Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng tmcp kỹ thương hà tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.21 KB, 84 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng là một trong những định chế tài chính quan trọng bậc nhất của
nền kinh tế. Bằng các sản phẩm, dịch vụ của mình Ngân hàng đã giúp các
luồng tiền thông suốt, vận động liên tục và thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy
với tầm quan trọng như thế, sự an toàn trong hoạt động của Ngân hàng có ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động của nhiều tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Về
bản chất, rủi ro của Ngân hàng là không tránh khỏi nhưng điều đó không có
nghĩa là không làm gì. Các Ngân hàng đều cố gắng hạn chế tối đa các rủi ro có
thể xảy ra bằng các biện pháp khác nhau. Trong bối cảnh cạnh tranh và hội
nhập thị trường tài chính và ngành công nghiệp tài chính-Ngân hàng ngày càng
phát triển mạnh mẽ đang đòi hỏi ngành Ngân hàng phải có những cải cách
mạnh mẽ để nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong từng hoạt động dịch vụ.
Sau khi Ngân hàng Nhà nước ra quyết định 493/2010/QĐ-NHNN ngày
22/04/2010 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín
dụng, rủi ro càng trở thành vấn đề quan tâm của các Ngân hàng và những người
quan tâm. Trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ
thương Việt Nam Chi nhánh Hà Tây em được tiếp xúc với các công việc của tín
dụng, hiểu được quy trình tín dụng cũng như tìm hiểu được một phần các rủi ro
có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Rủi ro đối với Ngân
hàng có nhiều loại và phức tạp. Với phạm vi của một chuyên đề tốt nghiệp, em
chọn đề tài nghiên cứu về “Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP Kỹ thương Hà Tây”. Qua chuyên đề này em
hy vọng có thể đóng góp phần nào việc hạn chế được những rủi ro hiện hữu
cũng như tiềm ẩn tại Chi nhánh, tăng độ an toàn trong hoạt động tín dụng.
2. Mục đích nghiêm cứu:
 Luận giải về những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng và rủi ro tín dụng trong
hoạt động Ngân hàng.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
1


Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
 Nghiên cứu, đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Techcombank-
Chi nhánh Hà Tây.
 Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
tại Ngân hàng Techcombank-Chi nhánh Hà Tây.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Techcombank-Chi nhánh Hà Tây.
 Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn nghiên cứu về nghiệp vụ tín dụng của các
khoản vay ngắn, trung và dài hạn tại Ngân hàng Techcombank-Chi nhánh Hà
Tây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp tổng hợp nghiên cứu, phân tích thống
kê, điều tra khảo sát, suy luận logic. Vận dụng lý luận vào thực tiễn để giải
thích nguyên nhân từ đó đưa ra giải pháp thích hợp
5. Kết cầu của khóa luận
Ngoài phần mở đàu, kết luận, khóa luận được chia làm ba chương như sau:
 Chương 1: Tổng quan về rủi ro tín dụng trong Ngân hàng Thương mại
 Chương 2: Thực trạng hoạt động phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại
Chi nhánh Ngân hàng TMCP Kỹ thương Hà Tây.
 Chương 3: Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh
Ngân hàng TMCP Kỹ thương Hà Tây.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
2
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN
HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tín dụng Ngân hàng
* Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Thuật ngữ “tín dụng” xuất phát từ chữ latinh là Credo (tin tưởng – tín
nhiệm). Xét ở góc độ tín dụng là một chức năng cơ bản của Ngân hàng thì tín
dụng được hiểu như sau:
Tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa)
giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính) và bên đi vay (cá
nhân, doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác), trong đó bên cho vay chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa
thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi
đến hạn thanh toán.
* Đặc điểm của tín dụng Ngân hàng
– Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng Ngân hàng bao gồm hai hình
thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản, động sản).
– Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, người cho vay khi chuyển giao tài sản
cho người đi vay sử dụng phải dựa trên cơ sở lòng tin và phải tin rằng người đi
vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
– Bên đi vay phải hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay sau khi hết thời
hạn sử dụng thỏa thuận - Thông thường giá trị được hoàn trả lớn hơn giá trị
lúc cho vay - phần lớn hơn này là lợi tức.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
3
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
Ngân hàng tham gia quan hệ tín dụng với 2 tư cách: Vừa là người đi vay
vừa là người cho vay.
1.1.2. Các hình thức tín dụng Ngân hàng
Tín dụng Ngân hàng được thực hiện dưới nhiều hình thức, được nhìn
nhận dưới nhiều góc độ khác nhau theo các tiêu phân loại khác nhau. Trên
thực tế, người ta thường đề cập đến các hình thức tín dụng Ngân hàng theo
các tiêu thức phân chia sau:

