Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn bắc hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.28 KB, 59 trang )

Báo cáo thực tập tốt nghiệp
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1

1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN

1
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại

1
1.1.1. Khái niệm – Đặc điểm của Ngân hàng thương mại 1
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 2
1.1.3. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại 5
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng thương mại

6
1.2.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại 6
1.2.2. Phân loại sử dụng vốn tại ngân hàng thương mại 8
1.2.3. Hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng thương mại 11
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng thương
mại

14
1.3.1. Môi trường kinh doanh 14
1.3.2. Các yếu tố nội tại 15
CHƯƠNG 2


16
THỰC TRẠNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
Báo cáo thực tập tốt nghiệp

16
TẠI NHNo&PTNT BẮC HÀ NỘI

16
2.1. Tổng quan về NHNo&PTNT Bắc Hà Nội

16
2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại NHNo&PTNT BẮC HÀ NỘI

17
2.2.1. Cơ cấu nguồn vốn của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 17
2.2.2. Thực trạng về sử dụng vốn của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 20
2.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại Agribank Bắc Hà Nội

30
2.3.1. Những kết quả đạt được 30
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 31
CHƯƠNG 3

36
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN

36
TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN BẮC

HÀ NỘI

36
3.1. Định hướng hoạt động tín dụng của Agribank Bắc Hà Nội

36
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Agribank Bắc Hà Nội
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
Báo cáo thực tập tốt nghiệp

37
3.2.1. Nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh tín dụng 37
3.2.4. Về Kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế 43
3.2.5. Về công tác thu nợ 43
3.3. Một số kiến nghị

44
3.3.1. Đối với Nhà nước 44
3.3.2. Đối với NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 46
3.3.3. Đối với Agribank Bắc Hà Nội 46
3.3.4. Đối với các doanh nghiệp vay vốn 48
KẾT LUẬN

48
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05

Báo cáo thực tập tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo Ths.Nguyễn Thị Vân Anh đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo và cho em những ý kiến quý báu để em có thể hoàn thành chuyên
đề thực tập tốt nghiệp này.
Qua đây, em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các anh chị cán bộ, nhân
viên Ngân hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Bắc Hà Nội đã hướng dẫn và
giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập cũng như trong quá trình thực hiện chuyên đề
thực tập tốt nghiệp .
Em xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ việt tắt Nghĩa của từ viết tắt
NHTM Ngân Hàng Thương Mại
NHNo&PTNT Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn
Agribank Bắc Hà Nội Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
Chi Nhánh Bắc Hà Nội
KH Kế Hoạch
DNNN Doanh Nghiệp Nước Ngoài
DNNQD Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Biến động nguồn vốn huy động qua các năm 2010 - 2012 18
Bảng 2.2: Cơ cấu nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 18
Bảng 2.3: Tình hình sử dụng vốn của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 20
Biểu đồ 2.1: Diễn biến tình hình cho vay trong 3 năm 2010 – 2012 22

Bảng 2.4: Huy động vốn và sử dụng vốn tại NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 24
qua 3 năm 2010 – 2012 24
Bảng 2.5: cơ cấu đầu tư tín dụng của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội theo thành phần kinh
tế 27
Bảng 2.6: Tình hình nợ quá hạn tại NHNoPTNT Bắc Hà Nội 29
BẢNG 3.1: KẾ HOẠCH TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2013 - 1016 36
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm – Đặc điểm của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại đã có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Ngay
nửa đầu thế kỳ 16, ở Châu Âu đã ra đời một số ngân hàng đầu tiên mà tiền thân là những
tổ chức cho vay nặng lãi. Vào thời điểm này, ngân hàng phát triển ở trình độ thấp, hoạt
động của ngân hàng chỉ gói gọi trong lĩnh vực giữ hộ tiền và cho vay. Cùng với sự phát
triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của ngân hàng thương mại cũng được từng
bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hóa dần theo hướng đa năng. Tuy nhiên đến
nay chưa có một khái niệm thông nhất về ngân hàng thương mại do các nhà kinh tế nhận
thấy có những khó khăn trong việc định nghĩa “ngân hàng”, bởi quan niệm về ngân hàng
thay đôi trong không gian (tập quán và phong tục mỗi nước) và trong thời gian (theo đà
phát triển kinh tế - xã hội). Theo một số chuyên gia về ngân hàng trên thế giới thì ngân
hàng trong nền kinh tế thị trường được quan niệm là “Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc
biệt hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, tuân thủ theo pháp luật theo đuổi mục tiêu
lợi nhuận”. Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997 “Ngân

hàng là loại hình tổ chức tín dụng dược thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên qua. Theo tính chất và hoạt động, các loại hình ngân
hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng hợp
tác và các loại hình ngân hàng khác”.
1.1.1.2. Đặc điểm của Ngân hàng thương mại
Tuy nhiên để hiểu rõ hơn khái niệm về ngân hàng thương mại, chúng ta cần
xem xét đặc điểm của ngân hàng thương mại. Trước hết, hoạt động ngân hàng thương
mại là hình thức kinh doanh kiếm lời, theo đuổi mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu. Ngân
hàng thực hiện hai hình thưc hoạt động là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tự được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới
các hình thức khác nhau, để cấp tín dụng cho khách hàng có yêu cầu về vốn với mục
tiêu tìm kiếm lợi nhuân. Ngân hàng thương mại là người “đi vay để cho vay” nhằm
mục đích kiếm lời. Các hoạt động dịch vụ ngân hàng được biểu hiện thông qua các
nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối, chứng khoán, để cam kết thực hiện
công việc nhất định cho khách hàng trong một thời gian nhất định nhằm mục đích thu
phí dịch vụ hoặc hoa hồng.
Hai là, hoạt động ngân hàng thương mại phải tuân thủ theo quy định của pháp
luật, nghĩa là chỉ khi ngân hàng thương mại thoải mãn đầy đủ các điều kiện khắt khe
do phát luật quy định về vốn, phương án kinh doanh… thì mới được phép hoạt động
trên thị trường.
Ba là, hoạt động ngân hàng thương mại là hình thức kinh doanh có độ rủ ro cao
hơn nhiều so với các hình thức kinh doanh khác và thường có ảnh thưởng sâu sắc tới
các ngành khác và cả nền kinh tế. Sở dĩ như vậy là do trong hoạt động ngân hàng đặc
biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ do các ngân hàng tiến hành huy động vốn của
người khác rồi đem vốn đó để cấp tín dụng cho khác hàng theo nguyên tắc hoàn trả
vốn và lãi trong một thời gian nhất định, nên đã tạo rủi ro cho các hoạt động ngân hàng

