Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

tìm hiểu sự mạch lạc trong tác phẩm vợ chồng a phủ của nhà văn tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.56 KB, 70 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




ĐÀO THỊ HỒNG HẠNH




TÌM HIỂU SỰ MẠCH LẠC TRONG TÁC PHẨM
“VỢ CHỒNG A PHỦ” CỦA NHÀ VĂN TÔ HOÀI



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





SƠN LA, NĂM 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC





ĐÀO THỊ HỒNG HẠNH




TÌM HIỂU SỰ MẠCH LẠC TRONG TÁC PHẨM
“VỢ CHỒNG A PHỦ” CỦA NHÀ VĂN TÔ HOÀI



Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Vũ Tiến Dũng




SƠN LA, NĂM 2014
LỜI CẢM ƠN

Khóa luận được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của thầy giáo
Tiến sĩ Vũ Tiến Dũng, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, Thư viện nhà trường
cùng các thầy cô Bộ môn tiếng Việt và tập thể lớp K51 – ĐHSP Ngữ Văn.
Nhân dịp khóa luận này được hoàn thành, em xin chân thành cảm ơn sự
quan tâm giúp đỡ đó và đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ
Vũ Tiến Dũng – người thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ em trong
quá trình thực hiện khóa luận này.



Sơn La, tháng 5 năm 2014
Người thực hiện

Đào Thị Hồng Hạnh














BẢNG GHI CHÚ CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI

NXB: Nhà xuất bản
SP1: Nhân vật giao tiếp
SP2: Nhân vật giao tiếp












\








MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 5
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 6
6. Cấu trúc khóa luận 6
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 7
1.1. Văn bản 7
1.1.1. Khái niệm văn bản 7
1.1.2. Đặc trưng của văn bản 9
1.1.2.1. Yếu tố chức năng 9
1.1.2.2. Yếu tố nội dung 9
1.1.2.3. Mạch lạc và liên kết 10

1.1.2.4. Yếu tố chỉ lượng 10
1.1.2.5. Yếu tố định biên (Tính trọn vẹn tương đối của văn bản) 11
1.2. Khái niệm mạch lạc 11
1.2.1. Khái quát chung 11
1.2.2. Khái niệm mạch lạc 12
1.2.2.1. Khái niệm mạch lạc trong từ điển 12
1.2.2.2. Khái niệm mạch lạc của những nhà chuyên môn 13
1.2.3. Phân biệt mạch lạc với liên kết 14
1.3. Các biểu hiện của mạch lạc 15
1.3.1. Mạch lạc trong quan hệ giữa các đề tài, chủ đề của câu 16
1.3.1.1. Duy trì đề tài - chủ đề 16
1.3.1.2. Triển khai đề tài – chủ đề 17
1.3.1.3. Cách duy trì, triển khai đề tài – chủ đề 18
1.3.2. Mạch lạc thể hiện ở tính hợp lý trong triển khai mệnh đề 20
1.3.2.1. Bên trong câu 20
1.3.2.2. Giữa các câu 20
1.3.3. Mạch lạc thể hiện trong trình tự hợp lý của các câu 21
1.3.4. Mạch lạc thể hiện ở khả năng dung hợp giữa các hành động nói 22
1.3.5. Mạch lạc thể hiện trong quan hệ ngoại chiếu 24
1.3.6. Mạch lạc biểu hiện ở khía cạnh tâm lý học 25
1.4. Mạch lạc trong lời thoại truyện ngắn 26
1.4.1. Một số khái niện cơ bản về lời thoại 26
1.4.2. Mạch lạc của lời thoại trong truyện ngắn 27
1.4.2.1 Mạch lạc biểu hiện ở phương diện hình thức (dùng các phương tiện liên
kết)……. 27
1.4.2.2. Mạch lạc biểu ở phương diện nội dung 29
1.5. Lí thuyết hội thoại 30
1.5.1. Khái niệm hội thoại 30
1.5.2. Các quy tắc hội thoại 31
1.5.2.1. Nguyên tắc luôn phiên lượt lời. 31

1.5.2.2. Nguyên tắc liên kết hội thoại 31
1.5.2.3. Các nguyên tắc hội thoại 31
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 35
CHƢƠNG 2. MẠCH LẠC TRONG TÁC PHẨM “VỢ CHỒNG A PHỦ”
CỦA TÔ HOÀI 36
2.1. Kết quả khảo sát, thống kê 36
2.2. Mạch lạc biểu hiện ở phƣơng diện hình thức 37
2.2.1. Mạch lạc thể hiện ở phép nối 37
2.2.1.1. Khái niện 37
2.2.2. Mạch lạc thể hiện ở phép thế 40
2.2.2.1. Khái niệm 40
2.2.2.2. Phép thế trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ 41
2.2.3. Phép tỉnh lược 43
2.2.3.1. Khái niệm 43
2.2.3.2. Phép tỉnh lược trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ 43
2.2.4. Mạch lạc biểu hiện ở phép so sánh 45
2.2.5. Mạch lạc biểu hiện ở phép liên kết từ vựng 47
2.3. Mạch lạc biểu hiện ở phƣơng diện nội dung 49
2.3.1. Mạch lạc thể hiện ở việc duy trì – triển khai đề tài, chủ đề 49
2.3.1.1. Duy trì đề tài, chủ đề 49
2.3.1.2. Triển khai đề tài, chủ đề 51
2.3.2. Mạch lạc biểu hiện trong quan hệ ngoại chiếu 52
2.3.3. Mạch lạc biểu hiện ở khả năng dung hợp giữa các hành động nói 56
2.3.3.1. Sự dung hợp giữa các hành động nói tường minh (hiển ngôn) 57
2.3.3.2. Sự dung hợp giữa các hành động nói hàm ngôn 58
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 60
KẾT LUẬN 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mạch lạc nói chung trong ngôn ngữ thường ngày không có gì xa lạ, tuy
nhiên mạch lạc với tư cách là một đối tượng nghiên cứu khoa học thì vẫn còn là
một vấn đề mới mẻ. Vấn đề về mạch lạc đã tập trung thu hút được sự quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước như: Greimas, Halliday và Hasan,
Grice…. Diệp Quang Ban, Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Thị Thìn… Dù được đánh
giá là một vấn đề khá mơ hồ và khó xác định trong diễn ngôn và văn bản nhưng
đây là yếu tố quan trọng quyết định việc văn bản có phải là một văn bản hay
không. Từ trước tới nay có nhiều ý kiến đưa ra kiến giải về mạch lạc trong diễn
ngôn và trong văn bản nói chung, đặc biệt là trong truyện ngắn nói riêng.
K.Wales ch rằng: “Mạch lạc là một trong những điều kiện ban đầu hay đặc tính
ban đầu của văn bản: không có mạch lạc một văn bản không phải là văn bản
đích thực” [1:135]. Có thể nói dù đó là diễn ngôn hay văn bản có dung lượng
câu chữ với độ dài khác nhau thì đề cần có tình mạch lạc vì mạch lạc là biêu
hiện của tính khoa học, sự thống nhất và lối diễn đạt logic của một văn bản.
Các biểu hiện của mạch lạc trong văn học là rộng rãi nhất, cũng do vậy mà
khó nắm bắt nhất. Gần đây, cùng sự phát triển của ngôn ngữ học, người ta đã bắt
đầu cố gắng phân biệt liên kết với mạch lạc.
Có thể nói mạch lạc là một yếu tố rất quan trọng trong một tác phẩm văn
học nói chung và một văn bản truyện nói riêng. Mạch lạc là phương tiện thể hiện
dụng ý của tác giả, nhờ mạch lạc mà câu văn trong sáng, diễn tả ý của tác giả
một cách dễ dàng, chính xác, đảm bảo nội dung tác phẩm truyện. Mạch lạc còn
là biện pháp nghệ thuật thể hiện dụng ý của tác giả buộc người đọc tư duy tìm
ra. Vì vậy, khi tìm hiểu một tác phẩm văn học ta phải đi từ giá trị nghệ thuật, từ
tính mạch lạc của tổng thể tác phẩm rồi mới khái quát nội dung. Như vậy, mạch
lạc là phương diện hữu ích để nhà văn thể hiện tác phẩm.
Mạch lạc không chỉ có vai trò quan trọng trong toàn bộ tác phẩm truyện nói
chung mà còn là yếu tố quan trọng trong lời thoại của truyện ngắn nói riêng.
Trong tác phẩm mạch lạc không chỉ giúp rõ nghĩa các lời thoại mà còn đóng vai