Phân loại theo thời gian cấp tín dụng
+ Tín dụng có kỳ hạn: Là khoản tín dụng có thời hạn xác định về ngày
trả nợ. Tín dụng có kỳ hạn, tín dụng trung và dài hạn. Mặc dù hầu hết các
nước đều thống nhất về điều này nhưng thời gian cụ thể được quy định cho
từng loại lại không hoàn toàn đồng nhất. ở Việt Nam hiện nay, theoquy chế
cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng cùng với quyết định
1627/2001/QĐ- NHNN/ ngày 31/12/2000 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam thì:
+ Cho vay ngắn hạn: Tối đa đến 12 tháng, được xác định phù hợpvới chu
kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
+ Cho vay trung hạn, dài hạn: thời hạn cho vay được xác định phù hợp
với thời hạn thu hồi của vốn đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàngvà tính
chất nguồn vốn vay của tổ chức tín dụng.
* Thời hạn cho vay trung : từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
Thời hạn cho vay dài hạn: từ 60 tháng trở lên nhưng không quá
thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép
thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án đầu tư
phục vụ đời sống.
-Tín dụng không kỳ hạn: Là khoản tín dụng được ứng dụng đối với
khoản vay không xác định rõ thời hạn trả nợ.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
4
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
Phân loại theo thành phần kinh tế
Theo thành phần kinh tế, ta có thể chia các khoản cho vay thành:
Cho vay doanh nghiệp Nhà nước.
Cho vay kinh tế tập thể.
Cho vay kinh tế tư bản tư nhân.
Cho vay kinh tế tư bản nhà nước
Cho vay kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Phân loại theo phương thức hoàn trả
Theo phương thức hoàn trả thì các khoản cho vay còn có thể được phân
chia theo hai loại: cho vay hoàn trả một lần và cho vay trả góp.
Cho vay hoàn trả một lần: các khoản vay sẽ được hoàn trả một lần vào
thời gian xác định trong hợp đồng tín dụng, lãi vay có thế đựoc hoàn trả teo
thoả thuận trong hợp đồng, chẳng hạn heo tháng, theo quý hoặc theo năm. -
Cho vay trả góp : việc hoàn trả được tiến hành theo địnhkỳ, các khoản này có
thể bằng nhau hay không bằng nhau tuỳ theo thoả thuận và được thực hiện
heo nguyên tắc trả dần trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng.
Phân loại theo mức độ đảm bảo
Các Ngân hàng có thể đảm bảo hay không có đảm bảo tùy thuộc
vào mức độ tín nhiệm của Ngân hàng đôí với khách hàng vay cũng như độ rủi
ro của phương án xin vay. Từ đảm bảo của khách hàng ở đây chỉ được hiểu là
đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ ba. Cách
đảm bảo này có mục đích giảm bớt rủi ro mất mát trong trường hợp người vay
không trả được nợ được hay không muốn trả nợ khi đến hạn. Các tài sản được
đem thế chấp thường là các bất động sản trong khi các tài sản được đem cầm
cố lại là các động sản nhỏ, vật tư hàng hóa, chứng khoán và các giấy tờ
khác…Yêu cầu cơ bản đối với các tài sản đem thế chấp, cầm cố là
chúng phải có tính thị trường tức là có khả năng thanh lý được.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
5
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
Phân loại theo nguồn phát sinh các khoản tín dụng
Cho vay trực tiếp: trước khi cấp tiền ra Ngân hàng có mối liên hệ trực tiếp
đối với người vay để thẩm định khách hàng, xem xét tình hình người vay…
Cho vay gián tiếp: Ngân hàng bỏ tiền ra cho vay nhưng không cóliên hệ
gì với người vay như: cho vay hợp vốn đối với Ngân hàng khác… Việc phân
loại có ý nghĩa giúp Ngân hàng đánh giá, lựa chọn cách thức cho vay cũng
như khách hàng tốt nhất, trên cơ sở đó nghiên cứu thể lệ và chính sách tín

dụng phù hợp. Trong thực tế kinh doanh Ngân hàng chúng ta thường xem xét
chủ yếu là các loại hình tín dụng ngắn hạn là chủ yếu. Khi phân chia các loại
hình tín dụng ngắn hạn người ta thường nhìn dưới góc độ các “sản phẩm tín
dụng” hay còn được gọi là kỹ thuật cấp tín dụng.
1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
Tùy mục tiêu nghiên cứu, mục tiêu của quản trị mà người ta chia tín
dụng Ngân hàng thành các loại khác nhau.
*Xét theo mục đích:
Tín dụng Ngân hàng gồm:
– Cho vay kinh doanh bất động sản: Gồm các khoản cho vay liên quan
đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản.
– Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lãnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
– Cho vay nông nghiệp: Loại vay nhằm hỗ trợ nông dân trong sản xuất
– Cho vay các định chế tài chính: Bao gồm cấp tín dụng cho các Ngân
hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm…
– Cho vay cá nhân: Là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ,trang
trải các chi phí thông thường của đời sống.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
6
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
– Cho thuê: Cho thuê các định chế tài chính bao gồm hai loại cho thuê
vận hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản và
động sản, trong đó chủ yếu là máy móc thiết bị.
* Xét theo thời hạn:
– Cho vay ngắn hạn: Là loại vay có thời hạn đến 12 tháng.
– Cho vay trung hạn: Là loại vay có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm
– Cho vay dài hạn: Là loại vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa
có thể lên đến 20-30 năm tùy thuộc vào dự án và giấy phép đầu tư. Một số

trường hợp cá biệt có thể lên tới 40 năm.
* Xét theo tài sản đảm bảo (TSĐB):
– Cho vay không đảm bảo: là loại vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, việc cấp tín dụng chủ yếu dựa vào mức độ
tín nhiệm và uy tín của khách hàng; năng lực tài chính của khách hàng,
phương án vay hiệu quả và khả thi.
– Cho vay có đảm bảo: Là loại vay dựa trên cơ sở các tài sản đảm bảo
như thế chấp, cầm cố bằng tài sản của khách hàng; hoặc phải có sự bảo lãnh
cầm cố, thế chấp bằng tài sản của người thứ ba; hay cho vay bằng tài sản hình
thành từ vốn vay.
* Căn cứ vào xuất xứ tín dụng:
– Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu,
đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho Ngân hàng.
– Cho vay gián tiếp: Là khoản vay được thực hiện thông qua việc mua lại
các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
1.1.4. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế
Tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền
kinh tế.Nó thúc đẩy sản xuất và lưu thông phát triển, góp phần đẩy nhanh quá
trình tái sản xuất mở rộng. Tín dụng Ngân hàng là công cụ điều hoà lưu thông
tiền tệ và thông qua đó điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tín dụng Ngân hàng có
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
7
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
chức năng huy động vốn và tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi để đưa vào sử
dụng. Cụ thể:
Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì quá trình ho
ạt động sản xuất kinh doanh được liên tục và ngày càng mở rộng. Hoạt động
tín dụng của các Ngân hàng thương mại đã thoả mãn những lo lắng của những
người có vốn và đáp ứng nhu cầu của người cần vốn, có nghĩa là các Ngân
hàng thương mại đứng ra làm trung gian nhận tiền gửi từ tất cả các thành

