Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

mở rộng tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam – chi nhánh sài gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.47 KB, 56 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tín dụng ngân hàng được coi như "đòn bẩy" cho sự phát triển kinh tế, là nguồn vốn
quan trọng chủ động để phát triển kinh tế trong nước. Giống như mọi hoạt động kinh
doanh khác, hoạt động tín dụng của mỗi ngân hàng là nhằm mục đích mang lại hiệu quả
cho chính bản thân ngân hàng, cho khách hàng và cho nền kinh tế. Chính vì vậy, vấn đề
đặt ra cho các NHTM là làm sao sử dụng đồng vốn của mình một cách tốt nhất, đạt hiệu
quả cao nhất, để từ đó không ngừng nâng cao được uy tín, đảm bảo được sự tồn tại và
phát triển của chính bản thân ngân hàng. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ lớn trong
các thành phần kinh tế tại Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay việc tiếp cận nguồn vốn của các
doanh nghiệp này còn khá khó khăn, đặc biệt là nguồn vốn ngân hàng. Thực tế đã chứng
minh nguồn tín dụng mà các ngân hàng dành cho các DNVVN còn khá hạn chế, trong
khi DNVVN là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát
triển mạnh. Trong giai đoạn gần đây, nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền kinh tế thế
giới nói chung đang trong trạng thái trì trệ và không ổn định, các doanh nghiệp trong
nước gặp không ít khó khăn, đặc biệt là các DNVVN do thiếu hụt nguồn vốn.Trong khi
đó, trong thời gian qua, các ngân hàng thương mại (trong đó có NHNo & PTNT VN –
Chi nhánh Sài Gòn) hầu như chỉ tập trung đến các khách hàng lớn, khách hàng cá nhân
và hộ gia đình mà chưa chú trọng đến đối tượng khách hàng là các DNVVN. Nguồn vốn
của các ngân hàng còn khá dồi dào, có thể đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các
DNVVN nhưng thực tế lại được sử dụng khá hạn chế. Xuất phát từ lý do trên em chọn
vấn đề: "Mở rộng tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Sài Gòn" để viết chuyên đề thực tập của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài nghiên cứu, bài chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em gồm 3 nội dung chính:
Một là: Hệ thống lại cơ sở lý luận về các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam và nhu
cầu tín dụng.
Hai là: Tìm hiểu tình hình chung của đơn vị cũng như đi sâu tìm hiểu và phân tích thực
trạng tín dụng đối với DNVVN tại ngân hàng cũng như vấn đề Mở rộng tín dụng cho
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam –


Chi nhánh Sài Gòn.
Ba là: Trên cơ sở lý luận và thực tiễn tại đơn vị, bước đầu đề xuất một số giải pháp góp
phần mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Sài Gòn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê: dùng để thu thập số liệu về ngân hàng.
Phương pháp diễn dịch và quy nạp: dùng để diễn giải, phân tích các nội dung nghiên cứu
về ngân hàng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Bài chuyên đề viết về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi
nhánh Sài Gòn từ năm 2009 đến năm 2011.
5. Giới thiệu kết cấu báo cáo
Báo cáo ngoài lời mở đầu và kết luận, được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các
ngân hàng thương mại.
Chương 2: Giới thiệu về ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi
nhánh Sài Gòn.
Chương 3: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Sài Gòn.
Chương 4: Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Sài Gòn.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DNVVN
1.1.1 Khái niệm DNVVN
DNVVN hay SMEs (Small and Medium enterprises) có vai trò to lớn đối với sự
phát triển chung của nền kinh tế đất nước cũng như có số lượng lớn trong cơ cấu doanh
nghiệp, vì vậy có một định nghĩa chính xác về DNVVN là vấn đề lý luận và thực tiễn
quan trọng. Để xem một doanh nghiệp có phải là DNVVN không, chúng ta có thể dựa
vào hai hệ thống tiêu chí là định lượng và định tính.

Theo tiêu chí định tính: Tiêu chí này dựa trên những đặc trưng cơ bản của doanh
nghiệp như trình độ quản lý, mức độ chuyên môn hóa, mức độ độc lập với các tập đoàn
lớn…. Một doanh nghiệp là DNVVN khi nó có trình độ quản lý chưa chuyên nghiệp,
mức độ chuyên môn hóa chưa cao, phụ thuộc nhiều vào các tập đoàn lớn…. Tuy tiêu chí
định tính này phản ánh đúng vấn đề thực trạng của doanh nghiệp nhưng lại khó xác định
một cách chính xác trên thực tế, mang nặng tính chủ quan. Do đó tiêu chí này ít được sử
dụng trên thực tế.
Theo tiêu chí định lượng: có ba chỉ tiêu thường được sử dụng – độc lập hoặc kết
hợp với nhau- để xác định:
 Nguồn vốn kinh doanh/ Vốn chủ sở hữu
 Số lao động thường xuyên
 Doanh thu/ Lợi nhuận
Cũng phải nói thêm rằng, với hầu hết các nước trên thế giới, DVVVN không liên
quan đến hình thức sở hữu- nhà nước, tư nhân hay nước ngoài cũng như loại hình doanh
nghiệp- doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hay công
ty cổ phần.
Ở Việt Nam , DNVVN cũng được phân loại theo tiêu thức định tính, cơ sở pháp lý
của việc phân loại này là nghị định 56/2009/ NĐ – CP được Chính phủ ban hành ngày
30/06/2009 về trợ giúp phát triển DNVVN, theo đó “DNVVN là cơ sở kinh doanh đã
đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa
theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định
trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng
nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)”, cụ thể như sau:
Quy mô
DN siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Khu vực
Số lao
động

Tổng
nguồn vốn
Số lao động
Tổng
nguồn vốn
Số lao động
Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
10 người
trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20
tỷ đồng đến
100 tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
Công
nghiệp và
xây dựng
10 người
trở
xuống
20 tỷ đồng

trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20
tỷ đồng đến
100 tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
Thương mại
và dịch vụ
10 người
trở
xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến 50
người
từ trên 10
tỷ đồng đến
50 tỷ đồng
từ trên 50
người đến
100 người
1.1.2 Đặc điểm của DNVVN
DNVVN tồn tại và phát triển với các đặc điểm cơ bản sau:
Một là về vốn: Quy mô vốn nhỏ là đặc trưng của DNVVN, tuy nhiên cũng có sự
khác biệt về quy mô vốn đối với các DN hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau. Lĩnh