trò thể hiện các khía cạnh nội dung khác và có thể có phong cách viết của một
tác giả.

2
Tô Hoài một cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng, ông viết nhiều thể loại
nhưng thành công hơn cả là truyện ngắn. Truyện Tây Bắc là thành quả đẹp trong
mùa thu hoạch đầu tiên của Tô Hoài trên quê hương văn học mới của ông.
Không ít người cho đến tận hôm nay vẫn dành rất nhiều mến yêu cho thiên
truyện dài nhất trong tập truyện, thiên truyện có những trang viết rất thơ mộng
về người Thái Truyện Mường Giơn. Nhưng trong dư luận chung thì được coi là
đẹp hơn cả, đọng lại lâu bền trong ký ức của mọi người nhiều hơn lại chưa phải
Mường Giơn, mà là Vợ chồng A Phủ. Nghĩa là thành công lớn nhất của một tác
phẩm viết về một miền đất xa xôi lại thuộc về cái phần nói đến nơi xa xôi nhất.
Mặt khác, Tô Hoài là một nhà văn có nghề. Ông có quan niệm đúng đắn về
mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong văn xuôi: “Nội dung là cả cuộc
đời rộng lớn như một dòng chảy theo thời gian không hề lặp lại. Vì thế người
viết cũng không thể lặp lại cách viết một cách đơn giản tùy tiện. Nội dung ý
nghĩa một việc, miêu tả một nhân vật, một phong cách, một trường hợp của cuộc
sống hiện thực nếu đúng là cuộc đời và cuộc đời thì không bao giờ lặp lại. Cũng
vì thế từng câu từng chữ cũng sẽ không bao giờ lặp lại, không bao giờ theo một
cách, một điệu giống nhau. Nó phải như nội dung, đượm những phong phú và
nuôi vẻ biến hóa của cuộc sống” [9;130]. Vì vậy, nghiên cứu mạch lạc trong tác
phẩm Vợ chồng A Phủ, chúng tôi mong muốn sẽ giúp hiểu rõ hơn về các tầng
nghĩa có mặt trong tác phẩm này. Cùng với đó, chúng tôi cũng mong muốn qua
đây có thể giúp chúng ta hiểu thêm về phong cách sáng tác của Tô Hoài. Vợ
chồng A Phủ là một thiên truyện thành công của Tô Hoài, qua các nội dung đó
hi vọng khóa luận: Tìm hiểu sự mạch lạc trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của
nhà văn Tô Hoài sẽ góp phần nhận biết rõ hơn về mạch lạc nói chung và mạch
lạc của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề

2.1. Một số kiến giải về mạch lạc trong văn bản truyện
Mạch lạc nói chung và mạch lạc trong văn bản truyện nói riêng là một vấn
đề được nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ học quan tâm. Tuy nhiên, khi nhìn mạch
lạc dưới phương diện là đối tượng nghiên cứu của khoa học thì đây vẫn là yếu tố
đặt ra nhiều sự mới mẻ đối với các nhà nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam.
Sau đây, chúng tôi xin đưa ra một số kiến giải về mạch lạc trong văn bản
truyện.

3
a. Theo Diệp Quang Ban: “Mạch lạc không chỉ đơn giản thuộc về logic, nó
còn thuộc về ngữ nghĩa, và ngữ nghĩa hiểu rất rộng thuộc về mối quan hệ quy
chiếu thuộc về các từ ngữ beeb trong văn bản với vật, việc, hiện tượng bên
ngoài văn bản và thuộc về chức năng (tức hành động nói). Ngoài ra mạch lạc
còn biểu hiện cả trong cách tổ chức văn bản, phương diện nghĩa của mạch lạc
còn biêu hiện trong cái gọi là “ngữ pháp truyện” [3;135].
Tác giả cũng đã chỉ ra: “Mạch lạc trong văn học là cái rộng rãi nhất, vì vậy
mà khó nắm bắt nhất” [3;175], nhưng cũng có thể thấy: Văn bản văn học mang
tính mạch lạc một cách rõ ràng hơn là hội thoại hằng ngày, cũng có nghĩa là
người cầm bút chú ý nhiều hơn đến cấu trúc bài viết của mình.
b. Tác giả Nguyễn Thị Thìn trong bài viết về “Mạch lạc trong văn bản viết”
đã đưa ra bốn phương diện về mạch lạc như sau:
- Sự thống nhất về chủ đề và đích giao tiếp của toàn văn bản.
- Trình tự triển khai tính chủ đề đảm bảo tính hợp lý.
- Mối quan hệ chặt chẽ giữa các thành tố nội dung văn bản.
- Giải pháp triển khai chủ đề phù hợp với ý đồ giao tiếp và thể loại văn bản.
c. Trong một số luận văn thạc sĩ, khóa lận tốt nghiệp đại học, mạch lạc của
văn bản cũng được trình bày bằng hình thức cụ thế hóa như sau:
- Luận văn thạc sĩ khoa học của Nguyễn Thị Ninh: “Mạch lạc trong một số
truyện ngắn của Thạch Lam”.
- Luận văn thạc sĩ khoa học của Nguyễn Mậu Tư: “Mạch lạc trong phóng

