Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.68 KB, 73 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển kinh tế, nhiều nước trên thế giới đã có được
những thành cơng to lớn nhờ có các chính sách phát triển kinh tế − xã hội đúng
đắn mà một trong những yếu tố cơ bản là có được chính sách phát triển cơng
nghiệp phù hợp. Tiêu biểu cho sự thành công này phải kể đến các nước NIC.
Mặc dù với xuất phát điểm khơng cao nhưng nhờ có chính sách phát triển cơng
nghiệp đúng đắn, các nước này đã nhanh chóng trở thành những con rồng châu á
và đang cạnh tranh với những nước có nền kinh tế phát triển khác.
Dự thảo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khố VIII
trình Đại hội đại biểu toanf quốc lần thứ IX có nêu: “ Mục tiêu tổng quát của
chiến lược phát triển kinh tế − xã hội 10 năm 2001− 2010 là: Đẩy mạnh CNH−
HĐH đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, tập trung sức xây dựng có
chọn lọc một số cơ sở cơng nghiệp nặng quan trọng và công nghệ cao sản xuất
tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật; công nghệ chế biến
tiên tiến cho các ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đáp ứng
nhu cầu quốc phàng, tạo nền tảng đến 2020 nước ta trở thành một nước cơng
nghiệp“.
Để thực hiện mục tiêu đó, Việt Nam cần thiết phải xây dựng vf thực hiện
được một chính sách phát triển kinh tế nói chung và một chính sách phát triển
cơng nghiệp hữu hiệu nói riêng. Song đối với Việt Nam quan niệm về chính
sách cơng nghiệp cịn chưa áo sự nhất n. vì vậy việc nghiên cứu chính sách
cơng nghiệp Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng cho
việc thực hiện dường lối đẩy mạnh CNH−HĐH đất nước, đưa Việt Nam cơ bản
trở thành một cước công nghiệp vào năm 2020.
Đó cũng là lý do khiến em chọn đề tài: “Một số giải pháp hồn thiện
chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001− 2020”, với mong
muốn góp một phần cơng sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất
nước.
1



Do có hạn chế vì thời gian và trình độ, đề tài chắc chắn sẽ cịn nhiều thiếu
sót, Em rất mong có được sự phê bình, sửa chữa của thầy cơ để chun đề thực
tập được hồn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠNG NGHIỆP
I. BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA CHÍNH SÁCH CƠNG NGHIỆP
Hai thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ II, có thể coi là thời kỳ tăng
trưởng kinh tế nhanh nhất của chủ nghĩa tư bản . Tất cả các nước cơng nghiệp
chính trong giai đoạn này đều trải qua mọt giai đoạn tăng trưởng nhanh với lạm
phát và thất nghiệp thấp. Đây cũng là lý do đưa học thuyết của J. Keynes- Nhà
kinh tế học người Mỹ (1883-1946) trở thành một tư tưởng kinh tế phổ biến rộng
rãi ở các trung tâm quyền lực của thế giới tư bản .
Thế nhưng, với các cú sốc dầu lửa thập kỷ 70s đã mở đầu cho sự sụp đổ
của một giai đoạn tăng trưởng đầy ấn tượng trước đây.Đã có rất nhiều những
thay đổi mang tính chất cơ cấu trong nền kinh tế thế giới. Sự dịch chuyển lao
động từ khu vực nông nghiệp truyền thống sang các ngành công nghiệp và dịch
vụ tạo ra một thị trường lao động vói giá nhân công tăng và sự lớn mạnh của các
tổ chức nghiệp đồn.
Bên cạnh các nước cơng nghiệp phát triển phương Tây, Nhật Bản xuất
hiện với tư ccách là một trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Các nước mới cơng
nghiệp hố ở Đơng á và Đơng nam á ciếm vị trí hàng đầu trên một số thị trường
thế giới như : dệt may, điện tử dân dụng, đóng tàu và sắt thép. Những thay đổi
này đã làm phong phú hơn cho bức tranh công nghiệp thế giới. Tăng trưởng
nhanh chóng trong giai đoạn 1970 đã che dấu một thực tế là các nền kinh tế tư
bản có nhiều điểm khác nhau về hệ thống chính sách kinh tế .

Trước những thay đổi ở tren, đi kèm với sự chấm dứt của thời kỳ tăng
trưởng nhanh với lạm phát và thất nghiệp thấp, các nước công nghiệp phát triển
đã buộc phải điều chỉnh tư tưởng kinh tế chủ đạo, xuất hiện rất nhiều các cố
gắng tìm kiếm những phương thức can thiệp của Chính phủ .
Một trong những cố gắng đó được thể hiện qua thuật ngữ “Chính sách
cơng nghiệp ”.

3


Mặc dù chính sách cơng nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với một số
nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Pháp và các nước NIC Châu á như:
Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo thời kỳ sau Chiến tranh thế giới II, song cho đến
cuối những năm 1970 khái niệm ít được nhắc đến trên phương diện lý thuyết.
Những người ủng hộ chính sách cơng nghiệp chủ yếu tập trung vào xem xét
chính sách cơng nghiệp trên khía cạnh các vấn đề chính sách thực thế mà khơng
nghiên cứu nhiều về nền tảng lý thuyết của chính sách cơng nghiệp . Thưc tế này
dẫn đến tình trạng ngay cả những người ủng hộ rất mạnh mẽ chính sách cơng
nghiệp cũng khơng thể mơ tả thực tế chính sách cơng nghiệp vận hành như thế
nào.
II. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠNG NGHIỆP
1. Khái niệm về chính sách phát triển cơng nghiệp
1.1. Các quan điểm
Chính sách cơng nghiệp là một khái niệm gây nhiều tranh cãi. Chỉ xét
riêng ở Nhật Bản đã có những quan điểm bất đồng về chính sách cơng nghiệp.
a.

Quan điểm của Trezise(1983).

Ơng là một trong những người phản đối công nghiệp công nghiệp và cho

rằng trợ cấp của Chính phủ và các khoản vay ưu đãi cho khu vực doanh nghiệp
Nhật Bản là nhỏ hơn tương đối so vơí một quyết định thành cơng của Nhật Bản.
b.

Quan điểm của Reich(1982).

Là một trong những học giả ủng hộ rất mạnh mẽ quan điểm về chính sách
cơng nghiệp ở Mỹ .Theo quan điểm của ơng, chính sách cơng nghiệp bao gồm
những nội dung sau:
+ Các chính sách đối với những khu vực công nghiệp được ưu tiên .
+ Chính sách phát triển nguồn nhân lực
+ Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
+ Chính sách phát triển vùng
c.