vực sản xuất thường đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu cao hơn lĩnh vực thương mại dịch vụ.
Với vốn ban đầu không lớn cộng thêm chu kỳ sản xuất của các DNVVN thường
ngắn nên vòng quay vốn nhanh, khả năng hoàn vốn nhanh, đem lại hiệu quả kinh tế tốt.
Tuy nhiên, vốn ít cũng là cản trở đáng kể với DNVVN trong việc đổi mới thiết bị
sản xuất, nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm… từ đó làm giảm khả năng cạnh
tranh của DN, khiến cho DNVVN phát triển thiếu bền vững.
Hai là về công nghệ, thiết bị: Một số cuộc khảo sát gần đây của Hiệp hội DNVVN
Việt Nam( VINASME) cho thấy, 60% DNVVN sử dụng công nghệ lạc hậu từ 3-4 thế hệ
so với thế giới và số DN đầu tư được máy móc, công nghệ hiện đại chỉ chiếm 15- 20%.
Năng lực để đầu tư đổi mới công nghệ rất hạn chế. Việc này dẫn đến năng suất lao động
của DNVVN thấp, tiêu hao nhiều nguyên, nhiên liệu, làm cho giá thành sản phẩm cao,
nếu không giải quyết được sẽ tạo ra vòng xoáy công nghệ - hiệu quả - chi phí - cạnh tranh
nhấm chìm.
Ba là về cơ cấu quản tổ chức và lĩnh vực hoạt động: DNVVN chủ yếu là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, có số lao động ít (dưới 300 người), có cơ cấu tổ chức gọn nhẹ,
ít cấp bậc nên rất linh hoạt, dễ thay đổi cho phù hợp với nhu cầu thị trường. Hơn nữa, chủ
các DNVVN thường cũng là người quản lý của DN nên họ sẽ được tự do hoạt động,
nhanh chóng nắm bắt các cơ hội trê thị trường, tự quyết định các vấn đề mang tính định
hướng, sống còn một cách kịp thời như thay đổi chiến lược kinh doanh, nhân sự….Trong
khi đó, các DN lớn thường khó có thay đổi nhanh chóng để phù hợp với những biến động
của thị trường do quy mô, bộ máy cồng kềnh.
Các DNVVN tồn tại và hoạt động trong mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực của nền
kinh tế, đặc biệt tập trung nhiều ở các lĩnh vực có điều kiện quay vòng vốn, thu hồi vốn
nhanh như thương mại, dịch vụ, hoặc trở thành các nhà cung cấp các chi tiết sản phẩm
cho các DN lớn…
Bốn là trình độ quản lý và người lao động: Trình độ quản trị doanh nghiệp của đội
ngũ lãnh đạo của các DNVVN hiện nay còn hạn chế. Như đã trình bày ở trên, hầu hết chủ
DN cũng đồng thời là người điều hành DN đó. Điều này có mặt lợi nhưng cũng có mặt
hại, khi mà chỉ có 1,5% chủ các DNVVN có trình độ trên đại học, 5% tốt nghiệp đại học
và tương đương (theo thống kê của Cục phát triển DNVVN - Bộ Kế hoạch và Đầu tư).

Điều này đặt ra câu hỏi lớn về năng lực quản lý của các chủ DNVVN chưa qua đào tạo
này. Thêm đó, đội ngũ lao động của DNVVN chủ yếu là người tại địa phương, kiến thức,
tay nghề hạn chế, ít được đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ. Nguồn tài chính eo
hẹp cũng như kém hấp dẫn về môi trường làm việc khiến DNVVN khó thu hút được
những người quản lý, nhân viên giỏi cho DN.
Năm là thị trường và mức độ cạnh tranh: Thị trường của DNVVN chủ yếu phục vụ
các DN lớn như làm nhà cung cấp nguyên vật liệu, làm đại lý bán hàng, kênh phân phối,
hay những đoạn thị trường ngách và dung lượng hạn chế mà các DN lớn bỏ qua hoặc
chưa để ý đến. Thị trường của DNVVN vì thế có tính cạnh tranh rất gay gắt, thị trường
gần như hoàn hảo.
Như vậy, qua những đặc điểm trên ta thấy DNVVN với nhiều ưu điểm như linh
động, nhanh nhạy với thị trường, khả năng thu hồi vốn nhanh… nhưng bên cạnh đó cũng
còn nhiều tồn tại không dễ gì khắc phục trong ngắn hạn như trình độ quản trị hạn chế,
cạnh tranh gay gắt và nhất là “yếu huyệt” - nguồn vốn cho kinh doanh. Để giúp DNVVN
phát triển, từ đó đóng góp vào sự phát triển chung của nước nhà, rất cần giải quyết các
tồn tại nêu trên, đặc biệt là tháo nút thắt về vốn cho DNVVN
1.1.3 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế thị trường
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết 2010, cả nước hiện có trên
500.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm tới 98% số lượng doanh nghiệp với số vốn
đăng ký lên gần 2.313.857 tỷ đồng (tương đương 121 tỷ USD). Các DNVVN đang ngày
càng đóng vai trò quan trọng hơn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Điều
đó được thể hiện ở một số điểm chính sau:
Thứ nhất, DNVVN có đóng góp quan trọng vào GDP, tốc độ tăng trưởng kinh tế và
thu ngân sách nhà nước: Theo Tổng thư ký hiệp hội DNVVN Việt Nam, Tô Hoài Nam:
hiện nay, DNNVV chiếm trên 30% tổng vốn đầu tư, tạo ra hơn 40% số hàng hóa tiêu
dùng và xuất khẩu, gần 45% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và đóng góp gần 40% ngân
sách cho Nhà nước.
Thứ hai, DNVVN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa các vùng: DNVVN có đóng góp tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
cả nước từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ. Với sự phân bố rông khắp, lại có

