Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

LẠM PHÁT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT TỚI NỀN KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.5 KB, 35 trang )

Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
LẠM PHÁT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT TỚI NỀN KINH TẾ

A - MỞ ĐẦU
Bất kỳ nền kinh tế nào, từ mơ hình tập trung quan liêu bao cấp đến
kinh tế thị trường, muốn phát triển vững mạnh đều phải quan tâm đặc biệt tới
tam giác: tăng trưởng, thất nghiệp và lạm phát. Chúng liên kết hay đối lập,
chúng liên hợp những nhịp độ của tăng trưởng, sự tăng lên hay tụt xuống của
những lớp thất nghiệp dưới làm sóng lạm phát. Lạm phát, đó là hiện tượng
mất cân bằng kinh tế phổ biến, là căn bệnh kinh niên của kinh tế thị trường.
Lạm phát được coi là con quỷ gớm nhất trên trái đất, ít nhất là xét về triển
vọng chính sách kinh tế vĩ mơ. Tuy nhiên lạm phát cũng có tính chất hai mặt
của nó. Một mặt nó kích thích nền kinh tế phát triển nếu tốc độ tăng của nó
phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, nếu tốc độ lạm phát tăng
cao sẽ gây ra những biến động kinh tế hết sức nghiêm trọng, như biến dạng cơ
cấu sản xuất về việc làm, thu nhập bất bình đẳng, tỷ lệ thất nghiệp tăng....
Vì vậy, để có thể ổn định kinh tế ở một mức nhất định, lạm phát cần
giảm xuống ở mức có thể chấp nhận được. Và thực tế là xu hướng giảm lạm
phát gây ra tình trạng thiểu phát, đây cũng là biểu hiện của nền kinh tế trì trệ
khủng hoảng. Nên muốn ổn định đất nước cả về kinh tế và xã hội, để đảm bảo
quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người dân thì vấn đề tăng trưởng kinh tế và
chống lạm phát phải được thực hiện một cách thống nhất. Đây là một vấn đề
vĩ mô lớn, một mảng quan trọng của chính sách kinh tế .... vì vậy địi hỏi
chúng ta phải nắm vững lý luận chung về lạm phát. Chỉ có thấu hiểu một cách
khoa học về lý thuyết lạm phát thì mới có thể đạt được hiệu quả phát triển
kinh tế xã hội. Trong thực tế lạm phát là gì? Nguyên nhân gây ra lạm phát có
đa dạng khơng? Nền kinh tế bị cơn sóng lạm phát tác động như thế nào?
Chúng ta làm thế nào để phòng chống và khắc phục hậu quả của nó?.. Hy
vọng là với đề án “Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế ” có
thể phần nào trả lời được các câu hỏi này.
Website: Email : Tel : 0918.775.368




Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
Dọc chiều dài lịch sử, đã có rất nhiều các nhà kinh tế học nghiên cứu
về lạm phát. Mỗi nhà kinh tế học, mỗi trường phái đều có quan điểm khác
nhau về lạm phát. Góc nhìn nào cũng có những sự đánh giá, lời khuyên và dự
báo khách quan, vơ tư, nghiêm túc. Là sinh viên khoa Tài chính - Ngân hàng,
một cử nhân kinh tế tương lai, em thực sự say mê và hứng thú tìm hiểu về lạm
phát. Nhưng do hạn chế về kiến thức, giới hạn về thời gian và kinh nghiệm ...
chắc hẳn “vấn đề lạm phát” em nêu ra trong đề án này chưa tồn diện và sâu
sắc. Đây cũng chỉ là 1 góc nhìn về lạm phát dưới lăng kính của một sinh viên.

Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế

B- NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LẠM PHÁT
1. 1 Những vấn đề chung về lạm phát
1. 1. 1 Khái niệm lạm phát
Khi nghiên cứu chế độ lưu thông tiền giấy, chúng ta thấy rằng do tiền
giấy là dấu hiệu của vàng, thay thế cho vàng trong chức năng phương tiện lưu
thông và phương tiện thanh tốn. Tiền giấy là vật khơng có giá trị bản thân
mà chỉ có giá trị danh nghĩa. Vì vậy nó khơng thể tự phát điều hồ giữa chức
năng phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ (tích lũy) do đó tiền giấy
bị mất giá trở thành một hiện tượng phổ biến và thường xuyên. Từ đó có thể
nói rằng lạm phát cũng là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên trong các
quốc gia thực hiện chế độ lưu thông tiền giấy hiện nay. Vậy có thể hiểu cơ
bản lạm phát là việc phát hành thừa tiền giấy vào lưu thông, làm cho tiền giấy

bị mất giá, giá cả hàng hoá tăng lên, thu nhập quốc dân bị phân phối lại gây
thiệt hại đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội.
Lạm phát, một vấn đề kinh tế vĩ mô, một mối quan tâm lớn của nhiều
nhà kinh tế, có rất nhiều quan điểm nhìn nhận và định nghĩa lạm phát khác
nhau. Theo lý luận của Các Mác trong Bộ Tư Bản thì lạm phát là tình trạng
tiền giấy tràn đầy các kênh lưu thơng tiền tệ, vượt quá các nhu cầu kinh tế
thực tế làm cho tiền tệ mất giá, là phương tiện để phân phối lại thu nhập quốc
dân và của cải xã hội có lợi cho giai cấp thống trị dưới chế độ TBCN, là
phương pháp để tăng cường bóc lột lao động. Biểu hiện của lạm phát là giá cả
tăng một cách tự phát, nhất là các giá cả hàng tiêu dùng thông thường. Nội
dung lạm phát là sự liên tục tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian.
Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng lạm phát biểu thị một sự tăng lên
trong mức giá cả chung. Theo ông “lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả
và chi phí tăng- giá bánh mì, dầu xăng, xe ôtô tăng, tiền lương, giá đất, tiền
thuê tư liệu sản xuất tăng“. Milton Friedman đã có câu phát biểu nổi tiếng
“lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ “. Theo ý kiến của
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
ông những biến động tăng lên trong mức giá cả là một hiện tượng tiền tệ khi
và chỉ khi những biến động tăng lên đó từ một q trình kéo dài. Định nghĩa
lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài được đa số nhà kinh tế phái tiền
tệ hay phái Keynes đồng ý với Friedman.
Như vậy, lạm phát là một vấn đề không mấy xa lạ đối với nền kinh tế
hàng hoá, và hầu hết quảng đại quần chúng đều có thể chứng kiến hay trải
qua thời kỳ lạm phát ở những mức độ khác nhau. Nhưng hiểu chính xác lạm
phát là gì thì khơng dễ cũng như khó có thể đi đến một định nghĩa thống nhất.
Theo tiếng Latinh Inflatio xuất phát từ chữ Inflare, nghĩa là một chỗ sưng
phồng. Nếu một cơ bắp bị căng phồng hoặc một phủ tạng bị sưng to đều