thương mại. Rủi ro đến từ phía ngân hàng, khách hàng vay tiền, rủi ro đến từ những
yếu tố khách quan. Bởi vây, ngân hàng thương mại phải đối mặt với rủi ro cao, kéo
theo là rủi ro đối với những người gửi tiền ở ngân hàng thương mại cũng như đối với
nền kinh tế. Để tránh rủi ro đáng tiếc xảy ra, nhằm kiểm soát, làm giảm nhẹ những tổn
hại do ngân hàng vỡ nợ gây ra, chính phủ các quốc gia đặt ra những đạo luật riêng,
nhằm đảm bảo cho hoạt động này được vận hành an toàn, hiệu quả trong nền kinh tế
thị trường.
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
Tầm quan trọng của ngân hàng thương mại được thể hiện qua các chức năng
của nó. Các nhà kinh tế học đã ví ngân hàng thương mại là trái tim của nên kinh tế.
Ngân hàng hút tiền về, bơm tiền đi vì thế các nguồn vốn nhàn rỗi được khơi thông đưa
tiền từ nơi thừa đến nơi thiếu, giúp cho quá trình lưu chuyển tiền tệ một cách hiệu quả.
Các chức năng của ngân hàng thương mại có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh
khác nhau, nhưng bao gồm ba chức năng chủ yếu: chức năng trung gian tín dụng,
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
trung gian thanh toán, chắc năng tạo tiền của ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Ngân hàng thương mại – Trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của ngân hàng thương mại và có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thực hiện chức
năng trung gian tín dụng, ngân hàng là cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế,
khơi nguồn vốn từ những người có vốn nhàn rỗi sang những người có nhu cầu về vốn.
Trong nền kinh tế, do các đơn vị kinh tế có nhu cầu về tiền, vốn vào thời điểm
khác nhau là khác nhau, gây ra những hiện tượng thừa, thiếu tạm thời. Ngân hàng
thương mại là nơi trung gian có vai trò chuyển đổi kỳ hạn nợ, thay đổi kỳ hạn đáo hạn
của các khoản nợ, món nợ.
Ngân hàng thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay; mặt khác,

trên cơ sở số vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản
xuất, kinh doanh, tiêu dùng của các chủ thể kinh tế góp phần đảm bảo sự vận động liên
tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, Ngân hàng
thương mại vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
Ngày nay, quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hóa hơn. Sự phát
triển của thị trường tài chính làm xuất hiện các khía cạnh khác của chức năng này.
Ngân hàng có thể đứng làm trung gian của công ty (khi phát hành cổ phiếu) với những
nhà đầu tư: Chuyển giao các mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán, đảm nhận việc
mua bán trái phiếu công ty. Theo cách này ngân hàng làm trung gian giữa người đầu tư
và người cần vay vốn trên thị trường. Hơn nữa, tín dụng ngân hàng là một trong những
nguồn vốn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng
ngân hàng góp phần điều hòa vốn trong nền kinh tế, đảm bảo quá trình sản xuất kinh
doanh liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích lũy và đầu tư. Đưa vật tư hàng hóa vào
sản xuất lưu thông, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, đẩy nhanh
quá trình tái sản xuất.
Chức năng tín dụng của ngân hàng thương mại được hình thức rất sớm, ngay từ
lúc hình thành các ngân hàng thương mại. Ngày nay, thông qua chức năng trung gian
tín dụng, ngân hàng thương mại đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm
cho sản phẩn xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
đẩy sự phát triển của kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
1.1.2.2. Ngân hàng thương mại – Trung gian thanh toán.
Việc làm trung gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển đến tầm
rất đa dạng, không chỉ là trung gian truyền thống như trước, mà còn quản lý các
phương tiện thanh toán. Đây là vai trò ngày càng chiến vị trí rất quan trọng, phù hợp
với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Ở các nước phát triển, phần lớn các
công tác thanh toán ở trong nước được thực hiện thông qua séc và phần lớn séc thanh

toán ở trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua hệ thống ngân
hàng thương mại. Với phương pháp công nghệ hiện đại hơn, các NHTM từng bước
trang bị đầy đủ các máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật khác tạo điều kiện, thanh
toán bù trừ được nhanh chóng giảm bớt chi phí và có độ chính xác cao. Quá trình lưu
thông chuyển vốn từ tài khoản người mua sang tài khoản người bán có một đặc điểm
phi vật chất. Bằng chứng là ở các nước công nghiệp phát triển sử dụng hình thức
chuyển tiền điện tử là chuyện bình thường. Họ thanh toán bằng nối mạng các máy vi
tính của các ngân hàng thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài
khoảng người mua sang tài khoản người bán một cách nhanh chóng tiện lợi.
Như vậy, ngân hàng đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều chi phí lưu thông, đẩy
nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa.
1.1.2.3. Chức năng tạo ra tiền của ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp.
Vào thế kỷ 19, hệ thống ngân hàng hai cấp đã được hình thành, các ngân hàng
không còn hoạt động riêng lẻ mà đã tạo nên một hệ thống, trong đó ngân hàng trung
ương là cơ quan quản lý, về tiền tệ tín dụng là ngân hàng của các ngân hàng còn các
ngân hàng thương mại, kinh doanh tiền tệ.
Nhờ hoạt động trong hệ thống mà các ngân hàng thương mại đã tạo ra bút tệ.
Việc tạo ra bút tệ là sáng kiến quan trọng trong lịch sử hoạt động ngân hàng; chức
năng tạo ra bút tệ được thông qua hoạt động tín dụng và đầu tư của ngân hàng thương
mại trong mối quan hệ tùy thuộc vào ngân hàng Trung ương. Nhờ nhận tiền ký thác
của khách hàng, ngân hàng thương mại có khả năng đầu tư. Nhưng khi đầu tư, ngân
hàng tạo ra tiền ký thác mới, còn gọi là tiền bút tệ, tiền chuyển khoản ngân hàng
thương mại trở thành người cung ứng tiền bút tệ quan trọng trong nền kinh tế.
Tóm lại, khả năng tạo tiền là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
hàng đầu tiên nhận tiền gửi thanh toán thành một tài khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần,
thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, tín dụng nhiều ngân hàng. Khả