truyền thống gắn bó với nông nghiệp, nông thôn, DNVVN đã trở thành đông lực thúc đẩy
sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ hình thành những tụ điểm, cụm công nghiệp, giúp chuyên
môn hóa nông nghiệp, phát triển tiểu thủ công nghiệp đã khơi dậy nhiều ngành nghề
truyền thống của các địa phương. Từ đó góp phần đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp
hóa- hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy sự phát triển của các vùng còn khó khăn, tăng mức
độ cân đối về rình độ phát triển kinh tế giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng kinh tế
với các vùng sâu, vùng xa.
Thứ ba, DNVVN góp phần giải quyết công ăn việc làm, tọa thu nhập cho người lao
động, góp phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh: Hiện tại, dân số nước ta là hơn 86
triệu người, trong đó khoảng 63% dân số, tương 54 triệu người đang trong độ tuổi lao
động, điều này gây ra một sức ép lớn lên xã hội. Sự tăng lên về số lượng cũng như mở
rộng quy mô của các DNVVN trong những năm qua đã góp phần tích cực vào việc giải
quyết vấn đề việc làm khi hiện các doanh nghiệp này sử dụng trên 50% lao động xã hội.
Thứ tư, DNVVN đảm bảo tính năng động cho nền kinh tế: Do lợi thế nằm ở quy mô
nhỏ, cơ cấu gọn nhẹ, DNVVN có khả năng chuyển đổi nhanh chóng mặt hàng sản xuất
kinh doanh để thích nghi với thay đổi của thị trường, có khả năng phục hồi nhanh sau các
cuộc khủng hoảng. Từ đó, DNVVN có đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng ổn định
của nền kinh tế.
Thứ năm, DNVVN hỗ trợ đắc lực cho các DN lớn, là cơ sở để hình thành những
DN, tập đoàn kinh tế lớn mạnh: DNVVN cung cấp cho các DN lớn các yếu tố đầu vào,
gia công, chế tạo sản phẩm cho các DN lớn, hoặc tham gia các hợp đồng phụ và đặc biệt,
các DNVVN trong lĩnh vực thương mại chính là mạng lưới phân phối sản phẩm một cách
rộng khắp nhất cho cá DN lớn. Từ thực tiễn đã cho thấy, các DNVVN hoàn toàn có thể
trở thành các DN lớn nếu có tầm nhìn dài hạn, chiến lược phát triển đúng đắn cũng như
tích lũy được các nguồn lực cần thiết cho phát triển, thành công của những công ty như
Tập đoàn FPT, Công ty cà phê Trung Nguyên, Tập đoàn Hòa Phát…. là minh chứng rõ
nét cho điều này.
Thứ sáu, DNVVN là nơi ươm mầm tài năng kinh doanh, nơi đào tạo các nhà doanh
nghiệp giỏi trong tương lai: Kinh doanh với quy mô nhỏ sẽ là phương thức đào tạo và rèn
luyện hữu hiệu cho các nhà doanh nghiệp trẻ, có ý chí làm quen dần với áp lực cạnh tranh

trong môi trường kinh doanh đầy khốc liệt. Bắt đầu với một DN quy mô hợp lý và thông
qua tiếp xúc trực tiếp với người điều hành các DNVVN sẽ là một cơ hội rất tốt giúp các
nhà doanh nghiệp trưởng thành lên, mỗi lần thành công hay thất bại của DN mà nhà quản
trị đó lãnh đạo đều đưa lại những bài học bổ ích cho họ trong điều hành DN lớn hơn sau
này. Chính từ những DNVVN, nhiều tài năng đã được nuôi dưỡng và thành đạt trong
tương lai.
1.2 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VỚI DNVVN
1.2.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Khoảng 3500 trước công nguyên trở về trước khi nền kinh tế còn rất sơ khai, ngân
hàng xuất hiện khi đó chỉ với chức năng như một tiệm giữ đồ. Trong giai đoạn ấy, các
định chế Nhà nước, pháp luật chưa rõ ràng, trộm cắp xảy ra khắp nơi, nên các thương
nhân, những gia đình có của cải trong cộng đồng chỉ tìm thấy sự an tâm khi gửi vàng bạc
đá quý dư thừa của họ vào nhà thờ, nhà các lãnh chúa hay các nhà giàu có vì những nơi
ấy an toàn cho tiền bạc của họ. Người gửi tiền phải trả tiền công cho việc giữ hộ đó.
Khoảng năm 2000 trước công nguyên, những người chủ ngân hàng thông minh đã
nhận ra rằng khi họ cất giữ tiền, thì tiền này chỉ ở trong kho mà không làm gì cả, trong
khi các thương nhân khác lại cần tiền để buôn bán, và họ có thể lấy tiền này để cho vay
lấy lời, số tiền lời được chia một phần cho những người gửi tiền. Ngân hàng và tín dụng
ngân hàng đã ra đời hoàn toàn tự nhiên và nhu một quy luật tất yếu trong dòng chảy của
văn minh loài người như thế. Trải quá trình hình thành và phát triển lâu dài đó, cho đến
nay ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu
là nhận tiền gửi của khách hàng, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.
Tín dụng, theo cách chung nhất, là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ
người sở hữu sang người sử dụng và sau một thời gian nhất định được quay trở lại người
sở hữu một lượng giá trị lớn hơn ban đầu.
Và theo cách cụ thể hơn, tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng để cho tổ chức, cá
nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên
tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán,
bảo lãnh ngân hàng… Tín dụng cũng là hoạt động sinh lời chủ yếu và cũng là lĩnh vực

chứa đựng nhiều rủi ro nhất của một ngân hàng thương mại.
1.2.1.2. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng
 Tín dụng ngân hàng được thiết lập trên cơ sở lòng tin
Tín dụng (credit) xuất phát từ thuật ngữ la-tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm), chính
điều này nói lên rằng quan hệ tín dụng luôn phải dựa trên sự tín nhiệm của ngân hàng đối
với người xin vay về việc người vay sẽ hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn. Cơ
sở của sự tin tưởng này chính là uy tín của người xin vay, tài sản thế chấp hay bảo lãnh
của bên thứ ba.
 Tính hoàn trả
Bởi vì ngân hàng là trung gian tài chính, nguồn vốn mà họ đem cho vay phần lớn là
nguồn vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân có tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, nên sau
một thời gian nhất định ngân hàng phải hoàn trả cho người gửi tiền cả gốc lẫn lãi. Mặt
khác, ngân hàng cũng cần phải có nguồn thu để bù đắp các chi phí như: khấu hao tài sản
cố định, trả lương cho nhân viên, chi phí quản lý doanh nghiệp…nên người vay vốn,
ngoài việc hoàn trả tiền gốc còn phải trả thêm tiền lãi cho ngân hàng, đó chính là giá của
việc sử dụng vốn trong một thời gian nhất định.
 Tính thời hạn
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp là có thời hạn, và người vay
phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn trong hợp đồng một cách vô điều kiện. Cơ sở
để xác định thời hạn vay sao cho chính xác là chu kỳ sản xuất kinh dianh của khách hàng,
thời điểm hình thành nguồn thu của người vay… Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần phải
tính toán đến sự hợp lý giữa thời hạn của vốn huy động và cho vay để tránh rủi ro thanh
khoản.
 Tính rủi ro
Hoạt động tín dụng, như đã nói, là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong hoạt
động của một ngân hàng thương mại. Rủi ro đến từ những nguyên nhân chủ quan như
chiến tranh, khủng hoảng kinh tế… nhưng phần nhiều đến từ nguyên nhân chủ quan
thuộc về uy tín, kết quả kinh doanh của người vay hay đạo đức nghề nghiệp của cán bộ
tín dụng…
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNVVN

Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của các DNVVN là một tất yếu
khách quan. Như các loại hình doanh nghiệp khác, trong quá trình sản xuất kinh doanh,
DNVVN cũng sử dụng vốn tín dụng ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn lưu động tăng
lên cũng như để tối ưu hóa hiệu quả sử dụng vốn của mình. Có thể nói, tín dụng ngân
hàng đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của DNVVN, tạo ra sức sống cho cả
nền kinh tế nói chung.
1.2.2.1. TDNH là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ sự ra đời và phát triển, nâng cao khả năng cạnh
tranh của các DNVVN
Nguồn vốn kinh doanh có vai trò quyết định đến sự hình thành và tồn tại của DN
trước nhà nước và pháp luật. Với hoạt động chính là huy động nguồn vốn nhàn rỗi và sau
đó cho vay những đối tượng kinh tế đang có nhu cầu về vốn, ngân hàng đã mở ra cơ hội
kinh doanh cho các chủ DN muốn dấn thân vào con đường kinh doanh hay mở rộng hoạt
động kinh doanh với lượng vốn tự có không quá lớn. Để kinh doanh hiệu quả, DNVVN
luôn phải đổi mới, đầu tư cho công nghệ- thiết bị, phát triển sản phẩm để tăng tính cạnh
tranh. Nếu chỉ trông chờ vào nguồn vốn tự tích lũy thì mất rất nhiều thời gian, và khi đó
cơ hội kinh doanh đã qua đi. Như vậy để có đủ lượng vốn cần thiết và kịp thời, các
DNVVN buộc phải tìm đến TDNH như một kênh cung cấp vốn hợp lý nhất. Khi yêu cầu
về vốn được đáp ứng, sức mạnh tài chính được gia tăng, thì mục tiêu chiếm lĩnh thị
trường, tạo lợi thế cạnh tranh sẽ không còn là bài toán khó giải đối với DNVVN nữa.
1.2.2.2. TDNH góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNVVN
Khi ngân hàng và DN đã thiết lập quan hệ tín dụng, tức là DN nhận được nguồn vốn
vay từ ngân hàng, các DN phải tôn trọng hợp đồng tín dụng, đảm bảo phải hoàn trả cả
gốc lẫn lãi đầy đủ, đúng hạn. Do đó, các nhà quản trị doanh nghiệp phải đưa ra dự án,
phương án kinh doanh khả thi và được tính toán thật kỹ lưỡng nếu muốn tiếp cận với
nguồn vốn TDNH. Hơn nữa, đi kèm với hoạt động giải ngân là sự kiểm tra, giám sát của
ngân hàng nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn đúng mục đích và hiệu quả. Ở một khía cạnh
tích cực, việc này chính là sự tư vấn hữu ích từ tổ chức tài chính chuyên nghiệp- ngân
hàng- cho sự hoạt động hiệu quả của các DNVVN. Chính từ những sức ép đó, thôi thúc
buộc DN phải làm ăn hiệu quả.
1.2.2.3. TDNH góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp

Nguồn vốn của DNVVN chủ yếu đến từ hai nguồn chính, đó là vốn tự có (vốn do
bản thân chủ DN tích lũy được và đem vào kinh doanh) và nguồn vốn vay từ các TCTD.
Các nguồn vốn khác như vay người thân, chiếm dụng vốn của đối tác hay các khoản hỗ
trợ từ Nhà nước… thường nhỏ và không thường xuyên. Nguồn vốn TDNH chính là công
cụ đòn bẩy để DN tối ưu hóa hiệu quả sử dụng vốn. Đối với các DNVVN, do hạn chế về
vốn nên việc chỉ sử dụng vốn tự có để sản xuất kinh doanh là khó khăn vì việc sử dụng sẽ
làm chi phí tăng cao, sản phẩm kém cạnh tranh trên thị trường. Để đạt hiệu quả nhất định
thì DN cần phải có một cơ cấu vốn tối ưu, kết hợp linh hoạt giữa các nguồn vốn, nhất là
nguồn vốn tự có và vốn vay nhằm tối đa hóa lợi nhuận mà vẫn đảm bảo an toàn tài chính.
1.2.3. Khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của DNVVN ở Việt Nam
Nhìn chung, năng lực tài chính của các DNVVN còn rất hạn chế, nhu cầu vốn cho
hoạt động kinh doanh là rất lớn. Các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng luôn
gặp khó khăn về vốn, kể cả khi nền kinh tế lạm phát, tăng trưởng nóng và cả khi nền kinh
tế suy thoái, giảm phát. Theo tính toán, bình quân mỗi DNVVN đi vào hoạt động cần
khoảng 2 tỷ đồng, số vốn cần huy động sẽ xấp xỉ cả triệu tỷ đồng Việt Nam. Có nhiều
kênh cung cấp vốn cho DNVVN, trong đó kênh vốn tín dụng ngân hàng là kênh trực tiếp
quan trọng và là tổ chức trung gian tạo điều kiện để DNVVN tiếp cận các nguồn vốn ưu
đãi.
Kết quả điều tra gần đây của Cục Phát triển DNVVN (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho
thấy, chỉ có 32,38% DNVVN có khả năng tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng;
35,25% khó tiếp cận, còn lại không thể tiếp cận. Trong số DNVVN không tiếp cận được
vốn vay NH thì 80% không đáp ứng đủ điều kiện cho vay. Trên thực tế, nợ xấu của ngân
hàng đối với các khoản tín dụng của DNVVN rất thấp, nhưng các doanh nghiệp vẫn rất
khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Nhiều ngân hàng dè dặt trong việc cho
DNVVN vay vốn, quá trình tiếp cận vốn tín dụng của DNVVN còn rất khó khăn.
Chính vì vậy, vấn đề mở rộng tín dụng đối với DNVVN càng trở nên cấp thiết hơn
bao giờ hết, để làm việc này rất cần sự chung tay của DNVVN, ngân hàng cũng như sự
hỗ trợ từ Nhà nước.
1.3 MỞ RỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DNVVN
1.3.1. Sự cần thiết việc mở rộng tín dụng NH đối với DNVVN