sự “Cạm bẫy người”.
- Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Dung: “Mạch lạc trong truyện ngắn
Vũ Tọng Phụng”.
- Khóa luận tốt nghiệp của Bùi Thị Phương Anh: “Tìm hiểu sự mạch lạc
của lời thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan”.
- Khóa luận tốt nghiệp của Đặng Thị Diệu Thủy: “Mạch lạc của lời thoại
trong truyện ngắn Tô Hoài”.
Từ các đề tài nghiên cứu trên chúng ta có thể thấy, tuy mạch lạc là một hiện
tượng có thực nhưng khá trừu tượng và không dễ nắm bắt. Tuy nhiên, dễ nhận
thấy là văn bản văn học mang tính mạch lạc một cách rõ rằng hơn là hội thoại

4
thường ngày, cũng có nghĩa là người cầm bút chú ý nhiều hơn đến cấu trúc bài
viết của mình. Khái niệm mạch lạc đối với cấu trúc của văn bản là một trong
những khái niệm quan trọng đối với người cầm bút. Các đề tài nghiên cứu trên
đã phần nào cụ thể hóa hơn sự mạch lạc biểu hiện trong nội dung và trong lời
thoại của các tác phẩm. Qua đó đưa ra một góc nhìn sâu sắc về tài năng của các
nhà văn.
Như vậy, vấn đề mạch lạc đã được quan tâm đến trên cả hai phương diện
nghiên cứu như các tác giả Diệp Quang Ban và Nguyễn Thị Thìn đã trình bày và
phương diện thực tiễn qua các luận văn, khóa luận tìm hiểu cụ thể ở tác phẩm
văn học. Qua đó đã giúp cho lý thuyết về mạch lạc bớt đi sự mơ hồ vốn có.
2.2. Một số ý kiến đánh giá về truyện ngắn Tô Hoài có liên quan đến
mạch lạc
Tô Hoài là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại
Việt Nan. Ông được đánh giá là người tiên phong trong việc sáng tạo truyện cho
thiếu nhi. Các tác phẩm của ông, ngay từ buổi đầu xuất hiện đã được độc giả yêu
thích và giới chuyên môn đánh giá cao.
Tác phẩm của ông thành công bởi: “Bút pháp Tô Hoài linh hoạt. Anh có tài
dẫn chuyện và chuyển cảnh, đọc tác phẩm của anh ta có cái thú của một người

xem phim, thấy được truyện bất ngờ” [12;77]. Mặt khác: “Ngôn ngữ của Tô
Hoài thường ngắn gọn và rất gần với khẩu ngữ của nhân dân lao động”
[12;77].
Tác giả Phan Cư Đệ trong bài viết: “Tô Hoài- Nhà văn Việt Nam hiện đại”
có nhận xét: “Trong tác phẩm của Tô Hoài, nhìn chung ngôn ngữ của quần
chúng đã được nâng cao, nghệ thuật hóa”…, “Tô Hoài không đặt câu, tổ chức
kiến trúc câu theo kiểu sẵn có” [8;99].
Tô Hoài có sự hiểu biết từ nhiều năm về con người, phong tục, sinh hoạt,
cảnh sắc thiên nhiên ở vùng cao biên giới, để ý đến kiểu nói của mỗi người, cách
suy nghĩ diễn đạt của từng nhân vật. Chỉ có thông qua sự vận động của lời nói
thì chúng ta mới hiểu được nhân vật. Ngôn ngữ trong văn xuôi theo Tô Hoài
phải là thứ ngôn ngữ giàu tính chất tạo hình đập ngay vào giác quan người đọc.
Tác giả Hà Minh Đức trong: Lời giới thiệu tuyển tập Tô Hoài có nhận xét:
“Ông là nhà văn sử dụng nhiều thể loại văn học và ở thể loại nào mạch văn của
ông cũng vươn tói giá trị của nghệ thuật ngôn từ. Ông không chịu để câu văn

5
rơi vào tình trạng chữ nghĩa sáo mòn và có lối biểu hiện nghèo nàn. Có nhiều
hiện tượng vốn khô khan khó miêu tả nhưng dưới ngòi bút của Tô Hoài cũng trở
nên sinh động, cách diễn tả nhiều cảm hứng, liên tưởng đẹp, so sánh thích hợp,
chữ nghĩa chọn lọc và gợi cảm” [9;140]. Tô Hoài đã say mê tìm tòi và sử dụng
chữ nghĩa tiếng Việt một cách sinh động ông đặc biệt chú ý đến cái mới, cái đẹp
của ngôn từ.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Khóa luận không nhằm đưa ra những đánh giá, nhận xét, bình luận về tác
phẩm Vợ chồng A Phủ mà chỉ tập trung tìm hiểu sự mạch lạc trong truyện ngắn
này. Từ đó, khóa luận tìm hiểu các tầng ý nghĩa trong tác phẩm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Mạch lạc trong văn bản là một vấn đề quan trọng được nhiều nhà ngôn ngữ

học quan tâm và nghiên cứu. Trong một văn bản truyện sự mạch lạc được thể
hiện ở diễn biến, cốt truyện, lời dẫn chuyện, lời thoại trong truyện.
Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận, chúng tôi trình bày về
mạch lạc của lời thoại trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4.1. Mục đích
Khóa luận này chúng tôi muốn lý giải sự mạch lạc của lời thoại trong tác
phẩm Vợ chồng A Phủ một cách cụ thể.
- Nhận thức đúng đắn, có hướng tìm hiểu mạch lạc của lời thoại trong tác
phẩm Vợ chồng A Phủ.
- Đánh giá một cách có căn cứ về giá trị nghệ thuật trong tác phẩm Vợ
chồng A Phủ của Tô Hoài.
4.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu vai trò, giá trị, ý nghĩa của mạch lạc trong truyện ngắn từ đó đặt
vào diễn ngôn nói chung.
Bên cạch đó, khóa luận còn làm rõ thêm nghệ thuật triển khai đề tài, chủ đề,
cách thức tạo ra tầng nghĩa của một nhà truyện ngắn bậc thầy.

