kể
trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho các tổ chức tín dụng khác,
nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Do việc phát tiền được
thực hiện theo tiến độ công việc, nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời tồn khoản đó
vào kinh doanh.
1.2.2. Các hình thức huy động vốn của NHTM
Hoạt động không thể thiếu của các ngân hàng thương mại là tiến hành huy động
vốn để ngân hàng đi vào hoạt động. Quá trình huy động vốn đó hầu như đều giống
nhau ở các ngân hàng nhưng để các hình thức huy động thì lại rất khác nhau. Các tiêu
chí mà hầu hết các NHTM sử dụng để huy động vốn là :
• Huy động vốn theo thời gian
Hình thức huy động theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì
nó liên quan mật thiết đến tính an toàn và khả năng sinh lợi của nguồn vốn huy động
cũng như thời gian phải hoàn trả khách hàng. Theo thời gian, hình thức huy động được

chia thành:
- Huy động ngắn hạn
Đây là hình thức huy động chủ yếu trong các ngân hàng thương mại thông qua
việc phát hành các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ và các nghiệp vụ nhận
tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi thanh toán Phần lớn số này được dựng để cho vay ngắn
hạn (dưới 1 năm) hoặc được chuyển hoán kỳ hạn để thực hiện cho vay trung hạn. Do
thời gian ngắn nên lãi suất huy động ngắn hạn thường thấp, tuy nhiên tính ổn định lại
kém.
- Huy động vốn trung hạn
Đây là nguồn huy động vốn ngân hàng qua phát hành các công cụ nợ trung hạn
trên thị trường vốn hoặc nhận tiền gửi trung hạn (từ 1 đến 5 năm). Vốn huy động này
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
7
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
ngân hàng có thể sử dụng tương đối dài và thuận tiện. Tuy nhiên lãi suất huy động nguồn
này thường cao hơn nguồn ngắn hạn. Nguồn huy động trung hạn rất quan trọng và cần
thiết để ngân hàng thực hiện các hoạt động đầu tư, thay đổi công nghệ và cho vay trung,
dài hạn với lãi suất cao.
- Huy động dài hạn
Đây là hoạt động huy động vốn dài hạn của ngân hàng trên thị trường vốn, với
nguồn huy động này ngân hàng có thể sử dụng dễ dàng, có tính ổn định cao (từ 5 năm
trở lên). Do vậy lãi suất mà ngân hàng phải trả cũng rất cao.
• Huy động vốn theo đối tượng huy động
- Huy động vốn từ dân cư
Đây là một khu vực huy động đầy tiềm năng cho các ngân hàng. Ngân hàng
huy động từ các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng và sau đó chuyển đến cho những
người cần vốn để mở rộng đầu tư, kinh doanh. Nguồn huy động từ dân cư thường
khá ổn định .
- Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế
Đây là nguồn huy động được đánh giá là rất lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng

nguồn vốn. Để tiết kiệm thời gian và chi phí trong thanh toán, các doanh nghiệp dự lớn
hay nhỏ hầu hết đều có tài khoản trong ngân hàng. Các doanh nghiệp khi bán được
hàng hoá đều gửi tiền vào ngân hàng và rút ra khi cần. Chu kỳ rút tiền của các doanh
nghiệp và các tổ chức xã hội không giống nhau. Vì vậy ngân hàng luôn có trong tay
một khoản tiền lớn mà mình có thể sử dụng một cách tương đối thuận lợi. Tuy nhiên
độ lớn của khoản tiền này phụ thuộc nhiều vào các dịch vụ, các tiện ích mà ngân hàng
mang lại khi khách hàng sử dụng các dịch vụ. Điều này khiến cho việc huy động vốn
từ các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội gắn liền với việc mở rộng, cải tiến các dịch
vụ ngân hàng.
- Huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
Trong quá trình hoạt động các ngân hàng thường có các khoản tiền gửi ở lẫn
nhau để thuận tiện trong giao dịch, thanh toán Ngoài ra việc vay lẫn nhau giữa các
ngân hàng cũng làm tăng nguồn vốn huy động. Điều này tuy không thường xuyên
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
8
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
song là cần thiết trong hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng thương mại. Khi xuất
hiện việc thiếu hụt dự trữ hay khả năng thanh toán bị đe doạ các ngân hàng thương
mại có thể vay lẫn nhau. Quá trình vay này là một thoả thuận tín dụng giữa hai bên.
Quá trình tăng vốn huy động này có thể được thực hiện ở trên thị trường nội tệ hay thị
trường ngoại tệ.
Khi các NHTM đã hết khả năng vay mượn của nhau mà vẫn thiếu vốn hoặc mất
khả năng thanh toán, các NHTM thực hiện vay vốn tại ngân NHTW để tạo thêm
nguồn vốn bổ sung cho hoạt động kinh doanh của mình. NHTW đóng vai trị là người
cho vay cuối cùng để giúp cho các NHTM khắc phục những sự cố về thanh khoản.
Huy động vốn từ các NHTW và các tổ chức tín dụng khác để đảm bảo những
khả năng cần thiết, nên tuy cũng khá dễ dàng nhưng số lượng thường không nhiều và
chi phí huy động thường cao hơn. Do vậy, hình thức này các ngân hàng sử dụng không
nhiều.
• Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi của khách hàng