không phải là biểu hiện của bệnh b bệu, thì mọi sự tăng trưởng của một
khối lượng kinh tế lại càng không phải là lạm phát. Lạm phát là một sự phình
ra gồm 2 đặc tính bất thường và gây tổn thất cho nền kinh tế. Khẳng định coi
lạm phát là một sự tăng phổ biến của giá cả cần nắm rõ 4 điểm sau:
- Tính từ phổ biến phải được hiểu một cách hợp lý: không phải mọi giá
đều tăng lên. Trong khung cảnh chung giá đang tăng lên, có những giá vẫn ổn
định thậm chí lại có những giá hạ xuống. Cũng không phải là các giá tăng lên
cùng một lúc và với tỉ lệ % giống nhau. Trong mọi động thái phổ biến của giá
cả thì sự phân tán là quy luật.
- Việc ước tính tỷ lệ lạm phát là khó khăn. Nó có giá trị như giá trị các
trị số được sử dụng thời kỳ càng dài thì giới hạn sai lạc của các cơng cụ
khơng hồn hảo ấy càng tăng. Ngay trong điều kiện sử dụng thuận lợi nhất,
tức là ở ngay trong cùng một nước và trong thời gian ngắn, chỉ số giá cả cũng
chỉ thể hiện áng chừng sự thay đổi sức mua của đồng tiền. Chỉ số giá cả sẽ
được trình bày rõ hơn ở phần tiếp theo.
- Mọi sự gia tăng trên một loạt giá cả không nhất thiết đã là lạm phát. Để
được gọi là lạm phát thì sự gia tăng đó phải tác động bằng một q trình
mạnh mẽ-sự vận hành với các diễn biến nối tiếp, liên tục và cần có một thời
gian nhất định. Chỉ một lần nâng mặt bằng giá cả có thể khơng phải là lạm
phát.
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
- Lạm phát khơng chỉ bao hàm một tính chất thuần tuý tiền tệ. Cần thiết
phải kể đến các yếu tố khác như yếu tố hiện vật, tâm lý và trọng lượng của
các yếu tố xã hội.
1. 1. 2 Tỷ lệ lạm phát
Mục trên chúng ta đã xem xét Lạm phát về mặt định tính, cịn về mặt
định lượng thì sao? Làm thế nào để đo lường được sự gia tăng của giá cả?

Lạm phát được đo bằng chỉ tiêu nào?
- Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn đầy các kênh lưu thông tiền tệ,
vượt quá các nhu cầu kinh tế thực tế làm cho tiền bị mất giá so với tồn bộ
sản phẩm hàng hố, thể hiện là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình
theo thời gian. Lạm phát thường được đo bằng chỉ số giá cả.
+ Mức giá trung bình thường lấy mức giá cả của những mặt hàng tiêu
dùng làm cơ sở (các nhóm chính là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà
cửa, chất đốt, vật tư y tế). Tính chỉ số giá tiêu dùng để từ đó đo Lạm phát.
Cơng thức tính chỉ số giá tiêu dùng có thể được viết như sau:
CPI=∑cpi. d
CPI ( Consumer Price Index ) chỉ số giá tiêu dùng của cả giỏ hàng hoá
cpi: Chỉ số giá cả của từng loại hàng hoá trong giỏ hàng hố đó.

d:

Tỷ trọng mức tiêu dùng trong từng loại hàng hố, nhóm hàng hố trong giỏ.
Hay:
CPI t =

Pt gạo
p0 gạo

x 100 x phần chi + pt chất đốt
cho gạo
p0 chất đốt

x 100 x phần chi + Những thay đổi của
cho chất
giá cả được tính với


Trong đó:
CPIt : giá trị của CPI trong năm t
pt gạo

: giá gạo trong năm t

po gạo

: giá gạo trong năm gốc

Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh cơ cấu tiêu dùng của xã hội. Nhược điểm
của CPI là chỉ số này không phản ánh được sự chuyển động của mọi giá cả vì
trong đó nặng về giá của hàng hoá hơn là giá của dịch vụ. Trong khi đó, cầu
của người tiêu dùng lại ngả về phía giá dịch vụ vì nhữmg loại giá này tăng
nhanh hơn giá hàng hố. Mặc dù có nhược điểm như vậy, chỉ số giá tiêu dùng
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
vẫn được sử dụng rộng rãi hơn cả. Vì họ thấy ở đấy trị số giá sinh hoạt, về
phía các nghiệp đồn thường dựa vào đó trong các u sách về tiền lương của
họ. Chỉ số này thường có giá trị kỹ thuật cao hơn các chỉ số giá khác và được
xây dựng, công bố thường xuyên, đều đặn.
+ Ngoài chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số thứ hai thường được sử dụng là
chỉ số giá bán buôn_giá cả sản xuất PPI (Producer Price Index). PPI phản ánh
sự biến động của giá cả đầu vào, thực chất là biến động giá cả chi phí sản
xuất. Nó được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản
xuất ấn định. Chỉ số này rất có ích vì nó được tính chi tiết sát với những thay
đổi của thực tế. Song PPI lại quá chuyên môn, chỉ liên quan tới nguyên liệu
và các bán thành phẩm mà loại trừ sản phẩm hồn chỉnh, dịch vụ. Do đó nó

khơng thể biểu thị cho sức mua, khơng phân biệt loại hàng của đồng tiền.
+Bên cạnh đó, chỉ số giảm phát GNP cũng được sử dụng trong đo
lường lạm phát. Chỉ số này tồn diện hơn CPI vì nó bao gồm giá của tất cả
các loại hàng hoá dịch vụ trong GNP.
Chỉ số giảm phát GNP = GDP danh nghĩa/GDP thực tế
- Triệu chứng của lạm phát không chỉ nằm trong lĩnh vự giá cả. Trong
nhiều trường hợp, tỷ suất tiền lương được nâng lên so với mức tăng trưởng
trung bình của năng suất cũng có đặc điểm như giá cả lên cao. Vì các chi phí
về nhân cơng lên cao là báo hiệu chắc chắn của xu hướng lạm phát sắp tới.
Một trong những khó khăn về kỹ thuật của việc đo lường hiện tượng lạm
phát là sự lựa chọn điểm xuất phát dùnglàm căn cứ. Vào thời điểm được chọn
lại chẳng có gì chứng tỏ là giá cả đã được cân đối. Nhất là với sự tác động của
thuế hoặc các chính sách khác về kiểm sốt giá cả, làm cho việc lựa chọn
những năm gốc thành bấp bênh. Đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hoá
như hiện nay, chỉ số giá tiêu dùng khác nhau từ nước này sang nước kia, còn
chỉ số giá sản xuất chỉ mang tính bộ phận và đầu cơ. Do vậy, cái chuẩn tốt
nhất có lẽ là chỉ số giá các sản phẩm công nghiệp thường được dùng làm hàng
trao đổi rộng rãi giữa các quốc gia. Bởi nó biểu thị rõ những biến động của
chi phí sản xuất cũng như những biến động trong sức mua của người tiêu
dùng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy
mô và sự biến động của nó phản ánh xu hướng và quy mơ của lạm phát.
Tỉ lệ lạm phát được tính theo công thức:
 I

