Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Đăng ký nhãn hiệu tại thị trường nước ngoài (Hoa Kỳ) và những vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.08 KB, 82 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Là người Việt Nam ai chẳng quen thuộc với những câu ca dao xưa, trong
mỗi lời ca đã dần hình thành những nếp ý thức trong tư tưởng của mỗi con
người trong chúng ta:
“ Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đơng”
Hay:
“Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây”
Đã thành thơng lệ, nói đến chiếu thì phải là Nga Sơn, nói đến vải tơ thì phải
là Nam Định…Trong mỗi lời ca ấy là niềm tự hào của người lao động bao đời
tại những làng nghề truyền thống, những người đã bao đời gìn giữ và đưa những
sản phẩm của quê nhà ra khỏi luỹ tre làng để đi vào đời sống từng người dân
Việt.
Ngày nay trong công cuộc cơng nghiệp hố và hiện đại hố đất, hàng nghìn
doanh nghiệp với hàng triệu những người lao động đang hăng say lao động miệt
mài vì sự nghiệp đổi mới đất nước, góp phần mang tiếng nói Việt Nam đi tới với
bạn bè năm châu. Không thể phủ nhận rằng những sản phẩm của chúng ta đã và
đang từng bước có mặt ở những thị trường vốn rất khó tính như Nhật Bản, EU
và đặc biệt là thị trường Mỹ. Bên cạnh yếu tố chất lượng, đâu còn là yếu tố để
giúp hàng hố “Made in Vietnam” thực sự tìm ra chỗ đứng trên thị trường cạnh
tranh đầy khốc liệt này? Chưa bao giờ vấn đề nhãn hiệu sản phẩm lại trở thành
mối quan tâm lớn đối với doanh nghiệp và cả Nhà nước như trong giai đoạn hội
nhập hiện nay, khi diễn ra một loạt các tranh chấp liên quan nhãn hiệu của các
doanh nghiệp Việt Nam thời gian vừa qua tại thị trường số một của Việt Nam,
thị trường Hoa Kỳ. Thực tiễn địi hỏi chúng ta phải nhìn nhận lại những vấn đề
pháp lý liên quan tới đăng ký nhãn hiệu tại thị trường Hoa Kỳ và trên cơ sở đó


tổng kết những vấn đề đặt ra đối với những doanh nghiệp xuất nhập khẩu của
Việt Nam.


Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này đối với thực tiễn, em đã
mạnh dạn chọn đề tài : “Một số vấn đề pháp lý liên quan tới đăng ký nhãn
hiệu tại thị trường nước ngoài (Hoa Kỳ) và những vấn đề đặt ra đối với
doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam”.
Ngồi Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, thì
khố luận này được bố cục thành 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về nhãn hiệu và đăng ký nhãn hiệu tại thị
trường Hoa Kỳ.
Chương II: Thực trạng đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của các doanh nghiệp
Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đăng ký nhãn hiệu
hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Giảng viên – người đã tận tình
giúp em hồn thành khố luận. Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo
và các bạn đã giúp đỡ em trong việc thu thập tài liệu để hồn thành khố luận
này.
Do những hạn chế về thời gian nghiên cứu, về tài liệu thu thập và khả năng
của người viết, nội dung khố luận cịn khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Em
rất mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cơ giáo cùng sự góp ý của
các bạn.


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VÀ ĐĂNG KÝ
NHÃN HIỆU TẠI THỊ TRƯỜNG HOA KỲ
I. Khái niệm chung về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu :
1. Nhãn hiệu hàng hố:
1.1 Khái niệm:
Nhãn hiệu hàng hóa xuất hiện rất sớm, thậm chí từ lúc con người cịn tự
cung tự cấp những gì họ cần cho bản thân nhiều hơn là mua chúng từ những
người thợ thủ công. Những người thợ thủ công Ấn Đô xưa đã chạm khắc chữ kí

của mình lên các tác phẩm nghệ thuật trước khi gửi hàng tới Iran. Các nhà sản
xuất Trung Quốc đã bán hàng hố mang nhãn hiệu của mình tại Địa Trung Hải
từ 2000 năm trước và cùng thời gian đó hàng hoá mang nhãn hiệu đồ gốm La
Mã khác nhau đã được sử dụng ,kể cả nhãn hiệu FORTIS mà sau này đã trở nên
nổi tiếng đến nỗi bị sao chép và làm hàng giả. Nhờ việc kinh doanh phát đạt thời
Trung Cổ mà việc sử dụng dấu hiệu để phân biệt hàng hoá của các thương gia và
các nhà sản xuất đã khá phát triển 1. Tuy vậy tầm quan trọng về mặt kinh tế của
chúng vẫn còn hạn chế.
Trong thương mại quốc tế hiện nay, nhãn hiệu bắt dần xác lập một vai trò
quan trọng. Nhãn hiệu hàng hoá với tư cách là một trong những đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ được rất nhiều các Cơng ước quốc tế về sở hữu công nghiệp
đề cập đến. Tuy nhiên các công ước này thường không đưa ra một khái niệm cụ
thể về nhãn hiệu hàng hoá mà chỉ quy định những điều khoản liên quan tới việc
bảo hộ các đối tượng của sở hữu công nghiệp như Công ước Paris năm 1883,
hoặc thiết lập hệ thống quốc tế về đăng ký nhãn hiệu hàng hoá như Thoả ước
Madrid 1891. Tuy nhiên sự ra đời của Tổ chức thương mại Thế giới WTO năm
1995 cùng với Hiệp định TRIPS - Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên
1

trang 9,10 theo “ Cẩm nang sở hữu trí tuệ”, bản dịch của Trần Hữu Nam, biên tập Hoàng Văn
Tân, Cục sở hữu trí tuệ theo giấy phép xuất bản số 94/QĐ-CXB của Bộ Văn hóa Thơng Tin cấp
ngày 8-4-2005


quan đến quyền sở hữu trí tuệ - đã đánh dấu một bước ghi nhận quan trọng trong
nhận thức về nhãn hiệu hàng hố. Hiệp định TRIPS đã khơng dừng lại ở việc
quy định các nguyên tắc bảo hộ hay cơ chế bảo hộ như các điều ước quốc tế
trước kia mà còn bao gồm các quy định chi tiết về khái niệm, phạm vi và dấu
hiệu của nhãn hiệu hàng hoá, cụ thể:
“ Tất cả những dấu hiệu bất kỳ hoặc tập hợp các dấu hiệu cho phép phân