phần kinh tế và cho vay lại các đơn vị, cá nhân trong nền kinh tế. Hay nói
cách khác: "Tín dụng Ngân hàng là chiếc cầu nối để những người có vốn và
những người cần vốn gặp nhau
Tín dụng Ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển, thúc
đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế và góp phần tạo nên một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Tín dụng Ngân hàng là công cụ tài trợ đắc lực cho các ngành kinh
tế kém phát triển và những ngành kinh tế mũi nhọn. Bằng các hình thức huy
động vốn ngày càng đa dạng và phong phú cúng với việc thoả mãn thích đáng
nhu cầu lợi ích, nhu cầu tiền đột xuất của người gửi tiên mà Ngân hàng
Thương mại đã thu hút được hầu hết các nguồn tiền nhàn rỗi dù là rất nhỏ từ
trong dân chúng tập trung về tay mình và từ đó đáp ứng được nhu cầu về vốn
ngày càng tăng của nền kinh tế, hay nói cách khác hoạt động tín dụng đã làm
nhiệm vụ thông đòng để vốn chảy từ nơi thừa đến nơi thiếu thông qua việc
thực hiện hoạt động đi vay và cho vay. Nhờ đó đã góp phần cung ứng và điều
hoà vốn trong từng doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế, tạo cho quá trình sản
xuất được tiến hành một cách trôi chảy đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cố định,
vốn lưu động, bổ sung tăng cường củng cố tài sản cố định làm cho quá trình
sản xuất được tuần hoàn, thúc đẩy sản xuất lưu thông, tăng tốc độ chu chuyển
vốn tiền tệ trong xã hội, góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng, tạo
điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triền bền vững.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
8
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
Tín dụng Ngân hàng là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với
nước ngoài thúc đảy quá trình mở rộng, tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh
tế trong khu vực và trên thế giới.
Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá,
luân chuyển tiền tệ, điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông và kiểm soát lạm
phát.
Thông qua hoạt động tín dụng, khối lượng tiền trong lưu thông sẽ tăng

lên khi thực hiện hoạt động cho vay và ngược lại sẽ giảm xuống khi thực hiện
hoạt động thu nợ, do đó sẽ góp phần điều tiết khối lượng tiền trong toàn bộ
nền kinh tế. Ngân hàng sử dụng công cụ lãi suất, hạn mức tín dụng để làm
thay đổi khối lượng tiền vay, từ đó điều tiết được khối lượng tiền trong nền
kinh tế và kiểm soát được lạm phát, bởi vì tín dụng Ngân hàng khi điều tiết
được khối lượng tiền tức là khống chế được khối lượng tiền cần thiết cho nhu
cầu trao đổi và lưu thông hàng hoá, nhờ kiểm soát được giá cả. Hay nói cách
khác ,việc đưa tiền vào lưu thông qua tín dụng Ngân hàng là con đường hữu
hiệu nhất bởi vì khối lượng tiền này đã được đảm bảo bằng một lượng giá trị
vật tư hàng hoá và tránh được lạm phát tiền tệ.
1.2. RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.2.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng
Rủi ro là những biến cố không mong đợi khi xảy ra dẫn đến tổn thất về
tài sản của Ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải
bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài
chính nhất định.
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, tín dụng là hoạt động kinh
doanh đem lại lợi nhuận chủ yếu của Ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ
tiềm ẩn rủi ro rất lớn. Các thống kê và nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín dụng
chiếm đến 70% trong tổng rủi ro hoạt động ngân hàng. Mặc dù hiện nay đã có
sự chuyển dịch trong cơ cấu lợi nhuận của Ngân hàng, theo đó thu nhập từ
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
9
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
hoạt động tín dụng có xu hướng giảm xuống và thu dịch vụ có xu hướng tăng
lên nhưng thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm từ 1/2 đến 2/3 thu nhập Ngân hàng.
Kinh doanh Ngân hàng là kinh doanh rủi ro, theo đuổi lợi nhuận với rủi ro
chấp nhận được là bản chất Ngân hàng. Rủi ro tín dụng là một trong những
nguyên nhân chủ yếu gây tổn thất và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng
kinh doanh Ngân hàng. Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, rủi ro tín dụng

được định nghĩa: Là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động Ngân hàng
của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ của mình theo đúng cam kết.
Đối với các nước đang phát triển (như ở Việt Nam), các ngân hàng thiếu
đa dạng trong kinh doanh các dịch vụ tài chính, các sản phẩm dịch vụ còn
nghèo nàn, vì vậy tín dụng được coi là dịch vụ sinh lời chủ yếu và thậm chí
gần như là duy nhất, đặc biệt đối với các Ngân hàng nhỏ. Vì vậy rủi ro tín
dụng cao hay thấp sẽ quyết định hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
1.2.2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng mang tính chất gián tiếp: xuất phát từ nguyên nhân trong
quan hệ tín dụng Ngân hàng chuyển quyền sử dụng vốn cho khách hàng trong
thời gian nhất định nên những thiệt hại, thất thoát về vốn trước hết là trong
quá trình sử dụng vốn của khách hàng.
Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: đây là đặc điểm có tính
chất tất yếu do Ngân hàng là trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ. Đặc điểm
này cũng là hệ quả của đặc điểm thứ nhất vì mối quan hệ gián tiếp với rủi ro
tín dụng khiến sự đa dạng và phức tạp của rủi ro tín dụng đối với Ngân hàng
ngày càng thể hiện rõ.
Rủi ro tín dụng có tính tất yếu luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín
dụng của NHTM: thông tin không cân xứng là lý do khiến các nhà kinh tế và các
Ngân hàng cho rằng kinh doanh Ngân hàng thực chất là quản lý rủi ro ở mức
phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng. Do không thể có thông tin cân xứng
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
10
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
về việc sử dụng vốn vay cho hoạt động kinh doanh của khách hàng đi vay, bất cứ
khoản vay nào cũng tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro đối với Ngân hàng.
1.2.3. Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
Ngân hàng là một trung gian tài chính. Vai trò trung gian của Ngân hàng
thể hiện qua việc Ngân hàng là đầu mối kết nối giữa các chủ thể trong nền