gp =  p − 1 x100%

I

 p −1


Trong đó:
gp
: tỷ lệ lạm phát(%)
Ip : chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên c0ứu
Ip-1: chỉ số giá cả thời kỳ trước đó.
Khi lạm phát xảy ra thì đồng nghĩa với việc tăng lên của chỉ số giá cả,
nên mức cầu tiền danh nghĩa cũng tăng theo để đảm bảo thu mua khối lượng
hàng hoá cần thiết đã dự định. Như vậy thực chất của mức cầu tiền là cầu về
cán cân tiền tệ thực tế.
Nhưng trong thực tế thì lượng tiền danh nghĩa tăng nhanh hơn cả do vậy
tỉ lệ lạm phát cũng được tính bằng mức tăng lượng cung tiền danh nghĩa trừ
đi mức tăng nhu cầu tiền thực tế.
Theo lý thuyết định lượng đơn giản nói rằng: Do thu nhập thực tế và lãi
suất thường chỉ thay đổi nhỏ một vài phần trăm mỗi năm nên nhu cầu tiền
thực tế thường cũng chỉ thay đổi một cách chậm chạp. Khi lượng tiền danh
nghĩa tăng nhanh, về cơ bản nó kéo theo sự tăng nhanh của giá cả để đảm bảo
mức cung tiền thực tế chỉ thay đổi một cách chậm chạp tương ứng với những
thay đổi về nhu cầu tiền tệ. Lập luận cơ bản của lý thuyết định lượng về tiền
tệ là ở chỗ các biến số thực tế thường thay đổi một cách chậm chạp do đó
những thay đổi rất lớn trong một biến danh nghĩa (lượng tiền danh nghĩa)
phải kéo theo những thay đổi rất lớn trong các đại lượng danh nghĩa khác (giá
cả và tiền lương) để duy trì lượng cung tiền thực tế tại những giá trị cân bằng
của chúng.
1. 1. 3 Phân loại lạm phát
Có rất nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau.

Mỗi tiêu thức sẽ cho một hướng nhìn riêng về lạm phát. Người ta phân biệt
lạm phát lan dần biểu hiện ở sự tăng giá cả liên tục, thường xuyên và lạm
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
phát lan nhanh trong đó giá cả tăng lên vùn vụt và nhảy vọt. Tùy theo quá
trình lạm phát bao trùm khu vực này hay khu vực khác mà lạm phát được
chia thành lạm phát thế giới bao trùm một nhóm nước và lạm phát cục bộ chỉ
phát triển trong phạm vi một nước.
- Phổ biến là phân loại lạm phát về mặt định lượng. Tuỳ theo mức độ
của tỉ lệ % lạm phát tính theo năm mà người ta chia lạm phát thành ba loại
sau:lạm phát vừa phải(một con số mỗi năm), lạm phát phi mã (hai con số mỗi
năm) và siêu lạm phát.
Lạm phát vừa phải.
Lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng lên chậm ở mức một con số hay ở
mức dưới 10%/năm. Hiện ở phần lớn các nước tư bản chủ nghĩa đang có lạm
phát vừa phải. Trong điều kiện lạm phát vừa phải giá cả tăng chậm thường
xấp xỉ bằng mức tăng tiền lương hoặc cao hơn một chút. Do vậy đồng tiền
không bị mất giá hoặc mất giá không lớn. Lạm phát ở mức độ này không gây
ra những tác động đáng kể đối với nền kinh tế. Lạm phát vừa phải chính là
mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được.
Lạm phát phi mã
Lạm phát phi mã xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con
số trong một năm. Mức lạm phát 2 chữ số thấp (11, 12, 13%/năm) nói chung
những tác động tiêu cực của nó là khơng đáng kể, nền kinh tế vẫn có thể chấp
nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức 2 con số cao, lạm phát sẽ trở
thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập. Lạm phát sẽ gây ra những biến dạng
kinh tế, gây mất ổn định XH nghiêm trọng. Khi các hợp đồng kinh tế được ký
kết theo các chỉ số giá hoặc theo một đồng ngoại tệ mạnh nào đó, nếu lạm

phát xảy ra với sự tăng lên rất nhanh của chỉ số giá cả làm cho đồng tiền mất
giá so với các chỉ số giá hoặc đồng ngoại tệ đó sẽ làm cho các chủ doanh
nghiệp, các chủ hợp đồng. . . có thể ″phất″ lên và trái lại cũng có các chủ
doanh nghiệp, các ngành nghề suy sụp thậm chí phải chuyển hướng sản xuất kinh
doanh.
Siêu lạm phát
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột ngột tăng lên với tốc độ cao vượt
xa lạm phát phi mã, ở mức 3 con số. Siêu lạm phát thường gây ra những thiệt
hại nghiêm trọng và sâu sắc. Nó phá vỡ quy luật lưu thơng tiền tệ, lưu thơng
hàng hố gặp nhiều khó khăn, xã hội đầy những tiêu cực, nền kinh tế suy sụp
trì trệ khơng thể phát triển được. Lạm phát ở Đức năm 1922-1923 là hình ảnh
siêu lạm phát điển hình trong lịch sử siêu lạm phát thế giới: giá cả tăng từ một
đến mười triệu lần; ở Việt Nam điển hình của siêu lạm phát là thời kỳ 19861988 (nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp) lạm phát đã ở mức 3 con số và
ở mức cao.
Nếu được phép nói ẩn dụ thì có một động vật học trong lạm phát. Nếu
phát triển nhẹ nhàng thì như lồi bị sát, nếu tiến mạnh hơn thì như lồi ngựa,
lạm phát có thể chỉ bò đi hoặc trở thành phi mã. Trong cái vườn thú ấy cịn
phải dành chỗ cho lồi dê có những bước nhảy bất thường.
- Bên cạnh đó, người ta cũng tiến hành phân loại lạm phát xét về mặt
định tính.
Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
+ Lạm phát cân bằng: khi mà tỷ lệ lạm phát tăng tương ứng với thu
nhập, do vậy lạm phát không ảnh hưởng tới đời sống của người lao động.
+ Lạm phát không cân bằng: khi mà tỷ lệ lạm phát tăng không tương
ứng với thu nhập. Trên thực tế, lạm phát khơng cân bằng thường xảy ra nhất.
Lạm phát dự đốn trước và lạm phát bất thường

+ Lạm phát dự đoán trước: đó là lạm phát xảy ra trong một thời gian
tương đối dài với tỷ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vây,
người ta có thể dự đoán trước được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp theo.
Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình hình lạm phát đó và người ta đã có
những chuẩn bị để thích nghi với tình trạng lạm phát này.
+ Lạm phát bất thường: là lạm phát xảy ra co tính đột biến mà trước
đó chưa hề xuất hiện. Do vậy, về tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi
người đều chưa thích nghi được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc
cho nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền đương
đại.
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
1. 2 Nguyên nhân gây ra lạm phát
1.2.1. Lạm phát do tiền tệ
1.2.1.1. Lý thuyết về lượng của tiền tệ
- Hình thức hố thơng thường nhất của lý thuyết đó là cơng thức Irving
Fisher: M. V=P. T
Trong đó M là khối lượng tiền tệ lưu thông
V là tốc độ lưu thông của tiền tệ
P là mặt bằng chung của giá cả
T là khối lượng giao dịch phải bảo đảm
ý nghĩa của cơng thức đó là mọi sự tăng tiền tệ cao hơn tăng sản xuất thực tế
đều được thể hiện (đối với một tốc độ lưu thông không đổi của tiền tệ) ra
bằng sự hiệu chỉnh giá cả chung, sao cho giá trị tổng thể của trao đổi bằng giá
trị của khối lượng tiền tệ mới đang lưu thông. Trong thời han ngắn hoặc trong
trường hợp bộ máy sản xuất không đáp ứng được nhu cầu tăng lên, biến động
của giá cả sẽ tỷ lệ thuận với biến động của khối lượng tiền tệ.
- Một cách diễn đạt mới của quan hệ về lượng được gọi là Phương trình