Quan điểm của Pinder(1982)

Nội dung của chính sách cơng nghiệp gồm:

4


+ Các chính sách trợ giúp phát triển cơng nghiệp
+ Các ưu đãi về tài chính cho đầu tư
+ Chương trình đầu tư cơng cộng
+ Dự trữ của khu vực cơng cộng
+ Trợ cấp tài chính cho R & D
+ Chống độc quyền
+ Lập luận ngàn công nghiệp non trẻ
+ Các biện pháp khuyến khích ưu đãi các doanh nghiệp quy mơ vừa và

nhỏ
+ Chính sách phát triển vùng
+ Các biện pháp bảo hộ mậu dịch
1.2. Khái niệm chính sách phát triển cơng nghiệp
Trên phương diện lý thuyết, chính sách cơng nghiệp được xem xét dưới
nhiều góc độ khác nhau. Một chính sách cơng nghiệp có thể có phạm vi tổng
quát hay mục tiêu cụ thể, nhấn mạnh vào sử dụng các công cụ theo chiều dọc
hay chiều ngang, và có thể có tác dụng tiêu cực hoặc tích cực đối với tăng
trưởng kinh tế .
Một chính sách cơng nghiệp có phạm vi rộng nhằm vào khuyến khích tất
cả các ngành cơng nghiệp , trong khi đó một chính sách cơng nghiệp có phạm vi
hẹp thì chỉ tập trung vào một hay một số khu vực công nghiệp được lựa chọn
theo những tiêu thức nhất định .
Như vậy, chính sách phát triển công nghiệp được hiểu là sự can thiệp trực
tiếp hay gián tiếp của Chính phủ hướng vào những ngành nhất định để đạt được
những ngành nhất định để đạt được mục tiêu cụ thể (Mục tiêu này có thể là tăng
trưởng, xây dựng năng lực cạnh tranh, tạo cơng ăn việc làm). Chính sách cơng
nghiệp thường được thể hiện dưới dạng tổ chức ngành, chọn ngành ưu tiên,
chính sách tài chính và tín dụng (thuế, tợ cấp, đầu tư trực tiếp của Nhà nước, tín
dụng ưu đãi) đối với ngành, chính sách phát triển nguồn nhân lưc của ngành,
chính sách tăng tỷ lệ nội địa hố các sản phẩm của ngành, chính sách đầu tư

5


nước ngồi vào các ngành, chính sách kinh tế đối với các ngành , chính sách đối
với các khu vực chế xuất và khu công nghiệp tập trung.
2. Nội dung và mục tiêu của chính sách phát triển cơng nghiệp
2.1 Nội dung
Một là, chính sách phát triển cơng nghiệp bao gồm toàn bộ những hoạt

động hoạch định của một nước ngằm phát triển công nghiệp, liên quan tới những
hoạt động hoạch dịnh này là những vấn đề điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư ,
hiện đại hoá và cải tổ cơ cấu cơng nghiệp, chính sách thị trường và xuất nhập
khẩu, chính sách khuyến khích R & D , chính sách đối với sản xuất quy mơ nhỏ
và các chính sách có liên quan đến phát triển nguồn lực và năng lượng.
Hai là, trong chính sách cơng nghiệp cần định rõ các ngành công nghiệp
cụ thể sẽ được khuyến khích và dành cho nhừng lĩnh vực này những ưu tiên
khác nhau trong một thời gian nhất định nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực của đất nước vào việc đẩy nhanh tốc độ phát triển và tăng trưởng kinh tế .
Ba là, xây dựng đồng bộ hệ thống các phương tiện khuyến khích phát
triển các ngành cơng nghiệp đã dược lựa chọn . Liên quan đến các phương tiện
này là khuyến khích về tài chính, xây dựng hệ thống kiểm sốt thích hợp hỗ trợ
hoạt động R & D, đặc biệt quan tâm tới các mục tiêu và kế hoạch dài hạn ,...
2.2. Mục tiêu.
Vấn đề có ý nghĩa quan trọng là xác định mục tiêu của chính sách phát
triển cơng nghiệp. Phần lớn ở các nước khi xây dựng chính sách phát triển cơng
nghiệp thường đưa ra nhiều mục tiêu. Tuy nhiên, có thể nêu lên 2 mục tiêu chính
là : phát triển cơng nghiệp cân đối và công bằng.
- Phát triển công nghiệp cân đối đòi hỏi phải đảm bảo được sự cân đối
giữa ngành công nghiệp, giữa các địa phương và vùng lãnh thổ. Hầu hết các
nước trong q trình phát triển cơng nghiệp đều không tập trung đầu tư quá mức
vào một ngành cơng nghiệp nào và tìm cách để duy trì được các thị trường có
khả năng cạnh tranh lớn.

6


Ngồi ra, mục tiêu phát triển cân đối cịn được thể hiện ở chỗ : Bên cạnh
các trung tâm công nghiệp của các thành phố lớn, nhiều nước ddax khuyến
khích phát triển các vùng nông thôn và coi việc định vị lại công nghiệp như là

phương tiện quan trọng cho mục tiêu này.
Để thiết lầp được một cơ cấu công nghiệp cân đối, các cước chú ý vào hai
vấn đề là thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp quy mô nhỏ và lựa chọn, phát
triển một số ngành công nghiệp mũi mhọn.
- Mục tiêu công bằng là một trong hai mục tiêu chính của chính sách cơng
nghiệp. Nó bao gồm các mặt như công bằng xã hội và công bằng giữa các nhà
đầu tư trong và ngoài nước. Việc thực hiện mục tiêu này có ý ngiã đảm bảo cho
sự phát triển bền vững của cơng nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói
chung.
Ngồi hai mục tiêu trên cịn có những mục tiêu khác như: đảm bảo “chất
lượng cuộc sống” thông qua việc thiết lập các quy tắc xã hội để kiểm sốt ơ
nhiễm và chất thải, ban hạnh luật về lương thực, thực phẩm, hoặc cũng có nước
đặt mục tiêu của chính sách phát triển cơng nghiệp là nhằm tăng thu nhập về
ngoại hối nhằm cải thiện cán cân thanh toán. Trong những năm gần đây, gới xu
thế gia tăng về hội mhaapj kinh tế, các nước còn coi mục tiêu tăng cường hợp
tác kinh tế với thế giới và khu vực là mục tiêu của chính sách phát triển cơng
nghiệp…
3. Trọng tâm của chính sách phát triển cơng nghiệp.
Chính sách cơng nghiệp đặt trọng tâm vào phát triển khu vực chế tạo của
nền kinh tế. Những người ủng hộ chính sách cơng nghiệp cho rằng hiện tượng
phi cơng nghiệp hố ở Anh và Mỹ trong khoảng 3 thập kỷ qua xuất phát từ việc
coi nhẹ vai trị của khu vực chế tạo, lam giảm đóng góp của khu vực này vào
GDP và tạo cơng ăn việc làm cho người lao động.
Theo Cohen và Zysman (1987): với tầm quan trọng của khu vực chế tạo
thì đây là một sự sai lầm về định hướng chính sách. Thêm vào đó, các biện pháp
điều chỉnh kinh tế vĩ mơ có thể lầ chưa đủ để có thể thúc đẩy sự phát triển của

