Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 95 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động tín dụng đã và đang là một trong những hoạt động kinh doanh
chính đem lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, cùng
với việc đem lại thu nhập đáng kể cho ngân hàng thì đây cũng chính là lĩnh vực
mang lại nhiều rủi ro nhất. Rủi ro trong cho vay còn được nhân lên gấp bội, vì ngân
hàng không những phải hứng chịu những rủi ro do những nguyên nhân chủ quan
của mình, mà còn gánh chịu những rủi ro do khách hàng và môi trường kinh doanh
gây ra. Hơn nữa, rủi ro tín dụng có thể gây ra những tổn thất to lớn cho nền kinh tế
vì tính chất lây lan của nó có thể làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế của một
quốc gia và theo phản ứng dây chuyền nó tác động đến hầu hết tất cả các quốc gia
trên toàn thế giới.
Rủi ro tín dụng luôn song hành với hoạt động tín dụng, không thể loại bỏ hoàn
toàn rủi ro tín dụng mà chỉ có thể áp dụng các biện pháp quản trị, phòng ngừa hoặc
giảm thiểu thiệt hại tối đa khi rủi ro xảy ra. Đứng trên quan điểm quản lý toàn bộ
hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, một tỷ lệ tổn thất
dự kiến đối với hoạt động tín dụng phải luôn được xác định trong chiến lược hoạt
động chung. Khi ngân hàng kinh doanh với một mức tổn thất thấp hơn hoặc bằng
mức tỷ lệ tổn thất dự kiến thì đó là sự thành công trong lĩnh vực quản trị rủi ro. Để
đạt được điều này, ngân hàng phải bằng nhiều biện pháp tác động đến hoạt động tín
dụng để hạn chế tối đa rủi ro tín dụng nhằm góp phần đạt tới mục tiêu hoạt động tín
dụng an toàn, hiệu quả trong tăng trưởng.
Thực tiễn hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam thời gian qua cho
thấy rủi ro tín dụng của toàn hệ thống chưa được kiểm soát một cách chặt chẽ và
đang có xu hướng ngày một gia tăng. Chính vì vậy, yêu cầu cấp bách đặt ra là rủi ro
tín dụng phải được quản lý, kiểm soát một cách bài bản và có hiệu quả, đảm bảo tín
dụng hoạt động trong phạm vi rủi ro chấp nhận được, giảm thiểu các thiệt hại phát
sinh, tăng thêm lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng, góp phần nâng cao uy tín và
tạo ra lợi thế cạnh tranh của NHNo&PTNT Việt Nam. Đây là điều vô cùng quan
trọng giúp ngân hàng đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững trong xu
thế hội nhập quốc tế.


Xuất phát từ nhận thức được tầm quan trọng của rủi ro tín dụng và ý nghĩa của
hoạt động quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng, người viết quyết định chọn đề tài:
“Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam”.
1
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài nhằm làm sáng tỏ các vấn đề sau đây:
- Những lý luận chung về quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương
mại;
- Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng, rủi ro tín dụng, các biện pháp phòng
ngừa và quản trị rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam, từ đó chỉ ra được
những điểm mạnh cũng như những sai sót, yếu kém còn tồn đọng.
- Trên cơ sở lý luận và phân tích thực trạng những điểm hạn chế, mạnh dạn
đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao công tác quản trị rủi ro tín
dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là hoạt động quản trị rủi ro tín dụng
- Phạm vi không gian nghiên cứu: trên toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: hoạt động quản trị rủi ro tín dụng trên toàn bộ
hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010 và phương hướng,
nhiệm vụ của ngân hàng cũng như những giải pháp về quản trị rủi ro tín dụng trong
giai đoạn 2011-2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê: Thống kê các chỉ số từ các báo cáo tài chính, báo
cáo hoạt động thường niên từ đó lập nên các bảng biểu tổng hợp.
- Phương pháp phân tích: Phân tích và xếp hạng số liệu, phân tích bảng biểu,
phân tích quy trình hoạt động và các chính sách áp dụng.
- Phương pháp tổng hợp: Thông qua cơ sở lý thuyết và phân tích đánh giá
những mặt tích cực và hạn chế, những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên nhằm
đưa ra nhận xét, kết luận.

5. Kết cấu của đề tài
Bài khóa luận tốt nghiệp bao gồm các nội dung được trình bày theo bố cục ba
chương như sau:
2
- Chương 1: Cơ sở lý luận chung về quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động
của các ngân hàng thương mại
- Chương 2: Cơ chế quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
Người viết đề tài xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc đến cô
Nguyễn Thị Quỳnh Nga, giáo viên hướng dẫn người viết viết khóa luận này. Em xin
cảm ơn cô vì cô đã tận tâm giúp đỡ em rất nhiều trong việc nghiên cứu và hoàn
thiện nội dung luận văn tốt nghiệp một cách tốt nhất.
Do sự hạn chế kiến thức, thời gian chuẩn bị và tài liệu tham khảo nên khóa
luận tốt nghiệp không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, mong Thầy/Cô và
người đọc đóng góp ý kiến để khóa luận tốt nghiệp được hoàn chỉnh hơn.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Liên
3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại
1. Tìm hiểu chung về NHTM
1.1 Khái niệm
Với việc thi hành Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng Bộ
trưởng cùng với pháp lênh ngân hàng 1990 và luật ngân hàng 1998 đã đánh dấu
bước phát triển mới của Hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ đây Hệ thống ngân hàng

Việt Nam trở thành hệ thống ngân hàng hai cấp của nền kinh tế thị trường. Cấp 1 là
NHNN Việt Nam gồm ngân hàng Trung ương và các chi nhánh tại các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương và cấp 2 là ngân hàng kinh doanh gồm: NHTM, ngân
hàng chuyên doanh, ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam và ngân hàng cổ phần.
Nếu như NHNN là chủ ngân hàng của Chính phủ, là ngân hàng mẹ độc quyền
phát hành tiền tệ, trực tiếp giám sát các chính sách tiền tệ và là tổ chức không kinh
doanh tiền tệ, không hoạt động vì mục đích lợi nhuận [31]. Thì trái lại, NHTM hoạt
động với nhiệm vụ quan trọng nhất là huy động vốn và cho vay vốn, là cầu nối giữa
các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi - bơm vào nơi khan hiếm, và chênh
lệch giữa lãi suất cho vay - lãi suất huy động chính là lợi nhuận mang lại cho các
NHTM. Bên cạnh đó, NHTM còn đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu của nền kinh
tế được lưu thông, là dầu bôi trơn cho bộ máy kinh tế thị trường còn non yếu.
Theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23/05/1990 của Hội đồng Nhà nước Việt Nam
xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền ký gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán [25].
1.2 Chức năng của NHTM trong nền kinh tế
1.2.1 Tập trung vốn cho nền kinh tế
Với hoạt động đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi từ các tổ chức, cá
nhân và hộ gia đình, ngân hàng tập trung các khoản vốn này lại thành quỹ để cho
4
vay. Thông qua nghiệp vụ tín dụng, NHTM cung cấp nguồn vốn này đến các thành
phần kinh tế đang cần vốn mà chủ yếu là các doanh nghiệp để đáp ứng kịp thời cho
quá trình tái sản xuất, đầu tư mở rộng kinh doanh và mua sắm máy móc thiết bị.
Cùng với sự phát triển nền kinh tế, các hình thức cấp tín dụng của ngân hàng
ngày càng muôn màu muôn vẻ: tín dụng thấu chi, tín dụng trung và dài hạn, tín
dụng chiết khấu… Chính nhờ hoạt động của NHTM, mà đặc biệt là hoạt động tín
dụng, giúp các doanh nghiệp có thể cải thiện và mở rộng tình hình kinh doanh, góp
phần đẩy mạnh đầu tư phát triển kinh tế và nâng cao đời sống dân cư.

