Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

MỞ RỘNG QUAN HỆ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.6 KB, 27 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Kinh tế đối ngoại là một mặt hoạt động không thể thiếu ở một nước nào
đó trong thời kì hội nhập và phân công lao động quốc tế. Vì vậy Việt Nam cũng
không phải là ngoại lệ.
Kinh tế đối ngoại góp phần nối liền sản xuất và trao đổi quốc tế, nối liền
thị truờng trong nước và quốc tế, khu vực nó góp phần thực hiện trao đổi khoa
học kĩ thuật và công nghệ quản lý giữa các nước với nhau. Hoạt động kinh tế đối
ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài: như vốn đấu tư trực tiêp FDI vốn
viện trợ chính thức từ các tổ chức tiền tệ và các chính phủ ODA. Ngoài ra nó
còn thu hút khoa học kĩ thuật và công nghệ khai thác và ứng dụng những kinh
nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta. Trong quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta kinh tế đối ngoại còn góp phần tích luỹ
vốn, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế tạo nhiều công ăn việc làm cho nhân dân
lao động.
Việt Nam có khả năng mở rộng quan hệ buôn bán và hợp tác kinh tế với
thị trường lớn và những cường quốc công nghệ lớn trên thế giới, đa phương hoá
quan hệ thị trường và đối tượng hợp tác phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại với
tốc độ cao.
Vậy vấn đề đặt ra ở đây đối với chúng ta là đã làm được gì trong công
cuộc xây dựng đất nước, thực trạng và giải pháp cơ bản để mở rộng và nâng cao
hiệu quả của kinh tế đối ngoại ở nước ta hiện nay. Để kinh tế đối ngoại đạt được
những thành tựu thì cần phải vượt qua được những thử thách của toàn cầu hóa
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Là một sinh viên kinh tế quốc tế chúng ta cần thiết phải nắm rõ tình hình
kinh tế trong nước và quốc tế vậy đề tài này đã giúp chúng ta hiểu được phần
nào về thực trạng kinh tế đối ngoại ở nước ta hiện nay.
Để hoàn thành được đề tài này, tôi đã nhận được nhiều sự hướng dẫn của
thầy giáo cùng sự giúp đỡ từ các sinh viên khoá trên và bạn bè.
1
Tôi xin trân thành cảm ơn!
2


PHẦN I: LÝ LUẬN
I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC MỞ RỘNG QUAN
HỆ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
1. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là xu thế tất yếu
Ngày nay, cùng với sự phát triển của những tiến bộ khoa học công nghệ.
Đặc biệt là công nghệ thông tin đã thiết lập mối quan hệ kinh tế xã hội phát triển
trên một cơ sở hoàn toàn mới, nó có khả năng vượt qua mọi trở ngại về khoảng
cách và biên giới, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Điều đó
làm cho thị trường ngày càng mở rộng, sự luân chuyển của mọi nhân tố cho sự
phát triển đều gia tăng không ngừng cả về số lượng và chất lượng, về quy mô và
không gian biên giới. Vì thế đã làm cho các nền kinh tế của các dân tộc trên thế
giới cho dù khác nhau về vị trí địa lý, truyền thống lịch sử, trình độ phát triển
ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau. Phát triển kinh tế không chỉ đơn thuần là trách
nhiệm và nghĩa vụ của một quốc gia, dân tộc nào mà nó còn là vấn đề chung của
toàn nhân loại. .
Ngoài ra còn rất nhiều quy tắc kỹ thuật, sự chuyển giao công nghệ, nguồn
nhân lực và chất xám đã quy định hoạt động sản xuất và tiêu dùng của các nước
với một mức độ tương đối lớn.
Nội dung của phân công lao động quốc tế có nhiều biến đổi. Phân công
quốc tế từ phân công truyền thống lấy các nguồn tự nhiên làm cơ sở phát triển
thành phân công lấy công nghệ, kỹ thuật hiện đại làm cơ sở; từ phân công giữa
các ngành trong một khu vực phát triển thành phân công giữa các ngành thuộc
các khu vực và phân công lấy chuyên môn hoá sản phẩm làm cơ sở; từ phân
công diễn ra theo phạm vi sản phẩm phát triển thành phân công diễn ra theo
phạm vi các yếu tố sản xuất; từ phân công trong lĩnh vực sản xuất thành phân
công trong ngành dịch vụ. Cơ chế hình thành phân công quốc tế cũng đang biến
đổi. Tức là, từ phân công do lực lượng tự phát của thị trường quyết định phát
triển thành phân công do xí nghiệp, chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia
3
kinh doanh và phân công do thành viên các tập đoàn kinh tế, thương mại khu