7



khu vực chế tạo vì đối với tăng trưởng năng suất của khu vực này, sự phân bổ
vốn cịn có ý nghĩa quan trọng hơn là tổng giá trị vốn đầu tư. Chính vì vậy,
Chính phủ cần can thiệp trực tiếp để thúc đẩy phát triển cơng nghiệp.
Tuy nhiên, đó cũng là trong tâm gây nhiều tranh cãi. Những người phản
đối quan điển chính sách cơng nghiệp cho rằng tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ
hậu công nghiệp ở các nước tư bản phát triển đặt trọng tâm vào khu vực dịch vụ,
dịch vụ trở thành trung tâm của các hoạt động kinh tế. Vì vậy, các biện pháp can
thiệp của Chính phủ theo hướng ưu tiên khu vực cơng nghiệp mà không tập
trung cho phát triển khu vực dịch vụ khơng nhưngx là khơng cần thiết mà cịn có
ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế. Chính sách công nghiệp sẽ cản trở cơ
chế chọn lọc tự nhiên của thị trường và ngăn cản việc tái phân bổ các nguồn lực
khan hiếm của nền kinh tế cho khu vực dịch vụ, vì vậy ảnh hưởng tiêu cực đến
triển vọng tăng trưởng lâu dài của nên kinh tế (quan điểm của Burtơn-1983).
Song sự thay đổi về cơ cấu theo hướng phát triển dịch vụ không phải chỉ
đơn thuần là vì con người mong muốn tiêu dùng nhiều dịch vụ khi đới sống
được cải thiện. Lý do chủ yếu nhất của sự dịch chuyển về cơ cấu này là do chi
phí lạm phát tương đối của khu vực dịch vụ tăng trưởng chậm trong năng suất
của khu vực này, chứ không phải là do sự dịch chuyển thật sự của nhu cẩu thị
trường về phía khu vực dịch vụ khi thu nhập gia tăng.
Bên cạnh đó, xu hướng phi cơng nghiệp hố quan sát được ở một số nước
cơng nghiệp phát triển là một kết quả tất yếu trong dài hạn của sự chênh lệch
năng suất lao động giữa hai khu vực này chứ không nhất thiết là do khu vực
công nghiệp suy giảm sức cạnh tranh. Ngay cả các nền kinh tế hướng mạnh vào
xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp như Nhật Bản, Đức cũng chịu những ảnh
hưởng nhất định của phi cơng nghiệp hố. Nói cách khác, phi cơng nghiệp hố
và sự suy giảm của khu vực công nghiệp là hai khái niệm khác nhau, mặc dù sự
giảm sút của khu vực cơng nghiệp có thể ảnh hưởng đến mức độ phi cơng
nghiệp hố. Vì vậy, khơng thể kết luận rằng khu vực công nghiệp của một nền

8



kinh tế nào đó đang xuống dốc nếu chỉ căn cứ vào những biểu hiện của phi cơng
nghiệp hố mà nó đang phải trải qua theo định nghĩa ở trên.
4. Tính tất yếu của chính sách cơng nghiệp.
Chính sách bao hàm ý nghĩa có sự can thiệp của Chính phủ dưới bất cứ
hình thức nào. Cần phải có chính sách là vì thị trường có những khiếm khuyết
nhất định:
4.1. Do những thất bại của thị trường và vai trò can thiệp của Chính phủ
Lý thuyết phổ biến nhất lý giải cho sự can thiệp của Chính phủ vào nền
kinh tế là lý thuyết về sự thất bại của thị trường. Tư tưởng trong tâm của trường
phái này tập trung vào thất bại của cơ chế thị trường trong việc cân bằng giữa
chi phí và lợi ích giữa cá nhân và xã hội, đồng thời cho rằng Chính phủ có thể
can thiệp để khắc phục khuyết tật của thị trường.
Hàng hoá công cộng là một thất bại hay được nhắc đến nhất của cơ chế thị
trường. Vì tính khơng ngoại trừ của hàng hố cơng cộng, các cá nhân ln có
đơng lực thực hiện hành vi của những người ăn theo, ảnh hưởng của vấn đề
những người ăn theo là các hàng hố cơng cộng sẽ được cung cấp ít hơn mức xã
hội mong muốn. Vì vậy Chính phủ cần can thiệp thơng qua trực tiếp cung cấp
hàng hố cơng cộng.
Tiếp nữa, sự tồn tại của tính kinh tế nhờ quy mơ có thể là một yếu tố dẫn
đến những cơ cấu thị trường cạnh tranh khơng hồn hảo. Trong một cơ cấu thị
trường như vậy, mức giá cung cấp sẽ cao hơn mức giá cạnh tranh hoàn hảo dẫn
đến tổn thất thặng dư tiêu dùng. Phần tổn thất này được chuyển một phần vào
thặng dư sản xuất dưới dạng lợi nhuận độc quyền, phần cịn lại là lợi ích mất
khơng của xã hội. Mặc dù lý thuyết “Điều tốt thứ nhì”và quan điểm cho rằng
can thiệp của Chính phủ có thể là ngun nhân của thị trường cạnh tranh khơng
hồn hảo, sự tồn tại của cơ cấu thị trường này vẫn là một lý do quan trọng biện
minh cho vai trị của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường.


9


4.2. Xuất phát từ lý thuyết về sự thất bại của Chính phủ
Trong thực tế, cũng như khả năng thị trường tự do có những khuyết tật, sự
can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế cũng có thể khơng thành cơng vì bản
thân Chính phủ cũng có những thát baị của nó.
Có hai yếu tố chính cản trở Chính phủ có thể đạt được mục tiêu can thiệp
vào nền kinh tế.
Thứ nhất, chi phí cần thiết để Chính phủ có thể thu thập đủ và xử lý tốt
các thơng tin về thất bại thị trường trong nhiều trường hợp có thể cịn lớn hơn cả
lợi ích mà các biện pháp khắc phục khuyết tật thị trường mang lại.
Thứ hai, vì có sự xuất hiện của việc thu thập , xử lý thơng tin, sự can
thiệp của Chính phủ có thể lại dẫn đến những chi phí nhất định đối với xã hội,
và chi phí này cũng có thể lớn hơn lợi ích mà nó mang lại.
4.3. Lý thuyết thể chế mới về sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế
Như đã phân tích trong phần trên, can thiệp của Chính phủ để khắc phục
những khuyết tật củâ thị trường sẽ dẫn đến những chi phí nhất định mà những
chi phí này có thể lớn hơn cả lợi ích thu được từ sự can thiệp của Chính phủ.
Tuy nhiên, điều đó khơng đủ để có thể kết luận rằng Chính phủ khơng thể can
thiệp có hiệu quả vào nền kinh tế.
Lý thuyết thể chế mới cho rằng chi phí về thơng tin có thể giảm thong qua
những thay đổi thichs hợp trong hệ thống tổ chức của bộ náy hành chính và
trong quan niệm về giá trị của các cá nhân là thành viên của bộ váy chính quyền
và xã hội. Những chi phí thu thập và xử lý thơng tin sẽ có thể được loại bỏ thơng
qua việc cho phép cạnh tranh giữa các Đảng phái và sử dụng các cơng cụ can
thiệp thích hợp.
Ngồi ra, lý thuyết này cịn cho rằng thị trường khơng phải là một cơ chế
điều phối duy nhất đối với sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế. Thị
trường,Chính phủ, các hãng, và các thể chế kinh tế khác đều có vai trị trong một

cơ chế phối hợp để dưa ra các quyết định chính sách. Những người ủng hộ quan
điểm này cho rằng Chính phủ có thể giải quyết vấn đề phối hợp giữa các tác