6

5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
5.1. Phƣơng pháp khảo sát, thống kê
Qua việc khảo sát các sự kiện, phân tích tìm ra các tầng nghĩa trong tác
phẩm Vợ chồng A Phủ, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để có thể hệ
thống một cách khoa học các dữ liệu khi tìm hiểu nội dung chính của khóa luận.
5.2. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm mục đích đi sâu tìm kiếm kĩ lưỡng
các nội dung của vấn đề đưa ra và tổng hợp một cách khái quát, đầy đủ các nội
dung đã tìm hiểu.
5.3. Phƣơng pháp miêu tả

Trong quá trình tìm hiểu tầng nghĩa và sự mạch lạc trong tác phẩm Vợ
chồng A Phủ của Tô Hoài sử dụng phương pháp miêu tả để tái hiện lại bối cảnh,
nội dung của lời thoại đặt trong ngữ cảnh giao tiếp. Vì vậy, cách sử dụng
phương pháp miêu tả là một phương pháp quan trọng trong quá trình tìm hiểu
nội dung khóa luận.
5.4. Nguồn ngữ liệu
Ngữ liệu mà chúng tôi sử dụng trong quá trình phân tích là các diễn ngôn
(lời thoại) của các nhân vật trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm được in
trong cuốn Truyện Tây Bắc của NXB Kim Đồng.
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần mục lục và tài liệu tham khảo, nội
dung của khóa luận gồm hai chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Mạch lạc của lời thoại trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ

7
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Văn bản
1.1.1. Khái niệm văn bản
Giống như tất cả các thuật ngữ khác về ngôn ngữ, thuật ngữ văn bản cho
đến nay cũng có khá nhiều định nghĩa khác nhau. Chúng ta có thể tìm hiểu định
nghĩa văn bản qua quan niệm của một số nhà nghiên cứu tiêu biểu sau:
1. “[…] văn bản được xét như một lớp phân chia được thành các khúc
đoạn”. (L.Hjelmslev,1953) [3;15]
2. “Văn bản được hiểu ở bậc điển thể là phát ngôn bất kỳ có kết thúc và có
liên kết, có tính chất độc lập và đúng về ngữ pháp”. (W.Koch,1966) [3;15]
3. “Văn bản là chuỗi nối tiếp của các đơn vị ngôn ngữ được làm thành bởi
một dây chuyền của các phương tiện thế có hai trắc diện”. (trục dọc và trục
ngang- D.Q.B)(R.Harweg,1968) [3;15]

4. “Một văn bản là một đơn vị của ngôn ngữ trong sử dụng . Nó không
phải là một đơn vị ngữ pháp loại như một mệnh đề hay một câu; mà nó cũng
không được xác định bằng kích cỡ của nó […]. Một văn bản không không phải
là một cái gì loại như một câu, chỉ có điều là lớn hơn; mà nó là một cái khác với
một câu về mặt chủng loại. Tốt hơn ta nên xét văn bản như là một đơn vị nghĩa:
một đơn vị không phải của hình thức mà là của ý nghĩa”. (Halliday,1976-1994)
[3;16]
5. “Văn bản có thể định nghĩa là điều thông báo viết có đặc trưng là tính
hoàn chỉnh về ý và cấu trúc và có thái độ nhất định của các tác giả đối với điều
được thông báo[ ]. Về phương diện cú pháp văn bản là một hợp thể nhiều câu
liên kết với nhau bởi ý và bằng các phương tiện từ vựng- ngữ pháp”.
(L.M.Loseva,1980) [3;16]
6. “Nói một cách chung nhất thì văn bản là một hệ thống mà trong đó các
câu mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu- phần tử, trong hệ thống văn bản còn
có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của một câu và những mối quan,
liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn văn bản nói
chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy”. (Trần Ngọc
Thêm,1985) [3;16]

8
7. “Văn bản là một chuỗi ngôn ngữ giải thuyết được ở mặt hình thức, bên
ngoài ngữ cảnh”. (Cook,1989) [3;16]
8. “Văn bản là một sản phẩm diễn ngôn xuất hiện một cách tự nhiên dưới
dạng nói, viết hoặc biểu hiện bằng cử chỉ. Được nhận dạng vì những mục đích
phân tích. Nó thường là một chỉnh thể ngôn ngữ với một chức năng giao tiếp có
thể xác định được, ví dụ như một cuộc thoại, một tờ áp phích”. (D.Crystal.1992)
[3;16]
9. “Chúng ta sẽ sử dụng văn bản như một thật ngữ chuyên môn, để nói đến
việc ghi lại bằng ngôn từ của một hành động giao tiếp”. (G.Brown và G.Yule,
1983) [3;17]