biệt các sản phẩm và dịch vụ của một doanh nghiệp với các sản phẩm và dịch vụ
của các doanh nghiệp khác đều có thể đăng ký nhãn hiệu hàng hố. Các dấu hiệu
này có thể là tên, chữ cái, chữ số, các yếu tố hình dạng hoặc tổ hợp màu sắc”. 2
Xét dưới góc độ pháp luật quốc tế, nhãn hiệu hàng hóa thường được quy
định rất khái quát và mang tính chất quy chuẩn. Việc xác định một đối tượng có
phải là nhãn hiệu hàng hố hay khơng được xem xét theo mục đích sử dụng nó
chứ khơng phải cá thể hố nó. Nhìn chung, cách tiếp cận từ mục đích phân biệt
hàng hố, dịch vụ của doanh nghiệp là cách tiếp cận chung nhất của các nước
khi đưa ra định nghĩa về nhãn hiệu hàng hoá trong luật pháp nước mình. Sự
khác nhau giữa các quy định của các nước thường nằm ở yếu tố có thể phân biệt
được. Những khác biệt này bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế hay mức độ đa
dạng của nền kinh tế. Ví dụ, ở các nước phát triển thì dấu hiệu được coi là nhãn
hiệu hàng hoá bao gồm cả hình ảnh ba chiều, âm thanh hay mùi trong khi đó ở
một số nước khác thì chỉ có các yếu tố cấu thành truyền thống như tên gọi, hình
ảnh, màu sắc là được công nhận.
Các quy định của luật pháp Hoa Kỳ về nhãn hiệu hàng hoá tương tự như
quy định của hầu hết các nước, không đưa ra quy định về việc nhãn hiệu hàng
hoá như thế nào sẽ được đăng ký mà thay vào đó đưa ra các dấu hiệu quy chuẩn,
trên cơ sở đó xác định nhãn hiệu hàng hố đó có được đăng ký hay khơng. Khái
niệm nhãn hiệu hàng hoá theo pháp luật Hoa Kỳ được điều chỉnh bởi Luật nhãn
hiệu hàng hoá Hoa Kỳ, đạo luật Lanham Act:

2

: Theo />

“ Nhãn hiệu hàng hoá bao gồm từ ngữ, tên, biểu tượng, hình vẽ hoặc sự kết
hợp của các yếu tố đó nhằm phân biệt hàng hố của một người cung cấp với
hàng hoá của những người cung cấp khác. Nhãn hiệu hàng hố có thể được áp
dụng cho hàng hoá dịch vụ và những nhãn hiệu xác nhận nguồn gốc, chất lượng,

độ nguyên chất nếu chúng thoả mãn các yêu cầu của một nhãn hiệu” 1
Như vậy, khái niệm nhãn hiệu hàng hoá theo Luật nhãn hiệu hàng hoá của
Mỹ hàm chứa hai khía cạnh, hay cịn được xem là hai chức năng của nhãn hiệu
hàng hố. Hai khía cạnh này phụ thuộc lẫn nhau và phải được xem xét trong mối
quan hệ đó. Nếu như vế thứ nhất mang tính mở, tạo điều kiện cho việc xem xét
các dấu hiệu phân biệt hàng hố thì nội dung thứ hai lại bị hạn chế bởi các yếu
tố có thể được đăng ký làm nhãn hiệu hàng hố. Có thể nói nước Mỹ có cách
tiếp cận rất rộng khái niệm nhãn hiệu hàng hoá trên cơ sở chỉ chú trọng đến mục
đích phân biệt hàng hố mà khơng q quan tâm tới hình thức thể hiện của nó.
1.2 Các yếu tố cấu thành nhãn hiệu hàng hố:
Theo những phân tích trước đó, cách tiếp cận của pháp luật Hoa Kỳ cũng
tuân theo xu thế mở của cách tiếp cận cảu pháp luật quốc tế hiện đại trong quy
định về nhãn hiệu hàng hoá. Như vậy theo xu hướng quốc tế hiện nay, các dấu
hiệu có thể được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hố là rất phong phú. Nó có thể
là bất kỳ một yếu tố nào có khả năng phân biệt của hàng hoá, dịch vụ của doanh
nghiệp này với doanh nghiệp cùng loại khác. Trên tinh thần đó ta có thể phân
loại một só dấu hiệu hiện nay được sử dụng làm nhãn hiệu hàng hoá như sau:
- Từ ngữ: Bao gồm tên công ty, tên địa lý, và bất kỳ từ ngữ nào, bất kể tự
tạo hay không và khẩu hiệu. Thông thường các chuyên gia thường áp dụng 4
cách đặt tên nhãn hiệu : i) Sử dụng từ tự tạo – đó là từ được tổ hợp từ các ký tự,
tạo thành một từ mới phát âm được và khơng có trong từ điển ví dụ như Yahoo,
Elead, Coke… ii) Sử dụng từ thông dụng: ví dụ Dream, Elite, Nam Phương,
Ơng Thọ… iii) Sử dụng từ ghép: ví dụ Vinamilk, Thinkpad… iv) Sử dụng từ


viết tắt: là những từ thông dụng được tạo thành từ những chữ cái đầu tiên của
tên công ty, từ viết tắt phát âm được và mang một thông điệp nào đó, ví dụ
VNPT, FPT, IBM, LG…
Ở Mỹ và Châu Âu, họ gia đình thường được dùng phổ biến làm tên cơng ty
hay nhãn hiệu gắn trên hàng hố dịch vụ. Tuy nhiên, đa số các nước, kể cả Mỹ