vực tổ chức, sự phân công có tính hiệp định. Phân công theo chiều ngang trở
thành hình thức phân công quốc tế chủ yếu, nội dung của nó là phân công theo
sản phẩm, theo linh kiện sản phẩm và theo quy trình công nghệ sản phẩm.
Phân công quốc tế đã hình thành mạng lưới sản xuất có tính thế giới, làm
cho các nước trở thành bộ phận của nền sản xuất thế giới, trở thành một khâu
trong dây chuyền giá trị hàng hoá. Nó có lợi cho các nước trên thế giới phát huy
đầy đủ ưu thế, tiết kiệm lao động xã hội, làm cho các yếu tố sản xuất được phân
bố một cách hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy kinh tế thế giới phát
triển.
Thứ tư, kinh tế đối ngoại sẽ làm cho mối quan hệ quốc tế ngày càng tăng
cường và phát triển. Đến nay, lợi ích chung của các quốc gia trên thế giới không
ngừng mở rộng, các nước phát triển và đang phát triển, các nước lớn và nhỏ
ngày càng nâng cao mức độ phụ thuộc dựa vào nhau cùng tồn tại, cùng hợp tác
và cùng phát triển.
Xét một cách cụ thể, kinh tế quốc tế hoá là xu thế tất yếu biểu hiện sự
phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất do phân công lao động quốc tế ngày
càng diễn ra sâu sắc, rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới dẫn tới sự hình thành
nền kinh tế thế giới thứ nhất.
Vấn đề mở rộng kinh tế đối ngoại, vượt khỏi biên giới quốc gia, hướng tới
phạm vi toàn cầu là một quá trình mà mọi cơ hội và nguyện vọng của mọi người
của các chủng tộc và dân tộc khác nhau ở các khu vực và các nước khác nhau
cần tìm ra những điểm chung giữa những nét đặc thù khác biệt để có được một
cơ chế mới trong mối quan hệ kinh tế xã hội ngày càng phát triển hơn nữa. Đó là
mong muốn của bất kỳ dân tộc nào hiện nay.
Chính vì vậy, Việt Nam chúng ta đã theo tinh thần đổi mới của đại hội VI,
đại hội VII và VIII, cùng các nghị quyết của hội nghị Trung ương trong các kỳ
đại hội đều có chú ý đến vấn đề hội nhập quốc tế. Nếu như đại hội VI Đảng ta
nhấn mạnh phải “Gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, giải quyết
4
mối quan hệ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất

nội địa”, thì tại Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá VII đã có bước tiến trong
xác định nội dung cụ thể của hội nhập quốc tế, trong dó khẳng định phải khai
thông quan hệ với các tổ chức kinh tế quốc tế. Tư tưởng này được khẳng định lại
tại hội nghị Trung ương 7 khóa VII là “từng bước tham gia các hội, các tổ chức
kinh tế, thương mại thế giới và khu vực”.
Đại hội VIII của Đảng tiếp tục phát triển và khẳng định về sự cần thiết
cũng như làm rõ thêm nội dung và tiến trình hội nhập. Nghị quyết Đại hội nhấn
mạnh “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực vào thế giới, hướng
mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng sản phẩm trong nước sản
xuất có hiệu quả”.
Để làm rõ thêm tính tất yếu về vấn đề Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế,
chúng ta phải tính đến những tác dụng to lớn mà quá trình hội nhập đem lại cho
đất nước.
2. Những tác dụng to lớn mà kinh tế đối ngoại đem lại cho Việt Nam
Ngày nay, quá trình kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho chúng ta tiếp cận với
nguồn vốn và công nghệ kỹ thuật cũng như công nghệ quản lý. Quan hệ trao đổi
buôn bán hàng hóa và dịch vụ giữa nước ta với các nước khác gia tăng mạnh
mẽ. Đặc biệt là sự chu chuyển của các dòng vốn: Tính đến tháng 9 năm 1999
chúng ta đã thu hút được 35,9 tỷ USD FDI của hơn 70 quốc gia và lãnh thổ trên
thế giới, trong đó đầu tư vào công nghiệp và xây dựng là gần 51%. Cùng với
vốn FDI chúng ta còn tiếp nhận một lượng không nhỏ nguồn vốn qua kênh
ODA. Nguồn ODA thực sự có ý nghĩa quan trọng trong phát triển cơ sở hạ tầng,
cả phần cứng và phần mềm đối với Việt Nam. Tính ra mức vốn nước ngoài hiện
nay chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư nước ngoài. Tỷ lệ đóng góp của khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP đều tăng lên qua các năm. Năm 1993
đạt ,6% đến năm 1998 đạt 9%, năm 1999 đạt khoảng 10,5%. Nguồn thu ngân
sách từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 370 USD.
5
Đây còn là môi trường mở ra giúp cho nước chúng ta tìm và thực hiện
được các dự án đầu tư từ nước ngoài vào. Nó thực sự có ý nghĩa quan trọng