1.2.2 Trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán
Ngày nay, khi hoạt động kinh doanh đẩy mạnh sự hợp tác giữa các đối tác
trong nước với các đối tác nước ngoài, dần xuất hiện các giao dịch với khối lượng
thanh khoản vô cùng lớn, thì nhu cầu về thanh toán trung gian qua ngân hàng ngày
được mở rộng. Thông qua phương thức này, đã làm giảm khối lượng tiền mặt lưu
thông và thời gian thanh toán được rút ngắn đến tối đa.
Khi làm trung tâm thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và
độc quyền quản lý các công cụ đó (séc, thẻ thanh toán…), giúp tiết kiệm chi phí lưu
thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa.
Đặc biệt trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, thông qua thanh toán ngân
hàng bằng L/C, hối phiếu, bảo lãnh… giúp cho các doanh nghiệp trong nước giảm
thiểu rủi ro và nhanh chóng lấy lại tiền hàng để tiếp tục tái kinh doanh [10].
1.2.3 Tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng cấp hai
Kể từ khi có sự phân hoá hệ thống ngân hàng thành NHNN và NHTM thì các
NHTM này không còn giữ chức năng phát hành tiền nhưng thông qua hoạt động
của mình lại thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Sở dĩ thực hiện được điều này là bởi trong hoạt động trung gian thanh toán,
NHTM có khả năng tạo ra tiền ghi sổ (bút tệ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của khách hàng. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng lại sử dụng số vốn
huy động được để cho vay, số tiền cho vay lại được khách hàng sử dụng để mua
hàng hoá, dịch vụ, thanh toán… Việc thực hiện đồng thời chức năng huy động, cho
vay cùng với bút tệ đã giúp NHTM tạo tiền cho nền kinh tế. Như vậy, với một
khoản tiền gửi ban đầu, ngân hàng đã tạo ra lượng tiền lớn gấp nhiều lần cho nền
kinh tế [4].
5
Thực hiện chức năng tạo tiền, cho vay không có sự xuất hiện của tiền mặt đã
giúp điều tiết lượng tiền cung ứng phù hợp chính sách ổn định giá cả, tăng trưởng
kinh tế, giảm thất nghiệp, làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế
đáp ứng nhu cầu chi trả của xã hội.
2. Tín dụng ngân hàng

2.1 Khái niệm
Từ cách hiểu đơn giản tín dụng là sự tin tưởng, sự tín nhiệm lẫn nhau, các bên
cho nhau vay mượn và hứa thanh toán trong một khoản thời gian định trước. Qua
nhiều giai đoạn tồn tại và phát triển tín dụng lại được xem xét dưới nhiều khía cạnh
và góc độ khác nhau. Ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể
mà thuật ngữ tín dụng lại mang một nội dung riêng. Nếu xem xét tín dụng như là
một chức năng cơ bản của ngân hàng, ta có thể hiểu tín dụng theo định nghĩa sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và
các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán [3].
Đối với hầu hết các ngân hàng, hoạt động tín dụng luôn đóng vai trò quan
trọng, là nguồn sống của các ngân hàng. Dư nợ tín dụng thường chiếm hơn 1/2 tổng
tài sản có và thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập của
ngân hàng [8]. Ngoài ra, tín dụng ngân hàng không chỉ là một đòn bẩy kinh tế mà
còn là công cụ để Nhà nước điều tiết sản xuất, điều chỉnh chiến lược kinh tế, phân
công lao động xã hội… góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm
phát.
2.2 Nguyên tắc của hoạt động tín dụng trong các ngân NHTM
Hoạt động tín dụng phải tuân thủ theo hai nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận trên hợp đồng tín
dụng, vì thực tế cho thấy tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng có ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác cho vay của ngân hàng. Do vậy, ngân hàng
phải thường xuyên kiểm tra, giám sát việc sử dụng khoản vay của khách hàng. Việc
sử dụng vốn sai mục đích cho thấy sự thất tín của bên vay và tiềm ẩn nhiều rủi ro.
6
- Tiền vay phải được hoàn trả đẩy đủ cả gốc lẫn lãi như đã quy định trên hợp
đồng tín dụng. Điều này bắt nguồn từ bản chất của hoạt động tín dụng, bên đi vay
cam kết thanh toán vô điều kiện cho ngân hàng khi đến hạn và giá trị hoàn trả thông

thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Để tuân thủ theo nguyên tắc này, yêu cầu
ngân hàng phải đưa ra được những quyết định cho vay đúng đắn, định kỳ đánh giá
rủi ro và xếp hạng tín dụng khách hàng [1]. Có như vậy mới đảm bảo được sự tín
nhiệm của khách hàng và đẩy mạnh sự phát triển của ngân hàng theo hướng an
toàn.
3. Rủi ro tín dụng
3.1 Khái niệm
Theo điều 02 quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/04/2005
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng
để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng nêu rõ:
“Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra
tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực
hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết” [15].
Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả hay rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro
liên quan đến chất lượng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng.
3.2 Tác động của RRTD
3.2.1 Tác động đến ngân hàng gặp rủi ro
Quan hệ tín dụng được hiểu là quan hệ giữa hoạt động đi vay và cho vay [13].
Khi RRTD xảy ra, ngân hàng không thu được vốn và lãi đúng hạn, trong khi đó
ngân hàng vẫn phải trả đủ vốn và lãi cho khoản vốn huy động đến hạn. Từ khoản
vay không thu được dẫn đến một bộ phận tài sản của ngân hàng bị đóng băng, làm
giảm thu nhập của ngân hàng do không được sử dụng khoản vay này đi tái cho vay
hay đi tái đầu tư. Mặt khác, chi phí thì lại tăng lên do có thêm nhiều chi phí phát
sinh từ khoản nợ xấu này như chi phí gặp gỡ khách hàng, chi phí đòi nợ, chi phí
theo dõi giám sát, chi phí pháp lý đối với các khoản nợ mà ngân hàng không thể đòi
được phải nhờ đến tòa án kinh tế. Điều này sẽ làm mất cân đối trong việc thu chi
của ngân hàng, làm tăng khoản trích lập dự phòng rủi ro, gây ảnh hưởng đến tốc độ
vòng quay vốn tín dụng và làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
RRTD đã làm giảm uy tín của ngân hàng, gây mất niềm tin ở khách hàng. Một
khi tỷ lệ RRTD ngày càng tăng, đến một chừng mực nào đấy, ngân hàng không còn