10. Chúng tôi sẽ sử dụng thuật ngữ văn bản để chỉ bất kỳ cái nào có ghi
bằng chữ viết của một sự kiện giao tiếp. (D.Nunan,1993) [3;17]
Qua các cách hiểu như trên về văn bản ta có thể tìm được những cách hiểu
khác nhau về định nghĩa “văn bản”. Tuy nhiên các cách hiểu của các tác giả đều
phục vụ cho mục đích nghiên cứu riêng mà tác giả đó theo đuổi. Ở đây, người
viết tìm hiểu định nghĩa này và sử dụng nó cho các kiến giải tiếp theo. Định
nghĩa “văn bản” có thể hiểu như sau:
“Văn bản: Một quãng viết hay phát ngôn, lớn hoặc nhỏ, mà do cấu trúc đề
tài- chủ đề v.v… của nó, hình thành nên một đơn vị, loại như một truyện kể, một
bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đường v.v… Định nghĩa vừa nêu trên có
thể được hiểu như sau:
a. Tên gọi văn bản ở đây bao gồm cả văn bản viết và văn bản nói, tức là
không phân biệt văn bản với tư cách là quãng ngôn ngữ viết một bên và diễn
ngôn (hay ngôn bản) với tư cách là ngôn ngữ nói một bên. Khi cần có thể phân
biệt ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết (hay còn gọi là văn bản nói).
b. Về mặt lượng, văn bản có thể có độ dài bất kỳ, từ độ dài bằng một từ
cho đến quyển sách dài hàng trăm trang.
c. Văn bản là một đơn vị gồm nhiều phương diện như cấu trúc hình thức,
cấu trúc nội dung, cấu trúc tin, đề tài, chủ đề và những phương diện về logic,
văn hóa xã hội khác nữa. Văn bản được coi là một tổng thể hợp nhất.
d. Về phương diện loại hình: Văn bản có thể thuộc về tất cả các hình thức cấu
tạo khác nhau của lời nói được sử dụng trong thực tế giao tiếp bằng ngôn ngữ.

9
Như vậy, theo các đặc điểm trên thì tác phẩm truyện cũng là một văn bản,
dù đó là truyện được lưu lại bằng chữ viết hay đó chỉ là các câu truyện được lưu
truyền dân gian. Vì đó là các văn bản nên các tác phẩm truyện dù là truyện dài
hay ngắn… thì đều phải có các đặc điểm của một văn bản như ở định nghĩa vừa
nêu trên.
1.1.2. Đặc trưng của văn bản

Tùy theo từng nhà nghiên cứu với mục đích cụ thể của mình, cái đặc trưng
cốt lõi làm cho một quãng ngôn ngữ (có trường độ) trở thành một văn bản đã
được nêu ra trong định nghĩa của họ. Sau đây là những đặc trưng cụ thể của văn
bản xét ở phương diện xác định văn bản trong bản thân nó và trong mối quan hệ
với những cái khác liên quan đến nó.
1.1.2.1. Yếu tố chức năng
Văn bản có đích hay chủ định của chủ thể tạo ra văn bản, cụ thể là người
tạo ra văn bản dùng lời nói (miệng hay viết) của mình để thực hiện một hành
động nào đó nhằm tác động vào người nghe (như sai khiến, hỏi, trình bày, nhận
định, phủ định, mời, chào, cảm ơn…). Chính chức năng này của văn bản gắn
trực tiếp với chức năng cơ bản của ngôn ngữ: chức năng giao tiếp.
Ví dụ 1:
- Văn bản: “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh là văn bản có chức năng
thông báo để khẳng định sự độc lập chủ quyền của đất nước Việt Nam và
tuyên bố khai sinh ra đất nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho cả thế giới
biết.
- Văn bản: “Giấy mời họp lớp” là văn bản có chức năng mời họp lớp có
thời gian địa điểm cụ thể.
1.1.2.2. Yếu tố nội dung
Văn bản thường có một hoặc vài ba đề tài - chủ đề xác định - giúp phân biệt
văn bản với chuỗi câu nối tiếp lạc đề hoặc xa hơn nữa, phân biệt với chuỗi câu
không mạch lạc, tình cờ đứng cạnh nhau, tạo ra chuỗi bất thường về nghĩa hay
phi văn bản.

Ví dụ 2:

10
- Trong tác phẩm: “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố với đề tài lớn đó là “sự khốn
cùng của người nông dân trước cách mạng tháng Tám”. Đề tài này đã xuyên
suốt tác phẩm và tạo ra khối liên kết nội dung làm thành văn bản.

Việc tạo ra đề tài- chủ đề xác định cho văn bản còn được coi là tạo ra tính
thống nhất đề tài- chủ đề của văn bản.
1.1.2.3. Mạch lạc và liên kết
Mạch lạc và liên kết là hai yếu tố quyết định việc tạo thành văn bản, trong
đó nổi rõ lên việc tạo thành tính thống nhất đề tài- chủ đề là mạch lạc, đây là yếu
tố giúp phân biệt văn bản với phi văn bản ở mặt tổ chức nội dung. Mạch lạc có
thể sử dụng các phương tiện liên kết làm cái diễn đạt cho mình; tuy nhiên mạch
lạc có thể không dùng đến phương tiện liên kết mà trái lại có dùng phương tiện
liên kết chưa chắc đã tạo ra được mạch lạc cho văn bản.
Ví dụ 3:
- Lan hôm nay chưa đi học, Lớp mình ai cũng bảo vậy.
Liên kết bằng phép thế ở ví dụ 3 được thể hiện qua từ vậy, nó dùng để thay
thế cho cụm từ Lan hôm nay chưa đi học.
Ví dụ 4:
SP1:- Chiều nay họp lớp. Tớ lại bị ốm rồi.
SP2:- Để tớ xin phép cho.
Đoạn thoại trong ví dụ này không sử dụng phương tiện liên kết nhưng vẫn
đảm bảo được sự mạch lạc vì các thoại ngôn liên kết với nhau bằng hàm ngôn.
SP1 nói bị ốm nhưng thực chất là nhờ bạn xin phép nghỉ họp lớp giúp
mình.
SP2 nhận lời giúp bạn.
Giữa mạch lạc và liên kết thì mạch lạc là yếu tố quyết định tính văn bản hay
chất cho văn bản, làm cho văn bản trở thành văn bản thực sự.
1.1.2.4. Yếu tố chỉ lượng
Văn bản được thể hiện bằng sự nối tiếp tuyến tính của nhiều câu - phát
ngôn - đây là cơ sở hiện thực cho mạch lạc và liên kết.