và Châu Âu không cho phép đăng ký các họ gia đình phổ thơng làm nhãn hiệu
hàng hố vì thiếu tính phân biệt, đồng thời có thể gây nhầm lẫn cho khách hàng.
- Chữ cái và con số: Đây là một dạng nhãn hiệu hàng hố phổ biến nhưng khơng
vì thế mà bất kỳ chữ cái hay con số nào cũng có thể đăng ký làm nhãn hiệu hàng
hố, các chữ cái đứng đơn lẻ và không được cách điệu thường bị đa số pháp luật
các nước và pháp luật quốc tế coi là khơng có tính phân biệt. Theo pháp luật
Hoa Kỳ, các chữ cái, chữ số và các chữ kết hợp với nhau khơng có khả năng
phát âm được như một từ ngữ thì khơng được đăng ký trử khi nó được thừa nhận
rộng rãi.
- Hình vẽ: Bao gồm các hình vẽ trang trí, các nét vẽ, biểu tượng hoặc hình hoạ
hai chiều của hàng hố hay bao bì. Hầu hết các quốc gia đều cơng nhận các hình
vẽ, biểu tượng có tính phân biệt và có khả năng được đăng ký bảo hộ cao. Ngoại
trừ pháp luật Hoa Kỳ, hầu hết các nước đều không công nhận việc đăng ký nhãn
hiệu hàng hố cho các dấu hiệu hình học hai chiều đơn giản như tam giác, hình
vng…Các hình học này muốn được đăng ký làm nhãn hiệu phải được trình
bày một cách cách điệu để tạo thành sự khác biệt.
- Kết hợp các yếu tố: Bao gồm cả dạng hình khối và nhãn hiệu:

- Các nhãn hiệu màu sắc: Loại này bao gồm các từ ngữ, hình vẽ, và bất kỳ sự
kết hợp nào giữa chúng có màu sắc hoặc sự kết hợp màu sắc với các yếu tố khác


hoặc chỉ riêng màu sắc. Việc sử dụng các chữ cái, hình hoạ với màu sắc hoặc kết
hợp với màu sắc nói chung thường làm tăng thêm tính phân biệt của chúng và
thường dễ dàng được chấp nhận đăng ký hơn.
- Các dấu hiệu thính giác ( nhãn âm thanh) và các dấu hiệu khứu giác ( nhãn
hiệu mùi): Ngày nay do nhu cầu phát triển đa dạng của nền kinh tế, đặc biệt sự
phát triển mạnh mẽ của nhãn hiệu hàng hoá, các doanh nghiệp phát hiện rằng âm
thanh cũng có khả năng làm cho người tiêu dùng nhận biết ra hàng hố của mình
cần dùng, hay giúp họ phân biệt được nguồn gốc sản xuất khác nhau của sản

phẩm cùng loại, ngay cả khi người tiêu dùng chưa nhìn thấy hàng hố. Những
đoạn nhạc với những ý nghĩa trừu tượng, có tác động rất đặc biệt trong việc
nhân thức nhãn hiệu. Chính vì thế mà nhà sản xuất và bán lẻ kem hàng đầu thế
giới Wall của Mỹ đã đăng ký giai điệu âm nhạc đặc trưng trên các xe bán kem
lưu động làm nhãn hiệu hàng hoá âm thanh độc đáo cho sản phẩm kem của
mình.
Đối với nhãn hiệu khứu giác (nhãn hiệu mùi) chưa có sự phát triển mạnh mẽ
như nhãn hiệu âm thanh. Có lẽ một trong các lý do thực tiễn là việc mô tả các
mùi trên giấy là điều hết sức khó khăn, đặc biệt là mùi tự tạo khơng có trong
thiên nhiên. Một lý do nữa là mùi khơng có hiệu quả cao như hình ảnh hay âm
thanh trong việc giúp người tiêu dùng phân biệt và nhận thấy sản phẩm quen
dùng. Cho đến nay, mới chỉ có một mùi được đăng ký cho một số loại hàng hoá
đặc thù nhất định. Đó là mùi đặc trưng ( hay cịn gọi là những mùi cơ bản) mà
khơng cần mơ tả thì ai cũng có thể nhận ra chúng, ví dụ mùi vanilla đăng ký cho
một loại bánh kẹo hay nhãn hiệu, mùi cỏ mới cắt được đăng ký cho bóng tennis.
- Các dấu hiệu và hình ảnh ba chiều: Đây là loại nhãn hiệu hàng hoá rất được
các doanh nghiệp ưa chuộng. Các dấu hiệu và hình ảnh ba chiều thường có khả
năng tạo ra ấn tượng mạnh mẽ, lôi cuốn, dễ in sâu trong tâm lý người tiêu dùng
và có khả năng phân biệt rất cao. Ví dụ: hình con ngựa bay đúc nguyên khối của
xe Rolls-Royce, hình con sư tử đứng hai chân nổi của xe Peugeot, ngôi sao ba


cánh nổi của Mercedes. Tuy vậy, dạng điển hình nhất của các dấu hiệu ba chiều
là hình dáng bao bì hoặc hàng hố.
- Những dấu hiệu khác ( khơng nhìn thấy được): Về bản chất, lý thuyết những
dấu hiệu không nhìn thấy được có khả năng đăng ký làm nhãn hiệu hàng hố
được phát triển dựa trên tính mở của khái niệm nhãn hiệu hàng hoá như quy
định của TRIPS, EU và Hoa Kỳ. Những dấu hiệu này có thể nhận biết qua xúc
giác thường dành để gắn lên hàng hoá cho những người khiếm thị nhận biết
hàng hoá lựa chọn. Như đã phân tích trên đây, hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ

chỉ chú trọng đến tính phân biệt của một dấu hiệu nào có thể giúp phân biệt hàng
hoá,dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp khác
đều có thể coi là nhãn hiệu hàng hoá
1.3 Điều kiện bảo hộ của nhãn hiệu:
Quan điểm của pháp luật Hoa Kỳ về nhãn hiệu hàng hố là dựa trên cơ sở
chức năng và mục đích sử dụng của nhãn hiệu hàng hố. Nhưng khơng phải bất
kỳ dấu hiệu nào cũng có thể được bảo hộ như là nhãn hiệu hàng hố. Có một số
u cầu nhất định mà cần phải đáp ứng mới được các cơ quan chức năng có
thẩm quyền của nước đăng ký cho phép đăng ký và bảo hộ. Nhìn chung có thể
chia ra làm 3 loại yêu cầu mang tính chuẩn mực toàn cầu như sau:
- Loại yêu cầu thứ nhất liên quan đến chức năng cơ bản của một nhãn hiệu
hàng hố, đó là chức năng phân biệt của một doanh nghiệp với hàng hoá, dịch
vụ của một doanh nghiệp khác. Từ chức năng đó, nhãn hiệu hàng hố phải đáp
ứng yêu cầu về tính riêng biệt hoặc tính phân biệt đối với hàng hoá cùng loại.
- Loại yêu cầu thứ hai liên quan đến những hậu quả có thể xảy ra nếu nhãn
hiệu hàng hố có những dấu hiệu gây nhầm lẫn. Cụ thể hơn, loại yêu cầu này
nhằm đảm bảo cho nhãn hiệu hàng hố khơng gây nhầm lẫn với hàng hoá thuộc
nguồn gốc khác hay làm cho người tiêu dùng hiểu lầm về chất lượng sản phẩm.
- Loại yêu cầu thứ ba liên quan đến việc sử dụng một số dấu hiệu và biểu
tượng đặc biệt làm nhãn hiệu hàng hoá. Loại yêu cầu này nhằm tránh cho việc
sử dụng nhãn hiệu hàng hoá xâm hại đến đạo đức xã hội hay lợi ích cơng cộng.


Theo đó những nhãn hiệu hàng hố khơng đáp ứng được những yêu cầu
trên đây chắc chắn sẽ bị cơ quan chức năng của Mỹ là Văn phòng Sáng chế và
Nhãn hiệu hàng hoá Hoa Kỳ (USPTO) từ chối việc đăng ký bảo hộ. Những quy
định cụ thể về những trường hợp những dấu hiệu sử dụng làm nhãn hiệu không
thuộc đối tượng bảo hộ đã được quy định tại Luật nhãn hiệu hàng hoá Hoa Kỳ là
luật Lanham Act 1946 như sau:



Có chứa các nội dung đi ngược với đạo đức như: lừa dối, có nội dung dèm

pha, gây tai tiếng cho các tổ chức, tôn giáo, biểu tượng quốc gia hoặc làm
phương hại đến thanh danh của các tổ chức, cá nhân đó; hoặc bao gồm chỉ dẫn
địa lý được sử dụng kèm hoặc liên quan tới các mặt hàng rượu bia lại chỉ dẫn
đến một nơi khác khơng phải là nơi xuất xứ của hàng hố đó và chỉ dẫn này lần
đầu tiên được sử dụng với mặt hàng rượu bia là vào ngày hoặc một năm sau khi
Hiệp định WTO có hiệu lực đối với nước Mỹ.


Mang biểu tượng quốc kỳ, biểu tượng của quân đội, biểu tượng của Hoa

Kỳ, của bất kỳ bang nào của Hoa Kỳ hay của bất kỳ một quốc gia nào.


Mang tên, ảnh, chữ ký của một người còn sống trừ khi có sự chấp thuận

bằng văn bản của người này hoặc mang tên, hình ảnh, chữ ký của một vị Tổng
thống quá cố của nước Mỹ trong khi phu nhân của ơng ta vẫn cịn sống, trừ khi
có sự đồng ý bằng văn bản của phu nhân đó.


Có dấu hiệu tương tự với dấu hiệu đã được bảo hộ tại Văn Phịng Sáng

chế và Nhãn hiệu hàng hố của Mỹ như:
(1) Được sử dụng gắn liền với hàng hoá của người nộp đơn đăng ký chỉ đơn
thuần mang tính mơ tả hoặc mô tả sai lệch.
(2) Được sử dụng gắn liền với hàng hoá của người nộp đơn đăng ký chủ yếu chỉ
là hướng dẫn địa lý

(3) Được sử dụng gắn liền với hàng hoá của người nộp đơn đăng ký chủ yếu là
những hướng dẫn địa lý sai lệch
(4) Gần như là một tên họ
(5) Chỉ đơn thuần mô tả chức năng của hàng hoá


Doanh nghiệp cần những quy định trên đây để xem xét xem nhãn hiệu của
mình có đủ điều kiện đăng ký bảo hộ hay không theo pháp luật nước Mỹ để
tránh những khó khăn khơng cần thiết khi bị từ chối.
1.4 Chức năng của nhãn hiệu
- Chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ:
Người tiêu dùng chọn mua hàng hóa, dịch vụ dựa trên dấu hiệu hay nhãn
hiệu hàng hóa, dịch vụ. Như vậy để người tiêu dùng có thể phân biệt một sản
phẩm, một loại hình dịch vụ thì nhãn hiệu phải thông tin cho người tiêu dùng về
người thực sự đã sản xuất ra sản phẩm hoặc người bán sản phẩm hoặc nhà cung
cấp dịch vụ.
Chức năng chỉ dẫn nguồn gốc như đã nêu trên cho thấy nhãn hiệu phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp này với hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp
khác; chỉ khi nhãn hiệu cho phép người tiêu dùng phân biệt sản phẩm, dịch vụ
được cung cấp dưới nhãn hiệu đó với những hàng hóa, dịch vụ của các doanh
nghiệp khác bán trên thị trường thì lúc đó nhãn hiệu đã hồn thành chức năng
này. Điều này cho thấy không thể tách biệt chức năng phân biệt và chức năng
chỉ dẫn nguồn gốc. Đây là hai chức năng tuy khác nhau nhưng luôn phụ thuộc
lẫn nhau và trong thực tế luồn cần được xem xét cùng nhau.
- Chức năng đảm bảo chất lượng:
Mục đích chính của nhãn hiệu là chỉ dẫn nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ.
Nếu một nhãn hiệu được sử dụng nhiều lần, người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ
sẽ nghĩ rằng hàng hóa, dịch vụ gắn cùng nhãn hiệu sẽ có cùng chất lượng. Người
tiêu dùng thường quan tâm tới chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà họ mua hơn là
nguồn gốc của hàng hóa đó. Vì thế, người bán hoặc người cung cấp sản phẩm sẽ