Các hình thức huy động bao gồm:
- Huy động tiền gửi không kỳ hạn :
Đây là phần tiền huy động tương đối quan trọng ở những nước phát triển có tỷ
lệ thanh toán không dùng tiền mặt cao. Mục đích của các khoản tiền gửi này không
phải là để lấy lãi mà chủ yếu dựng để thanh toán. Khách hàng gửi tiền phần lớn là
những tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các cá nhân làm ăn buôn bán phải thanh toán
tiền hàng hoá, dịch vụ liên tục. Người gửi tiền có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào hoặc để
trả cho người thứ ba. Hình thức rút có thể là tiền mặt hay lấy qua hình thức thanh toàn
bằng séc. Đặc biệt người gửi tiền có thể không cần trực tiếp đến ngân hàng lấy mà có
thể rút qua các máy rút tiền tự động (máy ATM). Ngân hàng thường bảo quản loại tiền
gửi này trên hai tài khoản: tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai.
+ Tài khoản thanh toán là loại tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có toàn
quyền sử dụng số tiền trên tài khoản nhưng chỉ trong phạm vi số dư tiền gửi. Loại tài
khoản này luôn luôn có số dư có.
+ Tài khoản vãng lai là tài khoản có thể dư có hoặc dư nợ, thường được sử
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
9
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
dụng cho các cá nhân. Số dư có thể hiện tiền gửi của khách hàng còn số dư nợ thể hiện
khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng vay.
Với mục đích chủ yếu khi gửi tiền là để sử dụng các dịch vụ ngân hàng nên
mức lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền là rất thấp, thậm chí không phải trả
lãi. Tuy nhiên ở nhiều nước có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt thấp (trong đó có
Việt Nam) và để tăng mức động viên tiền gửi, ngân hàng vẫn trả lãi cho tiền gửi này
(có những thời điểm được trả ngang bằng với lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn).
Tỷ lệ huy động từ nguồn này sẽ là khá cao nếu ngân hàng có các dịch vụ đa dạng, sản
phẩm ngân hàng chất lượng cao, hệ thống mạng lưới rộng rãi đáp ứng tốt các nhu cầu
của người gửi tiền.
- Huy động tiền gửi có kỳ hạn
Là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào ngân hàng và rút ra sau một

thời hạn nhất định. Khoản này thường gắn với các tổ chức kinh tế có chu kỳ kinh doanh
gần như xác định, thời gian thanh toán tiền ổn định, ít có sự biến động. Phần tiền gửi này
ngân hàng sử dụng dễ dàng nên mức lãi suất mà ngân hàng phải trả cũng cao hơn. Người
gửi tiền ngoài mục đích sử dụng các dịch vụ ngân hàng còn có mục đích kiếm lời. Do đó,
sự thay đổi lãi suất sẽ có tác động rất nhanh và rõ nét đối với nguồn vốn huy động của
ngân hàng.
Ở Việt Nam, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (mà
chúng ta vẫn gọi là kỳ phiếu ngân hàng có mục đích) với các thời hạn 3 tháng, 6
tháng, 1 năm, 2 năm ngày càng phổ biến, đã và đang phát huy vai trò hay việc tạo
vốn cho các ngân hàng.
- Huy động tiền gửi tiết kiệm
Đây là hình thức phổ biến nhất, lâu đời nhất của các NHTM. Bao gồm các loại sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Hình thức này gần giống như huy động tiền
gửi không kỳ hạn. Tuy nhiên so với tiền gửi không kỳ hạn thì số dư của phần này ổn
định hơn, ít biến động hơn nên ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là loại hình tiết kiệm phổ biến nhất, quen
thuộc nhất ở nước ta. Người gửi tiền gửi vào ngân hàng và rút ra sau những thời hạn
xác định: 3 tháng, 6 tháng Người gửi không được rút trước, nếu rút trước hạn thì sẽ
bị phạt. Đây là những khoản tiền có tính ổn định rất cao nên ngân hàng phải trả khách
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
10
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
hàng với lãi suất gần như là cao nhất. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, để tăng sức cạnh
tranh, thu hút được vốn các ngân hàng đã rất linh hoạt trong việc khách hàng rút ra
trước thời hạn. Có ngân hàng thì tính lãi cho khách hàng với lãi suất không kỳ hạn, có
ngân hàng vẫn tính với lãi suất đó với số ngày gửi thực tế
+ Tiền gửi tiết kiệm gửi góp: Loại hình này khá phổ biến ở những nước phát
triển nhưng ở nước ta còn khá mới mẻ. Người gửi có thể gửi tiền vào bất cứ lúc nào và
chỉ được rút ra khi đến hạn (thời hạn tương đối dài). Loại hình này giúp cho ngân hàng
có nguồn vốn ổn định để có thể đầu tư trung và dài hạn.