7
đủ vốn để chi trả cho khách hàng gửi tiền thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán, quy mô kinh doanh bị thu hẹp, năng lực tài chính giảm sút.
Nếu không kịp thời đưa ra được các biện pháp hạn chế RRTD, ngân hàng có thể bị
dẫn đến phá sản, vô hình chung sẽ gây ảnh hưởng đến các NHTM và tổ chức tín
dụng khác.
3.2.2 Tác động đến nền kinh tế - xã hội
Các thành phần trong nền kinh tế được nối với nhau bởi những móc xích
chằng chịt. Nếu móc xích trung gian bị phá hủy, thì các thành phần kinh tế còn lại
sẽ bị phân tán rời rạc, gây tác động đến toàn bộ hệ thống. Cũng giống như vậy, nếu
RRTD xảy ra, thì không những ngân hàng bị chịu thiệt mà quyền lợi của người gửi
tiền cũng bị ảnh hưởng, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp trắc
trở, hoạt động kinh tế bị ngưng trệ, mất cân bằng về quan hệ cung cầu, thất nghiệp
và tệ nạn xã hội gia tăng… Do vậy, nếu không đề ra chính sách quản trị và hạn chế
RRTD, thì không chỉ một ngân hàng bị phá sản, mà còn gây hậu quả nghiêm trọng
cho hệ thống ngân hàng nói riêng và cho nền kinh tế - xã hội nói chung.
Hậu quả do RRTD gây ra có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau với
mức độ nghiêm trọng khác nhau, có thể xảy ra đồng thời hay mang tính chất liên
tiếp theo thời gian. Song, dù RRTD có biểu hiện dưới hình thức nào đi chăng nữa
thì cuối cùng chúng đều dẫn đến một kết cục là: hiệu quả kinh doanh của ngân hàng
suy giảm, thua lỗ, thậm chí đi đến phá sản, uy tín và vị thế thị trường giảm sút, gây
hiệu ứng domino đến các NHTM khác, đến các tổ chức tín dụng và nền kinh tế - xã
hội cả nước .
3.3 Những nguyên nhân dẫn đến RRTD tại các NHTM trong thời gian qua
Theo nghiên cứu của Trung tâm tín dụng CIC, nguyên nhân chủ yếu gây ra
RRTD xuất phát từ khách hàng, ngân hàng và hoàn cảnh khách quan. Trong đó
nguyên nhân từ phía khách hàng chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 58%, kế tiếp là
nguyên nhân từ phía ngân hàng chiếm khoảng 28%, số còn lại là từ nguyên nhân tác
động do hoàn cảnh khách quan.
8

Biểu đồ 1.1: Tỷ trọng các tiêu chí gây ra rủi ro tín dụng
(Nguồn: [6])
3.3.1 Nguyên nhân từ phía khách hàng
 Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trả nợ
Đây là một trong những nguyên nhân khó kiểm soát nhất hiện nay. Nhiều
doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đã lập ra các phương án kinh doanh cụ thể,
khả thi và vạch ra kế hoạch hoàn chỉnh để được ngân hàng cấp tín dụng. Tuy nhiên,
đó chỉ là một cách trá hình, trong thực tế nhiều khách hàng đã sử dụng vốn vay sai
mục đích đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Thậm chí có cả trường hợp sau khi
kết thúc chu kỳ kinh doanh, mặc dù có lợi nhuận nhưng khách hàng vẫn cố tình
chây ỳ, không chịu trả nợ nhằm mục đích chiếm dụng vốn ngân hàng và điều này đã
gây khó khăn trong quá trình thu hồi nợ, làm mất nhiều thời gian và chi phí của các
ngân hàng, đôi khi còn làm giảm uy tín của ngân hàng khi có sự can thiệp pháp lý.
 Khả năng quản lý kinh doanh kém, tình hình tài chính thiếu minh
bạch
Theo điều tra sơ bộ về tình hình quản trị tín dụng tại các NHTM Việt Nam cho
thấy nguyên nhân cao nhất dẫn đến RRTD đó là hành vi lừa đảo tinh vi của các
doanh nghiệp đã tạo số liệu ảo trong báo cáo tài chính doanh nghiệp, khai man về
sự tồn tại của tài sản đảm bảo, ngụy tạo uy tín để lợi dụng vay tiền… Điều này xuất
9
phát từ năng lực điều hành quản lý kinh doanh tại các doanh nghiệp còn yếu kém,
quản lý vốn không có hiệu quả gây nên thất thoát vốn cho công ty, từ đó nảy sinh ra
các phương cách lừa đảo để huy động vốn, gây ảnh hưởng đến hoạt động của ngân
hàng đồng thời đã đẩy công ty kinh doanh theo hướng vụ lợi trái pháp luật [14].
3.3.2 Nguyên nhân từ phía ngân hàng
 Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ
Một số chi nhánh và phòng giao dịch của các NHTM không có bộ phận giám
sát nội bộ, một số nơi công việc kiểm toán nội bộ hầu như chỉ tồn tại trên hình thức,
chưa triệt để và nghiêm túc, do đó vẫn chưa thật sự hiệu quả trong việc QTRRTD.
 Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ

Một số vấn đề xuất phát từ sự thiếu chuyên môn, đạo đức và tinh thần nghề
nghiệp của cán bộ ngân hàng đã gây ra RRTD như:
- Nhiều cán bộ tín dụng chưa nắm vững nghiệp vụ, cho vay không thực hiện
đúng quy chế tín dụng, cho vay vượt tỷ lệ quy định, thiếu tài sản bảo đảm. Công tác
thẩm định được tiến hành hời hợt, có thể do chủ quan của cán bộ tín dụng dẫn đến
việc phân tích đánh giá khách hàng còn sai sót. Hay do sự kiêng nể, những mối
quan hệ từ trước dẫn đến việc cán bộ tín dụng lập tờ trình cho vay không trung thực.
- Cán bộ tín dụng thiếu sự quan tâm theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh
của khách hàng, dẫn đến việc khách hàng có thể sử dụng vốn sai mục đích, không
đủ khả năng hoàn trả vốn cho ngân hàng.
- Sự tiếp tay của các nhân viên ngân hàng như làm giả hồ sơ, lập khống chứng
từ, định giá tài sản đảm bảo cao hơn nhiều so với thực tế để tiếp tay cho khách
hàng, gây thâm hụt vốn của ngân hàng.
 Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay
Thực trạng cho thấy ngân hàng vẫn chưa chú trọng đến công tác giám sát quản
lý sau cho vay mà tập trung chủ yếu trước cho vay [35]. Tuy nhiên việc theo dõi
giám sát sau cho vay là rất cần thiết và quan trọng. Thường xuyên thăm hỏi khách
hàng sẽ giúp ngân hàng sớm phát hiện ra được vấn đề khó khăn, nguy cơ tiềm ẩn
của khách hàng cũng như những cơ hội bán chéo sản phẩm, vừa mang lại thêm lợi
nhuận cho ngân hàng vừa giảm thiểu được rủi ro.
 Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo
10
Ngày nay, tình hình cạ nh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt,
do đó thiếu có sự hợp tác với nhau để nắm bắt kịp thời thông tin về khách
hàng vay. Vì vậy mà ngân hàng khó có thể thẩm định được khả năng trả nợ
của khách hàng, không nắm được lịch sử vay vốn cũng như thực tế của các
nguồn tài sản bảo đảm có được đem đi thế chấp, cầm cố ở các ngân hàng
khác hay không. Ngoài ra, một số ngân hàng còn không chịu cung cấp thông
tin hay cung cấp sai thông tin sai sự thật về tình trạng nợ không đủ tiêu
chuẩn, về các khách hàng có lịch sử vay nợ xấ u…[9].