năng này tạo ra “Bội số mức cung tiền tệ” liên quan chặt chẽ với công cụ dự trữ bắt
buộc của Ngân hàng Trung ương. Chính vì vậy các bút tệ thúc đẩy sự phát triển kinh tế
mà cũng có thể gây nên những tai họa lớn. Đây là nhân tố cơ bản trong hoạt động kinh
doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại.
Từ ba chức năng cơ bản trên, ta cũng có thể thấy được vài trò to lớn của ngân
hàng thương mại trong nền kinh tế. Hoạt động của ngân hàng thương mại đẩy nhanh
quá trình thanh toán, giảm chi phí giao dịch và tạo môi trường thuận lợi cho quá trình
lưu chuyển vốn của nền kinh tế, nâng cao chất lượng của quá trình tập trung và phân
phối nguồn vốn. Ngân hàng thương mại còn là bộ máy tạo tiền, nó có vai trò quan
trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ và góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô
dưới sự tác động của Ngân hàng Trung ương và cách chính sách của Nhà nước.
1.1.3. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Cùng với sự phát triển của ngân hàng thương mại, hoạt động và các dịch vụ của
ngân hàng thương mại ngày càng được mở rộng. Nhưng nhìn chung, hoạt động của
ngân hàng thương mại gồm ba hoạt động chính là hoạt động vốn, hoạt động sử dụng
vốn và các hoạt động trung gian.
*Hoạt động huy động vốn: là hoạt động khởi đầu cho các hoạt động khách của
ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại bản chất là một tổ chức trung gian tài
chính có đặc điểm hoạt động chủ yếu không phải bằng nguồn vốn chủ sở hữu, vì vậy
để có nguồn vốn hoạt động, cung cấp vốn cho nền kinh tế thì ngoài nguồn vốn chủ sở
hữu, ngân hàng thương mại phải huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong
nền kinh tế thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đi
vay từ các tổ chức tín dụng khác hay từ Ngân hàng Trung ương.
*Hoạt động sử dụng vốn: sau khi huy động vốn, để bù đắp được chi phí huy
động vốn và có lợi nhuận thì ngân hàng thương mại phải tìm cách sử dụng có hiệu quả
các nguồn vốn này để thu lãi. Đây là hoạt động chủ yếu và đem lại tỷ trọng thu nhập
lớn nhất cho ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại sử dụng vốn theo các
hướng cơ bản là hoạt động tín dụng, đầu tư chứng khoản, đầu tư mua sắm tài sản cố
định và trang thiết bị, hoạt động ngân quỹ trong đó hoạt động tín dụng là quan trọng
Nguyễn Tài Việt

NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
nhất bởi nó đem lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng.
*Các hoạt động trung gian của ngân hàng thương mại bao gồm hoạt động thanh
toán, hoạt động quản lý sản cho khách hàng, hoạt động phát hành chứng khoán, hoạt
động mua bán và bảo quản chứng khoán, hoạt động cung cấp thông tin, tư vấn kinh
doanh và quản trị doanh nghiệp… Các hoạt động trung gian này không phải đem lại
nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng thương mại nhưng nó có ý nghĩa quan trọng
trong việc mở rộng hoạt động huy động vốn và sử dụng nguồn vốn, đồng thời đa dạng
hóa hoạt động, giảm bớt rủi ro và tăng thu nhập cho ngân hàng.
Trên đây là ba nhóm hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại, mỗi hoạt
động có những đặc điểm khác nhau song có quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ và bổ
sung cho nhau. Vì vậy đối với các nhà quản trị ngân hàng, không được coi nhẹ hoạt
động nào mà phải luôn đặt mối quan hệ giữa chúng trong khi đề ra chiến lược cũng
như lập kế hoạch kinh doanh để đạt được hiệu quả trong hoạt động.
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1.1. Nguồn vốn tiền gửi
Nguồn vốn tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất chiếm bộ phận lớn trong tổng
số nguồn vốn của NHTM, thường chiếm khoảng 50 – 60% nhưng hiện nay tỷ lệ này
đang giảm dần.
Theo tính chất giao dịch việc huy động vốn chia làm 2 loại: Tiền gửi giao dịch
và tiền gửi tiết kiệm, nó có thể được chia thành dạng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Nguồn vốn nằm trên tài khoản thanh toán và tiết kiệm không kỳ hạn là khá lớn bởi nó
phục vụ cho nhu cầu thanh toán giao dịch trong nền kinh tế. Đặc điểm của nguồn vốn
này là ngắn hạn, không ổn bởi khách hàng có thể rút tiền tài khoản bất kỳ lúc nào họ
có nhu cầu. Ngân hàng sử dụng vốn phải đối phó với rủi ro thanh khoản hoặc sự ứ
đọng vốn nhưng ngược lại chi phí sử dụng nó rất thấp. Việc huy động nguồn vốn tiền
gửi phụ thuộc nhu cầu thanh toán của từng cá nhân. Ví dụ như những ngày giáp Tết

hay Noel, nhu cầu chi tiêu lớn, khách hàng thường đến ngân hàng để rút tiền. Lãi suất
cũng có yếu tố quan trọng, có tính cạnh tranh lớn, nhất là trong thời kỳ khan hiếm tiền
tệ. Sự thu hút nguồn tiền gửi phụ thuộc vào mức độ đa dạng hóa dịch vụ trình độ công
nghệ ngân hàng hiện đại tạo ra sự thuận lợi cho khách hàng. Uy tín, thâm niên, sự giao
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
tiếp lịch sự của đội ngũ cán bộ công nhân viên ảnh hưởng khả năng huy động tiền gửi
của ngân hàng. Ngoài ra khả năng sử dụng vốn như khả năng cho vay, khả năng đầu tư
sẽ ảnh hưởng trong việc huy động nguồn vốn.
1.2.1.2. Nguồn vốn đi vay
Ngân hàng thương mại có thể đi vay từ NHNN, các tổ chức tín dụng khác có
thể vay trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ.
Khi ngân hàng thương mại vay vốn từ NHNN nhằm đảm bảo khả năng thanh
toán, đáp ứng nhu cầu thanh khoản, đáp ứng nhu cầu tín dụng cho các tổ chức tín dụng
trong nền kinh tế. Trong trường hợp ngân hàng thương mại gặp khó khăn và có khả
năng phá sản mà ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng, NHNN có thể cho vay. Khi
NHNN cho ngân hàng thương mại vay dựa vào các chứng khoán (chứng khoán cầm
cố, chứng khoán chiết khấu) và chỉ cho vay tối đa 70% giá trị thực tế của chứng khoán
đó. Chi phí để có khoản vốn này là khá lớn, ảnh hưởng đến kế hoạch của ngân hàng,
nhất là lợi nhuận, nên đây là giải pháp cuối cùng của ngân hàng mới huy động.
Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng luôn là người bạn đồng
hành, người bạn của nhau. Khi một ngân hàng cần một nguồn vốn trung và dài hạn hay
một dự án lớn đem lại lợi nhuận cao, ngân hàng thương mại thường đi vay tức thời với
lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Hoặc hai ngân hàng thương mại thuộc hai nước
có thời gian làm việc ngược nhau thường ký kết hợp đồng tín dụng qua đêm để tận
dụng nguồn vốn, tuy nhiên cách làm này chi phí hơi cao vì lãi suất tín dụng qua đêm là
lãi suất nóng.
Ngoài ra, ngân hàng thương mại có thể vay vốn trên thị trường vốn và thị trường tiền