• Huy động vốn qua nghiệp vụ đi vay
Hình thức này ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong môi trường kinh doanh đầy
biến động như hiện nay. Các NHTM có thể vay từ nhiều nguồn:
- Vay từ các tổ chức tín dụng
Đó là các khoản vay thông thường mà các ngân hàng vay lẫn nhau trên thị
trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Các ngân hàng thường xây dựng các mối
quan hệ tốt để khi thiếu hụt vốn có thể vay lẫn nhau chứ không vay NHTW.
- Vay từ NHTW
Khi NHTM xảy ra tình trạng thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay mất khả năng thanh
toán thì người cuối cùng mà các ngân hàng có thể cầu cứu là NHTW. NHTW cho vay
dưới hình thức tái chiết khấu thương phiếu. Các NHTM có thể mang các thương phiếu
lên NHTW để vay. Tuy nhiên việc vay này cũng có một số khó khăn do NHTW chỉ
cho NHTM một hạn mức tái chiết khấu và việc cho vay này lại nằm trong định hướng
của chính sách tài chính quốc gia. Dẫu sao đây cũng là một hình thức bổ sung vốn cho
NHTM cực kỳ quan trọng trong những thời điểm nhất định.
• Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá
Việc phát hành giấy tờ có giá của các NHTM để hình thành vốn sử dụng có tính
ổn định cao, đồng thời nhằm giải quyết những khoản vốn thiếu hụt có tính tình thế do
khả năng thu hút bằng nguồn tiết kiệm hạn chế. Ngân hàng thường sử dụng các loại
giấy tờ có giá dưới hình thức:
- Phát hành trái phiếu: là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ của ngân
hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của ngân hàng khi phát
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
11
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
hành trái phiếu là nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Việc phát hành trái phiếu của
các NHTM chịu sự quản lý của NHTW, các cơ quan quản lý trên thị trường chứng
khoán và có thể bị chi phối bởi uy tín của ngân hàng.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi: Đó là giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ ở một
ngân hàng. Người sở hữu giấy tò này được trả lãi theo kỳ và nhận đủ vốn khi đến hạn.

Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị trường tiền tệ.
- Phát hành kỳ phiếu: đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn. Nó có đặc điểm
giống như trái phiếu nhưng có thời hạn ngắn hơn vì vậy nó được sử dụng cho mục
đích huy động vốn ngắn hạn của ngân hàng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM
1.3.1. Lãi suất huy động
Lãi suất huy động là tỷ lệ phần trăm của số tiền có được so với số tiền gốc mà
người gửi tiền nhận được từ ngân hàng. Lãi suất huy động có ảnh hưởng lớn đến quy
mô tiền gửi vào NHTM. Điều đầu tiên mà bất kỳ một cá nhân, tổ chức kinh tế nào
cũng muốn tham khảo khi gửi tiền vào ngân hàng đó là lãi suất. Vì vậy, đây là chính
sách quan trọng nhất tác động tới chính sách huy động vốn của ngân hàng.
Mục đích khi gửi tiền vào ngân hàng của khách hàng là khác nhau: nếu khách
hàng là tổ chức kinh tế, cá nhân gửi tiền vào ngân hàng với mục đích thanh toán thì họ
ít nhạy cảm với lãi suất, điều mà họ quan tâm là sử dụng các sản phẩm dịch vụ của
ngân hàng; trong khi đó, mục đích của một bộ phận khách hàng là lãi nên vấn đề lãi
suất được đặt lên hàng đầu. Do vậy, các ngân hàng cần phải xây dựng một chính sách
lãi suất hợp lý với từng đối tượng khách hàng để huy động được nguồn vốn tối đa.
Tuy nhiên, không phải ngân hàng cứ đưa ra mức lãi suất cao là có thể thu hút
được nhiều vốn. Vấn đề ở chỗ với mức lãi suất cụ thể do ngân hàng đưa ra phải luôn
lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Do đó ngân hàng phải dự đoán chính xác tỷ lệ lạm phát của nền
kinh tế trong năm để có thể đưa ra mức lãi suất huy động hợp lý. Mức lãi suất đó cũng
phải là mức lãi suất huy động đảm bảo cho sức mua tương đối giữa các loại tiền không
bị thay đổi. Có nghĩa là phải cộng thêm vào đó những yếu tố biến động của tỷ giá.
Giải quyết vấn đề này không phải là một việc đơn giản, vừa có tính khoa học
vừa có tính nghệ thuật. Ngân hàng phải rất khéo léo mới có thể có được một chính
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
12
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
sách lãi suất hợp lý, linh hoạt phù hợp với tình hình thị trường và mong muốn của
ngân hàng về quy mô và chất lượng nguồn vốn của ngân hàng, vừa đảm bảo lợi ích