3.3.3 Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
Các doanh nghiệp Việt Nam luôn phải chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ những
biến động kinh tế xã hội trong và ngoài nước. Khi một nền kinh tế lâm vào tình
trạng suy thoái hay khi tình hình lạm phát tăng cao làm giá cả biến động sẽ đồng
thời làm sức mua của thị trường bị giảm sút, ảnh hưởng trực tiếp đến đầu ra của sản
phẩm, có thể dẫn đến doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ. Hay chỉ cần một
một thông tin sai lệch gây e ngại từ thị trường cũng có thể làm doanh nghiệp mất
doanh thu từ đó không thể thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng theo đúng thoả
thuận.
Xu hướng hội nhập khu vực và thế giới hiện nay đang gắn kết nền kinh tế các
nước lại với nhau, mở ra những cơ hội mới cho các doanh nghiệp trong nước hội
nhập và phát triển, tuy nhiên sự cạnh tranh cũng sẽ ngày càng gay gắt. Môi trường
kinh doanh biến động với những thay đổi diễn ra nhanh chóng và khó dự báo một
cách chính xác có thể là thời cơ cũng có thể là nguyên nhân làm khách hàng của
ngân hàng hoạt động không hiệu quả, gián tiếp tác động đến hoạt động của ngân
hàng [6]. Các biến động của tình hình chính trị - quân sự trên thế giới đều có thể
làm ảnh hưởng giá cả các loại nguyên nhiên liệu, đồng thời sự xâm nhập của hàng
hóa, dịch vụ nước ngoài dẫn đến nguy cơ các doanh nghiệp trong nước hoạt động
không hiệu quả, gia tăng rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
3.3.4 Nguyên nhân từ môi trường pháp lý
 Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương
Đến nay nhà nước ta đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi
hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn
bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và
còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu
hồi nợ. Những văn bản này đều có quy định: Trong những trường hợp khách hàng
không trả được nợ, NHTM có quyền sử dụng các biện pháp xử lý tài sản đảm bảo
11
nợ vay. Trên thực tế, các NHTM không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ
chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không có chức năng

cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc
việc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng… cùng
nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng NHTM không thể giải quyết được nợ
tồn đọng, tài sản tồn đọng.
 Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN
Mô hình tổ chức của Thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập, chưa hiệu quả,
hoạt động thanh tra giám sát thường chỉ tại chỗ là chủ yếu, còn thụ động theo kiểu
xử lý những việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro. Vì
thế có những sai phạm của các NHTM không được Thanh tra NHNN cảnh báo sớm,
có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề xảy ra rồi mới can thiệp.
 Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập
Hiện nay nước ta có một vài cơ quan thông tin đang hoạt động như: trung tâm
thông tin doanh nghiệp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trung tâm thông tin của Tổng
cục thống kê, trung tâm đăng ký tài sản thế chấp của Bộ Tư pháp, các trung tâm
thông tin tín dụng ngân hàng (CIC). Trong đó, kênh cung cấp thông tin về tình hình
hoạt động tín dụng tốt nhất ở Việt Nam hiện nay chính là trung tâm CIC. Mặc dù
CIC ngày càng phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trong cung cấp
thông tin về khách hàng, thực hiện phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp, cung
cấp các thông tin cảnh báo… nhưng những đòi hỏi về thông tin của các ngân hàng
vẫn chưa được đáp ứng một cách đáng tin cậy, nhanh chóng và kịp thời. Việc tìm
kiếm thông tin cực kỳ khó khăn và tình trạng thông tin bất cân xứng vẫn là một tồn
tại chưa thể khắc phục được trên thị trường tài chính Việt Nam.
Như vậy, RRTD có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân, đòi hỏi cần phải
có các biện pháp để phòng chống rủi ro tương ứng với các nguyên nhân đó.
3.4 Các chỉ tiêu đo lường RRTD
3.4.1 Tỷ lệ nợ quá hạn
12
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = × 100%
Tổng dư nợ cho vay

Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá
hạn. Đây là thước đo quan trọng nhất đánh giá sự lành mạnh thể chế. Nó tác động
tới tất cả các hoạt động chính của ngân hàng [2]. Quy định hiện nay của NHNN cho
phép dư nợ quá hạn của các NHTM không được vượt quá 5%, nghĩa là trong 100
đồng vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng.
Để có thể đánh giá một cách chính xác về tình hình nợ quá hạn, ngân hàng,
cần phải đánh giá kèm theo chỉ tiêu vòng quay của các khoản nợ quá hạn. Nếu tỷ lệ
nợ quá hạn cao nhưng vòng quay các khoản nợ quá hạn cao thì khả năng ngân hàng
gặp RRTD sẽ thấp và ngược lại ngân hàng sẽ gặp RRTD.
3.4.2 Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ cho vay
Nợ xấu là khoản mang các đặc trưng sau:
- Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam
kết này đã hết hạn.
- Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có
khả năng ngân hàng không thu hồi được cả gốc lẫn lãi.
- Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát
mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi.
- Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân
hàng.
3.4.3 Vòng quay vốn tín dụng
Chỉ tiêu này đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của ngân hàng, cho biết
thời gian thu hồi nợ của ngân hàng là nhanh hay chậm. Vòng quay vốn tín dụng
càng nhanh thì được coi là tốt và việc đầu tư càng được an toàn.
3.4.4 Hệ số rủi ro tín dụng
13
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng = × 100%
Dư nợ bình quân
Nếu tỷ lệ này càng cao chứng tỏ khi đó các khoản mục tín dụng chiếm một tỷ

trọng lớn trong tài sản có của ngân hàng, mà nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ có vai
trò quan trọng hàng đầu và thu về khoản lợi nhuận chủ yếu đối với tất cả các
NHTM. Do đó, khi tỷ lệ RRTD càng lớn cũng tức là ngân hàng có thể thu về lợi
nhuận lớn hơn từ lãi vay, tuy nhiên cấp tín dụng cũng là nghiệp vụ mang lại nhiều
rủi ro hơn so với đầu tư vào các tài sản có khác, vì thế mức độ rủi ro mà ngân hàng
có thể gặp phải cũng sẽ lớn hơn.
Có thể đánh giá kèm với chỉ tiêu:

Từ đó có thể đánh giá được rằng hiệu quả sử dụng vốn nói chung của ngân
hàng và hiệu quả sử dụng vốn huy động của ngân hàng. RRTD chỉ có thể xảy ra khi
bản thân ngân hàng cho vay quá nhiều so với tiêu chuẩn an toàn của NHNN [8].
II. Những vấn đề cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng tại NHTM
1. Khái niệm
QTRRTD là một quá trình trong đó ngân hàng sẽ nghiên cứu, tiếp cận rủi ro
một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát RRTD đối
với từng khách hàng, nhóm khách hàng, qua đó lập ra các phương án phòng ngừa,
giảm thiểu tổn thất, mất mát và những ảnh hưởng bất lợi mà RRTD gây ra [5].
QTRRTD được đề cập đến trong đề tài này là những hoạt động, nỗ lực của
nhà quản trị thông qua các công cụ và các nguồn lực của ngân hàng để thực hiện
việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm soát hoạt động tín dụng theo một thể thức
nhất định để có thể nhận diện, phản ứng lại trước những tình huống đã, đang và sẽ
gây ra thiệt hại cho ngân hàng, nhằm đảm bảo các mục tiêu mà ngân hàng đã đề ra.
14
Dư nợ tín dụng
Tỷ lệ RRTD = × 100%
Tổng tài sản có
Dư nợ tín dụng