tệ thông qua phát hành các kỳ phiếu ngắn hạn, trái phiếu trung và dài hạn.
Đặc điểm của nguồn vốn đi vay là ổn định hơn nguồn vốn tiền gửi nhưng chi
phí vốn cao hơn. Tỷ lệ nguồn đi vay đang có xu hướng chiếm khoảng 15 – 20% tổng
nguồn vốn ngân hàng thương mại. Việc huy động vốn còn phụ thuộc chính sách tiền tệ
của NHNN, các hoạt động nói chung của ngân hàng thương mại và tính năng động của
thị trường chứng khoán.
1.2.1.3. Các nguồn vốn khác của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại còn có những nguồn vốn khác như nguồn vốn ủy thác,
nguồn vốn mà ngân hàng đứng ra quản lý hộ một tổ chức để đầu tư vào một dự án lớn
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
mang lại lợi nhuận cao, trong trường hợp này ngân hàng sẽ hưởng hoa hồng và dịch vụ
quản lý.
Nguồn vốn trong thanh toán hình thành từ đặc điểm thanh toán không dùng tiền
mặt khi mà sự vận động giữa hàng hóa và tiền tệ luôn có một khoảng thời gian nhất
định. Kế toán ngày càng hiện đại thì khoảng thời gian này ngày một rút ngắn, nguồn
vốn bị thu hẹp nhưng tăng tính cạnh tranh cho ngân hàng thương mại.
Nguồn vốn hình thành từ các khoản nợ của ngân hàng chưa đến hạn phải trả.
1.2.1.4. Vốn chủ sở hữu và các quỹ
Trước khi bước vào hoạt động, mỗi ngân hàng đề có một khoản vốn nhất định
nhiều hơn hoặc bằng vốn pháp định do Nhà nước đặt ra, gọi là vốn điều lệ. Đối với
ngân hàng quốc doanh, vốn điều lệ thường do ngân sách Nhà nước cấp, các ngân hàng
cổ phần do các cổ đông đóng góp. Vốn điều lệ phục vụ cho việc mở rộng, khởi động
ngân hàng, tạo ra cơ sở vật chất ban đầu để ngân hàng đi vào hoạt động. Vốn điều lệ
thể hiện quy mô, uy tín của ngân hàng. Tỷ lệ vốn nhỏ chỉ chiếm 5 - 10% tổng nguồn
vốn. Thường các ngân hàng cổ phần sau một thời gian hoạt động muốn nâng vốn điều
lệ lên bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, các nguồn vốn bổ sung được trích trên cơ sở
lợi nhuận không chia, lợi nhuận sau thuế, hoặc tăng nguồn vốn này bằng cách phát

hành trái phiếu ngân hàng. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng như một cái đệm chống đỡ
sự sụt giảm giá trị của những tài sản có của ngân hàng.
Trong ngân hàng hình thành nên nhiều quỹ dự phòng rủi ro, quỹ phúc lợi nhằm
bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, hạn chế rủi ro cho các cơ quan bảo hiểm, đảm bảo
thanh khoản và cung cấp một phần tài sản có bù đắp thua lỗ.
Tóm lại, để có một cơ cấu nguồn vốn tối ưu đảm bảo ưu cầu ổn định cho việc
sử dụng và tối thiểu hóa chi phí đòi hỏi ngân hàng phải xét đến các yếu tố về khả năng
huy động vốn trong dân cư, uy tín ngân hàng… đồng thời phải quan tâm đến vấn đề
đầu ra. Tránh tình trạng vốn huy động được từ các nguồn vốn ngắn hạn không thể cho
vay trung và dài hạn được, hay tình trạng ứ đọng vốn do không có dự án khả thi, giảm
lợi nhuận của ngân hàng.
1.2.2. Phân loại sử dụng vốn tại ngân hàng thương mại
Trong bảng quyết toán tài sản của một ngân hàng thương mại, bên tài sản có kết
quả của việc sử dụng vốn của ngân hàng đó. Việc sử dụng vốn trong ngan hàng thương
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
mại gồm những mục sau
1.2.2.1. Tiền dự trữ
Đây là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh khoản của ngân hàng để đáp ứng
nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên của khách hàng. Ngân hàng thương mại
phải duy trì một bộ phận vốn, để gửi vào một tài khoản nào đó ở NHNN, tổ chức tín
dụng các ngân hàng thương mại khác… và một lượng được cất giữ tại ngân hàng đó,
gọi là tiền dự trữ. Mức dự trữ cao hay thấp phụ thuộc vào quy mô hoạt động của ngân
hàng, mối quan hệ thanh toán bằng tiền mặt và chuyển khoản, thời vụ của các khoản
chi tiền mặt. Tiền dự trữ hiện hành không có lãi nhưng các ngân hàng thương mại vẫn
giữ chúng do một số lý do nhất định. Thứ nhất, theo luật pháp hiện hành, các ngân
hàng thương mại phải nộp một tỷ lệ nhất định tiền gửi mà ngân hàng huy động được
tại Ngân hàng Nhà nước (thường là 10%) để đảm bảo tiền gửi. Đây cũng là công cụ