trong phát triển cơ sở hạ tầng, cả phần cứng lẫn phần mềm đối với Việt Nam.
Bên cạnh cơ hội tận dụng khả năng sử dụng các nguồn vốn, nước ta còn
được thụ hưởng những thành quả tiến bộ của kỹ thuật và công nghệ sản xuất
mới. Ngày nay, tốc độ phổ cập tri thức mới, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến diễn
ra nhanh chóng, đa dạng thông qua nhiều hình thức và các kênh truyền thông
khác nhau, mà chuyển giao công nghệ là một đặc trưng, một yêu cầu đối với
chúng ta trong sự phát triển. Thông qua tiếp nhận và chuyển giao công nghệ,
Việt Nam có thể nhanh chóng tiếp cận, bám đuổi và thu hẹp khoảng cách tụt hậu
so với các nước đi trước, nhất là với các ngành công nghệ mới, công nghệ mũi
nhọn hay các lĩnh vực thuộc lợi thế của mỗi quốc gia, nhờ đó nâng dần sức sản
xuất và năng lực khoa học trong nước.
Việt Nam được xếp vào các nước có tốc độ phát triển hạ tầng công nghệ
thông tin nhanh nhất thế giới, là bằng chứng cho tốc độ và sự chủ động hội nhập
của chúng ta.
Bên cạnh đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ làm cho quá trình cạnh
tranh giữa nước ta và các nước khác trên thế giới thêm gay gắt, thị trường mở
rộng không ngừng, do đó thúc đẩy chuyên môn hoá sản xuất, kích thích tăng
năng xuất lao động. Nhờ hợp lý hoá sản xuất và áp lực cạnh tranh, chúng ta tạo
được sự tiết kiệm trong sản xuất, hạ giá thành, tăng hiệu quả cũng như chất
lượng của các mặt hàng. Từ đó sẽ tạo được sức hút hấp dẫn với các sản phẩm
của chúng ta. Hiện nay ở nước ta chính phủ cũng như doanh nghiệp đang hết sức
nỗ lực chuẩn bị cho sự hội nhập vào AFTA vào năm 2006.
Quá trình Việt Nam gia nhập kinh tế đối ngoại sẽ nhanh chóng góp phần
nâng cao trình độ dân trí, tạo cơ sở nền tảng cho dân chủ phát triển. Giao lưu
kinh tế giữa các nước đưa lại điều kiện hội nhập giữa con người của những nền
văn hoá, góp phần nâng cao giá trị văn hoá truyền thống, xoá bỏ hủ tục phi nhân
văn, mở ra điều kiện cho con người phát triển và cho sự chung sống hoà bình
6
của các nền văn hoá trong không gian toàn cầu. Đồng thời, nó sẽ giải quyết được
những vấn đề về việc làm và gia tăng thu nhập. Sự chuyển dịch lao dộng đang