Tổng nguồn vốn huy động
QTRRTD tốt không những giúp đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh

của ngân hàng, mà còn là một nguồn lợi thế cạnh tranh và là một công cụ tạo ra giá
trị, góp phần tạo ra các chiến lược kinh doanh hiệu quả hơn.
2. Chức năng của hoạt động QTRRTD
Dù được thiết kế và vận hành như thế nào đi chăng nữa, hoạt động QTRRTD
luôn phải thực hiện những vai trò và chức năng cơ bản sau:
- Đề ra mục tiêu, kế hoạch chiến lược cho hoạt động tín dụng trong từng năm,
từng giai đoạn, từng thời kỳ; xác định mức rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận
được, thiết lập các chính sách tín dụng và chính sách QTRRTD.
- Xây dựng các quy chế, hướng dẫn cách thức thực hiện, cách thức đo lường
hiệu quả hoạt động các bộ phận và thực hiện chức năng giám sát đảm bảo việc tuân
thủ các quy định nội bộ, quy định của cơ quan chủ quản và pháp luật hiện hành.
- Tổ chức bộ máy vận hành từ trên xuống dưới, thiết kế công việc cho từng bộ
phận, từng vị trí nhân sự cho phù hợp; kiểm soát các quyết định quan trọng trong
hoạt động tín dụng.
- Nhận diện, đánh giá, đo lường, đề xuất biện pháp xử lý rủi ro, hỗ trợ hoặc
trực tiếp xử lý rủi ro, đồng thời báo cáo với cấp trên và các bộ phận liên quan.
- Đối chiếu và đánh giá kết quả đạt được với kế hoạch mục tiêu đã đề ra.
3. Mô hình QTRRTD tại NHTM
Mô hình QTRRTD chính là hệ thống các mô hình bao gồm mô hình tổ chức
quản trị rủi ro, mô hình đo lường rủi ro và mô hình kiểm soát rủi ro được xây dựng
và vận hành một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục trong hoạt động quản trị tín dụng
của ngân hàng [7]. Mô hình QTRRTD phản ánh một cách hệ thống các vấn đề về
cơ chế, chính sách, quy trình nghiệp vụ nhằm thiết lập các giới hạn hoạt động an
toàn và các chốt kiểm soát rủi ro trong một quy trình thực hiện nghiệp vụ; các công
cụ đo lường, phát hiện rủi ro; các hoạt động giám sát sự tuân thủ và nhận diện kịp
thời các loại rủi ro mới phát sinh và các phương án, biện pháp chủ động phòng
ngừa, đối phó một khi có rủi ro xảy ra.
3.1 Mô hình tổ chức quản trị rủi ro tín dụng
3.1.1 Cơ cấu tổ chức bộ máy QTRRTD
Một điểm mấu chốt trong QTRRTD hiệu quả là xây dựng được một cơ cấu tổ

chức tín dụng có khả năng tuân thủ theo chính sách và quy trình tín dụng của ngân
hàng, duy trì một danh mục tín dụng chất lượng giảm thiểu rủi ro, tối ưu hóa các
cấp bậc cán bộ và sử dụng chi phí nhân lực một cách hiệu quả nhất.
Bộ máy tổ chức hoạt động QTRRTD phải đảm bảo các yếu tố sau:
15
- Sự phân tách chức năng: mục đích để tránh xung đột lợi ích, gian lận; đảm
bảo sự độc lập khách quan giữa các chức năng; phân công phân nhiệm và đề ra mục
tiêu công việc đối với từng vị trí.
- Trách nhiệm báo cáo (dòng báo cáo và trình tự phê duyệt): đảm bảo không
có tình trạng lạm quyền, thông tin phải minh bạch, cập nhật và được thông suốt ở
các cấp bậc tổ chức.
- Phạm vi/mức độ chịu trách nhiệm tương ứng với quyền hạn: quyền hạn nếu
không đi song hành cùng với trách nhiệm sẽ dễ dẫn đến việc sử dụng quyền hạn
thiếu cân nhắc.
- Tiêu chuẩn nhân sự: năng lực của cán bộ tín dụng, cán bộ kiểm soát, cán bộ
quản lý tín dụng và các chức danh liên quan phải được đảm bảo ở mức tối thiểu.
- Các ủy ban về các lĩnh vực khác nhau như: Ủy ban Tài sản nợ và Tài sản có
(ALCO), Ủy ban Tín dụng, Ủy ban quản lý tài sản đặc biệt, Ủy ban Chiến lược và
kế hoạch… Các ủy ban tập trung nguồn lực để giải quyết những vấn đề cụ thể và
chuyên biệt ở cấp toàn ngân hàng.
3.1.2 Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng phản ánh chiến lược, triết lý và văn hóa tín dụng của ngân
hàng; chỉ rõ những ưu tiên, những thủ tục và phương tiện theo dõi hoạt động cho
vay [6]. Chính sách tín dụng chính là văn bản hướng dẫn một cách tổng thể đối với
hoạt động cho vay của ngân hàng nhằm hướng đến 3 mục tiêu:
- Tạo ra các khoản vay lành mạnh và có khả năng thu hồi;
- Tạo ra các khoản đầu tư có khả năng sinh lời;
- Đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường mục tiêu mà ngân hàng hướng đến.
Chính sách tín dụng đưa ra những hướng dẫn về phạm vi, mức độ phân bổ vốn
cho vay cũng như cách thức mà các khoản vay được khởi tạo, thẩm định, giám sát,

thu hồi như thế nào và danh mục cho vay được quản lý như thế nào. Chính sách cho
vay không nên quá chặt nhưng dù sao vẫn phải đảm bảo các khoản cho vay là đáng
tin cậy và không nằm ngoài các thông số hướng dẫn. Chính sách tín dụng có thể
linh hoạt qua từng thời kỳ.
Một chính sách tín dụng chặt chẽ phải xác định rõ ràng các khía cạnh sau:
16
- Thị trường mục tiêu và khách hàng mục tiêu mà chiến lược đã đề ra.
- Giới hạn tỷ lệ cho vay trên vốn tự có, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản ngân
hàng, tỷ lệ cho vay trên lượng tiền gửi, tỷ lệ cho vay trung dài hạn bằng nguồn vốn
ngắn hạn, tỷ lệ cho vay trên tài sản bảo đảm; hạn mức đối với từng khách hàng,
nhóm khách hang liên quan, từng ngành nghề kinh doanh, từng khu vực địa lý, từng
loại hình cho vay, loại kỳ hạn cho vay.
- Thu thập thông tin, xác minh, xử lý và sử dụng thông tin cho việc phân tích,
đánh giá rủi ro về khách hàng; quy trình thẩm định tín dụng và tái thẩm định tín
dụng, quy trình thẩm định tài sản đảm bảo; quy định điều kiện về tài sản đảm bảo.
- Thẩm quyền cấp tín dụng và quy trình xét duyệt cho vay; cơ sở định giá cho
vay và các hướng dẫn về phí, lãi phạt trả chậm, lãi phạt trả trước hạn…
- Hướng dẫn cách giám sát, xử lý, thu hồi các khoản vay trong trường hợp
bình thường và đặc biệt.
3.1.3 Quy trình tín dụng
Việc xác lập một quy trình tín dụng và không ngừng hoàn thiện nó đặc biệt
quan trọng đối với một NHTM [12]. Một quy trình tín dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân
hàng nâng cao chất lượng tín dụng và giảm thiểu RRTD.
Bước 1: Lập hồ sơ yêu cầu cấp tín dụng
Để có được một quyết định chính xác khi cấp tín dụng, việc tìm hiểu và phân
tích thông tin liên quan đến khách hàng là vô cùng quan trọng. Đây là giai đoạn
hình thành đầy đủ các giấy tờ, văn bản chứng tỏ khách hàng thực sự có nhu cầu về
vốn tín dụng, cũng như chứng minh được tính hợp pháp về nhân thân khách hàng và
tính tự nguyện xin cấp tín dụng của khách hàng.
Tùy thuộc vào loại khách hàng, kỹ thuật cấp tín dụng và quy mô tín dụng mà