quan trọng trong quản lý lưu thông tiền tệ. Thứ hai, bản thân ngân hàng cũng thấy rõ
sự cần thiết phải giữ một ít tiền mặt mà không nên cho vay hết. Việc giữ tiền mặt này
để đảm bảo an toàn cho những hoạt động còn lại, do vậy dự trữ tiền mặt trong tài sản
còn gọi là “khoản đầu tư cho sự an toàn”. Ngoài ra, các ngân hàng nhỏ gửi tiền vào các
ngân hàng lớn để đổi lấy các dịch vụ khác nhau như tập hợp séc, giao dịch ngoại tệ.
Các khoản này có tính lỏng nhất trong các loại tài sản của ngân hàng chiếm khoảng
7% tổng tài sản, phục vụ nhu cầu thanh khoản tại ngân hàng.
1.2.2.2. Đầu tư vào chứng khoán
Có thể thấy ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ đầu tư vào chứng khoán
nhằm mục đích kiếm lợi nhuận, nâng cao khả năng thanh khoản, đa dạng hóa các loại
hình kinh doanh nhằm phân tán rủi ro. Trong việc đầu tư vào chứng khoán, ngân hàng
thương mại chủ yếu mua các trái phiếu kho bạc, các trái phiếu có tính thanh khoản
cao. Đây là những công cụ chính của thị trường tiền tệ tài chính. Việc mua và dự trữ
các loại trái phiếu này một mặt tạo ra thu nhập cho ngân hàng, mặt khác chúng là
những công cụ tài chính dễ lưu động hóa, vì vậy khi cần tiền ngân hàng có thể bán
hoặc chiết khấu ở ngân hàng khác hoặc ở NHNN.
1.2.2.3. Tiền cho vay
Cho vay là một hoạt động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng thương mại để
tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
phí dự trữ, chi phí kinh doanh quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các
chi phí rủi ro đầu tư.
Kinh tế ngày càng phát triển, hướng cho vay của các ngân hàng thương mại
càng tăng và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng đa dạng. Ở hầu hết các nước công
nghiệp trong nhóm 10 và 15 nước hàng đầu thế giới, cho vay của các ngân hàng
thương mại đã chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Khu vực cho
vay ngắn hạn nhường chỗ cho thị trường tiền tệ tài chính cung ứng. Ngược lại hầu hết

các nước đang phát triển cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài
hạn, xuất phát từ chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn.
Nhưng nói chung, lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng vẫn là hoạt động cho vay
hay nói rộng ra là hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 67% tổng tài sản của
ngân hàng ở dạng tiền cho vay tạo ra hơn 60% thu nhập của ngân hàng khác bởi chúng
không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản vay mãn hạn và cũng có xác suất
rủi ro vỡ nợ cao hơn.
Theo thời gian, các khoản cho vay có thể chia thành các khoản cho vay ngắn
hạn, trung và dài hạn. Cho vay ngắn hạn thường đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động hay
khó khăn tạm thời về vốn. Cho vay trung và dài hạn thường đáp ứng nhu cầu cho
những dự án lớn, hay đổi mới dây chuyền công nghệ… Việc phân loại theo thời gian
giúp ngân hàng lập kế hoạch để huy động vốn và đầu tư.
Phân loại theo đối tượng cho vay, có khoản cho vay công nghiệp, cho vay nông
nghiệp, cho vay tiêu dùng… Các ngân hàng cho vay công nghiệp thường dựa vào tính
chất, chu kỳ kinh doanh để đáp ứng mục đích và mạng lại hiệu quả sử dụng vốn. Cho
vay tiêu dùng thường là cho vay với cán bộ làm công ăn lương, công việc ổn định, tiền
lương ổn định, đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng.
1.2.2.4. Các khoản đầu tư khác
Ngân hàng thương mại có thể tham gia đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn,
chứng khoán chính phủ… Các ngân hàng thương mại mua chứng khoán vì mục đích thanh
khoản và đa dạng hóa hoạt động, để nâng cao lợi tức và phục vụ như các vật ký quỹ cho các
tài sản nợ ký thác với chính quyền địa phương, chính phủ… Tỷ lệ lớn nhất của đầu tư
chứng khoán là chứng khoán chính phủ với tuy có mức lãi hạn chế những linh hoạt, không
có rủi ro tín dụng và ít rủi ro về lãi suất so với trái phiếu dài hạn. Thông thường lợi tức
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
tương ứng với độ rủi ro. Khoản vốn này chiếm khoảng 15 – 19% tổng tài sản.
1.2.3. Hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng thương mại

1.2.3.1. Khái niệm chung về sử dụng vốn
Cho vay hay đầu tư để sinh lợi từ tiền đã huy động được là lẽ sống của ngân hàng
thương mại. Cho vay hay đầu tư vào các loại tài sản nào cũng đều là hoạt động kiếm lợi
nhuận. Tài sản có là những khoản nợ mà thị trường nợ ngân hàng hoặc là những khoản
mà ngân hàng cho thị trường vay. Đứng trên góc độ tính chất, ngân hàng là chủ nợ và các
đội tượng vay tiền của nó là con nợ. Vì mục tiêu của ngân hàng là cho vay để kiếm lời,
nên tài sản có hay các khoản mà ngân hàng cho vay còn được gọi là đầu tư.
Như vậy sử dụng vốn là một trong những nghiệp vụ của ngân hàng thương mại.
Sử dụng vốn bao gồm:
- Dự trữ tiền mặt: Tiền mặt tại kho của ngân hàng
Tiền mặt ký gửi của ngân hàng Trung ương.
- Đầu tư vào chứng khoán ( trái phiếu, hối phiếu…)
- Cho vay
- Đầu tư vào các loạt tài sản ( như bất động sản, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị…)
1.2.3.2. Chỉ tiêu xác định hiệu quả sử dụng vốn
*Tổng dư nợ cho vay / Tổng nguồn vốn kinh doanh
Phản ánh cứ một đồng vốn huy động thì có bao nhiêu đồng được đem đi cho vay.
*Doanh số cho vay / Tổng nguồn vốn kinh doanh
Phản ánh cứ một đồng vốn kinh doanh thì bao nhiêu đồng được đem đi cho vay.
1.2.3.3. Các vấn đề liên quan đến sử dụng vốn an toàn và hiệu quả
*Quản lý nguồn vốn tại ngân hàng thương mại
Phân tích cơ cấu nguồn vốn và quản lý nguồn vốn hướng tới mục tiêu ổn định
hoạt động của ngân hàng và đặc biệt hướng tới lợi nhuận. Nghĩa là: Ngân hàng phải
đạt được chiến lược làm sao tạo nguồn vốn ổn định có thể ổn định sử dụng. Và xây
dựng cơ cấu vốn hợp lý và giảm chi phí vốn ở mức thấp nhất.
Quản lý nguồn vốn về quy mô nghĩa là xem xét ngân hàng thương mại có khả
năng huy động vốn cao nhất là bao nhiêu. Cơ cấu, qui mô từng loạt vốn ảnh hưởng tới
việc trả lãi ngân hàng và ảnh hưởng tới ổn định hoạt động ngân hàng như thế nào. Các
ngân hàng hiện đại thường lập ra những bài toán tối ưu về cơ cấu nguồn và quy mô
từng loại nguồn vốn.