kinh tế. Trong đó, một phía là các chủ thể có tiền, còn phía bên kia là những
chủ thể cần tiền. Trong vai trò trung gian, Ngân hàng có thể “hứng chịu” rủi
ro đến từ hai phía. Để có thể nhận biết được những rủi ro trong hoạt động
của Ngân hàng cần quan sát các hoạt động mà các Ngân hàng đang thực hiện
và phân tích những rủi ro trong quá trình hoạt động đó. Các hoạt động của
Ngân hàng có thể tóm lược qua các công việc chủ yếu sau: nhận gửi và chi trả
hộ, thực hiện tài trợ, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn, cung cấp các dịch vụ …
So với các đơn vị kinh doanh khác, hoạt động của Ngân hàng có đặc
điểm sau:
* Lượng tiền mà NHTM sử dụng: Đại bộ phận số tiền mà Ngân hàng sử
dụng để tài trợ cho khách hàng không phải là vốn của Ngân hàng mà được
hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó chủ yếu là tiền gửi của các chủ
thể trong nền kinh tế. Điều này cũng có nghĩa là việc Ngân hàng nhận được
nhiều hay ít tiền gửi đều có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của Ngân
hàng. Rủi ro có thể phát sinh từ sự hình thành các nguồn tiền mà Ngân hàng
sử dụng.
* Về hướng sử dụng tiền của Ngân hàng: Tiền Ngân hàng chuyển cho
khách hàng sử dụng vượt khỏi tầm quản lý trực tiếp của Ngân hàng. Khả năng
thu hồi vốn của Ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào chính bản thân Ngân
hàng và khách hàng mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan khác
tác động đến Ngân hàng và khách hàng. Đặc trưng này liên quan tới khả năng
dự liệu những rủi ro có thể xảy ra của Ngân hàng.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
11
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
* Khách hàng của Ngân hàng vừa là người cung ứng vừa là những
người sử dụng tài nguyên của Ngân hàng. Mối quan hệ đặc biệt giữa Ngân
hàng với khách hàng là điều kiện quan trọng vừa giúp cho Ngân hàng có thể
giảm thiểu rủi ro nhưng đồng thời cũng gây cho Ngân hàng những tổn thất
không đáng có nếu như Ngân hàng quá tin đến mức thiếu thận trọng đối với

những khách hàng quen
* Sự giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước: Không có lĩnh vực
kinh doanh nào lại chịu sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý Nhà
nước như lĩnh vực kinh doanh của các Ngân hàng. Mặc dù mục tiêu giám sát
của các cơ quan này nhằm giảm thiểu rủi ro cho nền kinh tế thông qua cơ chế
quản lý tài chính đối với các hoạt động của Ngân hàng, nhưng cũng có thể
điều này gây nên tâm lý thụ động hoặc ỷ lại của Ngân hàng, hoặc “đơn giản
hoá”, bỏ qua các vấn đề cần được quan tâm. Chính điều này tiềm ẩn rủi ro
khó lường cho Ngân hàng.
1.2.4. Phân loại rủi ro tín dụng
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân
chia thành các loại sau đây:
Sơ đồ 1 : Phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro
giao dịch
Rủi ro
tín dụng
Rủi ro
danh mục
Rủi ro
lựa chọn
Rủi ro
bảo đảm
Rủi ro
nghiệp vụ
Rủi ro
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
12
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
nội tại

Rủi ro
tập trung
* Rủi ro giao dịch là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân
phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay,
đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch bao gồm:
- Rủi ro lựa chọn: rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích
tín dụng, phương án vay vốn để quyết định tài trợ của Ngân hàng
- Rủi ro bảo đảm: rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như mức
cho vay, loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo…
- Rủi ro nghiệp vụ: rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và
hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ
thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.
*Rủi ro danh mục là rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những
hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của Ngân hàng, được phân thành:
- Rủi ro nội tại: Xuất phát từ đặc điểm hoạt động và sử dụng vốn của
khách hàng vay vốn, lĩnh vực kinh tế.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
13
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
- Rủi ro tập trung: Rủi ro do Ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều vào
một số khách hàng, một ngành kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất
định hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.2.5. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng trong Ngân hàng thương mại
Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng rất đa dạng và được chia thành 3 nhóm
nguyên nhân chính là nhóm nguyên nhân khách quan từ nền kinh tế và nhóm
nguyên nhân từ phía khách hàng cũng như nguyên nhân từ phía Ngân hàng.
1.2.5.1. Nguyên nhân từ môi trường kinh tế
a). Yếu tố môi trường kinh tế
Có nhiều yếu tố thuộc về môi trường kinh tế như: lạm phát, tỷ giá hối đoái
thay đổi, chu ky kinh tế thì yếu tố chu kỳ kinh tế được đề cập đến nhiều nhất.

Khi chu kỳ kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì rủi ro tín dụng xảy ra nhiều.
Khi chu kỳ kinh tế suy thoái thì rủi ro tín dụng xảy ra nhiều. Thông thường khi
chu kỳ kinh tế suy thoái thì Ngân hàng gặp nguy hiểm đối với các khoản cho
vay doanh nghiệp sản xuất hàng hóa tiêu dùng cao cấp như ô tô, tủ lạnh cao
cấp, các khoản cho vay bất động sản vì trong thời kỳ này người tiêu dùng
thường cắt giảm những khoản chi tiêu cho nhu cầu cao cấp và chỉ duy trì các
nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt thường ngày mà thôi. Còn trong trường hợp
chu kỳ kinh tế phát triển thì hầu như ngành nào cũng gặp thuận lợi … việc
khách hàng không trả hoặc trễ hẹn thường là do đạo đức khách hàng. Trong
trường hợp này thì tỷ lệ thu hồi nợ có tăng lên và tỷ lệ xấu giảm đi, rủi ro tín
dụng cũng giảm đi so với trong thời gian chu kỳ kinh tế suy thoái.
Chính sách tiền tệ nới lỏng hay thắt chặt đều là nguyên nhân dẫn đến
RRTD của Ngân hàng cao hay thấp. Khi NHNN thực hiện chính sách tiền tệ
mở rộng thì các điều kiện cấp tín dụng cho khách hàng sẽ được nới lỏng, tạo
điều kiện cho khách hàng có thể dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn của Ngân
hàng nhưng đồng thời cũng khiến cho RRTD của Ngân hàng cao hơn và
ngược lại.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
14
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
Chu kỳ kinh tế: Sự phát triển của nền kinh tế thường diễn ra theo chu kỳ
hưng thịnh – khủng hoảng – suy thoái – phát triển – hưng thịnh – … Trong
giai đoạn nền kinh tế hưng thịnh hay phát triển thì hoạt động kinh doanh diễn
ra thuận lợi, lợi nhuận thu được cao, hoạt động tín dụng diễn ra khá an toàn.
Còn trong thời kỳ khủng hoảng, suy thoái hoạt động sản xuất kinh doanh gặp
nhiều khó khăn, khả năng trả nợ Ngân hàng thấp khiến cho RRTD gia tăng.
Sự biến động của tỷ giá hối đoái: Khi khách hàng vay ngoại tệ, đến thời
hạn trả nợ cho Ngân hàng đồng ngoại tệ đó lên giá mạnh, dẫn đến khách hàng
gặp khó khăn trong việc trả nợ đúng hạn, từ đó dẫn đến nguy cơ RRTD cho
Ngân hàng tăng cao.