của người gửi tiền, lợi ích của ngân hàng, giúp ngân hàng đạt hiệu quả cao trong công
tác huy động vốn.
1.3.2. Hình thức huy động
Để thực hiện tốt công tác huy động vốn, các ngân hàng thường đưa ra nhiều
hình thức huy động vốn đa dạng. Khối lượng vốn mà ngân hàng huy động được phụ
thuộc trực tiếp vào các hình thức huy động vốn mà ngân hàng áp dụng. Khi áp dụng
nhiều hình thức huy động vốn sẽ tạo những cơ hội để người gửi lựa chọn, đáp ứng
được các nhu cầu của người gửi. Mỗi ngân hàng đều tìm cho mình những hình thức
huy động vốn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, tâm lý dân cư vùng mà ngân hàng
đặt địa điểm, đồng thời phù hợp với yêu cầu sử dụng cũng như dễ dàng quản lý có
hiệu quả nguồn vốn của mình. Khi hình thức đa dạng nghĩa là số lượng vốn huy động
được tăng lên và chi phí huy động có xu hướng giảm xuống.
1.3.3. Dịch vụ cung ứng
- Dịch vụ cung ứng
Nếu một ngân hàng đưa ra các dịch vụ tốt và đa dạng thường có lợi thế hơn các
ngân hàng khác có dịch vụ giới hạn.
Trong điều kiện thành phố thiếu bãi đỗ xe, nếu ngân hàng có bãi đỗ xe, tiện
nghi, rộng rãi cũng là một lợi thế. Cũng có thể nói như vậy về các ngân hàng có quầy
thu ngân cạnh đường, dịch vụ ngân hàng qua thư, các hệ thống chi trả tự động làm việc
suốt ngày đêm và các dịch vụ nhân tiền gửi được cải tiến và tốn ít thời gian.
Một số khách hàng bị lối cuốn vào một ngân hàng có phòng cho vay được
chuyên môn hóa, một quỹ tiết kiệm an toàn và tiện nghi hoặc một phòng tư vấn và ủy
thác đã từng biết tiếng. Các hãng kinh doanh có thể chọn một ngân hàng do các dịch
vụ nhận tiền gửi ngoài giờ vẫn làm việc.
- Thái độ phục vụ
Đây là yếu tố mang tính chủ quan tác động đến quy mô tiền gửi. Nếu ngân hàng
hoạt động tốt, có danh tiếng lâu đời, các nhân viên ngân hàng luôn cởi mở, nhiệt tình
đối với khách hàng, luôn tạo thuận lợi cho khách hàng thì sẽ gây được uy tín đối với
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
13

Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
khách hàng, sẽ ngày càng có nhiều khách hàng đến giao dịch và gửi tiền.
Thêm vào đó, một ngân hàng có cơ sở vật chất vững mạnh, một trụ sở làm việc
khang trang, sạch đẹp, phương tiện làm việc hiện đại sẽ gây cho người gửi cảm giác an
tâm hơn, từ đó giúp ngân hàng huy động được nhiều vốn hơn.
Cách thức phục vụ của cán bộ ngân hàng đối với khách hàng cũng có ảnh
hưởng lớn đến việc huy động vốn của ngân hàng. Nhân viên ngân hàng là người trực
tiếp giao tiếp với khách hàng. Nếu cán bộ ngân hàng giao tiếp với khách hàng một
cách lịch sự, nhã nhặn, nhiệt tình thì sẽ gây được cảm tình tốt với khách hàng, tạo uy
tín cho ngân hàng về phục vụ khách hàng. Ngược lại, nếu thái độ của cán bộ ngân
hàng không lịch sự, thiếu nhã nhặn, với khách hàng thì họ sẽ tìm đến một ngân hàng
khác. Vì vậy, để thu hút được khách hàng gửi tiền thì trong quá trình phục vụ, cán bộ
ngân hàng không phải chỉ có đủ trình độ chuyên môn về nghiệp vụ mà còn phải chú ý
đến thái độ phục vụ của mình sao cho vừa lòng khách hàng.
1.3.4. Mức độ an toàn của tiền gửi
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, rủi ro xảy ra là điều không tránh khỏi.
Vì vậy, sự an toàn của các NHTM luôn là mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông,
nhà điều hành và đặc biệt là người gửi tiền, vì phần lớn vốn kinh doanh của ngân hàng
là vốn huy động từ bên ngoài. Để lấy được niềm tin từ người gửi tiền đồng thời bảo vệ
lợi ích cho người gửi tiền tránh được những tổn thất, họ có thể được chi trả bảo hiểm
tổn thất khi ngân hàng phá sản, Các công ty bảo hiểm là người đứng ra chịu trách
nhiệm chi trả toàn bộ tiền cho người gửi tiền trong giới hạn bảo hiểm.
Đối với những người gửi tiền nhỏ thì họ được các công ty bảo hiểm chịu trách
nhiệm trả hết khoản tiền mà họ gửi vào ngân hàng. Còn đối với những người gửi tiền
với số tiền lớn thì phần tiền vượt quá giới hạn bảo hiểm, họ có thể được chi trả đầy đủ
hoặc không, vì lúc này số tiền vượt quá đó không thuộc trách nhiệm của công ty bảo
hiểm mà nó phụ thuộc vào giá trị thanh lý các tài sản Có thuộc ngân hàng phá sản. Lợi
ích của việc tham gia bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ người gửi tiết kiệm khi họ gửi tiền
vào ngân hàng, làm cho người gửi tiền sẽ cảm thấy an toàn, tin tưởng vào ngân hàng.
1.3.5. Các nhân tố khác