Quản lý chi phí trả lãi là đưa chính sách lãi suất huy động phù hợp với từng thời
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
kỳ trên cơ sở chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Tính toán tổng chi phí trả
lãi – chi đầu vào – để xác định chi đầu ra.
Quản lý kỳ hạn của nguồn vốn, ngân hàng xác định ra những kỳ hạn huy động,
xác định được khả năng trả nợ đảm bảo nhu cầu rút tiền của khách hàng, tính toán kỳ
hạn bình quân của các khoản tiền gửi. Trong quản lý kỳ hạn ngân hàng áp dụng
“Nguyên lý thợ kim hoàn” để tính thời hạn trung bình các khoản tiền gửi.
Bất kỳ hoạt động cho vay hay đầu tư nào đều tiềm ẩn những dạng rủi ro khác
nhau và mức rủi cũng khác nhau. Sử dụng vốn tại ngân hàng thương mại dự trên
nguyên tắc an toàn và hiệu quả thưởng phải quản lý thanh khoản, kiểm soát rủi ro
trong hoạt động của mình.
*Quản lý thanh khoản
Thanh khoản là khả năng đáp ứng nhu cầu thanh toán tín dụng cho bất kỳ khách
nào tại bất kỳ thời điểm nào.
Thanh khoản là một trong số các vấn đề mà các nhà quản lý ngân hàng thường
xuyên phải quan tâm. Mức độ thanh khoản mà một ngân hàng riêng biệt nào đó cần
đến, tùy thuộc vào lượng biến đổi xảy ra ở số tiền gửi và nhu cầu tín dụng.
Có nhiều biến động bất thường xảy ra trong nền kinh tế, theo thời vụ, theo chu
kỳ. Rất khó lòng dự đoán được thời gian xảy ra và tính khốc liệt của biến động bất
thường ấy do chúng không tuân theo những khuân mẫu định sẵn.
Những biến động thời vụ trực tiếp liên quan đến mùa vụ khác với biến động bất
thường được lặp lại hàng năm, và những biến động ấy có thể thay đổi cùng thời gian.
Ví như một ngân hàng đặt tại khu nông nghiệp, mức tiền gửi sẽ tăng vào mùa thu
hoạch và nhu cầu tín dụng sẽ tăng vào mùa xuân.
Các biến động chu kỳ thường khó dự đoán hơn các biến động theo thời vụ.
Trong suốt thời kỳ suy thoái của một chu kỳ sản xuất, nhu cầu tín dụng giảm và tiền

gửi ngân hàng cũng có thể giảm theo. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ của ngân hàng
Trung ương có khuynh hướng bù đắp cho sự giảm sút tiền gửi ngân hàng trong toàn bộ
hệ thống ngân hàng suốt thời kỳ kinh tế trì trệ. Trong giai đoạn chấn hưng, nhu cầu tín
dụng tăng vượt mức tăng tiền gửi, khiến ngân hàng bán các tài sản lưu hoạt.
Kết quả của những biến động này trong nền kinh tế đã tác động đến mức tiền
gửi do đó ảnh hưởng trực tiếp đến tính thanh khoản. Vấn đề đặt ra cho ngân hàng là
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
phải quản lý thanh khoản.
Quản lý thanh khoản của ngân hàng xác định nhu cầu khả năng đáp ứng nhu
cầu thanh khoản tín dụng cho khách hàng tại bất kỳ thời điểm nào, tránh tình trạng
khách hàng đến rút tiền ồ ạt dẫn đến tình trạng ngân hàng phá sản. Điều quan tâm hàng
đầu là ngân hàng phải tính toán các loại tài sản có khả năng chuyển thành tiền mặt.
Việc xác định một mức thanh khoản hợp lý trong từng thời kỳ là hết sức khó khăn.
Ngân hàng phải dự đoán được nhu cầu của nền kinh tế tại các thời điểm khác nhau.
Đồng thời dựa vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng Trung ương ban hành để có
chính sách tín dụng phù hợp. Trong từng trường hợp thanh khoản có vấn đề, ngân
hàng thường dùng biện pháp bán đi các chứng khoán để chuyển đổi như tín phiếu kho
bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu và cổ phiếu của các công ty có chất lượng cao
được ưa chuộng trên thị trường. Tiếp theo ngân hàng rút các khoản tiền gửi tại các
ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác. Trường hợp khẩn cấp, ngân hàng
phải tiến hành thương lượng với các ngân hàng thương mại khác để bán đi các khoản
tín dụng có chất lượng cao. Thông báo trì hoãn các khoản nợ sẽ là phương cách cuối
cùng của ngân hàng thương mại.
*Quản lý rủi ro
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là những biến cố sự kiện, hiện tượng
xảy ra trong quá trình hoạt động của Ngân hàng thương mại gây ra thất thoát lớn về tài
sản, ảnh hưởng đến uy tín, làm giảm lợi nhuận thậm chí thua lỗ, nguy hiểm hơn là dẫn