10


nhân ở trên với chi phí thấp hơn mức chi phí phối hợp của thị trường, thơng qua
việc xác lập một hệ thống quyền sở hữu phù hợp, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ
mô, tái cấu trúc xã hội theo các nhóm, tầng lớp lớn, điều phối và định hướng đầu
tư, xây dựng tự hào và bản sắc dân tộc.
4.4. Quan điểm kinh tế chính trị
Lý thuyết thất bại thị trường biện minh cho sự can thiệp của Chính phủ
dựa trên giả định cho rằng mục tiêu của Chính phủ là phải can thiệp vào thị
trường, phục vụ lợi ích của xã hội.
Quan điểm kinh tế chính trị, ở một thái cực là các nhà kinh tế Marxist, ở
thái cực khác là trường phái Chicago xuất phát từ những quan điểm khác.
Chính phủ có thể có một mức độ độc lập nhất định đối với đai chúng, nhất
là khi khơng có giai cấp nào có đủ khả năng ảnh hưởng mạnh đến các quyết định
chính sách. Trong tình huống này Chính phủ có thể hành động theo mục tiêu tối
đa hố nguồn thu vào ngân sách.
Theo Findlay (1990), Chính phủ có thể được coi như là một lực lượng độc
lập đưa ra các quyết định không nhất thiết phải xuất phát từ lợi ích của xã hội.
Quan điểm về nhóm lợi ích coi Chính phủ như là chiếc hộp đen mà các
nhóm lợi ích trong xã hội có thể đối kháng, hay liên minh với nhau để đưa ra các
quyết định về chính sách. Khi một khu vực cơng nghiệp nào đó có tầm quan
trọng đối với nền kinh tế, sức ép của nhóm lợi ích này có thể dẫn đến các quyết
định về chính sách thuận lợi đối với nhóm lợi ích đó mà có thể gây phương hại
đến những nhóm lợi ích khác trong xã hội.
Một số nhà kinh tế Marxist cho rằng sự tồn tại của một Nhà nước phu
thuộc chặt chẽ vào phương thức tái sản xuất của xã hội, và vì vậy, Chính phủ

phải hành động vì lợi ích của giai cấp đóng vai trị chủ đạo về kinh tế trong cấu
trúc xã hội.
Nói tóm lại, khác với lý thuyết về thất bại của thị trường, quan điểm
kinh tế chính trị cho rằngcp có thể có sự can thiệp vào nền kinh tế nhưng có thể

11


đươc biện minh bởi những nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm, mức độ độc
lậpcủa từng hệ thống chính quyền.
Từ những lý do nói trên dẫn đến nền kinh tế nói chung và lĩnh vực cơng
nghiệp nói riêng cần phải có một chính sách để phát triển đó là Chính sách phát
triển cơng nghiệp.
5. Phân loại chính sách cơng nghiệp
Bản thân nền cơng nghiệp, đối tượng của chính sách, là thực thể ln ln
động. Hơn nữa, chính sách cơng nghiệp là cái luôn biến đổi từng giờ, từng phút
với sự biến động của thời đại của xã hội và có rất nhiều loại đối tượng. Khơng
có lý luận chung cho chính sách cơng nghiệp. Do vậy, phải phân loại chính sách
cơng nghiệp theo mục đích, chủng loại, và tính chất.
5.1. Phân loại theo vai trò của Nhà nước trong sự phân công giữa Nhà
nước và các doanh nghiệp
Theo cách phân loại này, chức năng của chính sách cơng nghiệp hướng
vào 3 mục đích chính:
- Hỗ trợ phát triển ngành: chính sách tạo khả năng đối kháng với doanh
nghiệp tư nhân (chỉ đạo hay quy chế cho pjhép công nghiệp hợp tác, bổ sung
hoặc hỗ trợ đối với doanh nghiệp tư nhân). Các chính sách này khác nhau ở chỗ
là dựa vào pháp luật (quyề lực hay chỉ đạo hướng dẫn, …).
- Khống chế các giao dịch bất chính: Bao gồm chính sách có mục đích
duy trì trật tự (chỉ đạo, ngăn cấm, cho phép) hay các chính sách có tính phán
quyết hình thức (đăng ký, thơng báo,…).

- Dự thảo luật: gồm chính sách tạo lập mơi trường mới hay chính sách
xuất phát từ thái độ thụ động tạo ra trật tự để đối phó với mơi trường mới.
5.2. Phân loại theo đối tượng mục đích của chính sách
- Các vấn đề cơ cấu cơng nghiệp : gồm chính sách có đối tượng là tồn bộ
cơ cấu cơng nghiệp với chính sách có đối tượng là từng ngành (hay từng doanh
nghiệp ).

12


Chính sách điều chỉnh ngược với các ngành suy thối hay chính sách chấn
hưng cho các ngành mới (tỷ trọng công nghệ cao trong cơ cấu công nghiệp ).
- Vấn đề thị trường.
+ Phân biệt chính sách bổ sung khắc phục các thất vại của thị trường với
chính sách bổ ưung hoàn thiện hạn chế của thị trường.
+ Phân biệt chính sách điều chỉnh trật tự thị trường bị lệch lạc (tổ chức
ngành sản xuất ) với chính sách điều chỉnh yếu tố bên ngồi bị lệch lạc(mơi
trường tự nhiên, quyền lợi người tiêu dùng).
+ Phân biệt chính sách ngay trong bản thân trật tự sẵn có với chính sách
để tiến hành trật tự mới.
- Vấn đề phát triển công nghiệp có tính chiến lược .
Cần phân biệt rõ chính sách phát triển ngành có tính chiến lược (ngành
xuất khẩu, điện tử …) với chính sách phát triển các ngành sản xuất cơ sở hạ tầng
(sản xuất nguyên vật liệu chủ yếu, linh kiện, phụ kiện, …).
5.3. Phân biệt theo thủ pháp chính sách (theo cách thức để thực hiện
mục tiêu)
- Vấn đề hoàn thiện cơ sở hạ tầng.
+ Phân biệt chính sách hồn thiện cơ sở hạ tầng phần cứng và chính sách
hồn thiện cơ sở hạ tầng phần mềm (mơi trưowngf cơng nghiệp).
+ Phân biệt chính sách phát triển cơ sở hạ tầng (như tài chính, tiền tệ,

thuế…) với chính sách phát triển kỹ thuật cho phần cơ sở hạ tầng (như nghiên
cứu , quy cách hoá, chế độ quyền sở hữu cơng nghiệp) và cả chính sách cơ cấu
công nghiệp cơ sở hạ tầng (như cơ cấu sản xuất phụ tùng của các doanh nghiệp
trong ngành cơ khí).
- Về kế hoạch triển vọng.
+ Phân biệt kế hoạch mang tính chất giáo dục, nhận thức, hay mục tiêu
chính sách, hay kế hoạch điều chỉnh định hướng.
+ Phân biệt kế hoạch được xây dựng bằng ý trí của Chính phủ hoặc được
xây dựng trên cơ sở của sự thoả thuận với người có lieen quan.