Để tăng cường huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
14
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
nghiệp, các NHTM còn sử dụng các hình thức khác về dịch vụ xã hội: làm dịch vụ bảo
lãnh, đại lý phát hành chứng khoán, trung gian thanh toán, đầu mối trong hợp đồng
đồng tài trợ Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ trên càng mang lại cho ngân
hàng những nguồn huy động lớn giúp cho ngân hàng có thể kinh doanh một cách an
toàn và hiệu quả.
1.4. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn
• Sự đa dạng của hình thức huy động vốn.
Hình thức huy động vốn là những cách thức ngân hàng sử dụng để thu hút nguồn
vốn. Hình thức huy động càng đa dạng thì vốn chảy vào ngân hàng càng nhiều. Vì vậy, độ
đa dạng của các hìng thức huy động vốn chính là chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của công tác
huy động vốn ở các NHTM.
Sự đa dạng các công cụ huy động được thể hiện trước hết là ở số lượng các công cụ
ngân hàng sử dụng. Tuỳ theo đặc điểm, mục tiêu chiến lược kinh doanh, mỗi ngân hàng
đưa ra những loại công cụ huy động. Thực tế, số lượng các công cụ huy động càng nhiều thì
ngân hàng càng có nhiều điều kiện thu hút được vốn, tuy nhiên số lượng các công cụ vốn lại
bị hạn chế bởi khả năng quản lý của ngân hàng. Một ngân hàng sử dụng nhiều công cụ huy
động vốn không hoàn toàn đồng nghĩa với việc công tác huy động vốn của ngân hàng đó có
hiệu quả tốt, mà nó chỉ được coi là có hiệu quả khi những công cụ đó thực sự thích hợp với
ngân hàng. Cụ thể đối với các ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa dạng, đội ngũ cán bộ
công nhân viên ngân hàng có trình độ cao thì ngân hàng nên đa dạng hoá các loại công cụ
huy động vốn.
Đa dạng về số lượng các công cụ là chưa đủ, mà ngân hàng phải đa dạng về kỳ
hạn huy động, loại tiền sử dụng nữa. Đó là khả năng huy động vốn với các kỳ hạn
khác nhau trong đó có cả nội tệ, ngoại tệ và với mức lãi suất khác biệt tương ứng sao
cho người gửi tiền chấp nhận được và cảm thấy hợp lý. Do vậy, để công tác huy động
vốn của ngân hàng thực sự đạt được hiệu quả cao, ngân hàng cần phải tính toán,

nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu của thị trường, trên cơ sở năng lực bản thân đưa ra các
hình thức huy động đa dạng về kỳ hạn, loại tiền. Nếu những ngân hàng có quan hệ
quốc tế rộng thì nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ phải lớn, hay nếu có chiến lược sử
dụng vốn để cho vay dài hạn thì cần tăng cường huy động vốn trung và dài hạn.
• Quy mô của nguồn vốn
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
15
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
Quy mô ở đây bao gồm tính ổn định về khối lượng, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu
nguồn và năng lực quản lý nguồn vốn.
Công tác huy động vốn không thể có hiệu quả khi mà nguồn vốn huy động
được lại không đạt được quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của ngân hàng hay
không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh doanh; cơ cấu vốn của ngân
hàng lại không có sự hợp lý giữa các nguồn vốn huy động ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn, giữa vốn ngoại tệ và vốn nội tệ. Đối với ngân hàng, do mỗi nguồn vốn có những
điểm mạnh, điểm yếu riêng trong việc khai thác và huy động nên cơ cấu vốn biến đổi
sẽ dẫn tới sự biến đổi trong cơ cấu “đầu ra”: cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo sự
thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Cơ cấu nguồn vốn huy
động phụ thuộc không chỉ vào một phần kế hoạch của ngân hàng mà còn chịu sự tác
động của các nhân tố bên ngoài đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu tiếp
cận thị trường.
Khối lượng vốn huy động phản ánh quy mô vốn. Quy mô vốn lớn sẽ tạo điều
kiện cho ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Trong tổng nguồn vốn
của ngân hàng thì quy mô vốn huy động là một bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất và có
vai trò quan trọng hơn cả. Sau khi đã huy động được khối lượng vốn lớn thì cái mà
ngân hàng cần quan tâm lúc này là tốc độ tăng trưởng ổn định của nó vì có thể lúc này
quy mô vốn lớn, nhưng sẽ là khó khăn cho ngân hàng khi đưa ra quyết định cho vay
hay đầu tư nếu ngân hàng không kiểm soát, không dự đoán được xu hướng biến động
của dòng tiền rút ra và dòng tiền gửi vào. Nguồn vốn của NHTM được coi là ổn định
khi nguồn vốn từ dân cư chiếm tỷ trọng lớn và biết tận dụng nguồn tiền gửi giao dịch