cố gắng duy trì chất lượng được gắn với một nhãn hiệu.
Đặc biệt, chức năng bảo đảm chất lượng của nhãn hiệu sẽ càng quan trọng
trong trường hợp sản phẩm, dịch vụ được sản xuất , cung cấp với số lượng lớn.
Tuy nhiên, chức năng đảm bảo nhãn hiệu không phải là một cam kết đối với
chất lượng của hàng hóa hay dịch vụ. Do những hàng hóa hay dịch vụ kém chất


lượng sẽ không được thay thế hoặc sửa chữa. Không có đảm bảo nào cho việc
bồi thường thiệt hại. Gắn nhãn hiệu vào hàng hóa hay dịch vụ nghĩa là người
tiêu dùng có thể hi vong một chất lượng hàng hóa, dịch vụ ổn định. Trong
trường hợp nhãn hiệu được bán hoặc chuyển nhượng như là một phần của hợp
đồng bán hoặc chuyển nhượng, thì chủ sở hữu mới của nhãn hiệu hoặc bên nhận
li-xăng phải chịu trách nhiệm đảm bảo và duy trì chất lượng của hàng hóa, dịch
vụ được chuyển nhượng.
- Chức năng quảng cáo và một số chức năng khác:
Bên cạnh chức năng chỉ dẫn nguồn gốc và đảm bảo chất lượng, nhãn hiệu
cịn có chức năng quảng cáo cho sản phẩm, dịch vụ. Người tiêu dùng có xu
hướng nhớ nhãn hiệu và gắn nó với một hình ảnh nhất định. Do đó, nhãn hiệu có
thể

trở

thành

một

cơng

cụ


hỗ

trợ

hiệu

quả.

Có nhiều chủ sở hữu nhãn hiệu tập trung vào quảng cáo cho nhãn hiệu nhiều
hơn là quảng cáo cho hàng hóa, dịch vụ mà nhãn hiệu đó gắn với. Điều này vẫn
có hiệu quả bởi nhãn hiệu được cho là kết quả của những nỗ lực không ngừng
của công ty. Trong trường hợp của những nhãn hiệu nổi tiếng, những chi phí đầu
tư được đầu tư chủ yếu cho quảng cáo nhãn hiệu và vì thế giá trị của nhãn hiệu
sẽ rất lớn.
2. Tầm quan trọng của đăng ký bảo hộ tại thị trường nước ngoài:
Nhãn hiệu là một trong những tài sản quan trọng của doanh nghiệp, một
trong những yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp.
Vì vậy, bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp nói chung và bảo hộ nhãn hiệu nói
riêng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế
quốc tế. Bảo hộ nhãn hiệu tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp quảng
bá, lưu thông, bảo vệ và phát triển các sản phẩm của mình trên thị trường nội địa
và quốc tế, đồng thời cũng bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh để
thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bảo hộ nhãn hiệu - bảo hộ tài sản trí tuệ
là việc làm khơng thể thiếu đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong
việc xây dựng và phát triển thị trường. Bảo hộ có hiệu quả đối với nhãn hiệu góp


phần khuyến khích đầu tư và tạo niềm tin cho nhà đầu tư trong hoạt động của
mình.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, bảo hộ nhãn hiệu góp phần thúc đẩy quá

trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, vì trong quá trình hội nhập, Việt Nam
phải tham gia vào các tổ chức quốc tế. Bảo hộ nhãn hiệu có vai trị quan trọng
trong việc bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, cho phép chống lại việc sản xuất và
buôn bán hàng giả, tránh cho người tiêu dùng không bị lừa dối.
Ngồi ra, bảo hộ nhãn hiệu cịn góp phần thúc đẩy sự phát triển của các
doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân,
phù hợp với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó doanh
nghiệp nhà nước là thành phần chủ đạo.
Bên cạnh đó những lợi ích thiết thực mà doanh nghiệp có thể nhận được
khi đăng kí nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngồi:
- Mở rộng phạm vi bảo hộ, chống hành vi giả mảo và cạnh tranh không lành
mạnh:
Việc đăng ký nhãn hiệu tại các quốc gia khác nhau cho phép khả năng nhãn
hiệu được bảo hộ trên một phạm vi rộng lớn hơn xét về mặt địa lý. Doanh
nghiệp Việt Nam không đăng ký bảo hộ kịp thời nhãn hiệu của mình tại nước
ngồi thì kế hoạch mở rộng phạm vi hoạt động ra nước ngồi có thể là một dự
định mang nhiều rủi ro, bởi vì bất kỳ ai đăng ký trước nhãn hiệu của doanh
nghiệp Việt Nam tại một nước nào đó sẽ có quyền ngăn cản doanh nghiệp Việt
Nam sử dụng thương hiệu của chính mình tại nước đó.
Hơn thế nữa động cơ làm giàu bất hợp pháp, kiến thức pháp luật hạn chế
cộng với những kẽ hở trong khung pháp luật đã dẫn đến một thực tế: Hàng giả
hầu như đã len lỏi vào từng tận các ngóc ngách của xã hội hay nói cách khác,
khơng có lĩnh vực nào, ngành nào mà khơng có đồ giả. Ngay cả khi một hàng
hố có uy tín nhất định trên một thị trường thì ngay lập tức xuất hiện những sản
phẩm với nhãn hiệu tương tự hay na ná như thế hoặc có thể nhiều khi đối thủ
cịn sao chép tồn bộ nhãn hiệu hàng hố, nhãn sản phẩm gắn lên hàng hoá của


mình gây hậu quả khơn lường cho người tiêu dùng khi việc làm giả hàng diễn ra
quá phổ biến.