13


- Về phương pháp luận.
+ Phân biệt chính sách bất biến, chính sách tạm thời hay chính sách khẩn
cấp.
+ Phân biệt chính sách có tính uy quyền (chỉ huy, cơ chế,…) với các
chính sách hỗ trợ (tài trợ, cho vay vốn , chế độ thuế…) hoặc chính sách có tính
hồn thiện môi trường (như cung cấp thông tin, đưa ra quy cách, phát triển kỹ
thuật,…) hay chính sách mang tính hướng đạo.
Tốm lại, có thể tổng kết chính sách phát triển cơng nghiệp như sau:
Chính sách nhằm ảnh hưởng tới cơ cấu của một nước. Tức là một chính
sách can thiệp vào hoạt động giao dịch với nước ngoài như : ngoại thương, đầu
tư trực tiếp, chính sách hỗ trợ phát triển và bảo hộ (trợ cấp thuế) chính sách điều
tiết và sử dụng nguồn lực.
Các chính sách sửa chữa các thất bại của thị trường do tính khơng hồn
thiện của hoạt động kỹ thuật và thông tin. Tức là một chính sách khắc phục các
dạng thất bại của thị trường bằng cách cung cấp thơng tin chính xác, sử dụng các
cơng cụ chính qua trợ cấp, thuế và chỉ đạo việc phân phối nguồn lực theo hướng
mơng muốn.

Chính sách can thiệp về mặt hành chính vào tổ chức sản xuất theo từng
ngành nhằm nâng cao phúc lợi kinh tế. Cụ thẻ là chính sách nhằm trực tiếp can
thiệp vào cơ cấu cạnh tranh và phân bổ nguồn lực trong các nhành sản xuất
thơng qua hình thức liên minh giảm giá, liên minh đầu tư thiết bị,…
Chính sách được hoạch định theo yêu cầu chính trị là củ yếu chứ khơng
phải mang tính kinh tế. Tức là chính sách bao gồm quy chế tự chủ xuất khẩu hay
hiệp định đa phương nhằm xử lý mâu thuẫn ngoại thương.
6. Khái quát về chính sách cơng nghiệp của Việt Nam
Như đã phân téch trong các phần ở trên, chính sách cơng nghiệp là một
khái niệm rộng, phức tạp và vòn tương đối mới mẻ đối với các nhà nghiên cứu
trên thế giới, nhất là trên phương diện lý thuyết.
Trong bối cảnh như vậy:

14


a.

Có nên tồn tại hay khơng một chính sách cơng nghiệp của Việt

b.

Nếu là có tồn tại thì chính sách cơng nghiệp Việt Nam có thể được

Nam.
mơ tả như thế nào?
c.

Ảnh hưởng của nó đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam (nhất là trong


những năm đổi mới) như thế nào.
Trong phần này, em sẽ đi sâu tìm hiểu câu hỏi (b) trên phưong diện lý
thuyết, các vấn đề còn lại là nội dung nghiên cứu của Chương II và III- Phần
thực trạng và các giải pháp.
Thuật ngữ “chính sách cơng nghiệp” cho đến nay vẫn rất ít xuất hiện trên
các pgương tiên thông tin đại chúng của Việt Nam, cũng như trong các cơng
trình nghiên cứu của các tác giả nước. Trong khi đó, một thuật ngữ khác hay
được sử dụng có liên quan đến nội dung chính sách cơng nghiệp là thuật ngữ
“cơng nghiệp hố, hiện đại hố ”.
Xét về bản chất, thuật ngữ “cơng nghiệp hố, hiện đại hoá “ ở Việt Nam
bao hàm hệ thống các mục tiêu, các định hướng và hệ thống các chính sách
nhằm chuyển Việt Nam từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp.
Trong hệ thống các mục tiêu và định hướng của cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở
Việt Nam, vấn đề phát triển các ngành, các khu vực, các loại hình quy mơ và các
thành phần kinh tế chiếm vị trí quan trọng, ở đây, những vấn đề chung được đề
cập thường là:
- Cơ cấu ngành kinh tế : công nghiệp – nông nghiệp- dịch vụ , ở đây, các
cơ cấu được chú ý trong thiết kế chính sách là : cơ cấu công nghiệp khai tháccông nghiệp chế biến- công nghiệp điện nước; cơ cấu trồng trọt và chăn ni, cơ
cấu các loại hình dịch vụ .
- Cơ cấu gữa đo thị và nông thôn
- Cơ cấu giữa quy mô doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh
nghiệp nhỏ.

15


-Cơ cấu giữa doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
Trên cơ sở các mục tiêu và định hướng phát triển cơng nghiệp như vậy,
phải thiết lập hệ thống các chính sách được sử dụng để hỗ trợ cho phát triển

công nghiệp, trong đó phải kể đến một số chính sách chính như : chính sách vốn,
chính sách nguồn nhân lực, chính sách phát triển khoa học và chính sách thuế
quan.
Như vậy, chính sách cơng nghiệp của Việt Nam có thể được hiể là tập hợp
của các định hướng, chính sách, công cụ điều chỉnh đối với một số ngành công
nghiệp để đạt được mục tiêu đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp sang một
nước công nghiệp vào năm 2020. Nhiệm vụ của chính sách cơng nghiệp có thể
thay đổi qua mỗi thưịi kỳ nhưng đều có mục tiêu chung là điều chỉnh các hoạt
động cuả các khu vực công nghiệp theo chiều hướng có lợi cho sự phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước.
Nhiệm vụ này được thể hiện trên hai mặt sau :
Một là, tạo điều kiện thuân lợi cho các doanh nghiệp trong nước mở
rông thị trường ra nước ngoài, tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc
tế và mậu dịch quốc tế, khai thác triệt để lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của
nền kinh tế trong nước.
Hai là, bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong nước đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh doanh quốc tế, đáp ứng
cho yêu cầu tăng cường lợi ích quốc gia.
Thêm vào đó, cũng cần phải nhấn mạnh rằng cách hiểu ở các phần trên về
chính sách công nghiệp là quan điểm áp dụng cho các nền kinh tế thị trường. Rất
nhiều mơ tả về chính sách công nghiệp đươc khái quát từ thực tế vận hành chính
sách cơng nghiệp ở những nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, là những
nước có hệ thống chính trị khác với Việt Nam và hiện đang ở trình độ phát triển
cao hơn Việt Nam.