số lượng giấy tờ trong hồ sơ lại khác nhau. Có thể phân thành bốn nhóm cơ bản sau:
- Giấy đề nghị cấp tín dụng;
- Những tài liệu chứng minh năng lực pháp lý của khách hàng;
- Những tài liệu chứng minh khả năng hấp thụ vốn tín dụng và khả năng hoàn
vốn tín dụng của khách hàng;
- Những tài liệu liên quan đến bảo đảm tín dụng hoặc điều kiện cấp tín dụng.
17
Về phía ngân hàng, cán bộ tín dụng có nhiệm vụ tiếp xúc và thông báo điều
kiện cấp tín dụng đối với từng khách hàng cụ thể với mục đích sử dụng vốn đã định.
Bước 2: Phân tích tín dụng
Dựa vào nguồn thông tin có thể nhận được từ khách hàng và thu thập trao đổi
thông tin với các cơ quan chức năng trong hệ thống ngân hàng, ngân hàng tiếp cận
và phỏng vấn chủ doanh nghiệp để từ đó đưa ra được những phân tích đánh giá phi
tài chính về doanh nghiệp. Đó là, phân tích kiểm tra tính pháp lý của khách hàng;
kiểm tra mục đích của khoản tín dụng đề nghị cấp; phân tích tình hình quản trị
doanh nghiệp, khả năng và uy tín của hội đồng quản trị công ty; nghiên cứu triển
vọng của khách hàng và các chiến lược phát triển trong tương lai.
Song song với phân tích phi tài chính, ngân hàng tiến hành phân tích hiện
trạng tài chính khách hàng gồm đánh giá về quản trị vốn; phân tích hệ số tài chính;
phân tích lưu chuyển tiền tệ; phân tích các dự báo tài chính để có thể xác định được
thời hạn cho vay hợp lý và các kỳ hạn cho vay của khách hàng.
Bước 3: Quyết định tín dụng
Khâu này đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong hoạt động cho vay. Nó không
những ảnh hưởng đến tiến trình hoạt động của khách hàng, mà còn ảnh hưởng đến
của uy tín của ngân hàng. Để tránh tình trạng đồng ý cho vay với một khách hàng
không có khả năng trả nợ hay từ chối cho vay đối với một khách hàng tốt, ngoài
những thông tin được chuyển giao từ giai đoạn trước, người quyết định phải dựa
vào các cơ sở sau:
- Thông tin cập nhập từ thị trường, các cơ quan có liên quan;
- Chính sách tín dụng của ngân hàng, quy định hoạt động tín dụng của

NHNN;
- Nguồn cho vay của ngân hàng khi ra quyết định;
- Kết quả thẩm định bảo đảm tín dụng.
Bước 4: Giải ngân
Tùy thuộc vào nội dung các cam kết của hợp đồng, đối tượng và mục đích đi
vay mà nhân viên tín dụng có thể giải ngân theo một trong hai cách sau đây [16]:
18
- Giải ngân là nghiệp vụ cấp tiền thuần túy: ngân hàng cấp tiền cho khách
hàng trong phạm vi mức tín dụng đã ký kết mà không đòi hỏi thêm những điều kiện
khác.
- Giải ngân là quyết định cho vay phụ kèm theo với việc cấp tiền: dựa vào
những điều kiện ràng buộc trong việc giải ngân, ngân hàng có thể từ chối cấp tiền
vay mặc dù đã ký hợp đồng tín dụng nếu khách hàng chưa thực hiện đúng các quy
định hay doanh nghiệp gặp phải vấn đề liên quan đến thuế và chính sách đầu tư.
Bước 5: Giám sát và thanh lý tín dụng
Nội dung của giai đoạn cuối này chủ yếu gồm:
- Giám sát tín dụng: Để kiểm tra việc thực hiên các điều khoản đã cam kết
theo hợp đồng tín dụng.
- Thu nợ: Khách hàng có trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng đúng
hạn và đầy đủ như trong cam kết theo hợp đồng. Tùy theo tính chất mà có nhiều
phương pháp thu nợ khác nhau.
- Tái xét tín dụng và phân hạng tín dụng: Ngân hàng tiến hành nghiên cứu, dự
đoán những khả năng đối lập với hiện trạng tài chính của khách hàng, thẩm định
khả năng trả nợ của khách hàng, đánh giá lại năng lực của khách hàng trong lĩnh
vực kinh doanh của họ và cách thức xử lý trong những tình huống mới [7].
3.2 Mô hình đo lường rủi ro
3.2.1 Đánh giá rủi ro và xếp hạng tín dụng
Việc đánh giá rủi ro và xếp hạng tín dụng được thực hiện thông qua hệ thống
xếp hạng tín dụng của ngân hàng. Các thông tin đầu vào để thực hiện đánh giá và
xếp hạng phải đảm bảo tính chính xác, đầy đủ, bản chất và thiết thực. Kết quả xếp

hạng có ý nghĩa rất lớn đối với ngân hàng trong việc phân tích, đánh giá rủi ro của
khách hàng và là một trong những tài liệu tham khảo quan trọng để ngân hàng đưa
ra các quyết định tín dụng đúng đắn.
Thông thường kết quả xếp hạng sẽ là hạng tín dụng của khách hàng. Hạng tín
dụng có thể gồm nhiều mức hạng khác nhau tùy thuộc vào mô hình của mỗi ngân
hàng. Ngoài ra, kết quả xếp hạng còn có thể bao gồm cả các thông số kỹ thuật như:
xác suất vỡ nợ, giá trị khoản vay tại thời điểm vỡ nợ, tổn thất khi vỡ nợ, lỗ kỳ vọng,
lỗ không kỳ vọng; thậm chí có các mô hình của các nhà cung ứng trên thị trường đã
có thể tính toán được xác suất chuyển hạng tín dụng khi các điều kiện hoạt động của
doanh nghiệp thay đổi.
19
Điều khá quan trọng của hệ thống xếp hạng tín dụng là phải xác định mức
ngưỡng phân biệt giữa khoản vay được chấp nhận và những khoản vay không được
chấp thuận một cách hợp lý, nếu không ngân hàng có thể sẽ phải chịu rủi ro rất lớn
nếu bị rơi vào tình trạng “lựa chọn bất lợi”.
Hệ thống xếp hạng tín dụng có những vai trò và chức năng sau:
- Giúp ngân hàng đánh giá rủi ro của khoản vay một cách toàn diện và khách
quan, tạo sự tiện lợi cho ngân hàng trong việc đánh giá lại mức rủi ro của khoản vay
phục vụ cho công tác giám sát theo dõi nợ và tái cơ cấu danh mục cho vay.
- Làm cơ sở để phân loại nợ theo mức độ rủi ro, trích lập dự phòng rủi ro tín
dụng một cách hợp lý.
- Tạo ra các số liệu đầu vào cho quá trình định giá tín dụng, quản lý danh
mục, phân bổ vốn và đo lường hoạt động của các đơn vị kinh doanh.
3.2.2 Quản lý nợ và xử lý nợ
Hoạt động quản lý nợ là hoạt động quản lý giám sát, theo dõi để nhận diện và
đưa ra các giải pháp kịp thời đối với các khoản vay có vấn đề. Quản lý nợ chú trọng
đến việc giám sát, theo dõi các khoản vay cụ thể hơn là toàn danh mục cho vay [9].
Các công việc chính yếu của quản lý nợ bao gồm:
- Giám sát khoản vay bằng nhiều hình thức khác nhau như: giám sát từ xa
(thông qua hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, qua phân tích báo