Hiện nạn làm hàng giả đang là nỗi ám ảnh đối với những doanh nghiệp làm
ăn chân chính khi nó chiếm tỉ lệ lớn, khoảng 5-7% giá trị thương mại toàn cầu
hàng năm gây thiệt hại 2-3 tỷ Euro cho Việt Nam. Theo thống kê của Cục quản
lý thị trường, cứ một mặt hàng mới ra đời thù sẽ có khoảng 10 mặt hàng cùng
loại xuất hiện trên thị trường với mẫu mà giống hệt hoặc tương tự như thế với
chất lượng kém hơn và đương nhiên giá cả cũng thấp hơn giá của hàng chính
hãng. Ơng Hồ Huy, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Mai Linh cho biết sự
xuất hiện của nhãn hàng giả taxi Mai Linh đã khiến hãng bị thiệt hại tới 2,7 tỷ
đồng/ năm. Không chỉ riêng Mai Linh, nhiều hãng taxi có uy tính khác cũng bị
treo biển giả có thể kể tên đến là Vina, Saigon Tourisrs, Festival…
- Duy trì hoạt động kinh doanh ổn định
Nguyên tắc của bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá là cho phép chủ sở hữu được
quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hố đã được bảo hộ nhằm mục đích kinh doanh.
Do đó, một khi chủ sở hữu đăng ký vào được bảo hộ nhãn hiệu thì họ sẽ có
quyền gắn nhãn hiệu đó lên hàng hố, bao bì, giấy tờ giao dịch trong hoạt động
kinh doanh và quảng cáo nhãn hiệu của mình thơng qua các phương tiện thơng
tin đại chúng như đài báo, truyền hình, biển quảng cáo..
Việc độc quyền khai thác nhãn hiệu tạo cho doanh nghiệp khả năng lập
chiến lược phân phối và kiểm soát thị trường cho sản phẩm của mình một cách
hợp lý. Tất cả những hoạt động này sẽ đảm bảo cho quá trình kinh doanh của
doanh nghiệp diễn ra một cách trơi chảy lành mạnh và đạt hiệu quả cao nhất.
Đồng thời nó cũng khuyến khích các doanh nghiệp khơng ngừng hồn thiện sản
phẩm, nghiên cứu và phát triển những sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của xã hội
- Lợi thế khi cung cấp bằng chứng tại toà án:


Chủ sở hữu nhãn hiệu có thể dễ dàng chủ động yêu cầu toà án ở nước ngoài
tiến hành xử lý các hành vi xâm phạm nhãn hiệu của mình, bởi vì văn bằng bảo
hộ nhãn hiệu chính là căn cứ để doanh nghiệp có thể tiến hành kiện tụng tại toà

án ở nước ngoài.
- Thúc đấy hợp tác, liên doanh liên kết quốc tế và chuyển giao công nghệ:
Nhờ giá trị có được từ tiềm năng khai thác thương mại của nhãn hiệu hàng
hoá trên thị trường mà quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá được xác định giá trị
và trở thành tài sản góp vốn khi liên doanh, liên kết góp vốn, phân phối sản
phẩm. Một số nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam được xác định giá trị tới
vài triệu USD và dùng để góp vốn liên doanh như nhãn hiệu VISO cho sản
phẩm bột giặt và P/S cho sản phẩm kem đánh răng…
Với việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu uy tín của doanh nghiệp tại nước ngồi,
doanh nghiệp có thể thu được tiền bản quyền đối với nhãn hiệu của mình thơng
qua hình thức li-xăng hoặc chuyển nhượng nhãn hiệu của mình cho một đối tác
thứ ba tại nước ngồi. Chẳng hạn, Cơng ty Giầy thêu may An Phước đã phải
thanh tốn phí li-xăng cho chủ sở hữu nhãn hiệu “PIERRE CARDIN” khi gắn
nhãn hiệu này vào các sản phẩm quần áo của mình.
- Nhận được tiền bồi thường thiệt hại :
Thực tiễn tại Việt Nam và trên thế giới cho thấy, doanh nghiệp có thể yêu
cầu bên xâm phạm phải bồi thường do gây ra thiệt hại đối với nhãn hiệu đã được
đăng ký của mình, thậm chí số tiền bồi thường có thể gấp vài lần so với mức
thiệt hại thực tế. Ngoài ra, bên xâm phạm phải bồi thường cả chi phí luật sư do
chủ sở hữu nhãn hiệu thuê.
- Được sử dụng biểu tượng ®:
Chỉ những nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ mới được sử dụng biểu
tượng ®. Biểu tượng này có mục đích khuyến cáo rằng nhãn hiệu đã được bảo


hộ độc quyền. Như vậy, bên xâm phạm nhãn hiệu sẽ khơng có lý do để biện hộ
cho hành vi xâm phạm của mình là vơ ý để tránh việc phải bồi thường thiệt hại.
Sử dụng biểu tượng ® cũng có mục đích tun bố cho thế giới biết rằng doanh
nghiệp đang duy trì và bảo vệ các tài sản trí tuệ của mình.
- Nhận được sự giúp đỡ của Hải quan:

Chủ sở hữu nhãn hiệu có thể nhận được những sự giúp đỡ hữu ích của Hải
quan tại các quốc gia mà mình đã đăng ký bảo hộ để chống lại các nhà nhập
khẩu hàng giả và hàng xâm phạm nhãn hiệu vào quốc gia đó. Tuy nhiên, để
nhận được sự giúp đỡ này, chủ sở hữu nhãn hiệu phải đăng ký việc theo dõi và
xử lý hàng giả và hàng xâm phạm với Hải quan tại những quốc gia mà hàng hố
của mình được xuất khẩu và tiêu thụ.
- Ngăn cản người khác đăng ký và sử dụng nhãn hiệu
Một trong những lý do quan trọng nhất để doanh nghiệp đăng ký bảo hộ
nhãn hiệu là tuyên bố cho thế giới biết rằng mình là chủ sở hữu đích thực của
nhãn hiệu. Cơ quan quản lý nhãn hiệu tại quốc gia doanh nghiệp đăng ký nhãn
hiệu sẽ từ chối cấp văn bằng bảo hộ cho bất kỳ nhãn hiệu nào bị coi là trùng lặp
hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được bảo hộ của doanh nghiệp.
Đồng thời với việc từ chối này, bất kỳ bên thứ ba nào cũng không được sử dụng
nhãn hiệu của doanh nghiệp mà không được sự đồng ý của doanh nghiệp, nếu cố
tình sử dụng sẽ bị coi là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu của doanh
nghiệp.3
II. Nội dung bảo hộ sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật
Hoa Kỳ:
3

: Theo “ Doanh nghiệp đượ lợi gì khi đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài, tác giả Bùi
c

Ngọc Dương, BiZCONSULT Intellectuallual Property Attorneys, trang 54 tạp chí Hoạt động
khoa học, Bộ Khoa học và Công nghệ, số đặc biệt 7/2007


Mặc dù đăng ký nhãn hiệu khơng mang tính bắt buộc đối với các doanh
nghiệp, nhưng một khi doanh nghiệp có ý định đăng ký nhãn hiệu tại một thị
trường như thị trường Hoa Kỳ thì mỗi thị trường lại có những đặc điểm riêng.