16


Nhận định về chính sách cơng nghiệp Việt Nam cần phải được xẽmét
trong bối cảnh Việt Nam là một nền kinh tế đang chuyển đổi sang một nền kinh

tế thị trường , Chính phủ đang phải đối mặt với vấn đề cải cách khu vực doanh
nghiệp Nhà nước, là một trong những trọng tâm của công cuộc cải cách kinh tế
ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam
chủ yếu tập trung trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Cải cách khu vực doanh
nghiệp Nhà nước Việt Nam được thực hiện thông qua nhiều phương thức, bán
doanh nghiệp, cổ phần hoá, cho thuê, khốn kinh doanh, sáp nhập, giải thể,… Vì
vậy,mơ tả chính sách công nghiệp của Việt Nam bên cạnh những đặc diểm
chung của một chính sách cơng nghiệp theo lý thuyết cần phải đề cập đến những
cơng cụ chính sách sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước.
Ngoài ra, sự tham gia của Việt Nam vào AFTA, APEC, và quá trình đàm
phán về khả năng gia nhập WTO với tư cách thành viên chính thức là những
minh chứng mạnh mẽ đối với xu hướng tự do hoá thương mại ở Việt Nam. Xét
về mơi trường chính sách tự do hố thương mại vừa khuyến khích xuất khẩu
nhưng cũng khơng tạo ra các rào cản đối với nhập khẩu. Bối cảnh đó khơng cho
phép Việt Nam có thể sử dụng các rào cản bảo hộ thuế quan và phi thuế quan
để trọ giúp cho phát triển công nghiệp trong dài hạn.
III. CHÍNH SÁCH CƠNG NGHIỆP CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
ĐƠNG Á VÀ BÀI HỌC KINH NGHIÊM CHO VIỆT NAM. (NHẬT BẢN,
HÀN QUỐC, ĐÀI LOAN)
Kinh nghiệm phát triển của các nước Đông á cho thấy chính sách cơng
nghiệp là một cơng cụ hữu hiệu để các nước Đông á xây dựng kinh tế sau sự tàn
phá của chiến tranh và phát triển trở thành các nền kinh tế cơng nghiệp hố mới
như : Hàn Quốc, Đài Loan, hay nền kinh tế công nghiệp phát triển như Nhật
Bản.
Chính sách cơng nghiệp của các nước này có hai đặc điểm chính :

17


1. Tập trung vào xây dựng cơ sở kinh tế trong nước.

Với xuất phát điểm là các nền kinh tế bị tàn phá và kiệt quệ sau chiến
tranh, vấn đề đặt ra đầu tiên trong chiến lược cơng nghiệp hố ở Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan là tái thiết nền kinh tế.
Đài Loan, bắt tay vào công cuộc xây dựng lại nền kinh tế sau 1949 với
việc quốc hữu hoá các cơ sở kinh tế từ tay người Nhật thành các doanh nghiệp
Nhà nước trong các lĩnh vực như: tinh chế đường, diện lực, lọc dầu. Các công ty
thuộc lĩnh vực xi măng, giấy và những công ty nhỏ hơn được tư nhân hố, nhờ
đó giúp chuyển vốn của các địa chủ từ sản xuất nông nghiệp vào khu vực cơng
nghiệp. Đồng thời Chính phủ ủng hộ sự phát triển của các khu vực thay thế nhập
khẩu bằng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, chú ý phát triển các công ty
tư nhân thông qua việc nhập khẩu máy móc thiết bị bằng nguồn viện trợ của Mỹ.
Nhật Bản, nền kinh tế sau chiến tranh đang trong tình trạng đổ nát và tụt
hậu khá xa về công nghệ so với các quốc gia cơng nghiệp hố. những năm đầu
sau chiến tranh, chiến lược của Mỹ đối với Nhật Bản là kiềm chế tăng trưởng
kinh tế. Tăng trưởng nhanh của Liên Xơ cũ và sự mở rộng nhanh chóng của thế
giới cộng sản buộc Mỹ thay đôỉ chiến lược đối ngoại đối với Nhật Bản. Kế
hoạch Marshall do Mỹ đưa ra nhằm mục tiêu hỗ trợ quá trình tái thiết Nhật Bản
và Châu Âu sau chiến tranh. Các nỗ lực phát triển kinh tế của Chính phủ Nhật
Bản trong thời kỳ đầu là tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến khích
phát triển các ngành cơng nghiệp như điên, than, sắt théo, và đong tàu. Cũng
trong giai đoạn này, mộtkhn khổ cơ bản của chính sách ccn đã được xác lập
với các lĩnh vực ưu tiên khuyến khích về thuế, tài chính và đầu tư nước ngồi.
Ngồi ra, Chính phủ Nhật Bản cịn quản lý chặt chẽ, phân bổ các chỉ tiêu nhập
khẩu máy móc và nguyên vật liệu, kiểm soát về giá cả áp dụng cho các khu vực
ưu tiên.
Sự kết thúc tạm thời của căng thẳng Nam – Bắc có ảnh hưởng đến nền
kinh tế Hàn Quốc trên ba phương diên : cải cách ruộng đất, chủ nghĩa dân tộc,
và viện trợ của Hoa Kỳ. Chế độ địa chủ bắt đẩu bãi bỏ từ 1953. Nông dân được

18



chia đất và trở thành những người sở hữu đất đai. Tầng lớp địa chủ bị bắt buộc
phải chuyển sang các khu vực thương mại và công nghiệp. thêm vào đó, sự tồn
tại của cơ chế quản lý sở hữu ruộng đất chặt chẽ cho phép chính quyền có thể
thực thi những chính sách nhất định để áp đặt các định hương phát triển đối với
khu vực nông nghiệp. Bằng việc không chú ý đầu tư phát triển nông thôn trong
khi tạo ra các điều kiện thuận lợi cho khu vực cơng nghiệp, chính quyền Hàn
Quốc trong khoảng thời gian từ 1949-1962 đã có khởng 5 triệu người dân từ khu
vực nông thôn di dân đến các vùng thành thị làm việc trong khu vực công
nghiệp.
Nằm trong tổng thể chiến lược củng cố sức mạnh của quốc gia để đối phó
với các thế lực cộng sanr, phát triển cơng nghiệp được coi là một nội dung ưu
tiên hàng đầu. Trong thời gian 1953-1958, các tập đoàn kinh tế tư nhân có quy
mơ lớn (gọi là Cheabols) được thành lập với sự hậu thuẫn của chính quyền TW .
Trong những năm 50s, công nghiệp Hàn Quốc chứng kiến sự tăng trưởng
mạnh mẽ trên cả hai lĩnh vực cơng nghiệp nặng(hố chât, luyện kim…) và công
nghiệp nhẹ (như dệt may, chế biến lương thực thực phẩm).
Để đảm bảo sự tập trung ủng hộ về thể chế, chính quyền cũng sử dụng
những biện pháp bạo lực và các chính sách quản lý xã hội chặt chẽ để ngăn ngừa
và dẹp bỏ mội sự chống đối từ các phe phái đối lập. Sự phát triển của các
Cheabols trong khu vực công nghiệp nặng và hoá chất là sự thể hiện rõ nét của
một chiến lược phát triển công nghiệp hướng nội, nhằm vào mục tiêu độc lập
kinh tế.
Để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành công
nghiệp thay thế nhập khẩu, Chính phủ Hàn Quốc duy trì chế độ tỷ giá hối đoái
kép, đưa ra mức tỷ giá cố định quy định riêng cho xuất khẩu và nhập khẩu.
Đồng thời giảm thuế cho máy móc , thiết bị nhập khẩu.
Bảng 1 - Tóm tắt các chính sách khuyến khích công nghiệp ở Nhật Bản,
Hàn Quốc và Đài Loan.