Cambridge _ gắn với các cơng trình của Marshall: M = k. P. Y
Trong đó M là khối lương tiền tệ lưu thông
Y là thu nhập thực tế của quốc gia
P là mặt bằng chung của giá cả
k là hệ số biểu thị tỉ số giữa khối lượng tiền tệ và thu nhập phụ thuộc vào
nhiều yếu tố không đơn thuần là một hệ số kỹ thuật.
Sự tiếp cận này là lý thuyết về lượng với ý nghĩa độ lớn của khối lượng
tiền tệ quyết định giá trị của thu nhập quốc gia, nhưng nếu nó tìm cách đưa
tiền tệ vào nền kinh tế thì lại bỏ qua các quan hệ giữa cung và cầu của tiền
tệ .
1.2.1.2. Cung ứng tiền tệ và lạm phát
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, sự tiếp cận của các nhà tiền tệ học bước
vào thời kỳ mới, đặc biệt với cơng trình của Friedman. Ông đã định rõ nhu
cầu tiền tệ nhờ hàm Md/P = f(y, w, RM, RB, RE, Gp, u). Trong đó
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
Md biểu thị nhu cầu tiền tệ
P là mặt bằng giá
y là thu nhập dự kiến tính bằng bình quân thu nhập hiện tại và quá khứ
đã chỉnh lý
w là tỷ lệ giữa thu nhập từ thiết bị và con người
RM, RB, RE là hiệu suất danh nghĩa dự kiến của tiền tệ, trái phiếu và
cổ phần.
Gp là tỷ lệ lạm phát dự kiến
u là biến lượng biểu thị tất cả những yếu tố khác có thể giải thích
những nhu cầu cá nhân và tiền tệ
Theo ông nhịp điệu tăng trưởng của tiền tệ phải cùng nhịp điệu tăng
trưởng của nền sản xuất đích thực duy trì trong một thời gian dài và bảo đảm

một nền kinh tế không lạm phát. Nếu làm khác đi, nghĩa là nếu phát hành tiền
quá nhiều, những người muốn gửi tiền mặt tồn quỹ xác định bằng sức mua
của nó(tiền mặt tồn quỹ thực tế là M/P) và hàm của các biến thành phần ổn
định sẽ biến một phần tièn mặt tồn quỹ đó thành nhu cầu của cải để giữ
nguyên cấu trúc tài sản của họ. Hiệu ứng tiền mặt tồn quỹ thực tế sẽ gây nên
một nhu cầu quá mức, kéo giá cả tăng lên.
( T æ n g m ø c g iá )
A S3

P
P3

A S2

3
2

P2

A S1

2
1

P1

AD

1
AD

AD
0

3

2

1

Y
Yn

Y1

(Tổ n g sả n p h È m )

Cung ứng tiền tệ và lạm phát tiền tệ

Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
Chúng ta xem xét kết quả của việc cung tiền tệ tăng lên kéo dài ở đồ
thị 1. Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1, với sản lượng đạt mức sản lượng tự nhiên
Yn, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả P1 (điểm giao nhau của đường tổng
cung AS1 và đường tổng cầu AD1). Khi cung tiền tệ tăng lên đều đặn dần
dần trong suốt cả năm, thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2.
Trong một thời gian rất ngắn, nền kinh tế sẽ chuyển động đến điểm 1’ và sản
phẩm tăng lên trên mức tỷ lệ tự nhiên, tức là đạt tới Y1(Y1>Yn). Điều đó đã
làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiê, tiền

lương tăng lên và làm giảm tổng cung-đường tổng cung dịch chuyển vào đến
AS2. Tại đây, nền kinh tế quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm trên
đường tổng cung dài hạn. Điểm cân bằng mới 2, mức giá đã tăng từ P1 lên
P2. Cung tiền tệ tiếp tục tăng lên, đường tổng cầu lại dịch chuyển ra đến
AD3, đường tổng cung tiếp tục dịch chuyển vào AS3, nền kinh tế đạt mức
cân bằng mới là điểm 3. Nếu cung tiền tệ vẫn tiếp tục tăng thì sự dịch chuyển
của đường tổng cầu và tổng cung như trên lại tiếp tục diễn ra và nền kinh tế
đạt tới mức giá cả ngày càng cao hơn. Khi mà cung tiền tệ cịn tăng thì q
trình này sẽ tiếp tụcvà lạm phát sẽ xảy ra. .
Trong cách phân tích này của phái tiền tệ, cung tiền tệ được coi là
nguyên nhân duy nhất làm di chuyển đường tổng cầu, do vậy không co cái gì
nữa có thể làm nền kinh tế chuyển từ điểm 1 sang 2 và 3 và xa hơn. Theo
quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc phái tiền tệ( trong đó có Friedman) ,
khi cung tiền tệ tăng lên kéo dài sẽ làm cho mức giá cả tăng lên kéo dài và
gây ra lạm phát.
Theo phân tích của phái Keynes thì ngồi cung tiền tệ cịn có những
nhân tố khác ảnh hưởng đến đường tổng cầu và tổng cung(như là các chính
sách tài chính và các cú sốc cung tiền tệ). Tăng chi tiêu chính phủ hoặc cắt
giảm thuế cũng làm tăng tổng cầu do đó đẩy giá lên cao. Nhưng những vấn đề
của chính sách tài khố lại có giới hạn của nó, chính phủ khơng có thể chi hơn
100% GNP. Vì vây, việc tăng lên của tỷ lệ lạm phát trong trường hợp này chỉ
là tạm thời. Phân tích khác là về tác động của những cú sốc tiêu cực lên tổng
cung(như việc tăng giá dầu do hậụ quả của lệnh cấm vận dầu mỏ, đấu tranh
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
của cơng nhân địi tăng lương) cũng sẽ làm giá cả tăng lên. Song nếu cung
tiền tệ không tiếp tục tăng lên để tác động lên tổng cầu thì đến một lúc nào
đó, tổng cung lại quay trở lại vị trí ban đầu. Do vậy, tăng giá trong trường