Lạm phát: Lạm phát gây ra ảnh hưởng bất lợi đến việc kinh doanh như giá
cả nguyên vật liệu đầu vào tăng, lương trả cho công nhân viên cao … khiến
doanh nghiệp gặp khó khăn trong vấn đề tài chính, nhu cầu tín dụng gia tăng
trong khi khả năng trả các khoản nợ cũ là thấp gây ra rủi ro cho Ngân hàng.
Giảm phát: Giảm phát khiến cho nền kinh tế trì trệ, chỉ số giá thấp hơn
lãi vay dẫn đến doanh nghiệp chỉ cầm chừng trong việc vay vốn để phát triển
sản xuất, không có cơ hội để mở rộng sản xuất kinh doanh mà vẫn phải duy
trì chi phí cố định dẫn đến có khả năng không trả được các khoản nợ cũ, gây
ra RRTD cho Ngân hàng.
b). Yếu tố môi trường chính trị pháp luật
Kinh doanh Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc biệt và chịu sự giám sát
chặt chẽ của nhà nước. Môi trường luật pháp có ảnh hưởng tới việc hoạt động
của Ngân hàng được mở rộng hay thu hẹp. Việc thiếu chính xác trong dự đoán
môi trường luật pháp trong Ngân hàng đẩy Ngân hàng vào tình trạng rủi ro
như dự đoán sai lĩnh vực kinh tế được ưu tiên … dẫn đến tình trạng sai lầm
trong chính sách huy động vốn và trong chính sách đi vay.
Môi trường chính trị pháp luật không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia
mà còn mở rộng ra môi trường quốc tế như trong điều kiện hội nhập kinh tế
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
15
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
như hiện nay đồng nghĩa với việc rủi ro không còn trong mỗi ngành Ngân
hàng mà rủi ro còn liên quan đến quốc gia và khu vực.
Một nền chính trị ổn định là điều kiện cho doanh nghiệp yên tâm đầu tư
sản xuất, tập trung vốn cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh. Còn ngược lại
nếu môi trường kinh tế bất ổn, thường xuyên diễn ra chiến tranh, khủng bố …
thì việc kinh doanh đầu tư của doanh nghiệp gặp khó khăn, sản xuất đình trệ,
làm ăn thua lỗ dẫn đến khả năng trả nợ cho Ngân hàng giảm và RRTD có
nguy cơ gia tăng. Mặt khác nếu các chính sách pháp luật thay đổi thường
xuyên, không nhất quán, mâu thuẫn, không rõ ràng sẽ làm cho các doanh

nghiệp không kịp thay đổi để thích nghi, dẫn đến gặp khó khăn trong hoạt
động kinh doanh, từ đó ảnh hưởng xấu đến khả năng trả nợ Ngân hàng của
khách hàng.
c). Yếu tố văn hóa – xã hội
Đây là sự thay đổi trong tập quán tiêu dùng hoặc sự thay đổi thói quen tiêu
dùng của người dân trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay. Nếu ngân hàng
không kịp thời nắm bắt cũng như thực hiên các biện pháp hợp lý thì có thể dẫn
đến tình trạng gặp khó khăn trong hoạt dộng kinh doanh nói chung hoặc khó
khăn trong hoạt động cho vay nói riêng. Yếu tố này cũng được thể hiện qua ý
thức trả nợ của khách hàng, từ rủi ro đạo đức sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng.
d). Yếu tố môi trường công nghệ
Yếu tố công nghệ hiện nay là một trong những yếu tố quan trọng quyết
định đến sức cạnh tranh trên thị trường của mỗi Ngân hàng. Trên thực tế, sự
thay đổi của công nghệ thông tin đã tác động mạnh mẽ tới quá trình cấp tín
dụng cũng như hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Qua đó nhằm kéo dài
hoạt động của Ngân hàng và giữ vị trí của Ngân hàng trong nền kinh tế hiện
nay. Điều này góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
16
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
1.2.5.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng
a). Đối với khách hàng cá nhân:
Nói đến khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân là phải xét đến thu nhập
và nguy cơ thất nghiệp đe dọa họ. Tình trạng thu nhập không ổn định, hay
người vay đang ở trong tình trạng thất nghiệp đều có thể làm cho khả năng trả
nợ của họ bị giảm sút, nghiêm trọng hơn là người vay mất khả năng trả nợ.
Những rủi ro bất thường trong cuộc sống như đau ốm, tai nạn đi tù đều
khiến cho khách hàng có thể đẩy Ngân hàng rơi vào tình trạng gặp RRTD.
Ngoài ra, một nguyên nhân quan trọng cần kể đến đó là rủi ro đạo đức
khi khách hàng cố tình lừa đảo Ngân hàng để chiếm dụng tài sản, sử dụng số