Nhật Bản
Hợp lý hố cơng nghiệp

Hàn Quốc
Sau nội chiến Triều Tiên
19

Đài Loan
Cơng nghiệp hoá thay


(nửa đầu thập kỷ 50)

(Những năm 50)

thế nhập khẩu

Ưu tiên đầu tư nhập khẩu Phát triển và khuyến khích (nửa đầu thập kỷ 50)
thiết bị, đầu tư vào máy các

ngành cơng nghiệp Điều chỉnh các ngành

móc/ các khoản cho vay thay thế nhập khẩu/ hệ công

nghiệp

công

của ngân hàng phát triển thống trợ cấp bằng hạn cộng chủ chốt (đường,
Nhật Bản / Miễn giảm ngạch/ tỷ giá hối đoái kép/ xi măng, phân hố

thuế.

miễn giảm thuế cho máy học…)/ khuyến khích
móc, ngun liệu nhập cơng nghiệp dệt bằng
khẩu

Khuyến khích phát triển

hạn chế số lượng
Thời kỳ quá độ sang

công nghiệp

CNH hướng về xuất

(nửa sau thập kỷ 50)

khẩu (nửa sau 1950s)

Bảo hộ bằng thuế quan

Hình

thành

những

với các sản phẩm sợi

ngành


cơng

nghiệp

tổng hợp, dệt may, hố

chủ đạo/ phát triển

dầu, máy móc, điện tử

cơng nghiệp dệt và chế

dân dụng/ chính sách tài

biến nơng sản.

chính và thuế khố có
chọn lọc/ khuyến khích
áp dụng cơng nghệ mới
Tăng trưởng cao

Chuyển sang công nghiệp Công

(những năm 60)

hướng xuất khẩu

Phát triển một nên kinh (những năm 60)


hướng

nghiệp

hoá

xuất

khẩu

(những năm 60)

tế mở/ hợp tác giữa Nhà Ưu tiên tăng trưởng kinh Tăng cường sử dụng
nước và tư nhân/ điều tế/ thu hút vốn đầu tư vốn nước ngoài (các
chỉnh cơ cấu đầu tư/ phối nước ngồi/ khuyến khích khoản vay và đầu tư
hợp các lĩnh vực sản công nghiệp sản xuất hàng trực tiếp)/ tập trung
xuất/ thực hiện chương xuất khẩu/ miễn thuế/ vào khu vực kinh tế tư
trình phát triển kinh tế khuyến khích phát triển nhân/ lập các KCX/
ngành(các giải pháp cho các ngành công nghiệp miễn
20

giảm

thuế/


cơng nghiệp máy móc và chủ đạo thơng qua can khuyến khích các cơng
khu vực điện tử)

thiệp của Chính phủ và ty thương mại .

đầu tư cho nghiên cứu ứng

Tăng trưởng ổn định

dụng.
CNH các ngành công CNH hướng xuất khẩu

(từ những năm 70)

nghiệp nặng, hoá chất (những năm 70)

Lập các kế hoạch tầm hướng xuất khẩu

Lập kế hoạch phát

xa/ sử dụng cơ chế thị (những năm 70)

triển chính thức cho

trường / phát triển các Kế hoạch chiến lược phát các công ty Nhà nước
ngành sử dụng nhiều yếu triển công nghiệp nặng, về sắt thép, hố dầu,
tố tri thức, cơng nghệ cao hố chất/ tài trợ có kiểm và

đóng

tàu/

hình

sốt cho các hoạt động thành quỹ vốn đầu tư

kinh doanh/ cho vay lãi xã hội.
suất đối với các ngành
công nghiệp nặng, hố
chất và sản xuất hàng xuất
khẩu/ khuyến khích mở
rộng trang thiết bị trong
các xí nghiệp tư nhân.
Tự do hố phối hợp các Khuyến

khích

phát

ngành cơng nghiệp nặng, triển các ngành cơng
hố chất.

nghiệp kỹ thuật cao.

(những năm 80)

(những năm 80)

Tự do hoá kinh tế/ tư nhân Xác định các ngành
hoá một số khu vực cơng cơng nghiệp

chiến

cộng/ tự do hố quản lý lược/ miễn thuế đối
cốn đầu tư nước ngoài/ tự với các ngành điện tử
do hố tài chính/ tiếp tục và máy móc/ lãi suất

khuyến khích phát triển cho vay thấp/ khuyến
doanh nghiệp quy mơ vừa khích cơng nghiệp ơ
21


và nhỏ.
tơ.
2. Cơng nghiệp hố hướng nội, thay thế nhập khẩu được chuyển
hướng thành cơng nghiệp hố hướng ngoại, khuyến khích xuất khẩu vào
thời điểm thích hợp
Đây là điểm phân biệt quyết định sự thành công của các nước NIE so với
các nền kinh tế Latin America. Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu
đã xuất hiện đầu tiên ở các nước Mỹ Latin. Nhưng do duy trì quá lâu chính sách
này nên đã biểu hiện những nhược điểm rõ rệt.
Kinh nghiệm của Brazil thực hiện cơng nghiệp hố thay thế nhập khẩu
cho thấy việc duy trì ưu tiên theo hướng thay thế nhập khẩu trong một khoảng
thời gian dài có thể là một nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến sự thất bại của
chiêns lược cơng nghiệp hố hướng nội.
- Khác với Brazil, ấn Độ, NIEs và Nhật Bản đều đã thực hiện các bươc
chuyển hướng ngoạn mục từ ưu tiên tái thiết kinh tế trong nước thông qua thay
thế nhập khẩu bằng việc chuyển ưu tiên phát triển sang các khu vực khuyến
khích xuất khẩu vào nửa cuối thập kỷ 50(đối với Nhật Bản và Đài Loan ) và
những năm đầu của thập kỷ 60 (đối với Hàn Quốc).
Bảng 2- Khuyến khích cơng nghiệp xuất khẩu và các chính sách kuyến
khích xuất khẩu ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan .
Nhật Bản
Hợp lý hố cơng nghiệp

Hàn Quốc
Sau nội chiến Triều Tiên


(nửa đầu thập kỷ 50)

(những năm 1950)

Đài Loan
CNH thay thế nhập
khẩu (nửa đầu thập kỷ

Tài trợ ưu đãi, trợ cấp ưu Khuyến khích xuất khẩu 50)
tiên cho xuất khẩu/ cho cũng là 1 phần của CNH

Thành

lập

các

vay với lãi suất thấp của thay thế nhập khẩu ở Hàn ngành công nghiệp công
Ngân hàng phát triển Quốc/ thành lập quỹ cộng chủ đạo/ lán sóng
Nhật

Bản/

thành

lập khuyến khích xuất khẩu/ viện trợ của Mỹ/ hạn

Ngân hàng xuất khẩu trợ cấp tín dụng cho xuất ngạch nhập khẩu để bảo
Nhật Bản (1950)/ khuyến khẩu, trợ cấp khác cho hộ/ chế độ tỷ giá kép/ áp

khích về thuế, khấu trừ xuất khẩu.

dụng hệ thống hai giá để
22


thu nhập cho xuất khẩu/

khuyến khích xuất khẩu.

phát triển bảo hiểm xuất
khẩu/ thành lập JETRO.
Khuyến khích phát triển

Chuyển sang CNH

cơng nghiệp

hướng xuất khẩu.