hợp này cũng chỉ là một hiện tượng nhất thời mà thôi.
Rõ ràng là quan điểm của phái Keynes và phái tiền tệ tương đối thống
nhất nhau. Họ đều tin rằng lạm phát cao có thể xảy ra chỉ với một tỷ lệ tăng
trưởng tiền tệ cao.
1.2.2. Lạm phát do nhu cầu
1.2.2.1. Tiền tệ và nhu cầu quá mức
Quan hệ tiền tệ và nhu cầu quá mức đặc biệt chặt chẽ khi thừa nhận định
luật Say cổ xưa. Theo định luật này, sự cung cấp sản phẩm tạo ra nhu cầu
chính nó, nghĩa là nhu cầu tổng thể được tạo nên bởi toàn bộ thu nhập được
phân phối vào dịp sản xuất. Nhu cầu quá mức chỉ có thể có do sự tăng khơng
kiểm sốt được các phương tiện chi trả trong tay những người có nhu cầu.
Tính đặc thù của quan điểm giải thích lạm phát do nhu cầu, so với quan
điểm của phái tiền tệ là ở chỗ việc phát hành tiền tệ chỉ dẫn đến lạm phát
trong trường hợp bộ máy sản xuất không thể đáp ứng mức tăng của nhu cầu.
Thế là hiệu chỉnh cung-cầu được thực hiện bằng giá cả thay cho số lượng.
Lạm phát xảy ra khi khi nhu cầu quá mức lại nảy sinh và khơng có yếu tố
nào(năng lực sản xuất vật chất tăng, tuyển thợ mới, thêm nguyên liệu mới)
can thiệp vào để làm tăng mức cung ứng tổng thể đủ để thoả mãn nhu cầu.
1.2.2.2. Lạm phát cầu kéo
Trong chính sách kinh tế vĩ mơ, Chính phủ vì muốn đạt được mục đích
của mình(cơng ăn việc làm cao) nên phải áp dụng một tỷ lệ tăng trưởng tiền
tệ cao và xảy ra lạm phát. Chính các nhà hoạch định theo đuổi các chính sách
làm đường tổng cầu di chuyển ra dẫn đến lạm phát cầu kéo.
Ngay cả khi công ăn việc làm đầy đủ, thất nghiệp lúc nào cũng tồn tại
do những xung đột trên thị trường. Vì vậy tỷ lệ thất nghiệp khi có cơng ăn
việc làm ổn định-tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ lớn hơn không. Sự ấn định tỷ lệ
thất nghiệp dưới mức tự nhiên dẫn tới diễn biến như thế nào?Chúng ta sẽ chỉ
ra điều đó thơng qua phân tích đồ thị tổng cung tổng cầu sau đây
Website: Email : Tel : 0918.775.368



Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
( T æ n g m ø c g iá )
A S3

P

A S2

P3

3

P2

2

P1

1

A S1

2
1

AD

3


AD2
AD
0

1

Y
Yn

Yt

(Tổ n g sả n p h È m )

Lạm phát cầu kéo
Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1 với mức sản phẩm tiềm năng Yn. Các
nhà hoạch định chính sách đưa ra những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản
phẩm lơn hơn mức sản lượng tiềm năng, mức chỉ tiêu cần đạt dó là Yt (Yt >
Yn). Các biện pháp mà họ đưa ra sẽ tác động lên tổng cầu và làm tăng tổng
cầu, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển ra đến AD2, nền kinh tế dịch chuyển đến
điểm 1’. Đó là giao điểm giữa đường tổng cầu mới AD2 và đường tổng cung
ban đầu AS1. Sản lượng bây giờ đã đạt tới mức Yt, mục tiêu tỷ lệ thất nghiệp
thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên đã đạt được. Cũng chính vì vậy tiền lương
tăng lên và đường tổng cung sẽ di chuyển vào đến AS2, đưa nền kinh tế từ
điểm 1’ sang điểm 2’. Nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng tiềm năng và tỷ
lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở một mức giá cả P2 cao hơn P1.
Đến lúc này tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn mục tiêu mà các nhà hoạch
định cần đạt được. Do đó, họ lại tiếp tục thực hiện các chính sách làm tăng
đường tổng cầu. Quá trình này cứ tiếp diễn liên tục và đẩy giá cả trong nền
kinh tế lên cao hơn. Nhưng vì giới hạn của những chính sách tài chính(giới
hạn trong tăng chi tiêu chính phủ và giảm thuế) nên họ phải áp dụng chính

sách tiền tệ bành trướng, nghĩa là liên tục tăng cung tiền tệ và dẫn tới một tỷ
lệ tăng trưởng tiền tệ cao. Họ không thu được điều tốt của một mức sản phẩm
thường xuyên cao mà lại gây nên điều xấu là một cuộc lạm phát. Lạm phát
cầu-kéo cũng là một hiện tượng tiền tệ.
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
1.2.3. Lạm phát do chi phí
1.2.3.1. Quan điểm về lạm phát do chi phí
Theo ý kiến lạm phát do nguyên nhân chi phí sản xuất, lạm phát phát
sinh từ chỗ tăng tiền chi cho các yếu tố sản xuất cao hơn khả năng sản xuất
của chúng. Sự tăng đó đã kích động các chủ doanh nghiệp tăng giá sản phẩm
của họ(hàng hoá hoặc dịch vụ) bán cho các doanh nghiệp, gia đình. Những
người này lại có xu hướng tăng giá của họ hoặc yêu cầu tăng tiền lương. Cứ
thế từ thời kỳ này qua thời kỳ khác, quá trình lạm phát được hình thành và
duy trì. Vậy, nguồn gốc của lạm phát là ở trong quá trình hình thành chi phí
và cung cấp.
1.2.3.2. Lạm phát phí đẩy
Tương tự như lạm phát cầu kéo, cũng từ chính sách ổn định năng động
nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao, lạm phát phí đẩy xảy ra do
những cú sốc cung tiêu cực hoăc do cơng nhân địi tăng lương cao hơn gây
nên.
( T æ n g m ø c g i¸ )
A S3

P

A S2
3’


P3
P 2’
P3
P 1’
P1

2’

A S1

3
2
AD

1’

AD

1

AD

3

2

1

Y

0

Y’ Yn

(Tỉ n g s¶ n p h È m )

Lạm phát phí đẩy
Lúc đầu nền kinh tế ở tại điểm 1, là giao điểm của đường tổng cầu AD1
và đường tổng cung AS1, với mức sản lượng tự nhiên Y’ và tỷ lệ thất nghiệp
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
tự nhiên. Do mong muốn có được mức sống cao hơn hoặc cho rằng tỷ lệ lạm
phát dự tính trong nền kinh tế sẽ tăng cao, những người công nhân đấu tranh
địi tăng lương. Vì tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên
những địi hỏi tăng lương của cơng nhân dễ được chấp nhận. ảnh hưởng của
việc tăng lương( cũng giống như ảnh hưởng của những cú sốc cung tiêu cực)
làm đường tổng cung AS1 dịch chuyển vào đến AS2. Nền kinh tế sẽ xhuyển
từ điểm 1 đến 1’- giao điểm của đường tổng cung AS2 và đường tổng cầu
AD1. Sản lượng đã giảm xuống dưới mức sản lượng tự nhiên Y’ ( Y’ < Yn )
và tỷ lệ thất nghiệp cao hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên đồng thời mức giá cả
tăng lên đến P1’. Vì mục đích muốn duy trì một mức cơng ăn việc làm cao
hơn hiện tại, Chính phủ sẽ thực hiện các chính điều chỉnh năng động nhằm tác
động lên tổng cầu, làm tăng tổng cầu, lúc này đường tổng cầu AD1 dịch
chuyển ra AD2, nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên tại điểm cân bằng mới-điểm 2, mức giá cả tăng lên đến P2.
Các công nhân đã được nhượng bộ và được tăng lương vẫn có thể tiếp
tục đòi tăng lương lên cao hơn. Đồng thời, những sự nhượng bộ đó đã tạo ra
sự chênh lệch mức lương trong tầng lớp cơng nhân. Tình trạng địi tăng lương