cáo mà khách hàng nộp định kỳ cho ngân hàng, qua mối quan hệ với các khách
hàng khác, thông tin đại chúng, thông tin tín dụng, cơ quan thuế…) hoặc giám sát
tại chỗ (tiếp xúc trực tiếp khách hàng, kiểm tra tình hình tài sản bảo đảm tại cơ sở
sản xuât kinh doanh). Ngân hàng có thể tiến hành giám sát sát định kỳ, thường
xuyên hoặc đột xuất doanh nghiệp sau khi cấp tín dụng. Việc tổ chức giám sát cần
phải được đặc biệt quan tâm. Ngân hàng phải xem xét phân công cán bộ tín dụng
thực hiện công việc giám sát sao cho hợp lý. Sau khi thực hiện giám sát phải có báo
cáo hoặc biên bản về kết quả giám sát trình các cấp quản trị để có những xử lý kịp
thời.
- Phân loại nợ:
Phân loại nợ là phân chia danh mục nợ theo một tiêu chí nào đó. Theo quy
định 493 của NHNN thì hiện tại trong hệ thống ngân hàng có hai cách phân loại nợ
chính là phân loại nợ theo tuổi nợ và theo mức rủi ro các khoản vay đối với tất cả
các khoản vay toàn ngân hàng. Về bản chất, phân loại nợ là nhằm vào mục đích
đánh giá rủi ro của hoạt động cho vay và làm cơ sở để trích lập dự phòng rủi ro chứ
không chỉ dừng lại ở việc thống kê báo cáo cho các cơ quan giám sát ngành [25].
20
Phương pháp phân loại hợp lý nhất đó là phương pháp phân loại nợ theo mức
độ rủi ro của các khoản vay (tức là theo kết quả xếp hạng tín dụng). Phương pháp
này sẽ tập hợp các khoản nợ có cùng mức rủi ro vào cùng một nhóm, như vậy các
khoản vay rủi ro khác nhau sẽ được phân vào các nhóm rủi ro tương ứng. Do vậy,
danh mục phân loại nợ nhạy cảm với rủi ro và phản ánh đúng thực chất hơn về tình
trạng rủi ro của ngân hàng. Theo cách phân loại này, nợ chia làm 5 nhóm như sau:
+ Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
+ Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng
suy giảm khả năng trả nợ.
+ Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này

được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
+ Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là khả năng tổn thất cao.
+ Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn [1].
- Dự phòng rủi ro tín dụng: Đây thực chất là việc trích lập trước một quỹ dự
trữ tương ứng với mức thiệt hại trong tương lai của các khoản vay khi xảy ra sự
kiện vỡ nợ. Nguyên tắc trích lập dự phòng là các khoản vay rủi ro cao phải được
trích lập dự phòng nhiều hơn các khoản vay có ít rủi ro hơn để đảm bảo ngân hàng
có thể chống đỡ nổi trước tình trạng vỡ nợ của khách hàng, tránh sự biến động quá
lớn trong kết quả hoạt động và duy trì sự ổn định trong hoạt động của ngân hàng.
Dự phòng được xem xét trong mối tương quan với hoạt động phân loại nợ.
Đối với từng khoản tín dụng, NHTM tiến hành trích lập dự phòng cụ thể theo
tỷ lệ trích lập: Nhóm 1: 0%; nhóm 2: 5%; nhóm 3: 20%; nhóm 4: 50%; nhóm 5:
100%
Bên cạnh đó, các NHTM phải duy trì trích lập dự phòng chung bằng 0,75%
tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 như đã nêu ở trên [2].
- Thu hồi và xử lý các khoản nợ có vấn đề: Ngân hàng có thể áp dụng nhiều
biện pháp thích hợp tùy vào từng trường hợp. Có hai hướng giải quyết thông thường
21
là: khai thác đối với các khoản nợ còn có khả năng thu hồi (thăm hỏi, thương lượng,
tăng cường kiểm soát…) và thanh lý đối với các khoản nợ không còn khả năng thu
hồi (ngừng giải ngân, thu hồi nợ trước hạn) [27].
3.2.3 Quản lý tài sản bảo đảm
Quản lý tài sản bảo đảm là hoạt động của ngân hàng thông qua các nghiệp vụ
thẩm định, lưu giữ, giám sát, tái thẩm định và xử lý tài sản bảo đảm của cá nhân,
doanh nghiệp đi vay, của các chủ thể liên quan và các yếu tố đảm bảo trên hợp đồng
tín dụng nhằm mục đích giúp ngân hàng phòng tránh RRTD trước các tình huống
thông tin bất cân xứng, rủi ro không thể lường trước và giúp bù đắp những tổn thất
nếu RRTD trở thành hiện thực. Quản lý đảm bảo gồm 3 đối tượng chính:

- Tài sản đảm bảo của bên đi vay: Đây là đối tượng cần được quản lý phổ biến
nhất trong các hợp đồng cho vay. RRTD lúc này được chuyển thành rủi ro của tài
sản đảm bảo [26]. Giá trị tài sản đảm bảo thay đổi tức là RRTD thay đổi và các tài
sản đảm bảo khác nhau sẽ có sự biến động về giá trị khác nhau, việc đưa ra các biện
pháp để quản lý đối với các loại tài sản này như thế nào là vô cùng quan trọng.Quản
lý tài sản đảm bảo tốt sẽ đóng góp tích cực cho hoạt động QTRRTD của toàn ngân
hàng.
- Bảo đảm của bên thứ ba: Bao gồm mức tín nhiệm và cả tài sản bảo đảm của
bên thứ ba bảo lãnh cho cá nhân, doanh nghiệp, định chế tài chính đi vay. Việc
thẩm định, xếp hạng tín dụng đối với bên thứ ba cũng phải được quan tâm như là
đối với người đi vay. Vì nguồn tiền cuối cùng để bù đắp rủi ro trong trường hợp này
là từ phía người bảo lãnh chứ không phải người đi vay. Nếu người bảo lãnh không
đủ độ tín nhiệm thì việc yêu cầu tài sản đảm bảo từ phía người bảo lãnh cũng là hết
sức chính đáng.
- Các giao kèo: Đây chính là các cam kết, thỏa thuận trước giữa khách hàng
và ngân hàng. Nó có ý nghĩa quan trọng giúp ngân hàng xử lý nhanh trước các tình
huống có nguy cơ gây tổn thất cho ngân hàng mà không cần phải có sự đồng ý của
doanh nghiệp. Giao kèo được xem như một sự bảo đảm cho ngân hàng khi khoản
vay có dấu hiệu rủi ro [6].
3.3 Mô hình kiểm soát rủi ro
Mục đích của việc kiểm tra và giám sát tín dụng độc lập là:
- Ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng, đảm bảo
tuân thủ các chiến lược tín dụng, chính sách phê duyệt tín dụng và cơ cấu dư nợ tín
dụng theo quy định của ngân hàng.
22
- Tài sản đảm bảo nợ vay phải được thực hiện đầy đủ tính pháp lý và phù hợp
với quy định của ngân hàng.
- Các khoản nợ gốc, lãi, phí tiền vay phải được tính và hạch toán đầy đủ.
- Nợ khó đòi/nợ xấu phải được phân loại và dự phòng đầy đủ theo quy định
của pháp luật.