11
Nếu văn bản được làm thành từ hoặc một câu thì mạch lạc và liên kết trong
văn bản không thật hiển nhiên nữa.

1.1.2.5. Yếu tố định biên (Tính trọn vẹn tương đối của văn bản)
Văn bản có biên giới phía bên trái (đầu vào) và biên giới phái bên phải (đầu
ra) và nhờ đó mà có tính kết thúc tương đối - yếu tố này giúp phân biệt những
văn bản khác nhau khi nhiều văn bản được tập hợp lại như một tập bài nghiên
cứu, một tờ báo, một số tạp số tạp chí, một tuyển tập văn học thơ,…
Như vậy, văn bản có năm đặc trưng thực tiễn. Đó là: (1). Đích hay chủ định
của người nói (yếu tố chức năng), (2). Đề tài - chủ đề xác định (yếu tố nội
dung), (3). Mạch lạc và liên kết, (4). Gồm nhiều câu - phát ngôn nối tiếp (yếu tố
số lượng), (5). Có biên giới bên trái và bên phải (yếu tố định biên).
Như đã phân tích ở trên, chúng ta đã lần lượt đi tìm hiểu về khái niệm của
văn bản và đặc trưng của văn bản. Từ những điều đã tìm hiểu, chúng ta thấy các
tác phẩm truyện trong văn học cũng là một văn bản. Vì thế, nó cũng bảo đảm
được đầy đủ các đặc trưng của văn bản đặc biệt là yếu tố mạch lạc và liên kết
trong văn bản. Đây được coi là đặc trưng cơ bản tạo nên một văn bản đích thực.
Từ đó có thể thấy tác phẩm Vợ chồng A Phủ cũng là một văn bản và tính mạch
lạc là yếu tố quan trọng trong việc tạo nên văn bản và góp phần vào sự thành
công của tác phẩm khi tới tay người đọc.
1.2. Khái niệm mạch lạc
1.2.1. Khái quát chung
Ngôn ngữ từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu của ngành ngôn ngữ học. Theo
Diệp Quang Ban, lời nói, hành vi nói tồn tại chủ yếu dưới hình thức là âm thanh,
là loại sản phẩm rất phức tạp. Ở đó, ngôn ngữ xuất hiện với toàn bộ sự đa dạng,
phong phú về kết cấu. Hành vi lời nói là sản phẩm của quá trình giao tiếp trong
khoảng không gian hẹp, thời gian ngắn nhưng bối cảnh lại đa dạng.
Tác giả Nguyễn Thị Việt Thanh lại coi văn bản (text) và hành vi văn bản
(text act) tồn tại chủ yếu dưới dạng văn tự. Hoạt động của hành vi văn bản luôn
được “người phát tin” chuẩn bị trước và văn bản tham gia vào quá trình giao
tiếp với tư cách một ngôn phẩm có tính chất hoàn chỉnh ở cả ba mặt: hình thưc,
cấu trúc, nội dung (Trần Ngọc Thêm), văn bản cũng có thể ở dạng âm thanh.


12
Trên cơ sở đó, trong phạm vi của khóa luận này chúng tôi tạm thời coi văn
bản là khái niệm tồn tại ở cả dạng văn tự và âm thanh (nói và viết).
Một văn bản có được gọi là văn bản hay không còn phụ thuộc vào một yếu
tố quan trọng khác là mạch lạc. Vì văn bản không phải đơn thuần được tạo nên
bởi “phép cộng đơn thuần” giữa các phát ngôn mà giữa chúng tạo thành một đơn
vị để thực hiện chức năng đó.
K.Wales (1994) có nhận định: “Mạch lạc được coi là một trong những điều
kiện hoặc đặc trưng hàng đầu của văn bản. Không có mạch lạc, một văn bản
không phải là một văn bản đích thực” [1;135].
Ngôn ngữ tồn tại với tính chất hai mặt nội dung và hình thức. Cho nên, tính
liên kết trong diễn ngôn cũng có hai mặt: liên kết nội dung và liên kết hình thức.
Hai mặt này có quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau.
- Liên kết nội dung: gồm liên kết đề tài, chủ đề, logic.
- Liên kết hình thức: gồm các phương tiện ngông ngữ.
Vì vậy, nhìn chung mạch lạc là một khái niệm khá mới mẻ, mơ hồ trong
nhận thức người Việt.
1.2.2. Khái niệm mạch lạc
1.2.2.1. Khái niệm mạch lạc trong từ điển
Mạch lạc là một hiện tượng có mức độ, không thể vạch đường phân giới
rạch ròi giữa có mạch lạc và không có mạch lạc. Hơn nữa, bên cạnh tên gọi “
mạch lạc” còn có tên gọi “liên kết” và tên gọi thứ hai này lại được chứ ý đến
một cách tập trung hơn trong thời gian trước đây. Ngay những người vốn
chuyên làm việc với “chữ nghĩa” thường cũng không dễ gì phân biệt được mạch
lạc với liên kết. Ai đó có quan tâm thì cũng chỉ cảm thấy là chúng không hoàn
toàn đồng nhất với nhau mà thôi, chứ không khó bề thực hiện “coi mặt đặt tên”
cho chúng một cách phân biệt. Sự thật đó được xác nhận qua nguồn gốc tên gọi
“mạch lạc”.
Trong tiếng Việt, từ “mạch lạc” là từ Hán Việt, và được định nghĩa như sau
trong một số từ điển:

- “Mạch lạc. Dây mạch chạy trong người. Nghĩa rộng: cái gì liên tiếp nhau
không dứt: Bài văn mạch lạc không thông” [2;165].

13
- “Mạch lạc. (sinh lý) Những mạch máu chạy thông liền với nhau trong
thân thể- Hệ thống về học thuật” [2;165].
- “Mạch lạc. Sự liên tiếp rõ ràng giữa các bộ phận: Chuyện có mạch lạc”
[1;165].
- “Mạch lạc I. Sự tiếp nối theo một trật tự hợp lý giữa các ý, các phần tử
trong nội dung diễn đạt. Chuyện kể có mạch lạc” [2;165].
- “Mạch lạc II. Có mạch lạc. Trình bày mạch lạc ý kiến của mình. Văn viết
mạch lạc” [2;165].
Qua những định nghĩa dẫn trên, có thể thấy rằng trong tiếng Việt từ “mạch
lạc” trong ý nghĩa sự tiếp nối về ý nghĩa trong văn bản đã được chú ý từ lâu theo
kiểu của phân tích văn học. Có lẽ đó là nhờ ảnh hưởng của ngành ngữ văn rất
phát triển, và phát triển theo cách riêng của mình.
1.2.2.2. Khái niệm mạch lạc của những nhà chuyên môn
Khái niệm mạch lạc được đề cập cụ thể trong từ điển đã chứng thực sự
quan tâm của mọi người, song vẫn chưa thể cung cấp một cái nhìn đầy đủ, có hệ
thống về khái niệm này.
Sau đây chúng tôi xin dẫn ra quan điểm của một số nhà nghiên cứu về
mạch lạc:
- D.Nunan cho rằng: “Mạch lạc là cái tầm rộng mà ở đó các lời nói được
tiếp nhận là có “mắc vào nhau”, chứ không phải là một tập hợp câu nói không
có liên quan với nhau” [2;133].
- D.Togeby lại cho rằng: “Mạch lạc là cái đặc tính của sự tích hợp văn bản,
tức là cái đặc tính bảo đảm cho các yếu tố khác nhau trong một văn bản khớp
được với nhau trong một tổng thể gắn kết” [3;135].
- K.Wales thì hiểu: “Mạch lạc là một trong những điều kiện ban đầu hay
đặc tính ban đầu của một văn bản: không có mạch lạc, một văn bản không phải