diễn ra theo nhiều phương diện, Việt Nam có cơ hội xuất khẩu lao động sang
các nước phát triển để thu được ngoại tệ từ bên ngoài vào. Ngoài ra, lao động có
trình độ cao sẽ tập trung vào các ngành, lĩnh vực kinh tế mới, như các hoạt động
dịch vụ, thương mại, công nghiệp chế biến… Sự phát triển của các ngành này
tạo thêm nhiều việc làm mới, do đó tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống và chất
lượng nguồn nhân lực sẽ tăng dần thích ứng với quá trình xã hội hoá lao động.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA QUAN HỆ KINH TẾ
ĐỐI NGOẠI
1. Nguyên tắc bình đẳng
Đây là nguyên tắc làm nền tảng cho việc thiết lập quan hệ giữa các quốc
gia nói chung và cho việc thiết lập quan hệ quốc tế giữa các quốc gia cũng như
giữa các đối tác kinh tế. Nguyên tắc này bắt nguồn từ yêu cầu phải coi mỗi quốc
gia trong cộng đồng quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Từ yêu cầu
này, sự hình thành và phát triển của thị trường thế giới mà mỗi quốc gia là một
thành viên, với tư cách là thành viên, mỗi quốc gia có quyền kinh doanh tự do tự
chủ như mọi quốc gia khác. Vì thế phải đảm bảo tư cách pháp nhân của mỗi
quốc gia trước luật pháp và cộng đồng quốc tế.
2. Nguyên tắc cùng có lợi
Đây là cơ sở kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các quốc
gia. Mỗi quốc gia cần biết sử dụng lợi thế của mình trong quan hệ kinh tế cụ thể.
Nguyên tắc này được cụ thể hóa thành các điều khoản được ký kết giữa các đối
tác kinh tế với nhau.
Mỗi một quốc gia, theo lý thuyết của A. Smith, đều có lợi thế tuyệt đối
với các quốc gia khác. Điều đó được hiểu rằng, họ có nguồn lực khan hiếm được
phân bổ và sử dụng để sản xuất ra một hàng hoá nào đó với ưu thế hơn hẳn các
quốc gia khác cùng sản xuất ra mặt hàng đó. Hay theo lý thuyết lợi thế so sánh
7
của Dicardo, mỗi quốc gia có lợi thế để sản xuất sản phẩm với ưu thế tuyệt đối
hơn hẳn khi sản xuất các mặt hàng khác…
Sử dụng các lợi thế, các quốc gia khi tham gia vào quan hệ đối ngoại sẽ

tận dụng được nhiều cơ hội thu về những món lợi lớn cho đất nước.
3. Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào công việc
nội bộ của mỗi quốc gia
Trong đời sống của cộng đồng quốc tế, quốc gia có tính độc lập, có chủ
quyền về các mặt kinh tế, chính trị xã hội và địa lý. Nguyên tắc này bắt đầu từ
nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia với nhau. Nó
cũng bắt đầu từ nguyên tắc cùng có lợi, mà xét đến cùng là cùng có lợi về mặt
kinh tế với tư cách là cơ sở để cùng có lợi ích khác về chính trị, quân sự, xã
hội… Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi bên, trong hai hoặc nhiều bên phải thực hiện
đúng các vấn đề như :
Tôn trọng các điều khoản trong nghị định thư và trong hợp đồng kinh tế
đã ký kết.
Không đưa ra những điều kiện có phương hại đến lợi ích của hau.
Không được dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp vào nội bộ của quốc
gia có quan hệ, nhất là dùng thủ đoạn kinh tế kỹ thuật và kích động can thiệp
vào đường lối chính trị của quốc gia đó.
4. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế và phát triển kinh tế – xã hội
Trong cộng đồng quốc tế, đứng về trình độ kinh tế kỹ thuật mà xét, giữa
các quốc gia có điểm xuất phát và trình độ phát triển không đều nhau. Có thể
phân thành hai loại : nước có nền kinh tế phát triển và nước có nền kinh tế đang
phát triển hay kém phát triển.
Ở những nước có nền kinh tế đang kém phát triển, nhiều vấn đề gay cấn
đặt ra, trong đó mắt xích của cái vòng luẩn quẩn là trình độ kỹ thuật lạc hậu do
thiếu vốn. Vì vậy, đối với các nước này, việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế,
nhằm đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đạt tốc độ tăng
8
trưởng và phát triển kinh tế – xã hội cao, sao cho thu nhập quốc dân tính trên
đầu người vượt qua mức của loại nước nghèo nàn trên thế giới, từ đó tạo ra đà
phát triển ở giai đoạn sau.