lại tiếp tục diễn ra, kết quả là đường tổng cung lại di chuyển vào AS3, thất
nghiệp lại tăng lên cao hơn mức tỷ lệ tự nhiên. Chính phủ phải tiếp tục thực
hiện các chính sách điều chỉnh năng động( chính sách điều hồ) làm dịch
chuyển đường tổng cầu ra AD3 để đưa nnền kinh tế trở lại mức sản lượng
tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả cũng tăng lên đến P3. Nếu
qua trình này cứ tiếp tục được tiếp diễn thì kết quả sẽ là việc tăng liên tục của
mức giá cả. Đây chính là tình trạng lạm phát phí đẩy.
Theo cách phân tích của phái Keynes , sự di chuyển đầu tiên của đường
tổng cầu đến AD2 chắc chắn có thể đạt được bằng sự tăng lên “ một đợt “ của
chi tiêu chính phủ hoặc giảm xng “ một đợt “ của thuế. Song vì giới hạn
của chi tiêu và giảm thuế, chính sách này gây ra những tác động làm tăng
tổng cầu trong thời gian ngắn. Việc di chuyển liên tục đường tổng cầu chỉ có
thể là việc tăng cung ứng tiền tệ liên tục. Nên lạm phát phí đẩy cũng là một

Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
hiện tượng tiền tệ vì nó khơng có thể xảy ra mà khơng có chính sách điều hồ,
được các nhà chức trách tiền tệ đồng ý một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn.
1.2.4. Lạm phát do một số nguyên nhân khác
1.2.4.1. Thâm hụt ngân sách và lạm phát
Khi ngân sách của 1 quốc gia thâm hụt, để bù đắp sự thâm hụt này Nhà
nước phát hành tiền hoặc phát hành trái phiếu chính phủ.
Với các nước đang phát triển, thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát
hành trái phiếu chính phủ để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước là rất khó
thực hiện. Chủ yếu là trang trải bằng cách in tiền, làm tăng trực tiếp cơ số tiền
tệ do đó tăng cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỷ lệ lạm phát.
Khi thâm hụt cịn dai dẳng q trình này sẽ tiếp tục và đưa đến lạm phát kéo
dài. Nếu thêm hụt tạm thời thì khơng gây nên lạm phát do chỉ diễn ra “ một

đợt “, chỉ gây nên sự tăng lên một đợt trong mức giá cả, lạm phát khơng mở
rộng.
Với các nước có nền kinh tế phát triển giải pháp bù đắp thâm hụt ngân
sách thường là phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường tài chính để vay
vốn trong dân chúng. Một khối lượng lượng lớn trái phiếu chính phủ có thể
được bán ra, nguồn vốn vay này sẽ bù vào phần thâm hụt. Tuy nhiên, nếu
chính phủ cứ tiếp tục phát hàng trái phiếu ra thị trường, cầu về vốn vay sẽ
tăng do đó lãi suất sẽ tăng cao. Để hạn chế việc tăng lãi suất thị trường, Ngan
hàng TƯ sẽ phải mua vào các trái phiếu đó, điều này lại làm cho cung tièn tệ
tăng.
Như vậy, trong mọi trường hợp tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước
nếu cao va kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền tệ gây lạm phát.
1.2.4.2. Tỷ giá hối đoái và lạm phát
Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là
nguyên nhân gây ra lạm phát. Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá. Trước hết
nó tác động lên tâm lý của những người sản xuất trong nước, muốn kéo giá
hàng lên theo mức tăng của tỷ giá hối đoái. Đồng thời, tỷ giá tăng cũng khiến
giá nguyên liệu, hàng hoá nhập khẩu cũng tăng cao, đẩy chi phí về phía
nguyên liệu tăng lênm lại quay về lạm phát phí đẩy. Việc tăng giá cả hàng
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
hoá nhập khẩu và nguyên liệu thường gây ra phản ứng dây chuyền. Nó làm
tăng giá cả ở rất nhiều hàng hoá khác, đặc biệ là hàng hoá ở những ngành sử
dụng nguyên liệu nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau( như nguyên liệu ngành này là sản phẩm ngành kia)
Vậy, nguyên nhân cảu lạm phát rất đa dạng và được hiểu theo nhiều cách
nhìn khác nhau. Lạm phát xuất phát từ những nguyên nhân như: nền kinh tế
quốc dân bị mất cân đối, sản xuất sút kém, ngân sách quốc gia bị thâm hụt ;

bội chi ngân sách cung cấp tiền tệ tăng trưởng quá mức ; hệ thống chính trị bị
khủng hoảng làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ bị xói mịn,
sức mua và uy tín của đồng tiền bị giảm sút ; nguyên nhân chủ quan là việc
nhà nước chủ động sử dụng lạm phát như là một cơng cụ để thực thi chính
sách kinh tế của mình. . . Lạm phát vừa là một phạm trù kinh tế khách quan,
vừa là một công cụ kinh tế. Rõ ràng là lạm phát mang bản chất kinh tế xã hội
sâu sắc chứ không phải là một hiện tượng tự nhiên của nền kinh tế thị trường.

Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT TỚI NỀN KINH TẾ
Lạm phát không phải lúc nào cũng là một tai hoạ, đối với mọi người ,
đối với mọi quan điểm. Nó cũng có những tác động tích cực tới nền kinh tế.
Nó kích khích việc sử dụng nhân cơng hoặc ít ra cũng trùng với việc ấy, lạm
phát kéo theo sự tăng trưởng của các năng lực sản xuất. Lạm phát có tác dụng
địn bẩy với khả năng sinh lợi tài chính. Hiển nhiên, vì nó giảm bớt trọng
lượng cơng nợ nên càng thúc đẩy các doanh nghiệp tìm vốn đầu tư bên ngoài
khi tỷ lệ lợi nhuận trong nước cao hơn lãi suất vốn đi vay, vì một tình trạng
như vậy nâng cao doanh lợi của tài sản tự có của họ.
Song cái bề mặt sáng sủa chỉ là giả tạo. Ngoại trừ lạm phát nhỏ, lạm
phát vừa phải cịn có tác động tích cực tới nền kinh tế, nói chung lạm phát
gây ra nhiều cái bất lợi nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển
đi lên của nền kinh tế xã hội.
2.1. Lạm phát tác động tới lãi suất
Lạm phát tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã
hội của một quốc gia. Đáng kể đầu tiên là tác động lên lãi suất. Với hệ thống
ngân hàng, để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình, nó ln ln cố gắng
duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có. Nghĩa là ln ln cần

giữ cho lãi suất thực ổn định.
Ta biết rằng Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát
Do đó, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn giữ cho lãi suất thực ổn
định, khơng cịn cách nào khác là lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với
tỷ lệ lạm phát. Trong một nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế thị trường vấn
đề lãi suất là cực kỳ quan trọng và có tác đông mạnh mẽ. Tăng lãi suất danh
nghĩa dẫn tới hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và
thất nghiệp gia tăng.
2.2. Lạm phát và thu nhập
2.2.1. Lạm phát ảnh hưởng tới thu nhập thực tế

Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ
làm giảm thu nhập thực tế của người lao động
Ví dụ như với 600000 đồng tiền lương/ tháng, một công nhân sẽ mua
được 2 tạ gạo giá 3000đồng/kg. Vào năm sau nếu tiền lương của người công
nhân này không dổi, nhưng tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế vào năm sau tăng
thêm 50% so với năm trước. Tức là giá gạo tăng lên thành 4500đồng/kg, với
số tiền lương nhận được trong 1 tháng, người công nhan này chỉ mau được
133, 3 kg gạo.
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản khơng có
lãi ( tức tiền mặt ) mà cịn làm hao mịn giá trị của những tài sản có lãi. Tức là
giảm thu nhập thực tế từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Điều đó xảy ra là
do chính sách thuế của nhà nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh
nghĩa. Khi lạm phát tăng cao, những người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để
bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao, điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà
người có tiền cho vay phải nộp tăng cao, mặc dù thuế suất vẫn không tăng.

Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng (thu nhập sau thuế), thu nhập thực(sau
khi đã loại trừ tác động của lạm phát) mà người cho vay nhận được giảm đi.
Suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống của người lao động trở nên
khó khăn hơn sẽ làm giảm lịng tin của dân chúng đối với Chính phủ. Từ đó,
những hậu quả về chính trị xã hội có thể xảy ra.
2.2.2. Lạm phát khiến phân phối thu nhập khơng bình đẳng
Nhìn một cách xác thực thì khi lạm phát xảy ra thì người bị thiệt hại là
người làm công ăn lương, những người cho vay là bị thiệt hại, cịn những
người có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi. Điều này tạo nên sự phân
phối thu nhập khơng bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay, giữa
công nhân và nhà tư bản. Hơn thế nữa, nó cịn thúc đẩy những người kinh
doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi. Do vậy, càng tăng
thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế, đẩy lãi suất lên cao. Để tránh thiệt
hại đáng tiếc xảy ra thì chúng ta phải làm như thế nào, điều đó đã được một
số nhà kinh tế đưa ra bài toán lãi suất cần phải được điều chỉnh sao cho phù
hợp với đúng tỉ lệ lạm phát.
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
Một cách tổng quan hơn là khi có dự đốn về lạm phát thì người làm ăn
kinh tế ngầm dự trữ vàng, đầutư vào bất động sản và ngồi chờ lạm phát xảy ra
và nhờ bất động sản đã giàu lên nhanh chóng. . Và ngược lại khi giá vàng bị
đẩy lùi trở lại thì những kẻ dự trữ vàng vẫn khơng bị thiệt hại gìTrong trường
hợp lạm phát tăng cao, người thừa tiền và giàu có vơ vét và thu gom hàng
hoá, tài sản. Khi ấy, nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng này càng mất cân đối
nghiêm trọng quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường, giá cả hàng hố
cũng lên cơn sốt cao hơn. Cịn những người làm công ăn lương đã nghèo nay
càng nghèo hơn. Họ thậm chí khơng mua nổi những hàng hố thiết yếu trong
khi những kẻ đầu cơ ngày càng giàu có hơn. tình trạng lạm phát như vậy sẽ có

thể gây ra những rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra khoảng cách lớn về thu
nhập, mức sống giữa người nghèo và người giàu.
2.3. Tác động của lạm phát đối với công ăn việc làm và ngân sách nhà
nước
Khi có lạm phát xảy ra nói chung nó có tác động làm tăng trưởng nền
kinh tế và tạo ra công ăn việc làm, đó là đối với nền kinh tế thi trường, cịn
đối với nền kinh tế bao cấp thì sao? Đó sẽ là điều hồn tồn ngược lại, vì việc
sản xuất nhiều hay ít đều do Nhà nước quy định quy định, chỉ tiêu gía cả
được Nhà nước ấn định, nên sự thúc đẩy của lạm phát với gia tăng sản xuất là
khơng có. Nhìn chung ở giai đoạn hiện nay mọi người đều có chỗ làm cả
nhưng khơng đủ việc để làm. Đây là một dạng thất nghiệp trá hình.
Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát đồng
nghĩa với cung tín dụng lớn lên q nhanh chóng, nó tạo cơ hội cho các nhà
kinh doanh để đầu tư thêm, công ăn việc làm cũng được tạo ra. Nhưng khi
lạm phát giảm thì lao động và vốn bị bỏ không, không sử dụng hết năng lực
của nền kinh tế. Lúc này các món nợ của ngân hàng và các chủ nợ khác sẽ dễ
dàng thu lại được, nhưng nếu là ngân hàng tư nhân họ sẽ không bị thiệt hại gì
cả mà chỉ có người gửi tiền mới bị thệt hại. Nhưng nếu ngân hàng là của Nhà
nước chủ yếu hoạt động bằng vốn ngân sách thì thật là một nguy cơ khi có
lạm phát, vốn được cấp sẽ bị hao mịn dần, càng bổ sung thêm vốn thì tốc độ
lạm phát càng tăng lên nhanh. Tất nhiên lạm phát tăng lên thì có khuynh
hướng tăng tiền lương và chi phí sản xuất. Những khoản chi tiêu cơng( tiền
cơng, tiền lương) thường tăng nhiều và nhanh hơn những khoản thu nhập về
thuế. Sự mất cân đối tự phát ấy của ngân sách nhà nước làm tăng sự phồng
lên của tiền tệ do những đợt "bơm" tiền mặt kho bạc thực hiện. Trong điều
kiện bao cấp do kinh tế phát triển không phù hợp với mức tăng của lạm phát
nên tài sản quốc gia sẽ bị mất mát đáng kể và đến khi Nhà nước sử dụng các
biện pháp để đẩy lùi lạm phát thì lập tức nhiều món tiền cho vay của Nhà
nước khó được hồn trả (nợ khó đòi tăng lên).
Website: Email : Tel : 0918.775.368



Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
Tất nhiên, nhà nước cũng thấy, qua tính tốn thực là số tiền để trả nợ
trong nước có nhỏ dần đi. Nhưng tầm quan trọng của sự giảm nhẹ này tuỳ
thuộc vào sô tiền nợ so với các khoản thu vào ngân sách. Và lạm phát càng
kéo dài thì số nợ này càng bị cán mỏng thêm.
Vậy, lạm phát chỉ lúc đầu mang lại thu nhập cho ngân sách qua cơ chế
phân phối lại sản phẩm và thu nhập quốc dân. Sau đó do ảnh hưởng nặng nề
của lạm phát mà những nguồn thu của ngân sách (chủ yếu là thuế) ngày càng
bị giảm do sản xuất bị sút kém, nhiều cty giải thể. . . trật tự an tồn xã hội bị
phá hoại nặng nề.
Tóm lại: hậu quả mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế là rất nặng nề và
nghiêm trọng. Lạm phát gây hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của
một nước. Lạm phát làm cho việc phân phối lại thu nhập và sản phẩm xã hội
trong nền kinh tế qua giá cả đã khiến q trình phân hố giàu nghèo nghiêm
trọng hơn. Lạm phát làm cho một nhóm này thu được lợi lộc cịn nhóm khác
bị thiệt hại nặng nề. Nhưng suy cho đến cùng gánh nặng lạm phát lại đè lên
vai người lao động. Chính người lao động là người gánh chịu mọi hậu quả của
lạm phát.

Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
CHƯƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC LẠM PHÁT
Khi lạm phát đã xảy ra nặng nề và nghiêm trọng thì các Chính phủ của
các nước phải tìm cách để chống lại lạm phát nhằm khôi phục lại sức mua của
đồng tiền. Nói như vậy có nghĩa là việc thực hiện các biện pháp ổn định tiền
tệ và kiềm chế lạm phát sẽ trở thành một trong những chính sách lớn trong

phát triển kinh tế của các nước.
Ổn định tiền tệ nói chung và kiềm chế lạm phát nói riêng là việc Nhà
nước áp dụng các biện pháp về kinh tế và tổ chức và kỹ thuật để ổn định sức
mua của đồng tiền tạo điều kiện để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ổn định
tiền tệ ngay nay là ổn định sức mua của tiền giấy trên cơ sở ngăn chặn sự leo
thang của giá cả hàng hoá (kể cả vàng) bằng cách giải quyết các vế của mối
quan hệ giữa tiền (T) và hàng (H). Nhưng dù có áp dụng biện pháp gì đi nữa
thì các mục tiêu cơ bản vẫn phải đạt được, nếu khơng thì chính sách tiền tệ và
kiềm chế lạm phát sẽ khơng cịn đầy đủ ý nghĩa của nó. Những mục tiêu đó là
ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
tạo công ăn việc làm... Như vậy việc áp dụng các biện pháp đó có thể bao
gồm các biện pháp có tính chất chiến lược cùng các biện pháp cấp bách trước
mắt.
3.1. Những biện pháp cấp bách trước mắt
Biện pháp cấp bách trước mắt để ổn định tiền tệ và chống đỡ lạm phát
được thực hiện trong hoàn cảnh lạm phát xảy ra nghiêm trọng, cơn sốt lạm
phát cao thì sẽ có tác dụng nhanh chóng hơn. Những biện pháp như vậy được
gọi là biện pháp tình thế để đối phó với thực trạng báo động của tình hình tiền
tệ giá cả.
3.1.1. Chính sách tiền tệ
Sức đẩy của lạm phát khiến người ta lại quan tâm tới chủ nghĩa tiền tệ.
Biện pháp bắt nguồn từ quan điểm cho rằng lạm phát bao giờ cũng là hiện
tượng của tiền tệ, nên biện pháp ổn định tiền tệ và chống lạm phát phải bắt
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế
đầu từ lĩnh vực tiền tệ tín dụng. Do đó nó dựa trên sự thơng báo và sự tn
thủ của chính quyền về ba phương hướng:
- Giữ ở một giới hạn việc tăng thêm các khối tiền; cho dù sau này lãi

suất có biến động ra sao, thì nhà chức trách tiền tệ cũng không chùn tay.
- Cố duy trì sự cân đối của ngân sách quốc gia; đó là điều kiện để giữ
được thế trung lập của nó.
- Thả cho tỉ lệ hối đối tự do trơi nổi "theo đúng nghĩa" để nó tự tìm
được mức cân đối.
Các phương tiện kìm hãm trên là tồn bộ các biện pháp mà các nhà
chức trách tiền tệ hy vọng điều tiết được việc phát hành tiền và chủ yếu là tín
dụng, thành phần chính của nó.
Những hoạt động thực thi nhiều nhất là:
- Quản lý chặt chẽ việc cung ứng tiền, thực hiện chính sách đóng bằng
tiền tệ.
- Quản lý hạn chế thật mạnh khả năng "Tạo tiền" của ngân hàng thương
mại bằng cách tăng tỷlệ dự trữ bắt buộc, xiết chặt tín dụng...
- Nâng cao lãi suất tín dụng để thu hút tiền mặt trong nền kinh tế - xã
hội, nhờ đó làm giảm lượng tiền cung ứng, mặt khác nâng cao lãi suất tín
dụng cũng làm giảm khả năng mở rộng tín dụng của các ngân hàng thương
mại.
- Trường hợp cần thiết có thể áp dụng biện pháp cải cách tiền tệ, phát
hành tiền mới thu đổi tiền cũ để lập lại trật tự trong lưu thông tiền tệ.
Cái lợi của các biện pháp tiền tệ là công việc được thực thi nhanh
chóng. Nhà cầm quyền dễ dàng thay đổi ln và khơng có thời hạn tỉ suất
chiết khấu hoặc những quy tắc về khả năng thanh toán của các ngân hàng.
Nhưng kinh nghiệm đã chứng minh là chính sách tiền tệ cũng đụng phải
những trở lực to lớn.
3.1.2. Chính sách ngân sách

Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế

Áp dụng biện pháp về tài chính ngân sách có ý nghĩa quan trọng và
then chốt, bởi vì người ta đều đồng ý rằng sự khủng hoảng của hệ thống tài
chính Nhà nước, ngân sách bị thâm hụt là ngun nhân chính của lạm phát, do
đó nếu dập tắt được nguyên nhân này thì tiền tệ sẽ ổn định, lạm phát sẽ được
kiểm sốt. Chính sách ngân sách là vận dụng các khoản thu cũng như các
khoản chi để nén bớt mặt cầu lại, nhưng cũng phải làm sao để mặt cung
không bị sa sút. Nhưng do các khoản chi cơng thường phần nhiều khơng thể
nén lại được, vì vậy chỉ còn cách tăng thuế. Theo cách gọi chung là chính
sách "thuế", chúng ta có thể phải chú ý tới ba vấn đề.
Một là, trong khi thực thi, rất khó "dân chủ". Nếu cần phải hạn chế tiêu
dùng, thì không phải chỉ hạn chế những tiêu dùng loại sang mà cũng phải hạn
chế cả những tiêu dùng của đông đảo quần chúng. Theo cách đó thì một loại
thuế có hiệu suất cao là thuế giá trị gia tăng, thu nhanh, thường là một tháng
sau khi bán được hàng. Đó là một biện pháp có hiệu lực mạnh để làm cho chi
dùng ăn khớp với số thuế phải nộp.
Vấn đề thứ hai là dựa vào loại thuế nào. Mỗi thứ thuế có hiệu quả khác
nhau; muốn phù hợp với mục tiêu đã đề ra thì chúng phải đánh mạnh vào sức
tiêu dùng và ít làm suy yếu tiết kiệm; phải làm giá cả ít tăng lên và phải cắt
được chính xác hơn phần thu nhập sẽ được đem ra chi dùng.
Thứ ba là sự điều chỉnh hoặc làm cho cập nhật các khoản của bảng thuế
biểu sao cho thích ứng với lạm phát.
Cụ thể, trước hết phải tìm cách để giảm dần bội chi tiến tới thăng bằng
thu chi ngân sách bằng cách tiết kiệm chi nhất là những khoản chi cho bộ máy
quản lý hành chính, những khoản chi chưa thật cấp thiết cũng cần phải cắt bỏ
hoặc giảm thiểu để làm giảm sự căng thẳng của ngân sách.
Tăng cường bồi dưỡng và mở rộng các khoản thu từ nền kinh tế, chống
thất thu thuế, đồng thời phải thực hiện thu đúng, thu đủ, công bằng để không
gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống.

Website: Email : Tel : 0918.775.368



×