Từ thực tế phát triển kinh tế thế giới đã khẳng định, DNVVN vẫn luôn giữ một vai
trò hết sức quan trọng nhằm thúc đẩy và mở rộng cạnh tranh, đảm bảo ổn định kinh tế,
phòng chống nguy cơ khủng hoảng. Trong tất cả các nền kinh tế thành công hiện nay như
Nhật Bản, Singapore hay các nước Âu - Mỹ, DNVVN vẫn được xem như là yếu tố cần
thiết không thể thiếu cho sự tăng trưởng, giải quyết thất nghiệp và tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên, trong thực tế, cũng cho thấy các DNVVN còn gặp nhiều khó khăn như:
thiếu thị trường tiêu thụ, thiếu mặt bằng sản xuất, thiếu tổ chức, quản trị kém hiệu quả,
cạnh tranh gay gắt, và đặc biệt là thiếu vốn. Do đó việc mở rộng tín dụng cho đối tượng
các DNVVN là một vấn đề cấp thiết và đang được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm.
Đối với các DNVVN, việc mở rộng tín dụng trước hết sẽ tăng cơ hội tiếp cận nguồn
vốn tín dụng, từ đó sẽ có vốn để đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao hiệu quả
kinh doanh, giải quyết được các khó khăn về tài chính, đồng thời sẽ tăng tính cạnh tranh
trên thương trường. Ngoài ra, các DNVVN còn nhận được sự tư vấn, đánh giá về các
phương án kinh doanh, từ đó giảm thiểu được rủi ro, nâng cao hiệu quả. Thêm vào đó,
điều kiện để một doanh nghiệp được cấp tín dụng là khá nghiêm ngặt, với những yêu cầu
minh bạch về tài chính cao cũng như kế hoạch kinh doanh tốt. Với những thuận lợi cũng
như thử thách đó, DNVVN biết phát huy, sử dụng nguồn vốn tín dụng đúng lúc, đúng
mục đích, chắc chắn sẽ thành công.
Mặt khác, đứng dưới góc nhìn của Ngân hàng, việc mở rộng tín dụng đối với các
DNVVN có một ý nghĩa vô cùng quan trọng với Ngân hàng trong thời đại hội nhập, cạnh
tranh gay gắt hiện nay. Đứng trước những thách thức đó, Ngân hàng muốn tồn tại và phát
triển, không còn cách nào khác, phải nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng tối đa các cơ
hội và khai thác các tiềm năng còn bỏ ngỏ trong thị trường của mình… và các DNVVN
chính là đối tượng khách hàng tiềm năng nhất mà ngân hàng cần tập trung khai thác. Việc
mở rộng tín dụng đối với các DNVVN không những là tăng doanh số cho vay mà qua đó
giới thiệu các sản phẩm, dịch vụ để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu cho DNVVN, đồng thời
đem lại thu nhập cho ngân hàng, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh trong ngành, tạo chỗ
đứng vững chắc trên thương trường.
Hơn nữa, xét trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, mở rộng tín dụng đối với DNVVN
chính là cách thức gián tiếp để nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bởi chỉ

khi các DNVVN làm ăn có hiệu quả với nguồn vốn vay được từ ngân hàng, tạo ra lợi
nhuận thì họ mới có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ đối với đất nước. Thêm vào đó, khi
DNVVN tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, họ sẽ sử dụng để duy trì, mở
rộng sản xuất, thuê thêm người lao động, mua thêm nguyên vật liệu, sản xuất thêm hàng
hóa… từ đó, có hiệu ứng lan tỏa ra toàn bộ nền kinh tế, góp phần giải quyết các vấn đề xã
hội, cải thiện đời sống nhân dân, thúc đẩy cả đất nước tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Vì vậy, mở rộng tín dụng đối với DNVVN là hết sức cần thiết cho sự phát triển của
DNVVN, cho bản thân ngân hàng và cho cả nền kinh tế.
1.3.2. Chỉ tiêu để đánh giá mở rộng tín dụng đối với DNVVN
Để tiến hành định hướng cho quá trình tìm kiếm số liệu, đánh giá thông tin và đưa
ra kết luận, từ đó hoạch định chiến lược chính xác nhất về mở rộng tín dụng đối với
DNVVN, các nhà quản trị ngân hàng đã đưa ra một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chặt
chẽ và đồng bộ được phân loại như sau:
1.3.2.1. Mở rộng số lượng khách hàng vay là DNVVN
Khách hàng của ngân hàng là những tổ chức kinh tế, cá nhân có quan hệ tín dụng với
ngân hàng trong một thời gian nhất định. Mở rộng tín dụng với DNVVN, trước hết phải
làm tăng lên số lượng khách hàng có quan hệ tín dụng là các DNVVN.
Các chỉ tiêu để đánh giá:
(a) Mức tăng số lượng khách hàng là các DNVVN
M
SL
= S
T
– S
T-1
Trong đó:
M
SL
: Mức tăng số lượng khách hàng là các DNVVN

S
T
: Số lượng khách hàng là DNVVN năm t
S
T-1
: Số lượng khách hàng là DNVVN năm t-1
(b) Tỷ lệ tăng số lượng khách hàng là DNVVN (TL
SL
)
TL
SL
=
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ thay đổi số lượng khách hàng là DNVVN của năm
nay so với năm trước là bao nhiêu.
 Nếu tỷ lệ này tăng cho thấy xu hướng năm nay số lượng khách hàng là
DNVVN tăng so với năm ngoái
 Nếu tỷ lệ này là giảm nhưng vẫn lớn hơn 0 thì rõ ràng số lượng DNVVN có
quan hệ tín dụng vẫn tăng nhưng tốc độ tăng của tử số - M
SL
thấp hơn so với tốc độ
tăng của mẫu số - S
T-1
. Tức là:
- Hoặc là ngân hàng đã hạn chế mở rộng tín dụng đối với DNVVN.
- Hoặc việc mở rộng tín dụng đối với các DNVVN đã đi vào ổn định.
c) Tỷ trọng số lượng khách hàng là DNVVN
TT
SL
= * 100%
Trong đó:

S
1
: Số lượng khách hàng là DNVVN có quan hệ tín dụng với ngân hàng.
S : Tổng số khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng.
Chỉ tiêu này phản ánh số lượng khách hàng là DNVVN chiếm bao nhiêu phần trăm
trong tổng số khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng.
 Nếu tỷ trọng này tăng, tức là ngân hàng đã mở rộng tín dụng đối với
DNVVN.
 Nếu tỷ trọng này giảm, thì:
Hoặc là ngân hàng đã thu hẹp tín dụng đối với DNVVN. Hoặc là mức độ mở rộng
tín dụng đối với DNVVN nhỏ hơn so với các thành phần kinh tế khác.
1.3.2.2. Mở rộng doanh số cho vay đối với các DNVVN
Doanh số cho vay là số tiền mà ngân hàng đã thực hiện giải ngân cho khách hàng
trong một khoảng thời gian nhất định. Như vậy, mở rộng tín dụng đối với DNVVN đồng
nghĩa với tăng doanh số cho vay cho đối tượng này.
Các chỉ tiêu để đánh giá:
(a) Mức tăng doanh số cho vay đối với DNVVN( M
DS
)
M
DS
= DS
T
- DS
T-1
Trong đó:
M
DS
: Mức tăng doanh số cho vay đối với DNVVN.
DS