tiền vay không đúng mục đích, cố tình không trả nợ …
Khả năng hoạch định phương án kinh doanh, phương an trả nợ không
chính xác còn mang tính chủ quan dẫn đến thu nhỏ hơn chi ảnh hưởng tới
nguồn trả nợ cho Ngân hàng.
b). Đối với khách hàng là doanh nghiệp
Rủi ro kinh doanh: trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
thường gặp phải rủi ro từ thị trường cung cấp, từ thị trường tiêu thụ và rủi ro
từ chính năng lực quản lý của bản thân doanh nghiệp.
Trình độ quản lý yếu kém của bộ máy lãnh đạo sẽ dẫn đến việc sử dụng
lãng phí các nguồn lực ( vốn, con người, công nghệ ) sử dụng không đúng
mục đích, dẫn đến hiệu quả đầu tư không cao, giảm khả năng cạnh tranh và
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Nguyên vật liệu đầu vào tăng giá cao hơn dự kiến, kém chất lượng hay
khan hiếm khiến cho chi phí đầu vào tăng, sản xuất bị ngưng trệ hay sản
phẩm không đảm bảo chất lượng. Từ đó dẫn đến uy tín của doanh nghiệp bị
giảm sút, kinh doanh gặp khó khăn.
Khi doanh nghiệp không xác định đúng nguồn cầu của thị trường mà
cung ứng ra lượng sản phẩm thừa hoặc không đáp ứng được nhu cầu thị hiếu
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
17
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
người tiêu dùng sẽ dẫn đến tình trạng sản phẩm không tiêu thụ được, từ đó
gây ứ đọng vốn. Hoặc khi người mua ép giá hay cố tình không trả tiền mua
hàng cũng dẫn đén khó khăn trong việc hoàn trả nợ cho Ngân hàng.
Rủi ro tài chính: Khi doanh nghiệp không đủ vốn kinh doanh, cơ cấu vốn
thiếu hợp lý, sử dụng nợ ngắn hạn vào mục đích dài hạn như mua sẳm tài sản
cố định, hoặc doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài dẫn đến
doanh nghiệp không có vốn để quay vòng sản xuất. Căng thẳng về mặt tài
chính khiến doanh nghiệp không thể đối phó được với các nghĩa vụ trả nợ gốc
và lãi cho Ngân hàng.

Rủi ro đạo đức của doanh nghiệp: Như lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, sử
dụng tiền sai mục đích ….
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
18
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
1.2.5.3. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
a). Chính sách tín dụng không hợp lý
Chính sách tín dụng có tác động rất lớn đến chất lượng tín dụng, nó định
hướng về cơ câu tín dụng, lĩnh vực đầu tư tín dụng, lãi suất … sự không hợp
lý trong chính sách tín dụng thể hiện ở việc Ngân hàng quá đề cao mục tiêu
lợi nhuận mà không chú ý đến mục tiều an toàn, lành mạnh. Việc theo đuổi
mục tiêu lợi nhuận khiến cho các chính sách tín dụng của Ngân hàng nới lỏng,
lựa chọn khách hàng không chặt chẽ, cho vay tràn lan, cho vay không có tài
sản bảo đảm, hạ thấp lãi suất để cạnh tranh … Với chính sách như vậy rất dễ
gây rủi ro về sau này đối với hoạt động tín dụng và về nguồn vốn huy động.
Thẩm định tín dụng: Đây được coi là khâu quan trọng nhất trong quy
trình tín dụng, tuy nhiên khi thẩm định hồ sơ khách hàng đôi khi Ngân hàng
dựa trên cảm tính, không thu nhập thông tin đầy đủ, không phân tích đánh giá
được hiệu quả thực sự của dự án
Giám sát tín dụng: Sau khi giải ngân, Ngân hàng thực hiện giám sát tín
dụng nhằm theo dõi việc sử dụng vốn vay của khách hàng có hiệu quả không,
có đúng mục đích vay không, tình hình hoạt động kinh doanh có đúng như
trong kế hoạch để đảm bảo trả nợ đúng hạn cho Ngân hàng không, kiểm tra
tình hình bảo quản, giá thị trường của tài sản bảo đảm … để từ đó Ngân hàng
có biện pháp xử lý kịp thời khi khoản vay có dấu hiệu rủi ro. Nhưng nếu
Ngân hàng không coi trọng việc giám sát, kiểm tra, không thực sự coi tín
dụng là kinh doanh cùng khách hàng thì việc xảy ra rủi ro là tất yếu.
Thiết kế sản phẩm tín dụng không phù hợp: Thể hiện ở việc Ngân hàng
đưa ra mức cho vay không hợp lý, kỳ hạn nợ không phù hợp, thời hạn vay có
thể quá ngắn hoặc quá dài, chỉ chú trọng vào một mảng tín dụng … sẽ dẫn

đến RRTD.
Mức độ tập trung tín dụng cao: Việc vi phạm nguyên tắc “ không nên để
trứng vào cùng một giỏ “ trong kinh doanh thể hiện khi Ngân hàng chỉ tập
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
19
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
trung tín dụng vào một số doanh nghiệp, hay một số ngành nghề thì rất dễ xảy
ra rủi ro nếu một số doanh nghiệp hay ngành nghề đó gặp khó khăn.
b). Rủi ro đạo đức và trình độ của cán bộ tín dụng
Đạo đức nghề nghiệp: Cán bộ tín dụng thông đồng cấu kết với khách hàng
để cho vay với mục đích kiếm tiền cho cá nhân mặc dù khách hàng đó không
đáp ứng đủ điều kiện cho vay. Hoặc khi cán bộ tín dụng không thực hiện đúng
quy trình cho vay, bỏ qua các bước cần thiết, thu thập thông tin thiếu chính xác,
cho vay dựa trên cảm tính … sẽ dẫn đến việc ra quyết định cho vay không
chính xác, khả năng xảy ra rủi ro cao, việc thu hồi vốn gặp khó khăn.
Trình độ của cán bộ tín dụng: Cán bộ tín dụng chuyên môn kém, không
hiểu biết về các lĩnh vực có liên quan như phân tích tình hình xã hội, kinh tế,
pháp luật, không bắt kịp với cơ chế thị trường luôn biến động … khiến cho việc
đánh giá khách hàng thiếu chính xác, hạn chế trong việc quản lý các món vay.
c). Sự yếu kém về công nghệ Ngân hàng
Ngày nay trình độ công nghệ là yếu tố quan trọng trong tổ chức kinh
doanh Ngân hàng, đặc biệt là đối với quản lý rủi ro tín dụng. Vì trình độ công
nghệ ngày càng cao càng trợ giúp cho Ngân hàng sàng lọc những khách hàng,
ngành nghề đang có mức độ rủi ro cao cũng như các cơ sở dữ liệu thông tin
về khách hàng. Công nghệ Ngân hàng thể hiện ở mức độ tập trung thông tin,
ở khả năng phân tích, xử lý thông tín, từ đó rút ra các kết luận, nhận định
phục vụ cho quản trị Ngân hàng như các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng,
tình hình phân bố tài sản, mức độ tập trung rủi ro … Công nghệ của Ngân
hàng còn thể hiện khả năng chi phối, kiểm soát đối với hoạt động của các bộ
phận tác nghiệp. Ở mỗi trình độ công nghệ khác nhau đều đòi hỏi một cơ chế