là một văn bản đích thực” [2;135].
- M.AK.Halliday và Hassan trình bày cách hiểu khá rõ về mạch lạc: “Mạch
lạc coi như phần còn lại (sau khi trừ liên kết) thuộc về ngữ cảnh của tình huống
với những dấu nghĩa tiềm ẩn. Mạch lạc được coi là phần bổ sung cần thiết cho
liên kết, là một trong những điều kiện tạo thành chất văn bản” [12;9].

14
- Ở Việt Nam, tác giả Đỗ Hữu Châu khẳng định: “Một văn bản, một diễn
ngôn là một lập luận hay phức hợp bất kể văn bản viết theo phong cách chức
năng nào, tính lập luận là sợi chỉ đỏ được bảo đảm tính mạch lạc về nội dung
bên cạnh tính liên kết về hình thức của văn bản, của diễn ngôn” [5;174].
- Tác giả Diệp Quang Ban lại cho rằng: “Cái nhìn chung nhất hiện nay là
những từ trực tiếp diễn đạt các quan hệ kết nối giữa các câu- phát ngôn làm
thành các tiểu hệ thống (các phương tiện liên kết) thì được sắp xếp vào liên kết,
còn những mối quan hệ kết nối nào thiết lập được thông qua ý nghĩa giữa các
câu thì thuộc về mạch lạc” [3;71].
Qua các cách biểu hiện trên, ta thấy dù các nhà nghiên cứu có các cách phát
biểu khác nhau về mạch lạc nhưng xét chung lại họ đều thống nhất ở các điểm
sau đây:
Mạch lạc là một điều kiện để hình thành một văn bản đích thực và là đặc
trưng cơ bản nhất của một văn bản.
Mạch lạc là yếu tố không trùng với liên kết, mạch lạc và liên kết có thể
cũng xuất hiện trong một văn bản.
1.2.3. Phân biệt mạch lạc với liên kết
Mạch lạc và liên kết là hai phương diện khác nhau. Mạch lạc là sợi dây nối
nối các yếu tố mang nghĩa trong văn bản.
Liên kết là bộ phận trong hệ thống của một ngôn ngữ với chức năng nối
nghĩa của câu với câu trong văn bản, theo những cấu hình nghĩa xác định.
Tuy nhiên, mạch lạc là một hiện tượng khá mơ hồ, ranh giới giữa mạch lạc
và liên kết khó có thể phân định rõ ràng. Vì thế vấn đề đặt ra là: làm thế nào để

phân biệt được mạch lạc và liên kết ?
Qua các định nghĩa được nêu ở trên, đặc biệt là định nghĩa của Đỗ Hữu
Châu và Diệp Quang Ban đã phần nào chỉ rõ sự khác biệt giữa mạch lạc và liên
kết. Đó là:
Mạch lạc là những cách thức tạo ra sự kết nối giữa các ý nghĩa, các nội
dung của một văn bản. Sự nối kết đó có thể được tạo ra bằng các hình thức ngôn
ngữ, nhưng cũng có thể tạo ra sự kết nối mà không nhất thiết phải sử dụng đến
hình thức ngôn ngữ trong văn bản.

15
Liên kết được coi là phương tiện thuộc về hình thức ngôn ngữ dùng để kết
nối câu này với câu kia, của phần này với phần khác trong văn bản.
Mạch lạc là yếu tố có mặt trong văn bản đích thực với tư cách là yếu tố
quyết định cho việc tạo lập văn bản.
Liên kết có thể có mặt trong văn bản đích thực cũng có thể có mặt trong phi
văn bản (văn bản giả tạo).
Chính vì thế mạch lạc không chỉ xuất hiện ở các phương tiện ngôn ngữ liên
kết với nhau trong một văn bản như: Một bài văn nghị luận, một bài văn miêu
tả… mà nó còn xuất hiện ở khả năng dung hợp giũa các hành động nói; trong
quan hệ giữa đề tài, chủ đề của câu, trong trình tự hợp lý giữa các câu; trong quan
hệ ngoại chiếu trong văn bản với các sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài văn bản.
Trình bày các quan điểm về mạch lạc và liên kết cùng những cách hiểu
khác nhau về mạch lạc, ta có thể đưa ra một ý kiến thống nhất cho rằng: “Mạch
lạc là yếu tố có tác dụng quyết định tính văn bản cho một văn bản đích thực”.
Nói cách khác, nó là yếu tố quyết định cho một văn bản “là một văn bản”. Mạch
lạc có thể được diễn đạt bằng các phương tiện liên kết nhưng cũng có thể xác lập
mà không cần đến các phương tiện liên kết, ngược lại một chuỗi câu có liên kết
vẫn có thể không làm thành một văn bản đích thực.
Ví dụ 5:
“Cắm bơi một mình trong đêm. Đêm tối như bưng không nhìn rõ mặt

đường. Trên con đường ấy, chiếc xe lăn bánh rất êm. Khung cửa xe phía cô gái
ngồi lồng đầy bóng trăng. Trăng bồng bềnh nổi lên qua dãy núi Pú Hồng. Dãy
núi có ảnh hưởng quyết định đến gió mùa đông bắc ở miền Bắc nước ta. Nước
ta bây giờ của ta rồi; cuộc đời bắt đầu hửng sáng”.
Trong ví dụ này đã chỉ ra từng đôi câu đứng liền nhau có phương tiện liên
kết (lặp từ vựng) và làm thành một chủ đề. Nhưng xét trong tổng thể thì không
xác định được đề tài và chủ đề của nó là gì. Nó chỉ là sự minh họa cho sự lạc đề
mà thôi.
Điều này khẳng định, chuỗi câu liên kết chặt chẽ với nhau vẫn không thể
thành một văn bản vì chúng không mạch lạc với nhau.
1.3. Các biểu hiện của mạch lạc
Mạch lạc là một hiện tượng có thực nhưng khá trừu tượng và không dễ nắm