đến phá sản. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro. Về phía ngân hàng, là do không có
chính sách huy động và sử dụng vốn hợp lý. Đặc biệt trong việc xem xét các dự án cho
vay không tính tới hiệu quả kinh tế hoặc tính toán sai lệch do thông tin không đầy đủ hoặc
thiếu chính xác. Việc quản lý tài sản nợ, nguồn vốn của ngân hàng có vấn đề, chưa thực
hiện cơ cấu đầu tư, cơ cấu tài sản. Trình độ cán bộ ngân hàng có nhiều điểm bất cập,
không có khả năng xem xét đánh giá khách hàng. Ngân hàng không dự báo được diễn
biến thị trường, tình hình cung cầu các loại sản phẩm. Về phía khách hàng, bản thân họ
không có dự án khả thi, việc đầu tư không có căn cứ kinh tế nên việc sử dụng vốn không
hiệu quả. Khách hàng có chủ tâm lừa đảo ngân hàng, họ có ý định vay nhưng không trả
nợ. Các biến động về môi trường kinh tế chính trị xã hội trong và ngoài nước cũng tạo nên
rủi ro. Rủi ro cũng xuất phát từ chính sách kinh tế, thiên tai.
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng thương mại
Hoạt động sử dụng vốn là một hoạt động cơ bản và quan trọng của NHTM,
song nó không phải là hoạt động độc lập, mà nó liên quan và gắn bó chặt chẽ với các
hoạt động khác của ngân hàng. Do đó, hiệu quả hoạt động sử dụng vốn không những
chịu ảnh hưởng của các yếu tố nội tại bên trong ngân hàng, mà còn chịu tác động của
cả môi trường kinh doanh của ngân hàng.
1.3.1. Môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh của NHTM là tất cả các yếu tố về đặc điểm kinh tế -
chính trị - xã hội của địa bàn mà ngân hàng hoạt động. Do đặc điểm của hoạt động
ngân hàng thương mại mang tính xã hội sâu sắc, liên quan đến nhiều đối tượng xã hội
nên hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động sử dụng
vốn nói riêng ảnh hưởng rất nhiều vào môi trường kinh doanh của mình.
Nhân tố đầu tiên của môi trường kinh doanh tác động đến hoạt động huy động
vốn của NHTM phải kể đến là thực trạng nền kinh tế. Khi nền kinh tế phát triển, các
dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người

dân. Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng
mở rộng hoạt động kinh doanh của mình như các hoạt động tín dụng, kinh doanh
ngoại tệ, các dịch vụ thanh toán. Ngược lại, một nền kinh tế ì ạch sẽ tác động xấy đến
hoạt động kinh doanh của NHTM. Bên cạnh đó, các yếu tố khác của nền kinh tế cũng
ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn như lạm phát, chu kỳ kinh tế…
Không những chịu ảnh hưởng của thực trạng nền kinh tế, các yếu tố về chính trị
- xã hội cũng như tác động đến hiệu quả sử dụng vốn của NHTM. Hoạt động kinh
doanh của ngân hàng là loại hình hoạt động kinh doanh đặc biệt, ảnh hưởng lớn đến
nền kinh tế nên hoạt động ngân hàng chịu sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Nhà
nước. Chính trị, pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng chính là các chính sách tiền tệ tín
dụng của Chính phủ hoặc của Ngân hàng Trung ương. Vì vậy, tình hình chính trị ổn
định là nền tảng cơ sở cho ngân hàng thương mại hoạt động ổn định, từ đó đưa ra các
điều kiện vay hợp lý đồng thời đưa ra các hình thức dịch vụ ngân hàng ngày càng đa
dạng và phong phú. Ngược lại, khi tình hình chính trị không ổn định, các ngân hàng
phải lo đối phó với những biến động của thị trường cho vay, các hình thức đầu tư cũng
bị hạn chế, các điều kiện cho vay khó hơn…
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
1.3.2. Các yếu tố nội tại
Bên cạnh các yếu tố về môi trường kinh doanh, hoạt động sử dụng vốn của
ngân hàng thương mại còn chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố nội tại bên trong của
chính ngân hàng. Hoạt động sử dụng vốn là một hoạt động trong tổng thể những hoạt
động thống nhất của NHTM bao gồm bao hoạt động cơ bản là hoạt động huy động
vốn, hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động cho vay. Hoạt động sử dụng vốn là các
hoạt động cho vay, các dịch vụ thanh toán… của ngân hàng nhằm thu lợi nhuận. Vì
vậy, hoạt động vốn phải gắn liền với hoạt động huy động vốn. Để có thể đầu tư, cho
vay các ngân hàng phải có vốn, như vậy muốn đáp ứng nhu cầu trên, các NHTM phải
đi huy động vốn từ các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội, các tổ chức trung

gia tài chính khác… Ngân hàng thương mại muốn hoạt động có hiệu quả thì hoạt động
sử dụng vốn phải gắn liền hoạt động huy động vốn, phải chú trọng phát triển đồng bộ
cả hai hoạt động, bởi đó là hai mặt của cùng một vấn đề - huy động và sử dụng nguồn
vốn. Nếu hoạt động huy động không hiệu quả sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sử
dụng vốn. Hơn nữa, mặc dù các hoạt động trung gian không phải là những hoạt động
đem lại nguồn thu nhập chính cho NHTM, song đó là những hoạt động hỗ trợ cho hoạt
động huy động và sử dụng nguồn vốn. Vì vậy, hoạt động sử dụng vốn không những
chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động huy động vốn mà nó còn chịu tác động của các
hoạt động trung gian mà ngân hàng thực hiện. Các hoạt động trung gian của ngân hàng
được thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng các hoạt động sử dụng vốn
có hiệu quả, tạo điều kiện hút khách đến với ngân hàng ngày càng tăng.
Ngoài những mối quan hệ chặt chẽ giữa các nghiệp vụ mà ngân hàng thương
mại cung cấp, hoạt động sử dụng vốn của các ngân hàng còn chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố khác, của chính bản thân ngân hàng như tiềm lực tài chính, năng lực quản
lý, trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viêc hay trình độ công nghệ ngân hàng.
Nhìn chung hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố cả bên ngoài cũng như yếu tố nội tại của bản thân ngân hàng. Để hoạt
động sử dụng vốn có hiệu quả, các NHTM phải nâng cao chất lượng tín dụng, trình độ
cán bộ tín dụng, các công tác nguồn vốn, kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế…
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
TẠI NHNo&PTNT BẮC HÀ NỘI
2.1. Tổng quan về NHNo&PTNT Bắc Hà Nội
Chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội là một đơn vị thành viên hạch toán phụ
thuộc vào NHNo&PTNT Việt Nam
Chi nhánh được thành lập theo quyết định số 342/QĐ/HĐQT – TCCB ngày