(cửa sau những năm 50)

(nửa

Xuất khẩu tàu biển/ cho

sau

những


năm 50)

vay lãi suất thấp của

Bắt đẩu xuất khẩu

NHPT Nhật Bản/ khấu

gạo, đường và nông sản

trừ đặc biệt cho các

chế biến của khu vực

khoản thu nhập liên quan

công cộng/ cải cách hệ

đến giao dịch ở nước

thống tỷ giá theo hướng

ngoài.
Tăng trưởng cao

khuyến khích xuất khẩu.
Chuyển sang CNH hướng
CNH hướng xuất

(những năm 60)


xuất khẩu

khẩu hồn tồn

Tự do hố kinh tế, tăng (những năm 60)

(những năm 60)

sức cạnh tranh/ xuất khẩu Khuyến khích các xí

Các khoản cho vay

thiết bị máy móc/ tiếp tục nghiệp tư nhân trong các đặc biệt/ cho vay xuất
cho vay lãi suất thấp của ngành CNXK/ các khoản khẩu/ phát triển KCX/
NHPT Nhật Bản/ khấu trợ cấp trực tiếp/ cho vay khuyến khích các cơng ty
trừ đặc biệt đối với xuất lãi suất thấp/ miễn giảm thương mại/ miễn giảm
khẩu/

phát

triển

thị thuế, khấu hao theo gia thuế/ ban hành luật đầu

trường nước ngồi/ mở tốc/ khuyến khích phát tư/ tăng cường sử dụng
rộng quy mô và hiệu quả triển xuất khẩu sản phẩm vốn nước ngồi.
hoạt động JETRO

cơng nghiệp nhẹ/ thành

lập KOTRA.
Tăng trưởng nhanh của

Sự tiến bộ của các

Công nghiệp xuất khẩu

ngành công nghiệp xuất

(những năm 70)

khẩu

Mở rộng các khoản cho

23

(những năm 70)


vay lãi suất thấp/ phát

Củng cố các xí

triển các EPZ/ phá giá nghiệp Nhà nước/ phát
nội tệ/ thành lập ngân triển BHXK/ hệ thống
hàng XNK/ áp dụng thuế cho vay trung và dài hạn
VAT.

của NH XNK/ hiệp hội

phát triển ngoại thương.

Đối phó với xung đột
thương mại
(những năm 80)
Hạn chế xuất khẩu tự
nguyện/ các công ty phát
triển đầu tư kinh doanh
tại Mỹ(xuất khẩu tại
chỗ)/ khuyến khích thị
trường tự do.
Nhật Bản
Bắt đầu từ nửa cuối của thập kỷ 50, Nhật Bản đã thực hiện hàng loạt
những cải tiến về công nghệ và đề ra một chính sách cơng nghiệp đa dạng nhằm
mở rộng cơ sở cơng nghiệp trong nước, khuyến khích phát triển các ngành công
nghiệp mới, cơ cấu lại các khu vực đang giảm sút.
Mục tiêu của chính sách cơng nghiệp trong thời kỳ này gồm hai phần:
thay thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu. Các ngành như sợi tổng hợp, hố
dầu, máy móc, phụ tùng, điện tử được xác định là các khu vực ưu tiên và được
hưởng các ưu đãi của Chính phủ về miễn giảm thuế kinh doanh về thuế xuất
khẩu, cho vay lãi suất thấp, cho phép nhập khẩu cơng nghệ nước ngồi, và miễn
phải chịu luật chống độc quyền. Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản cũng chủ ý
thay đổi về thể chế để khuyến khích xuất khẩu .
Mục tiêu chính sách cơng nghiệp những năm 60 được bổ sung thêm nội
dung bảo vệ các ngành công nghiệp trước những tác động của tự do hố. Nếu
như việc bảo vệ các ngành cơng nghiệp này vẫn sử dụng những cơng cụ chính
24


sách như thời kỳ trước đây thì sẽ khơng có sự chuyển hướng của chính sách

cơng nghiệp. Thay vào đó, các cơng cụ chính sách theo chiều ngang được thực
hiện để tăng cường sức cạnh tranh cho công nghiệp Nhật Bản. Mục tiêu nâng
cao sức cạnh tranh của công nghiệp Nhật Bản được thơng qua việc Chính phủ
khuyến khích việc phối hợp giữa các ngành công nghiệp, tăng cường hợp tác,
trao đổi thông tin giữa khu vực tư nhân và khu vực Nhà nước. Tuy nhiên, chính
sách cơng nghiệp vẫn sử dụng các công cụ theo chiều dọc đối với một vài ngành
công nghiệp cụ thể như ô tô và hố dầu, được coi là những ngành có tính chiến
lược, song những công cụ theo chiều dọc này trong thực tế đã khơng có hiệu lực
như mong muốn.
Thay vào đó, cơ chế thị trường và sự phối hợp giữa Chính phủ với các
ngành cơng nghiệp theo phương châm “Chính phủ khơng phải là cha, Chính phủ
chỉ là người anh trai đối với các ngành công nghiệp ”.Kết quả là, trong thời kỳ
này, công nghiệp Nhật Bản đạt được mức tăng trưởng cao chưa từng có, với hệ
thống kinh tế tự do được hình thành và củng cố vững chắc.
Hàn Quốc
Sự chuyển hướng từ cơng nghiệp hố hướng nội sang khuyến khích các
ngành cơng nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu ở Hàn Quốc có nhiều điểm khác
biệt so với Nhật Bản. Nếu như Chính phủ Nhật Bản đã bắt đầu có dấu hiệu
chuyển hướng từ nửa cuối 1950s và cho đến 1960s thì hầu như các cơng cụ của
chính sách cơng nghiệp được sử dụng đều là các cơng cụ chính sách theo vhiều
ngang, thì Chính phủ Hàn Quốc vẫn sử dụng nhiều các cơng cụ chính sách theo
chiều dọc ngay cả khi nền kinh tế đã bắt đầu chuyển hưoứng theo hướng khuyến
khích xuất khẩu.
Năm 1961, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện quốc hữu hố tồn bộ hệ
thống ngân hàng. Bằng các mệnh lệnh hành chính, Chính phủ phân phối các
nguồn tín dụng khan hiếm cho các ngành cơng nghiệp được ưu tiên.
Vào đầu thập niên 70, khi chi phí nhân cơng ngày càng cao, Chính phủ sử
dụng hệ thống tín dụng để khuyến khích các doanh nghiệp chuyển hướng đầu tư

25



×