16
bắt. Để làm rõ mạch lạc thường phải dùng những dẫn chứng phản diện, tức là
chỉ ra những hiện tượng không mạch lạc để qua đó mà nhận biết mạch lạc. Cần
lưu ý rằng mạch lạc cũng được hiểu theo những cách rộng hẹp khác nhau. Cách
hiểu rộng về mạch lạc là cách hiểu trong đó thể hiện sự quan tâm của nhiều
ngành học như tâm lý học, văn học, ngôn ngữ học nói chung. Cách hiểu hẹp về
mạch lạc là cách hiểu riêng của những nhà phân tích diễn ngôn, họ hiểu mạch
lạc là sự dung hợp nhau của các hành động nói.
Mạch lạc là quan hệ nghĩa mà cũng có thể là quan hệ chức năng giữa các
hành động nói trong tương tác. Trên thực tế, việc xem xét tất cả các hiện tượng
thuộc về mạch lạc tồn tại trong tất cả các văn bản thuộc các thể loại khác nhau là
công việc rất đồ sộ, không dễ thực hiện. Trong phạm vi khóa luận này, chúng tôi
xin đưa ra một số biểu hiện thực tế dễ nhận biết của mạch lạc được nêu trong
phạm vi cụ thể sau dây:
1.3.1. Mạch lạc trong quan hệ giữa các đề tài, chủ đề của câu
Các đề tài và chủ đề của câu trong một văn bản thường có mối quan hệ với
nhau. Mối quan hệ giữa chúng làm nên sự mạch lạc của văn bản chứa chúng.

Các đề tài - chủ đề giữa các câu có thể được thực hiện theo hai cách là duy
trì đề tài và triển khai đề tài.
1.3.1.1. Duy trì đề tài - chủ đề
Duy trì là trường hợp một vật, việc, hiện tượng nào đó được nhắc lại trong
những câu khác nhau với tư cách là đề tài của các câu đó. Các phương tiện ngôn
ngữ diễn đạt đề tài này trong các câu khác nhau có thể chỉ là một và được lặp lại,
mà cũng có thể là những yếu tố có bề ngoài khác nhau; trong cả trường hợp này,
các từ ngữ đều cùng chỉ về một vật, hiện tượng này gọi là đồng chiếu.
Về mặt liên kết, sự duy trì đề tài được thực hiện nhờ:
- Phép lặp từ ngữ;
- Phép thế bằng đại từ;
- Phép tỉnh lược.
Ví dụ 6:
“Hôm nay, Hoa mặc áo dài. Nhìn cô ấy rất xinh”.

17
Trong hai câu vừa dẫn, từ Hoa và từ cô ấy cùng chỉ về một người, tức là đề
tài Hoa được duy trì ở câu thứ hai. Cô ấy dùng ở ngôi thứ ba được dùng để thay
từ Hoa. Hay nói cách khác muốn biết cô ấy là ai thì phải chiếu nó về từ Hoa ở
câu trước. Cách này cũng dùng để giúp liên kết hai câu với nhau.
Ví dụ 7:
“ Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”.
(Vội vàng - Xuân Diệu)
Trong ví dụ này có hai câu ngữ pháp, và từ “Tôi muốn” được nhắc lại với tư
cách chủ ngữ ngữ pháp ở hai đầu câu, đây là một cách duy trì đề tài. Về phương
diện liên kết, lặp lại từ ngữ là một kiểu nhỏ trong phép liên kết từ vựng.
Ví dụ 8:

“Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình
đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng
trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.
(Tuyên ngôn Độc lập - Hồ Chí Minh)
Trong ví dụ này cùng nói đến một đối tượng là “thực dân Pháp”. Nhưng ở
câu sau tác giả đã thay thế bằng từ “chúng”, là đại từ nhân xưng dùng để thay
thế cả cụm từ thực dân Pháp. Cách dùng đại từ nhân xưng như vậy cũng giúp
liên kết hai câu lại với nhau.
1.3.1.2. Triển khai đề tài – chủ đề
Triển khai đề tài, chủ đề là trường hợp từ một đề tài nào đó trong một câu,
liên tưởng đến đề tài khác thích hợp trong câu khác theo một quan hệ nào đó,
nhằm mục đích làm cho sự việc được nói đến phát triển thêm lên. Các đề tài
được thêm vào phải có cơ sở nghĩa và logic nhất định. Cơ sở nghĩa là sự phù
hợp về nghĩa với đề đã có và với tình huống sử dụng nói chung, cơ sở logic là
tính cần và đủ.
Về mặt liên kết, sự triển khai đề tài được thực hiện chủ yếu nhờ:

18
- Phép phối hợp từ ngữ;
- Phép so sánh.
- Ví dụ 9:
“ Tiếng trống thư không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang
lên để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh
hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt
trên nền trời”.
(Hai đứa trẻ - Thạch Lam)
Trong ví dụ này các từ: “trống thu không, buổi chiều, phương tây đỏ rực,
đám mây ánh hồng, dãy tre làng trước mặt đen lại” là những từ có quan hệ với
nhau theo kiểu chúng cùng chỉ một sự việc và chúng có mặt trong cùng sự việc:
chiều tàn của phố huyện. Các từ này gộp lại làm thành cái nền cho một buổi

chiều của nơi phố huyện nghèo. Đó là một trong những cách triển khai đề tài
bằng sự phối hợp từ ngữ và sự phối hợp này cũng tạo ra sự liên kết câu với câu.
1.3.1.3. Cách duy trì, triển khai đề tài – chủ đề
Theo F.Danes có thể có năm cách duy trì và triển khai đề tai, chủ đề:
Cách 1: Triển khai tuyến tính giản đơn, tức là phần thuyết của cấu đi trước
được nhắc lại với tư cách phần đề của câu thứ hai, phần thuyết của câu thứ hai
lại được dùng vào phần đề của câu thứ ba, và cứ thế tiếp diễn.
Ví dụ 10:
“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng
xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta
lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng
hòa”.
(Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh)
Cách 2: Duy trì một đề xuyên suốt toàn văn bản, với những phần thuyết
khác nhau kế tiếp.
Ví dụ 11:
“ Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân
chủ nào.

×