T
: Doanh số cho vay đối với DNVVN trong năm T
DS
T-1
: Doanh số cho vay đối với DNVVN năm T-1
Chỉ tiêu này tăng hay giảm phản ánh sự thay đổi của quy mô tín dụng với DNVVN.
(b) Tỷ lệ tăng doanh số cho vay đối với DNVVN( TL
DS
)
TL
DS
= * 100%
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ thay đổi doanh số cho vay đối với DNVVN năm nay
so với năm trước là bao nhiêu.
- Nếu tỷ lệ này tăng cho thấy xu hướng ngân hàng tăng cho vay đối với DNVVN
- Nếu tỷ lệ này giảm nhưng vẫn lớn hơn 0, là do tốc độ tăng của tử số- M
DS
nhỏ
hơn tốc độ tăng của mẫu số- DS
T-1
. Điều này có nghĩa là:
Hoặc là ngân hàng hạn chế mở rộng tín dụng đối với DNVVN.
Hoặc là việc mở rộng tín dụng đối với DNVVN đã đi vào ổn định.
(c) Tỷ trọng doanh số cho vay đối với DNVVN
TT
DS
= * 100%
Trong đó:
TT
DS

: Tỷ trọng doanh số cho vay đối với DNVVN
DS
1
: Doanh số cho vay đối với DNVVN
DS : Toàn bộ doanh số cho vay của ngân hàng trong thời kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết doanh số cho vay đối với các DNVVN chiếm tỷ trọng bao
nhiêu phần trăm trong tổng doanh số cho vay. So sánh chỉ tiêu này ở các thời kỳ cho thấy
sự thay đổi cơ cấu doanh số cho vay đối với các DNVVN, từ đó cho thấy sự thay đổi
chiến lược, cách nhìn nhận vai trò của DNVVN trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.3.2.3. Mở rộng dư nợ tín dụng đối với DNVVN
Dư nợ tín dụng là số tiền mà ngân hàng hiện đang cho khách hàng vay tại một thời
điểm nhất định, nó phản ánh quy mô tín dụng của ngân hàng tại thời điểm đó. Đây là cơ
sở để ngân hàng tính lãi cho vay( tiền lãi phải trả= lãi suất* dư nợ tính đến thời điểm tính
lãi* thời hạn tồn tại dư nợ). Vì vậy, số dư nợ càng lớn và dư nợ kỳ sau lớn hơn kỳ trước
là biểu hiện của sự mở rộng tín dụng đối với DNVVN.
Các chỉ tiêu đánh giá:
(a) Mức tăng dư nợ tín dụng đối với DNVVN
M
DN
= DN
T
– DN
T-1
Trong đó:
M
DN
: Mức tăng dư nợ tín dụng đối với DNVVN
DN
T
: Dư nợ tín dụng tại thời điểm cuối năm T

DN
T-1
: Dư nợ tín dụng tại thời điểm cuối năm T-1
Chỉ tiêu này cho thấy sự gia tăng tuyệt đối của dư nợ tín dụng đối với DNVVN.
- Nếu M
DN
> 0 thì có nghĩa ngân hàng đang thực hiện mở rộng tín dụng cho
DNVVN
- Nếu M
DN
< 0, ngân hàng đang thu hẹp tín dụng dành cho đối tượng này.
(b) Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với DNVVN( TL
DN
)
TL
DN
= *100%
Chỉ tiêu này cho biết tốc độ tăng dư nợ tín dụng của ngân hàng cho DNVVN năm
nay so với năm trước thay đổi bao nhiêu phần trăm.
(c) Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với DNVVN
TT
DN
= *100%
Trong đó:
TT
DN
: Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với DNVVN
DN
T
: Dư nợ tín dụng đối với DNVVN

DN : Tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng.
Chỉ tiêu này phản ánh dư nợ tín dụng dành cho DNVVN chiếm bao nhiêu phần trăm
trong tổng dư nợ của ngân hàng. Nếu tỷ trọng này tăng qua các thời điểm tức là ngân
hàng đang mở rộng tín dụng với DNVVN.
1.3.2.4. Kiểm soát chất lượng tín dụng đối với DNVVN
Bên cạnh bộ chỉ tiêu phản ánh mức độ mở rộng quy mô tín dụng với DNVVN được
tiến hành phân tích ở trên, các nhà phân tích có kinh nghiệm còn lưu ý các ngân hàng
phải hướng hoạt động quản trị, kiểm soát tín dụng vào việc duy trì thường xuyên quá
trình kiểm soát chất lượng tín dụng, an toàn khoản vay bởi việc mở rộng tín dụng chỉ thật
sự phát huy hiệu quả tốt nhất khi chất lượng các khoản tín dụng được đảm bảo. Quá trình
đánh giá đó được thể hiện bằng 3 chỉ số sau:
(a) Tỷ lệ nợ quá hạn
TL
NQH
= *100%
Trong đó:
DN
NQH
: Mức dư nợ nợ quá hạn ( các khoản vay được xếp từ nhóm 2 đến nhóm 5
theo điều 6, quyết định 493/2005/QĐ- NHNN) của các DNVVN với ngân hàng.
DN
T
: Dư nợ tín dụng đối với DNVVN
Chỉ tiêu này đánh giá khả năng kiểm soát, quản lý và thu hồi các khoản nợ, bao gồm
cả gốc lẫn lãi, khi tới lỳ trả nợ của các DNVVN. Chỉ tiêu này càng thấp sẽ phản ánh công
tác quản lý các khoản vay của ngân hàng cho DNVVN là tốt.
(b) Tỷ lệ nợ xấu
TL
NX
= *100%

Trong đó:
DN
NX
: Dư nợ nợ xấu( các khoản vay được xếp từ nhóm 3 đến nhóm 5 theo điều 6,
quyết định 493/2005/QĐ- NHNN) của các DNVVN với ngân hàng.
Chỉ tiêu này đánh giá khả năng kiểm soát và xử lý các khoản nợ xấu cho DNVVN
của Ngân hàng. Chỉ số này càng thấp càng chứng tỏ khả năng quản lý rủi ro tín dụng của
ngân hàng là tốt.
(c) Tỷ lệ khách hàng có nợ quá hạn
TL
SL
= *100%
Trong đó:
S
NQH
: Số lượng khách hàng là DNVVN có nợ quá hạn.
S
T
: Số lượng khách hàng là DNVVN có các khoản vay tại ngân hàng.
Chỉ tiêu này đánh giá chất lượng khách hàng tín dụng là DNVVN. Chỉ
số này cao hơn tỷ lệ nợ quá hạn, nghĩa là các DNVVN nhận được những khoản vay nhỏ
hơn mức trung bình các khoản vay mà ngân hàng cho vay.
1.3.2.5. Mở rộng phương thức cho vay đối với DNVVN
Để mở rộng tín dụng đối với DNVVN, ngân hàng cũng cần phải đa dạng hóa
phương thức cho vay, đáp ứng tốt nhất nhu cầu vay vốn của DNVVN. Bên cạnh các sản
phẩm cho vay đã quen thuộc như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, ngân
hàng có thể tài trợ cho DNVVN bằng các hình thức khác như:
Chiết khấu: là hình thức ngân hàng mua lại giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn
thanh toán của khách hàng với giá thấp hơn mệnh giá.
Bao thanh toán: ngân hàng mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán

hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận tại hợp đồng mua bán.
Cho thuê tài chính: Là hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng dành cho
khách hàng doanh nghiệp. Khi này, ngân hàng cam kết mua và cho thuê lại máy móc,
thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của doanh nghiệp.
Trong suốt thời gian thuê, ngân hàng vẫn là chủ sở hữu tài sản và doanh nghiệp có nghĩa
vụ thanh toán tiền thuê cho ngân hàng theo hợp đồng đã ký giữa hai bên.
Bảo lãnh: Là cam kết bằng văn bản của ngân hàng với bên có quyền về việc thực
hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình mở rộng tín dụng đối với DNVVN
Mở rộng tín dụng đối với DNVVN tại các NHTM một cách hiệu quả, bền vững
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của chính ngân hàng và các DNVVV mà còn
ảnh hưởng cả tới sự phát triển chung của nền kinh tế quốc gia. Để nhu cầu của cả hai phía
ngân hàng cũng như DNVVN sớm gặp nhau và mang lại kết quả hợp tác như mong đợi,
các nhà quản trị cần nhận diện được các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình này.
.3.3.1. Các nhân tố khách quan
(a) Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là nơi cà NHTM và DNVVN tồn tại và phát triển với tư cách là
các tổ chức kinh tế, hoạt động theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Các yếu tố vĩ mô như tăng
trưởng, lạm phát, lãi suất, tỷ giá, đầu tư, công ăn việc làm có tác động trực tiếp đến các
quyết định kinh tế của cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng. Theo đó, nếu các yếu tố vĩ mô ổn
định, tăng trưởng bền vững sẽ là tiền đề tốt cho các quan hệ tín dụng lâu dài, bền chặt và
ngược lại.
(b) Môi trường chính trị, pháp luật
Một môi trường chính trị ổn định cùng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, chặt
chẽ và nghiêm minh luôn là tiền đề quan trọng để xây dựng một nền kinh tế ổn định và
phát triển. Hiện nay, nước ta được đánh giá là nước có môi trường chính trị ổn định trong
khu vực, cộng vào đó là hệ thống luật pháp trong hoạt động kinh doanh ngày càng hoàn
thiện với nhiều văn bản luật được ban hành trong thời gian qua như Luật doanh nghiệp
2005, Luật đầu tư 2005, Luật các tổ chức tín dụng 2010… hỗ trợ không nhỏ cho các

thành phần kinh tế, trong đó có DNVVN cũng như ngân hàng phát triển. Cũng phải nói
thêm rằng, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến các DNVVN với hàng loạt những
chính sách hỗ trợ cho thành phần kinh tế này trong thời gian qua, mà gần đây nhất là nghị
định 56/2009/ NĐ– CP về việc trợ giúp phát triển DNVVN.Trong bối cảnh đầu năm
2011, cả nền kinh tế “căng mình” chống lạm phát với chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận
trọng, chính sách tài khóa thắt chặt… nhưng trong Nghị quyết 11/2011/NQ- CP về những
giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh
xã hội, Chính phủ vẫn yêu cầu NHNN chỉ đạo các NHTM phải “tập trung ưu tiên vốn tín
dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công
nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa…”.
(c) Môi trường văn hóa, xã hội
Môi trường xã hội đặc trưng bởi chính phong tục tập quán, trình độ nhận thức của
từng nhóm người, của từng vùng miền khác nhau. Nắm bắt và phân tích được các đặc
điểm này, cả ngân hàng và DNVVN mới có thể có một định hướng phát triển đúng đắn,
từ đó hoạt động mở rộng tín dụng sẽ đem lại hiệu quả cao. Cụ thể, yếu tố văn hóa, xã hội
chi phối tới khả năng mở rộng tín dụng ở một số mặt chính sau:
 Đầu tiên, thói quen tiêu dùng của người dân địa phương cũng như kết cấu dân số khu
vực sẽ ảnh hưởng tới nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, do vậy làm ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng.
 Thứ hai là trình độ dân trí: Nếu người dân có trình độ dân trí cao, nhận thức về kinh
doanh tốt thì họ sẽ khả năng cao hơn trong việc tiến tới thành lập doanh nghiệp cho riêng
mình và từ đó xúc tiến tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Hoặc chí ít, dân trí cao cũng sẽ
cung cấp nguồn lao động có chất lượng cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp phát triển,
và theo đó nhu cầu vốn tín dụng cũng tăng lên.
 Thứ ba, môi trường văn hóa, xã hội còn chi phối đến đạo đức của người đi vay hay
người chủ của doanh nghiệp. Nếu người chủ DNVVN được đào tạo trong môi trường
giáo dục tốt, có nhận thức trong sáng, tiến bộ… thì hiện tượng gian lận, lừa đảo… trong
quan hệ tín dụng chắc chắn sẽ được giảm thiểu, từ đó giúp việc mở rộng tín dụng với
DNVVN trở nên thuận lợi hơn.
(d) Môi trường kỹ thuật, công nghệ