5/9/2001 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam ban hành
Chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội đi vào hoạt động kinh doanh từ ngày
01/11/2001 với 42 cán bộ công nhân viên và Ban giám đốc.
Tên giao dịch : Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi
nhánh Bắc Hà Nội. (Agribank Bắc hà Nội )
Tên giao dịch quốc tế: Vietnam bank for Agriculture and Rural Development
Bac Hanoi Brach
Trụ sở chính hiện nay: 266 Đội Cấn – Ba Đình – Hà Nội
* Chức năng và nhiệm vụ kinh doanh của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội:
- NHNo&PTNT Bắc Hà Nội thực hiện các chức năng chính là huy động tiền
gửi: Huy động tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các
tổ chức kinh tế trong và ngoài nước vốn vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo quy
định của NHNo&PTNT Việt Nam.
- Cho vay ngắn trung và dài hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ: Cho vay thông
thường, cho vay tài trợ theo dự án, cho vay đồng tài trợ, cho vay tài trợ xuất nhập
khẩu, chiết khấu các giấy tờ có giá…
- Bảo lãnh bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ dưới nhiều hình thức khác nhau
trong và ngoài nước.
- Thanh toán bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ như: thanh toán chuyển tiền điện
tử trong cả nước, thanh toán biên giới, thanh toán quốc tế qua mạng…
- Đầu tư dưới hình thức hùn vốn, liên doanh, mua cổ phần, mua tài sản và các
hình thức đầu tư khác với các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng tài chính.
- Thực hiện làm đại lý và dịch vụ uỷ thác cho các tổ chức tài chính tín dụng và cá
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05
50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
nhân trong và ngoài nước như tiếp nhận và triển khai các dự án uỷ thác vốn, dịch vụ
giải ngân cho dự án đầu tư, dự án uỷ nhiệm, thanh toán thẻ tín dụng…
- cung cấp các dịch vụ như: cho thuê két sắt, cất trữ, chi trả lương tại doanh

nghiệp, chi trả kiều hối, chuyển tiền nhanh, thu tiền tại gia.
- Các dịch vụ khác của ngân hàng hiện đại.
Chức năng và nhiệm vụ của NHNo&PTNT BẮC HÀ NỘI
*Trong hoạt động huy động vốn: Khai thác và cung ứng đối với mọi thành phần
huy động vốn trong và ngoài nước của mọi tổ chức, dân cư thuộc mọi thành kinh tế
bao gồm các loại tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn, phát hành chứng chỉ tiền gửi,
trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu ngắn hạn và dài hạn, tiếp nhận vốn tài trợ, vốn ủy thác
đầu tư từ ngân sách nhà nước.
*Đối với hoạt động tín dụng: Cho vay ngắn hạn, dài hạn đối với các hoạt động
sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ, cho vay trung và dài hạn với các mục tiêu
hiệu quả, hoặc mục tiêu tài trợ tùy tính chất và khả năng nguồn vốn, chiết khấu thương
phiếu và các giấy tờ có giá, bảo lãnh cho khách hàng ki vay vốn tại các tổ chức tín
dụng khác.
Các hoạt động kinh doanh và dịch vụ khác: Kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng đối
ngoại: Thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, chi trả kiều hối, thực hiện tín dụng
ngoại tệ, mua bán, thu đổi ngoại tệ
*Một số hoạt động khác: Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng, cầm cố
bất động sản và động sản: Thu, chi tiền mặt, đại lý mua, bán trái phiếu cho chính
phủ…; làm tư vấn về tài chính, tiền tệ, về xây dựng các dự án đầu tư và quản lý tài sản
theo yêu cầu của khách hàng.
2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại NHNo&PTNT BẮC HÀ NỘI
2.2.1. Cơ cấu nguồn vốn của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội
Trong năm 2012, nguồn vốn tiền gửi và tiền vay vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu,
điều này cho thấy ngân hàng chủ yếu hoạt động bằng nguồn vốn đi vay và tiền gửi của
các thành phần kinh tế khách. Ngoài tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn chiếm 14,6%
trong khi nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm 85,4%. Để tránh rủi ro theo nguyên tắc
vốn để cho vay trung và dài hạn phải là nguồn vốn có thời hạn dài. Nhưng thực tế
trong sổ tiền tệ mà ngân hàng huy động được với nhiều kỳ hạn khác nhau, luôn xác
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05

50
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
định được nguồn vốn ổn định có thời hạn dài phục vụ nhu cầy vay trung và dài hạn.
Ngoài ra, ngân hàng có thể chủ động đi vay các tổ chức kinh tế khác, huy động từ dân
cư thông qua cách thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng để đảm bảo nguồn vay cho vay
trung và dài hạn.
Trên thực tế bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động kinh doanh đều phải
có vốn. Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt (hoạt động kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ) do vậy nhu cầu vốn đối với ngân hàng là hết sức cần thiết để thực hiện
hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, khác với các doanh nghiệp khác, nguồn vốn chủ yếu
của một ngân hàng là vốn huy động. Do vậy để mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng
cần phải mở rộng hoạt động huy động vốn nhằm đảm bảo tính cạnh tranh của ngân
hàng mình với các ngân hàng khác.
Bảng 2.1: Biến động nguồn vốn huy động qua các năm 2010 - 2012
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2010 2011 So với 2010 2012 So với 2011
+/- % +/- %
Tổng
nguồn vốn
huy động
(Gồm cả
ngoại tệ
quy đổi
VND)
2.264.034 3.379.000 1.114.966 149,2% 6.117.000 2.738.000 181%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo&PTNT năm 2010 – 2012)
Qua bảng 2.1 ta thấy: Nguồn vốn huy động của Agribank Bắc Hà Nội
. Năm 2010 khi nguồn vốn huy động thấp 2.264.034 triệu đồng nhưng sang đến
năm 2011 đã là 3.379.000 triệu đồng, tăng 1.114.966 triệu đồng so với 2010, tăng
149,2% và đạt 124% kế hoạch. Năm 2012 tổng nguồn vốn là 6117 tỷ, tăng 2.738.000

triệu đồng, tăng 181% và đạt 36% so với kế hoạch năm 2011. Trong đó:
-Nguồn nội tệ: 5.529 tỷ đồng đạt 147% /KH
-Nguồn ngoại tệ quy đổi: 588 tỷ đồng đạt 100% /KH. Đạt được các thành tích trên
do Agribank Bắc Hà Nộiđã đưa ra các biện pháp hợp lý để thu hồi vốn như: trả lãi huy
động linh hoạt (trả lãi trước, sau, bậc thâng); huy động vốn chiều tối là sản phẩm thu hút
vốn hiệu quả của Agribank Bắc Hà Nội, thực hiện cho vay, huy động vốn tại nhà
Bảng 2.2: Cơ cấu nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội
Nguyễn Tài Việt
NHA - 05

×