của các tổ chức kinh tế - tuy không ổn định nhưng cũng đem lại cho ngân hàng một
nguồn tiền lớn với chi phí rẻ. Tăng trưởng quy mô vốn huy động được thể hiện:
Tốc độ tăng trưởng vốn
huy động
=
Vốn huy động kỳ báo cáo trước
Vốn huy động kỳ trước
Chỉ tiêu này cho biết sự mở rộng về quy mô vốn huy động đồng thời cũng phản ánh
sự biến động về nguồn vốn. Gia tăng vốn là điều kiện để Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt
động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của vốn. Tuy nhiên tăng vốn đến quy mô
nào là hiệu quả là vấn đề Ngân hàng cần quan tâm.
Bên cạnh đó, tính ổn định về năng lực quản lý nguồn vốn cũng là một yếu tố
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
16
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
phản ánh về quy mô vốn. Nếu ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự, tài sản nợ, tài sản
có, tức là trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng dự đoán được
những rủi ro xảy ra, dự đoán được môi trường đầu tư của mình có hiệu quả hay không
thì quá trình hoạt động của ngân hàng đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín, tạo điều
kiện thu hút khách hàng gửi tiền cũng như vay vốn.
• Cơ cấu huy động vốn
Để đánh giá cơ cấu vốn huy động, cần đánh giá tỷ lệ vốn huy động trong tổng
vốn:
- Vốn huy động / Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng vốn huy động có trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng, đồng thời chỉ ra một đồng vốn chủ sở hữu huy động được bao nhiều đồng vốn
huy động. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế của NHTM.
- Cơ cấu vốn theo kỳ hạn
Tỷ lệ vốn huy động
ngắn hạn

=
Vốn huy động ngắn hạn
Tổng nguồn vốn huy động
Tỷ lệ vốn huy động
trung hạn
=
Vốn huy động trung hạn
Tổng nguồn vốn huy động
Tỷ lệ vốn huy động
dài hạn
=
Vốn huy động dài hạn
Tổng nguồn vốn huy động
Ba tỷ lệ này cho ta biết tỷ trọng nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn chiếm
tỷ trọng bao nhiêu trong tổng nguồn vốn huy động. Mỗi loại vốn có những yêu cầu
khác nhau về thời hạn, chi phí hoạt động. Sự biến đổi cơ cấu nguồn vốn sẽ gây ảnh
hưởng trực tiếp đến cơ cấu cho vay, đầu tư của ngân hàng…từ đó dẫn đến việc thay
đổi lợi nhuận, doanh thu của ngân hàng. Dựa vào tiêu chí này, ta có thể điều chỉnh cơ
cấu vốn cho phù hợp nhằm đảm bảo ngân hàng có thể thu được lợi nhuận mà không
gặp vấn đề gì về tính thanh khoản.
• Cơ cấu sử dụng vốn
Huy động vốn và sử dụng vốn là hai vấn đề không thể tách rời, nó có quan hệ
mật thiết với nhau.
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
17
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
Hệ số sử dụng vốn
huy động trong kỳ
=
Dư nợ cho vay bình quân

Nguồn huy động
Hệ số này phản ánh khả năng sử dụng vốn huy động của ngân hàng, cho biết
với một đồng huy động được ngân hàng cho vay bao nhiêu đồng. Tỷ lệ này thấp
chứng tỏ ngân hàng đang gặp vấn đề trong việc cho vay vốn. Giải pháp trong trường
hợp này là các ngân hàng mua trái phiếu chính phủ hoặc tín phiếu kho bạc. Thông
thường các ngân hàng cố gắng cho vay tối đa nguồn vốn huy động được và cố gắng
duy trì tỷ lệ này tiến gần đến 1.
Hệ số sử dụng vốn
ngắn hạn
=
Dư nợ cho vay ngắn hạn
Nguồn huy động ngắn hạn
Ba chỉ tiêu này phản ánh trong tổng nguồn vốn huy động được thì tỷ trọng vốn
huy động được để dùng cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn là bao nhiêu. Theo
nguyên tắc thì các ngân hàng sẽ lấy vốn huy động ngắn hạn để tiến hành cho vay ngắn
hạn, còn vốn huy động trung dài hạn để tiến hành cho vay trung dài hạn. Tuy nhiên,
trong thực tế nhu cầu vay trung, dài hạn thường lớn trong khi nguồn vốn trung và dài
hạn huy động được không đủ đỏp ứng. Do đó, NHTM có thể linh hoạt chuyển đổi kỳ
hạn tức là dựng nguồn vốn huy động ngắn hạn để tiến hành cho vay trung và dài hạn.
Điều này sẽ đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, tuy vậy nếu không tính toán một tỷ
lệ chuyển đổi hợp lý ngân hàng sẽ phải đối mặt với những vấn đề về tính thanh khoản.
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
Hệ số sử dụng vốn
trung hạn
=
Dư nợ cho vay trung hạn
Nguồn huy động trung hạn
Hệ số sử dụng vốn
dài hạn
=