Chính vì thế, việc nghiên cứu các quy định pháp luật của mỗi quốc gia bên cạnh
những yếu tố khác là vấn đề cần thiết
1. Quy định chung của pháp luật Hoa Kỳ về đăng ký nhãn hiệu:
1.1 Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp:
Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp được ký kết ngày
20/03/1883 tại Paris và đã qua nhiều lần xem xét và sửa đổi vào các năm 1909,
1911, 1925, 1934, 1967, 1979. Đến nay công ước này đã có 164 thành viên tham
gia. Việt Nam và Hoa Kỳ đều là thành viên công ước
Các quy định của công ước Paris đề cập đến 3 vấn đề lớn : (i) nguyên tắc
đối xử quốc gia, (ii) quyền ưu tiên, (iii) một số nguyên tắc chung đối với hệ
thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà các thành viên tham gia phải tuân
theo
1.2 Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ (TRIPS):
Có thể nói Hiệp định TRIPS đã khẳng định lại và mở rộng các chuẩn mực
và quy định của Công ước Paris và Công ước Berne, làm thay đổi bộ mặt của
luật sở hữu trí tuệ. Điều quan trọng hơn cả đây là điều ước quốc tế đầu tiên quy
định hệ thống các hình phạt đối với các thành viên không đảm bảo sự bảo hộ tối
thiểu về quyền sở hữu trí tuệ, kể cả các tiêu chuẩn tối thiểu về nghĩa vụ thực thi
quyền. Các hình phạt này hồn tồn khơng có trong Cơng ước Paris.
Ngồi ra Hiệp định TRIPS cũng lần đầu tiên đưa ra một nguyên tắc mới là
nguyên tắc “đối xử tối huệ quốc” (MFN): “ bất kỳ một sự ưu tiên, chiếu cố đặc
quyền hoặc sự miễn trừ nào được một thành viên dành cho một công dân của bất
kỳ nước nào khác cũng phải được lập tức và vô điều kiện dành cho công dân của
tất cả các thành viên khác” (Điều 4)


Với mục đích chống hàng giả và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, Hiệp định
TRIPS quy đinh các nguyên tắc tổng quát về thủ tục bảo hộ một cách thoả đáng
và hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp tại các nước thành viên. Phần III và IV

của Hiệp định nêu rõ rằng các nước thành viên phải quy định trong luật pháp
của quốc gia mình các thủ tục cho phép áp dụng các biện pháp có hiệu quả đối
với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, cơ chế nhằm ngăn chặn
các hành vi tái xâm phạm các quyền đó và có nghĩa vụ phải áp dụng cả hai biện
pháp nói trên để tránh các rào cản gây trở ngại cho thương mại hợp pháp. Mặt
khác, TRIPS cũng quy định luật nhãn hiệu hàng hoá các nước thành viên phải
quy định một số thủ tục và các thủ tục này phải được công khai đối với chủ sở
hữu nhãn hiệu.
Về phán quyết của toà án đối với vi phạm bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, Hiệp
định quy định được thể hiện bằng văn bản, có nêu rõ lý do và thông báo kịp thời
cho các bên. Mặc dù các nước thành viên không buộc phải thiết lập một hệ
thống xét xử riêng, song nhất thiết phải quy định các thủ tục xem xét tại toà án
tất cả các quyết định hành chính cuối cùng.
1.3 Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu trong các Hiệp định song phương:
Hoa Kỳ đã ký nhiều Hiệp định song phương về bảo hộ nhãn hiệu hàng hố
với nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam ( Hiệp định thương mại Việt-Mỹ trong
đó chương II quy định về quyền sở hữu trí tuệ
Nguyên tắc đối xử quốc gia :
Điều 3 của chương II nêu rõ “ mỗi bên dành cho công dân của bên kia sự
đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà bên đó dành cho cơng dân của
mình trong việc xác lập, bảo hộ, hưởng và thực thi tất cả các quyền sở hữu trí
tuệ va mọi lợi ích có được từ các quyền đó”
Phạm vi bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá :
Để bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ và có hiệu quả,
Hiệp định quy định mỗi bên tối thiểu phải thực hiện theo Công ước Paris về bảo
hộ sở hữu công nghiệp (bản sửa đổi năm 1967). Một bên có thể thực hiện bảo hộ


va thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật của riêng quốc gia mình ở mức
độ rộng hơn so với yêu cầu trong Hiệp định nhưng với điều kiện là việc thực

hiện không mâu thuẫn với Hiệp định này. Nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể,
nhãn hiệu chứng nhận cũng thuộc phạm vi bảo hộ nhãn hiệu hàng hố. Trong
mọi trường hợp, tính chất của hàng hố hoặc dịch vụ không cản trở việc đăng ký
nhãn hiệu hàng hố.
Hệ thống đăng ký nhãn hiệu hàng hố:
• Xét nghiệm đơn
• Thơng báo cho người nộp đơn các lý do từ chối đăng ký nhãn hiệu hàng hố
• Cơ hội hợp lý dành cho người nộp đơn trình bày ý kiến về thơng báo đó
• Cơng bố nhãn hiệu hàng hoá trước hoặc ngay sau khi nhãn hiệu hàng hố
được đăng ký
• Cơ hơi hợp lý dành cho những người có liên quan đươc yêu cầu huỷ bỏ hiệu
lực đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.
Thời han hiệu lực:
Khoản 8 Điều 6 Hiệp định Việt-Mỹ ghi rõ: “ Mỗi bên quy định rằng đăng
ký ban đầu của một nhãn hiệu hàng hố có thời hạn ít nhất 10 năm và được gia
hạn không hạn chế số lần, mỗi lần gia hạn có thời hạn khơng ít hơn 10 năm, khi
các điều kiện gia hạn được đáp ứng”
Điều kiện duy trì hiệu lực của việc đăng ký: Khoản 9 Điều 6 Hiệp định ghi
rõ:
“ Mỗi bên yêu cầu việc sử dụng thực sự nhãn hiệu hàng hoá là điều kiện
để duy trì hiệu lực của việc đăng ký ( tuy nhiên, đây không phải là một điều kiện
để được nộp đơn). Việc đăng ký có thể bị đình chỉ hiệu lực do khơng sử dụng
sau thời gian ít nhất là 3 năm liên tục không sử dụng , trừ trường hợp chủ nhãn
hiệu hàng hố chứng minh được rằng việc khơng sử dụng đó là có lý do chính
đáng vì có những cản trở đối với việc sử dụng đó”.