Bốn nguyên tắc nói trên có liên quan mật thiết với nhau, đều có vai trò
và ý nghĩa quan trọng. Xa rời những nguyên tắc đó sẽ không thực hiện được
hoặc làm hạn chế tốc độ và hiệu quả của việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc dân
của mỗi quốc gia.
PHẦN II: CƠ SỞ THỰC TIỄN
I. THỰC TRẠNG CHUNG CỦA KINH TẾ VIỆT NAM VÀ QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
1. Thực trạng kinh tế Việt Nam
Năm 2001, trong tình hình có nhiều khó khăn hơn dự kiến, nền kinh tế
Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao 6,8%, cao
hơn mức của năm 2000. Cơ cấu kinh tế theo GDP đang chuyển dịch theo chiều
hướng tích cực, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp trong
GDP, tỷ trọng công nghiệp đạt 38%, dịch vụ 39% và nông – lâm – thuỷ – hải –
sản chiếm 23% so với các con số tương ứng của năm 2000 là 36,6%; 39,1% và
24,3%. Xét về sự đóng góp của các ngành trong việc thực hiện tốc độ tăng
trưởng 6,8% GDP thì khu vực công nghiệp đóng góp quan trọng chiếm 3,7%,
khu vực dịch vụ đóng góp 2,5% và nông – lâm – thuỷ – hải – sản đóng góp
0,6%. Sự đóng góp nổi bật của các ngành công nghiệp vào tốc độ tăng trưởng và
cơ cấu GDP của nền kinh tế nước ta đánh dấu bước tiến mới về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong năm 2001.
Đối chiếu với các chỉ tiêu đã đề ra trong Nghị quyết của Quốc hội về
nhiệm vụ năm 2001, thì còn 4 chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch, trong đó có 2 chỉ tiêu
quan trọng về kinh tế là mức tăng trưởng GDP đạt 6,8%, cao hơn mức của năm
2000 nhưng thấp hơn so với kế hoạch là 7,5%. Kim ngạch xuất khẩu tuy có tăng
về lượng song bị thua thiệt về giá khoảng 1,5 tỷ USD nên chỉ tăng 4,5% ( so với
9
mức đề ra là 16% ). Mặc dù chưa thực hiện được các chỉ tiêu đề ra, song trong
bối cảnh kinh tế khu vực và thế giới đang có chiều hướng xấu đi, suy giảm
mạnh, có nước tăng trưởng âm thì đạt được kết quả như trên là điều đáng khích
lệ.

Năm 2001, tình hình kinh tế xã hội tiếp tục ổn định, nước ta được công
nhận là nơi có môi trường đầu tư ổn định nhất khu vực sau sự kiện 11/9, đó là
những thuận lợi cơ bản mà ta phải tận dụng và phát huy. Công nghiệp nước ta có
vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục phát triển và tăng trưởng ổn định với tốc độ tăng
13,8%... Những thành tựu của năm 2001 đã tạo ra thế và lực mới để nước ta tiếp
tục phát triển, thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2001 – 2005.
Tuy nhiên điểm nổi bật kinh tế của nước ta nói chung là chất lượng tăng
trưởng và sức cạnh tranh của các sản phẩm, của doanh nghiệp còn thấp. Theo
đánh giá của tổ chức diễn đàn kinh tế thế giới ( WEF ) chỉ số cạnh tranh của
Việt Nam năm 1997 đứng thứ 49/53 quốc gia, năm 1998 cải thiện thêm 10 bậc
do các nước trong khu vực bị lâm vào khủng hoảng tài chính tiền tệ, thì đến năm
2001 lại lùi xuống vị trí 62/75 quốc gia xếp hạng.
Đánh giá lại tình hình kinh tế trong nước sẽ cho phép chúng ta đưa ra
những quyết định đúng đắn trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
2. Tình hình thực tế hội nhập của Việt Nam với các tổ chức kinh tế và
các nước trên thế giới
Năm 1992, hệ thống danh mục hàng xuất nhập khẩu chịu thuế tương đối
thống nhất và hài hoà, được đưa vào áp dụngnăm 1992. Cũng trong năm này,
hiệp định thương mại ưu đãi giữa Việt Nam và EEC ( nay là EU ) đã cung cấp
các hạn ngạch xuất khẩu cho hàng dệt và quần áo may sẵn của Việt Nam vào
Châu Âu, chúng ta dành các ưu đãi về thuế cho một số mặt hàng nhập từ EEC.
Hiệp định thương mại quan trọng với khu vực thị trường cao cấp và rộng lớn
này đã giải quyết được phần nào vấn đề thiếu hụt thị trường xuất khẩu của Việt
Nam, đồng thời mở ra và thúc đẩy tích cực một số mặt hàng xuất khẩu, tận dụng
được ưu thế về nguồn lực nội địa của quốc gia.
10

×