Dư nợ cho vay dài hạn
Nguồn huy động dài hạn
18
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
• Chi phí huy động vốn :
- Lãi suất huy động
Lãi suất huy động luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh tế. Người
gửi muốn một lãi suất cao, người vay lại muốn lãi suất thấp. Là trung gian đóng vai trị cầu
nối giữa hai đối tượng trên, ngân hàng phải tìm cách điều chỉnh mức lãi suất sao cho hợp lý
nhất đối với các bên, trong đó điều quan trọng là phải đảm bảo lợi ích của ngân hàng. Vì
vậy trong huy động vốn, mỗi ngân hàng đều cố gắng áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm
tìm kiếm được những nguồn vốn sao cho chi phí huy động vốn bình quân là nhỏ nhất và sử
dụng số vốn đó để cho vay với một mức lãi suất chấp nhận được trên thị trường. Chi phí
huy động được đánh giá qua hệ thống các chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân (tính bằng
bình quân gia quyền của lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn), lãi suất huy động
của từng nguồn và đặc biệt là lãi suất thực.
Mặt khác, cũng với một mức chi phí trả lãi bình quân, sự đa dạng hoá trong lãi suất
cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn là cần thiết, Sự đa dạng hoá lãi suất làm cho
tăng tính hiệu quả của chính sách lãi suất mà ngân hàng đưa ra. Nếu có chính sách lãi suất
phù hợp, hiệu quả, ngân hàng sẽ tối thiểu hoá được chi phí trong khi vẫn hoàn thanh kế
hoạch về nguồn vốn. Trên thực tế, để thu hút được khách hàng, các ngân hàng thi nhau tăng
lãi suất huy động khiến cho tổng chi phí huy động vốn ngày càng tăng.
- Chi phí khác
Bên cạnh chi phí chính là lãi suất , trong quá trình huy động vốn còn có các chi phí
khác như chi phí tiền lương cho cán bộ huy động, chi phí in ấn phát hành , chi phí cơ sở vật
chất, chi phí giao dịch quảng cáo … Tuy chi phí này chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ
nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân hàng.
Do đó, chi phí huy động vốn được thể hiện qua lãi suất huy động bình quân, chênh
lệch lãi suất bình quân, khả năng sinh lời của vốn huy động và tỷ suất chi phí huy động.
Trong đó chi phí vốn huy động được tính:

+ Chi phí huy động = Lãi phải trả cho nguồn huy động + Chi phí huy động khác
+ Lãi suất huy động bình quân = Tổng lãi phải trả / Tổng tiền gửi và tiềnvay
Chỉ tiêu này cho biết chi phí mà ngân hàng phải bỏ ra để thu hút về một đồng vốn là bao
nhiêu. Lãi suất huy động bình quân đóng vai trò trong việc xác định mức chênh lệch giữa lãi
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
19
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
suất tiền vay và lãi suất cho vay - nhân tố phản ánh khả năng sinh lời của ngân hàng.
+ Khả năng sinh lời của vốn huy động = Lợi nhuận sau thuế / Vốn huy động
Huy động vốn phải luôn gắn liền với quá trình sử dụng vốn. Đó là hai vấn đề không
thể tách rời nhau được. Khả năng sinh lời của vốn huy động giúp ta biết với 1 đồng vốn huy
động được ngân hàng sẽ tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này chính là thước đo
đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ vốn huy động đã đáp ứng được
nhu cầu sử dụng vốn và đang đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
+ Tỷ suất chi phí huy động = Chi phí huy động vốn / Doanh thu
Với chỉ tiêu này, giúp chúng ta thấy để tạo ra một đồng doanh thu ngân hàng cần
bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí. Bất cứ doanh nghiệp nào hay ngân hàng đều mong muốn tỷ
lệ này thấp, tức là chi phí bỏ ra thấp và thu lợi nhuận cao. Muốn đạt được điều này ngân
hàng cần giảm chi phí huy động vốn hoặc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
• Một số chỉ tiêu khác
Ngoài các chỉ tiêu chính trên, chất lượng công tác huy động vốn còn được đánh giá
qua một số chỉ tiêu :
- Mức độ thuận tiện khách hàng: Được đánh giá qua các thủ tục gửi tiền, rút tiền, các
dịch vụ kèm theo của ngân hàng … nhằm tiết kiệm được thời gian và chi phí cho khách hàng.
- Thời gian để huy động một số lượng vốn nhất định.
- Một số chỉ tiêu khác như: số lượng vốn bị rút ra trước thời hạn, kỳ hạn thực tế
của nguồn vốn…
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI
SỞ GIAO DỊCH 1 NHĐT&PT VIỆT NAM