quản lý khác nhau.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
20
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
d). Rủi ro từ yếu kém trong việc phối hợp tác nghiệp
Rủi ro tín dụng có thể xuất phát từ tất cả các khâu của quá trình cấp tín
dụng của Ngân hàng thương mại từ giai đoạn trước khi cho vay, trong giai
đoạn giải ngân đến giai đoạn quản lý khoản vay của khách hàng.
Ở giai đoạn trước khi cho vay việc không chấp hành nghiêm túc chế độ
tín dụng, điều kiện cho vay, xem xét, đánh giá khách hàng, khoản vay không
kỹ, không tốt sẽ dẫn đến khả năng xảy ra rủi ro tín dụng trong tương lai.
Ở giai đoạn giải ngân và quản lý khoản vay: giải ngân không tuân thủ
theo điều kiện, yếu kém trong kiểm soát, theo dõi ( là việc không kiểm soát
được mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng, việc kiểm tra tình hình sản
xuất kinh doanh và tình hình tài chính của khách hàng bị buông lỏng, viêc
kiểm soát, theo dõi khoản vay không được thực thi một cách có hiệu quả ) sẽ
dân đến khả năng xẩy ra rủi ro tín dụng trong tương lai.
1.2.5.4. Nguyên nhân từ tài sản bảo đảm
Rủi ro tín dụng sẽ xảy ra khi Ngân hàng đánh giá không đúng giá trị của
tài sản bảo đảm, có sự biến động về giá trên thị trường, tài sản không có đầy
đủ giấy tờ pháp lý.
Trong khi xác định cho vay, Ngân hàng có thể yêu cầu người vay phải có
tài sản bảo đảm, nhưng do không đánh giá được sự biến động của thị trường
mà tài sản bị giảm giá, giá trị tài sản không đủ thanh toán gốc và lãi cho Ngân
hàng dẫn đến rủi ro.
Ngân hàng có thể gặp rủi ro trong quá trình nắm giữ và xử lý tài sản bảo
đảm. Người vay có thể cầm cố thế chấp tài sản của người khác dẫn đến tranh
chấp, hoặc người vay cố tình gây khó khăn trong công tác phát mại tài sản
bảo đảm, khiến cho Ngân hàng không thể thu hồi vốn vay.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A

21
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
1.2.6. Hậu quả của rủi ro tín dụng
a. Đối với Ngân hàng
Ngân hàng là đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ RRTD. Khi gặp
RRTD Ngân hàng sẽ mất cân đối trong thu chi do Ngân hàng phải trả vốn và
lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn trong khi ngân hàng lại không thu
được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay. Việc không thu được nợ sẽ làm vòng
quay vốn tín dụng giảm, hoạt động kinh doanh không hiệu quả, tiềm ẩn trạng
thái mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng
đến uy tín Ngân hàng. Điều này còn gây bất đồng nội bộ giữa các cấp, gây
nên tình trạng thuyên chuyển nhân viên, tạo ra sự biến động trong cơ cấu
nhân sự.
b. Đối với khách hàng
Khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng
đúng hẹn, họ sẽ phải chịu sự giám sát chặt chẽ của Ngân hàng, uy tín của
người đi vay giảm sút sẽ rất khó để có thể vay được một khoản mới ở bất kì
một Ngân hàng nào khác, cũng như việc kinh doanh sẽ gặp khó khăn khi đối
tác cũng mất lòng tin vào doanh nghiệp.
Đối với người gửi tiền, khi rủi ro tín dụng xảy ra nguồn trả nợ gốc và lãi
cho khoản tiền gửi của họ cũng sẽ không được đảm bảo chắc chắn.
c. Đối với nền kinh tế
Khi khoản tín dụng gặp rủi ro có nghĩa là lợi ích kinh tế của khoản vay
dự kiến đem lại sẽ không còn nữa. Từ đó dẫn đến quyền lợi của người gửi tiền
sẽ không được đẩm bảo, ảnh hưởng xấu đến tiết kiệm và mở rộng đầu tư của
nền kinh tế.
Mặt khác Ngân hàng là một hệ thống đồng bộ, các tác động của Ngân
hàng thường mang tính dây truyền nên khi có một ngân hàng gặp RRTD sẽ
ảnh hưởng đến nguồn vốn của Ngân hàng đó, gây hoang mang cho người gửi
tiền không chỉ ở Ngân hàng đó mà còn cả khách hàng ở các Ngân hàng khác,

Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
22
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
từ đó có thể xảy ra hiện tượng rút tiền ồ ạt làm cho toàn bộ hệ thống Ngân
hàng gặp khó khăn. Gây mất ổn định thị trường tài chính tiền tệ, suy thoái nền
kinh tế, giá cả gia tăng, sức mua đồng tiền giảm xuống, gia tăng thất nghiệp,
xã hội mất ổn đinh …
1.3. PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.3.1. Khái niệm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
Phòng ngừa rủi ro tín dụng là việc đưa ra các biện pháp nhằm tránh và
hạn chế rủi ro tín dụng từ đó giảm thiểu những tổn thất cho Ngân hàng. Theo
đánh giá từ các chuyên gia kinh tế thì ở các nước châu Á rủi ro tín dụng
chiếm khoảng 60% trong tổng số rủi ro. Rủi ro tín dụng luôn thường trực và
sẵn sàng gây nguy hiểm đe dọa sự tồn tại của Ngân hàng. Nhưng để thu được
lợi nhuận thì Ngân hàng không thể chối bỏ rủi ro tín dụng, nghĩa là không thể
không cho vay mà chỉ có thể tìm các làm cho hoạt động tín dụng trở nên an
toàn và hạn chế đến mức chấp nhận dược những tổn thất có thể xảy ra. Chính
vì vậy việc phòng ngừa rủi ro tín dụng là rất cần thiết. Nếu không làm được
việc này thì sự suy giảm hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng là điều tất yếu
và khả năng phá sản là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Trong nền kinh tế, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng liên quan đến
rất nhiều các thành phần kinh tế từ cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế
cho tới các tổ chức tín dụng khác. Vì vậy, kết quả kinh doanh của Ngân hàng
phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế và đương nhiên nó phụ
thuộc lớn vào tình hình tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và
khách hàng. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng không thể có kết quả tốt
khi hoạt động kinh doanh của nền kinh tế chưa tốt hay nói cách khác hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng sẽ có nhiều rủi ro khi hoạt động kinh tế có
nhiều rủi ro. Rủi ro xảy ra dẫn đến tình trạng mất ổn định trên thị trường tiền
tệ gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, làm ảnh hưởng

tiêu cực đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. Do đó phòng ngừa và hạn chế
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
23
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
rủi ro không những là vấn đề sống còn của Ngân hàng mà là còn yêu cầu cấp
thiết của nền kinh tế góp phần vào sự ôn dịnh và phát triển của toàn xã hội.
1.3.2. Sự cần thiết phải thực hiện phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
1.3.2.1 Đối với bản thân Ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm giảm lợi nhuận kinh doanh tức là thu
nhập giảm.Thu nhập giảm làm cho việc mở rộng tín dụng sẽ gặp khó
khăn Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán,rủi ro tín dụng khiến cho
việc hoàn trả tiền gửi của Ngân hàng gặp nhiều khó khăn.Các khoản cho vay
có thể mất hoặc khó đòi trong khi tiền gửi khách hàng vẫn phải trả lãi, làm
mất đi những cơ hội kinh doanh tốt của Ngân hàng.Nếu rủi ro xảy ra mức độ
quá lớn,nguồn vốn của Ngân hàng không đủ bù đắp, vốn khả dụng bị thiếu,
lòng tin của khách hàng giảm tất yếu sẽ dẫn tới phá sản Ngân hàng.
1.3.2.2. Đối với nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng liên
quan đến rất nhiều thành phần kinh tế từ cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức
kinh tế cho tới các tổ chức tín dụng khác.Vì vậy,kết quả kinh doanh của Ngân
hàng phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế và đương nhiên nó
phụ thuộc rất lớn vào tình hình tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp và khách hàng.Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng không thể có kết
quả tốt khi hoạt động kinh doanh của nền kinh tế chưa tốt hay nói cách khác
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng sẽ có nhiều rủi ro khi hoạt động kinh tế
có nhiều rủi ro.Rủi ro xảy ra dẫn tới tình trạng mất ổn định trên thị trường tiền
tệ, gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh,làm ảnh hưởng
tiêu cực đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.Do đó, phòng ngừa và hạn chế
rủi ro tín dụng không những là vấn đề sống còn đối với Ngân hàng mà còn là
yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế góp phần vào sự ổn định và phát triển của

toàn xã hội.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
24
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Tài chÝnh - Ng©n hàng
1.3.3. Nội dung phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
1.3.3.1. Công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng
a. Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý
Một trong những biện pháp quan trọng để các khoản tín dụng Ngân hàng
đáp ứng được các tiêu chuẩn pháp lý và đảm bảo an toàn là việc hình thành một
“Chính sách tín dụng cung cấp cho cán bộ tín dụng và nhà quản lý một khung
chỉ dẫn chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng danh mục đầu tư
tín dụng Ngân hàng. Nếu một chính sách tín dụng không hiệu quả thì phải tiến
hành kiểm tra hoặc phải được tăng cường quản lý bởi lãnh đạo Ngân hàng.
b. Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tiềm năng của khách
hàng về sử dụng vốn vay, cũng như khả năng hoàn trả vốn vay Ngân hàng.
Mục đích chính của việc phân tích tín dụng là xác định khả năng trả nợ
và ý muốn của khách hàng trong việc hoàn trả tiền vay, tìm kiếm những tình
huống có thể dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng khi cho vay và tiên lượng khả
năng kiểm soát của Ngân hàng về các rủi ro đó, cũng như dự kiến các biện
pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Phân tích tín dụng là khâu quan trọng trong quy trình tín dụng, là lá chắn
để phòng ngừa và hạn chế RRTD có thể xãy ra đối với Ngân hàng. Dựa trên
những thông tin về khách hàng được thu thập từ nhiều nguồn đáng tin cậy
(như hồ sơ vay vốn theo quy định, phóng vấn trực tiếp khách hàng, điều tra cơ
sở hoạt động sản xuất kinh doanh, thông tin từ nội bộ Ngân hàng,…), Ngân
hàng sẽ tiến hành thẩm định khách hàng theo hai nội dung phân tích tài chính
và phân tích phi tài chính:
Phân tích tài chính: Tư cách người vay, năng lực người vay, thu nhập của
người đi vay, bảo đảm tiền vay, các điều kiện, kiểm soát.

Phân tích tài chính: thường dựa vào các nhóm chỉ tiêu như chỉ tiêu thanh
khoản, chỉ tiêu hoạt động, chỉ tiêu đòn bẩy, nhóm chỉ tiêu nhả năng sinh lời.
Hồ Thị Quỳnh Thơ Lớp: TC15A
25

×