Trong thời đại hiện nay, công nghệ luôn luôn biến đổi và cải tiến không ngừng.
Cùng với đó là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, do vậy DNVVN muốn phát triển không
thể không nỗ lực đầu tư, cải tiến công nghệ nếu không muốn bị tụt lại phía sau. Mặc dù,
có những hạn chế về vốn nhưng xu thế này là không thể khác và các DNVVN không thể
“lờ đi” và vốn tín dụng, tất yếu sẽ vô cùng quan trọng trong hoàn cảnh đó.
1.3.3.2. Nhân tố chủ quan
(a) Từ phía các DNVVN
 Năng lực nội tại của DNVVN
Năng lực nội tại của DNVVN bao gồm rất nhiều yếu tố như: khả năng tài chính, uy
tín trong kinh doanh, trình độ quản trị, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. DNVVN thì
tiềm lực tài chính không thể bằng các doanh nghiệp lớn, nhưng họ vẫn có thể nhận được
sự tin tưởng của Ngân hàng bằng cơ cấu vốn tự có – vốn vay hợp lý, các hệ số tài chính
đảm bảo, dòng tiền thu – chi tốt cũng như phương án kinh doanh khả thi, hiệu quả. Bên
cạnh đó, một doanh nhiệp uy tín trong kinh doanh, nhận được sự tin cậy từ các bạn hàng,
đối tác kinh doanh, và tốt hơn nữa nếu như doanh nghiệp đó đã tạo dựng được vị thế trên
thị trường, chắc chắn sẽ có được cái nhìn thiện cảm của Ngân hàng. Trình độ quản lý của
ban điều hành, mà trực tiếp là chủ doanh nghiệp cùng cơ cấu tổ chức kinh doanh cũng là
điểm quan trọng để Ngân hàng xem xét thiết lập quan hệ tín dụng với DNVVN. DNVVN
sẽ thuận lợi trọng tiếp cận vốn tín dụng nếu có ban quản trị tốt, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ,
khả năng thích ứng cao.
 Sự nghiêm túc, chính xác của DNVVN trong thực hiện các quy định, chuẩn
mực kế toán:
Đây cũng là một yếu tố quan trọng để gây dựng mối quan hệ tín dụng lâu dài giữa
Ngân hàng và DNVVN. Các cán bộ tín dụng làm việc rất nhiều với các báo cáo tài chính,
số liệu kinh doanh của doanh nghiệp, đây cũng là nguồn thông tin quan trọng để ra các
quyết định tín dụng. Do đó, DNVVN muốn tiếp cận nguồn vốn tín dụng một cách dễ
dàng hơn, cần phải thực hiện minh bạch, trung thực trong tài chính, tuân thủ đầy đủ các
chuẩn mực, chế độ kế toán hiện hành.
 Sự hiểu biết của DNVVN về Ngân hàng
DNVVN muốn tiếp cận thành công và hiệu quả với nguồn vốn tín dụng thì yếu tố

am hiểu hoạt động ngân hàng là không thê thiếu. Điều này được thể hiện ở các mặt cơ
bản như: mục tiêu hoạt động, nguyên tắc kinh doanh, chính sách và quy trình tín dụng.
Một khi đã nắm vững các yếu tố này, DNVVN sẽ rút ngắn được thời gian, giảm thiểu chi
phí liên quan trong việc đáp ứng các thủ tục của Ngân hàng để thiết lập quan hệ tín dụng.
Thêm vào đó, việc am hiểu sản phẩm của Ngân hàng, giúp cho DNVVN tận dụng tối đa
các tiện ích mà Ngân hàng đem lại, giúp tăng hiệu quả kinh doanh, góp phần xây dưng
mối quan hệ tốt đẹp, lâu dài giữa hai bên.
 Tài sản đảm bảo của DNVVN
Các DNVVN muốn vay vốn, hầu hết đều phải có tài sản đảm bảo. Đây là biện pháp
để Ngân hàng giảm thiểu rủi ro mất vốn. Những khó khăn liên quan đến tài sản đảm bảo
sẽ khiến cho quan hệ tín dụng bị cản trở. Một số vướng mắc chủ yếu liên quan đến năng
lực tài chính còn yếu của doanh nghiệp khiến cho họ không có đủ tài sản đảm bảo hoặc
tài sản đảm bảo không có giá trị cao. Hoặc việc phải sử dụng tài sản của chủ doanh
nghiệp hay người khác làm tài sản đảm bảo (bảo lãnh) khiến cho việc xử lý tài sản - nếu
xảy ra gặp khó khăn.
(b) Từ phía Ngân hàng
 Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng của NHTM là một hệ thống các biện pháp liên quan đến việc
khuếch trương hoặc hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch định. Nó được coi là
kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng, có ý nghĩa quyết định tới sự thành công hay thất bại
của cả Ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ giúp ngân hàng thu hút được
nhiều khách hàng, hạn chế rủi ro tín dụng mà vẫn đảm bảo lợi nhuận. Chính sách tín
dụng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình mở rộng tín dụng đối với DNVVN thông qua các
nôi dung sau: quy mô tín dụng, giới hạn tín dụng, các loại hình tín dụng, kỳ hạn tín dụng,
giá cả tín dụng…
 Năng lực chuyên môn, thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ ngân hàng
Trong bất kỳ một lĩnh vực nào, yếu tố con người luôn đóng vai trò then chốt, và với
một ngành dịch vụ đặc biệt như hoạt động ngân hàng thì điều này lại càng đúng hơn. Có
thể nói, điều đầu tiên tạo ấn tượng cho các doanh nghiệp khi muốn thiết lập quan hệ tín
dụng lâu dài với Ngân hàng chính là khả năng phục vụ, tư vấn, chăm sóc khách hàng của

đội ngũ nhân viên ngân hàng, mà trực tiếp là các cán bộ tín dụng. Một đội ngũ cán bộ tín
dụng có trình độ, có kỹ năng, luôn tôn trọng đạo đức nghề nghiệp chính là cơ sở quan
trọng bậc nhất giúp Ngân hàng thu hút ngày càng nhiều khách hàng, khiến cho quan hệ
Ngân hàng- Doanh nghiệp ngày càng bền chặt cũng như giảm thiểu rủi ro đạo đức. Hoạt
động mở rộng tín dụng đối với DNVVN vì thế cũng trở nên trơn chu hơn.
 Năng lực tài chính của Ngân hàng
Năng lực tài chính của một ngân hàng được thể hiện ở quy mô vốn cũng như các chỉ
số tài chính của nó. Ngân hàng chỉ có thể mở rộng tín dụng cho DNVVN khi họ có lượng
vốn đủ lớn để đáp ứng nhu cầu tín dụng cho họ. Bên cạnh đó, những quy định về tỷ lệ an
toàn đối với Ngân hàng cũng như khả năng chống đỡ và bù đắp rủi ro cũng là bằng chứng
thể hiện khả năng tài chính của ngân hàng với các doanh nghiệp muốn xây dựng quan hệ
với ngân hàng.
 Cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ của ngân hàng
Cơ sở vật chất khang trang, công nghệ hiện đại không những giúp cho ngân hàng
hoạt động hiệu quả hợn mà nó còn giúp xây dựng lòng tin của đối với các khách hàng của
ngân hàng. Một nền tảng công nghệ tiên tiến cũng sẽ giúp Ngân hàng cung cấp cho khách
hàng nhiều dịch vụ gia tăng hơn từ đó thu hút khách hàng đến ngân hàng thiết lập quan
hệ lâu dài.
CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN VIỆT NAM – CHI NHÁNH SÀI GÒN
2.1 GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
2.1.1 Lịch sử hình thành
Ngày 26/3/1988, Hội đồng bộ trưởng có nghị định số 53/HĐBT tách hệ thống Ngân hàng
thành 2 cấp là Ngân hàng nhà nước và hệ thống các Ngân hàng chuyên doanh. Ngân hàng
phát triển nông nghiệp Việt Nam được thành lập theo quyết định số 59/NH-QĐ ngày
01/07/1988 của Tổng giám đốc NHNN Việt Nam (nay là Thống đốc NHNNVN). Đến

×