- Đảm bảo tính chính xác, đúng đắn trong hoạt động tài chính của ngân hàng.
Môi trường kiểm soát là một trong những yếu tố quan trọng trong hệ thống
kiểm soát nội bộ của ngân hàng cùng với các hình thức kiểm soát [28]. Các hình
thức kiểm soát cụ thể của ngân hàng đối với hoạt động tín dụng như sau:
- Thiết kế các chốt kiểm soát;
- Kiểm soát quá trình phê duyệt;
- Kiểm soát môi trường vật chất;
- Kiểm soát độc lập việc thực hiện - kiểm soát lại.
III. Sự cần thiết phải QTRRTD tại NHNo&PTNT Việt Nam
1. Vài nét về NHNo&PTNT Việt Nam
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Việt Nam
Vào năm 1988, theo Nghị định số 53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, Ngân
hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam được thành lập. Với lĩnh vực đầu tư chủ yếu
là sản xuất nông nghiệp, ngay từ đầu đã xác định cho vay trực tiếp hộ nông dân là
đối tượng khách hàng chủ yếu [7].
Sau hơn ba lần đổi tên, ngày 15/11/1996, được Thủ tướng Chính phủ ủy
quyền, Thống đốc NHNN Việt Nam ký quyết định số 280/QĐ-NHNN đổi tên Ngân
hàng Phất triển Nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT Việt Nam).
NHNo&PTNT hoạt động theo mô hình tổng công ty , là doanh nghiệp nhà
nước hạng đặc biệt, hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và chịu sự quản lý
trực tiếp của NHNN Việt Nam. Với tên gọi mới, ngoài chức năng của một ngân
hàng thương mại, NHNo&PTNT được xác định thêm nhiệm vụ đầu tư phát triển đối
23
với khu vực nông thôn thông qua việc mở rộng đầu tư vốn trung, dài hạn để xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy hải sản góp phần
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn.
Năm 2000 cùng với việc mở rộng kinh doanh trên thị trường trong nước,
NHNo tích cực mở rộng quan hệ quốc tế và kinh doanh đối ngoại, nhân được sự tài

trợ của các tố chức tài chính tín dụng quốc tế như World Bank, Asia Development
Bank, ngân hàng tái thiết Đức… Tiếp nhận và triển khai có hiêu quả 50 dự án nước
ngoài với tổng số vốn trên 1.300 triệu USD, chủ yếu đầu tư vào khu vực kinh tế
nông nghiệp, nông thôn. Ngoài hệ thống thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT,
NHNo đã thiết lập được hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử và rút tiền tự động
ATM.
Năm 2001 là năm đầu tiên NHNo triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu với các
nội dung chính sách là cơ cấu lại nợ, lành mạnh hoá tài chính, nâng cao chất lượng
tài sản có, chuyển đổi hệ thống kế toán hiện hành theo chuẩn mực quốc tế, sắp xếp
lại bộ máy tổ chức theo mô hình NHTM hiện đại, tăng cường đào tạo cán bộ, tập
trung đổi mới công nghệ ngân hàng, xây dựng hệ thống thông tin quản lý hiện đại.
Năm 2003, NHNo&PTNT Việt Nam đã đẩy nhanh tiến độ thực hiện đề án tái
cơ cấu nhằm đưa hoạt động của ngân hàng phát triển với quy mô lớn chất lượng
hiệu quả cao. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, đóng
góp tích cực và rất có hiệu quả vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn. Chủ tịch nước đã
ký quyết định số 226/2003/QD/CTN ngày 07/05/2003 phong tặng danh hiệu Anh
hùng lao động thời kỳ đổi mới cho NHNo&PTNT Việt Nam.
Đến cuối năm 2005, vốn tự có của NHNo&PTNT Việt Nam đạt 7.702tỷ VND,
tổng tài sản có trên 190 ngàn tỷ, hơn 2.000 chi nhánh trên toàn quốc và 29.492 cán
bộ nhân viên (chiếm 40% tổng số cán bộ công nhân viên toàn hệ thống ngân hàng
Việt Nam), ứng dụng công nghệ hiện đại, cung cấp những sản phẩm, dịch vụ ngân
hàng hoàn hảo… Đến nay, tổng số dự án nước ngoài mà NHNo tiếp nhận và triển
khai là 68 dự án với tổng số vốn 2.486 triệu USD, trong đó giải ngân qua NHNo là
1,5 tỷ USD. Hiện nay Ngân hàng đã có quan hệ đại lý với 932 ngân hàng đại lý tại
112 quốc gia và là thành viên của nhiều tổ chức, hiệp hội tín dụng có uy tín lớn.
Năm 2008 là năm ghi dấu chặng đường 20 năm xây dựng và trưởng thành của
NHNo và cũng là năm có tính quyết định trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
theo chủ trương của Đảng, Chính phủ. Trong chiến lược phát triển của mình, NHNo
24

sẽ trở thành một tập đoàn tài chính đa ngành, đa sở hữu, hoạt động đa lĩnh vực.
Theo đó, toàn hệ thống xác định những mục tiêu lớn phải ưu tiên đó là: tiếp tục giữ
vai trò chủ đạo, chủ lực trên thị trường tài chính nông thôn, luôn là người bạn đông
hành thủy chung tin cậy của 10 triệu hộ gia đình; đẩy mạnh tái cơ cấu ngân hàng,
giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu, đạt hệ số an toàn vốn theo tiêu chuẩn quốc tế, phát
triển hệ thống công nghệ thông tin, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch
vụ, chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, đảm bảo các lợi ích của người lao
động và phát triển thương hiệu - văn hóa NHNo.
Đến cuối năm 2009, tổng tài sản của NHNo đạt xấp xỉ 470,000 tỷ đồng, tăng
22% so với năm 2008; tổng nguồn vốn đạt 434,331 tỷ đồng, tổng dư nợ nền kinh tế
đạt 354,112 tỷ đồng. Cũng trong năm này, NHNo vinh dự được đón Tổng bí thư
Nông Đức Mạnh tới thăm và làm việc vào đúng dịp kỷ niệm 21 năm ngày thành lập
(26/3/1988 - 26/3/2009); vinh dự được Đảng, nhà nước, chính phủ, ngành ngân
hàng, nhiều tổ chức uy tín trên thế giới trao tặng các bằng khen cùng nhiều phần
thưởng cao quý: top 10 giải Sao vàng Đất Việt, top 10 Thương hiệu Việt Nam uy
tín nhất, danh hiệu “Doanh nghiệp phát triển bền vững” do Bộ công thương công
nhận, top 10 Doanh nghiệp Việt Nam theo xếp hạng của VNR500 [23].
Tính đến nay, NHNo vẫn luôn là ngân hàng lớn nhất Việt Nam cả về vốn, tài
sản, đội ngũ cán bộ nhân viên, mạng lưới hoạt động và số lượng khách hàng.
- Tổng tài sản đạt 523.525 tỷ đồng;
- Mạng lưới hoạt động: 2.300 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc;
- Nhân sự: gần 40.000 cán bộ
- Ngân hàng đại lý: 1.046 ngân hàng đại lý trên 96 quốc gia và vùng lãnh thổ.
1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam trong giai
đoạn 2006-2010
Mặc dù nền kinh tế trong nước và thế giới gặp nhiều khó khăn, nhưng với sự
nổ lực của toàn hệ thống, hoạt động kinh doanh của NHNo vẫn đạt được kết quả
khả quan. Và điều này được thể hiện bằng các chỉ số tài chính qua các năm như sau:
Bảng 1.1: Kết quả hoạt động kinh doanh giai đoạn 2006-2010
Đơn vị: tỷ đồng

25

×