2.1. Tổng quan về Sở giao dịch 1 NHĐT&PT Việt Nam
2.1.1. Quá trình hình thành và cơ cấu tổ chức
2.1.1.1. Quá trình hình thành
Ngày 26/4/1957, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã kí nghị định
177/TTg khai sinh ra Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam với nhiệm vụ cung ứng và quản
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
20
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
lý nguồn vốn của Nhà nước cho công cuộc xây dựng và tái kiến thiết đất nước. Quá
trình phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam qua những thăng trầm
và dấu ấn đáng ghi nhớ, với những tên gọi khác nhau gắn với những nhiệm vụ khác
nhau của từng thời kì: Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam (26/4/1957), Ngân hàng Đầu tư
và Xây dựng Việt Nam (24/6/1981), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(14/11/1990).
Góp phần tạo dựng hình ảnh, thương hiệu, vị thế, uy tín BIDV như ngày hôm
nay là sự đóng góp, cống hiến không mệt mỏi của cán bộ nhân viên toàn hệ thống,
trong đó có sự đóng góp đắc lực, hiệu quả của cán bộ nhân viên Sở giao dịch 1. Được
đưa vào hoạt động từ 28/3/1991 (theo quyết định 76/QĐ/TCCB của Tổng giám đốc
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam), Sở giao dịch 1 đã gặt hái nhiều thành công,
hoạt động kinh doanh hiệu quả, tạo nền tảng vững chắc cho hoạt động kinh doanh của
hệ thống.
Kết quả hoạt động của Sở giao dịch 1 đã góp phần vào thành công chung của hệ
thống và được thể hiện trên một số bình diện sau:
Thứ nhất, SGD1 tiếp tục khẳng định vai trò chủ lực của toàn hệ thống, hoàn
thành xuất sắc các nhiệm vụ chiến lược của BIDV. Trong hoạt động kinh doanh, chi
nhánh luôn đi đầu trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Hội sở chính,
đặc biệt là công tác huy động vốn, phát triển và cung ứng các sản phẩm tín dụng, dịch
vụ,…,là địa chỉ tin cậy về tài trợ vốn, phát hành bảo lãnh, thu xếp, tư vấn các dịch vụ,
phương án tổ chức cho các doanh nghiệp, các tập đoàn, tổng công ty xây dựng cơ sở
hạ tầng, thi công các công trình trọng điểm quốc gia, phục vụ sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, Sở giao dịch 1 đại diện cho trình độ kinh doanh tiên tiến với sức cạnh
tranh cao của BIDV thể hiện ở bước phát triển đột phá trong công tác dịch vụ. Chi
nhánh luôn hoàn thành xuất sắc trọng trách là đơn vị đi đầu triển khai các sản phẩm,
dịch vụ mới, cung cấp đầy đủ các dịch vụ của một ngân hàng hoạt động trên nền công
nghiệp tiên tiến, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, tăng cạnh tranh trên thị
trường.
Thứ ba, Sở giao dịch 1 tiếp tục là nhân tố chủ lực trong công tác phát triển
mạng lưới. Chi nhánh đã dồn sức, lực và tâm huyết để cho ra đời 6 chi nhánh cấp I
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
21
Khóa luận tốt nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội
trực thuộc BIDV là các chi nhánh: Bắc Hà Nội, Hà Thành, Đông Đô, Quang Trung,
Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm. Đến nay, các đơn vị này đã phát huy tối đa những nguồn
lực vốn là thế lực của Sở giao dịch 1 để ổn định hoạt động và tăng trưởng bền vững.
Thứ tư, luôn tiên phong, năng động trong việc thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước và chính phủ nhằm ổn định và phát triển kinh tế xã hội như
đề án của chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính, Nghị quyết của chính phủ về
những giải pháp bảo đảm ổn định nền kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, chính sách thúc đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt,
chương trình hỗ trợ lãi suất…góp phần cùng BIDV và ngành ngân hàng hoàn thành
mục tiêu kinh tế, chính trị đất nước.
Thứ năm, tiếp tục là địa chỉ triển khai thử nghiệm thành công các chương trình,
dự án lớn của ngành góp phần nhân rộng, triển khai trong toàn hệ thống. Là chi nhánh
đầu tiên triển khai thành công chương trình hiện đại hóa, xây dựng ngân hàng hiện đại
phù hợp với thông lệ quốc tế, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao hiệu qủa kinh doanh.
Qua các năm hoạt động, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế của chi nhánh luôn
tăng trưởng với tốc độ bình quân 30%/năm, đóng góp khoảng 6-7% lợi nhuận của
BIDV. Chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế bình quân đầu người luôn thuộc nhóm các chi
nhánh cao nhất hệ thống. Trong 5 năm liên tiếp từ 2006-2010, Sở giao dịch 1 được

công nhận danh hiệu lá cờ đầu toàn hệ thống, được nhà nước phong tặng các danh hiệu
thi đua cao quý như Huân chương lao động Hạng Nhì, danh hiệu Anh hùng lao động.
Năm 2011 chi nhánh tiếp tục được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao
động Hạng Nhất.
Những thành tích Sở giao dịch 1 đã đạt được trong suốt hơn 20 năm khẳng định
bản lĩnh nhiệt huyết và năng lực tập thể Ban lãnh đạo và cán bộ nhân viên chi nhánh
qua các thời kì.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức SGD1
Từ ngày đầu thành lập, SGD có 2 phòng và 1 tổ nghiệp vụ, chủ yếu làm nhiệm
vụ cấp phát vốn ngân sách đầu tư các dự án. Đến năm 2000, sau gần 10 năm hoạt
động, Sở đã có 12 phòng nghiệp vụ, một chi nhánh khu vực trực thuộc, 2 phòng giao
dịch và 7 quỹ tiết kiệm với 167 cán bộ, nhân viên, đánh dấu một bước ngoặt trong quá
trình phát triển của SGD.
SV: Nguyễn Thị Hoa Biển Mã sinh viên: 8A450075
22

×