Như vậy, để tạo vị thế vững chắc trên thị trường Mỹ xuất phát từ khiá cạnh
nhãn hiệu hàng hoá, các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng
Công ước quốc tế Paris 1967 và Hiệp định thương mại Việt-Mỹ để nắm bắt các

tiêu chuẩn cơ bản đối với việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá.
1.4 Luật nhãn hiệu hàng hoá Hoa Kỳ Lanham Act 1946
Đạo luật Lanham ra đời đánh dấu một bước hoàn thiện về pháo luật bảo hộ
nhãn hiệu hàng hoá ở Hoa Kỳ. Luật này đã được sửa đổi nhiều lần, sửa đổi quan
trọng nhất vào năm 1988 (Trademark Law Revision Act of 1988). Bổ sung cho
đạo luật này, năm 1995, chính quyền Liên Bang đã ban hành đạo luật về bảo vệ
các nhãn hiệu nổi tiếng (well-known marks).
Hiện nay, pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá Hoa Kỳ được quy định bởi hai
hệ thống pháp luật Liên Bang và pháp luật của từng bang trong Hợp chủng
quốc. Luật liên bang chính là Đạo luật Lanham 1946 cùng với những sửa đổi bổ
sung sau này. Đồng thời, hầu như tất cả các bang đều có những đạo luật riêng về
bảo hộ nhãn hiệu hàng hố với những quy định khơng giống nhau về đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá. Song hầu hết những đạo luật này đều phỏng theo Dự luật
mẫu về nhãn hiệu hàng hoá (Model Trademark Bill – MTB) hay Đạo luật thống
nhất về hành vi xâm phạm nhãn hiệu ( Uniform Deceptive Trade Pratices Act –
UPTPA). MTB cung cấp sự bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hố nhưng UPTPA
thì khơng.
Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại mỗi bang đạt được thơng qua việc nộp đơn
đăng ký tại Phịng nhãn hiệu hàng hố của bang đó. Nhìn chung, chi phí đăng ký
bảo hộ theo luật của bang không cao và thủ tục khá rõ ràng minh bạch. Tuy vậy,
những người được bảo hộ nhãn hiệu hàng hố của mình theo luật của tiểu bang
không được dùng các dấu hiệu công nhận nhãn hiệu hàng hoá theo luật của liên
bang mà chỉ có thể dùng kí hiệu TM ( Trademark) đối với nhãn hiệu hàng hoá
hay SM ( Service mark) đối với dịch vụ gắn liền với nhãn hiệu hàng hố của
mình.


Tuy nhiên kinh doanh trên một thị trường rộng lớn như nước Mỹ , các nhà
xuất khẩu Việt Nam nên quan tâm đến Hệ thống luật Liên bang để bảo vệ mình
trước các hoạt động cạnh tranh khơng lành mạnh, không lường trước được và để

đạt được tấm hộ chiếu xâm nhập các khu vực thị trường mới dễ dàng trên đất
Mỹ.Việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá theo luật Liên bang đem lại một số
lợi ích mà tiểu bang khơng có:


Giấy chứng nhận bảo hộ nhãn hiệu hàng hố của Liên bang do Văn phịng

sáng chế và nhãn hiệu hàng hố Hoa Kỳ (USPTO) cấp có giá trị trên 50 bang. Vì
vậy, nếu doanh nghiệp có ý định mở rộng phạm vi kinh doanh trên nhiều bang
thì thay vì phải đăng ký nhiều lần tại các bang khác nhau thì thay vì phải đăng
ký nhiều lần tại các bang khác nhau, doanh nghiệp chỉ cần đăng ký 1 lần tại
USPTO.


Khi doanh nghiệp đã được USPTO cấp Giấy chứng nhận đăng ký bảo hộ

nhãn hiệu hàng hoá, doanh nghiệp có quyền sử dụng kí hiệu ® sau hàng hoá
hoặc dịch vụ gắn liền với nhãn hiệu đã đăng ký. Trong khi đó, nếu doanh nghiệp
đăng ký nhãn hiệu tại các tiểu bang thì doanh nghiệp chỉ được sử dụng kí hiệu
TM hay SM sau nhãn hiệu của mình.


Những doanh nghiệp được cấp đăng ký tại USPTO có quyền ngăn cản

người khác sử dụng nhãn hiệu của mình. Việc ngăn cản được thực hiện bằng hai
cách. Thú nhất, USPTO sẽ từ chối bảo hộ những nhãn hiệu hàng hoá giống hoặc
tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ. Thứ hai,
nhãn hiệu hàng hố đó sẽ được lưu trữ trong các cơ sở dữ liệu, qua các dịch vụ
kiểm tra, các doanh nghiệp khác sẽ tránh dùng những nhãn hiệu hàng hoá đã
được bảo hộ.



Chủ sở hữu của nhãn hiệu hàng hố được bảo hộ theo luật Liên bang có

thể nhận được sự trợ giúp vô giá của Hải quan Hoa Kỳ trong việc ngăn cản nhập
khẩu các hàng hoá vi phạm nhãn hiệu. Tuy nhiên, Hải quan Hoa Kỳ khơng mặc
nhiên có nghĩa vụ đó, trừ khi chủ nhãn hiệu đã lưu hồ sơ nhãn hiệu được bảo hộ


hợp pháp của mình tại Hải quan và trong nhiều trường hợp phải cùng Hải quan
theo dõi và chặn đứng các hoạt động nhập khẩu phạm pháp nêu trên


Có được một Giấy chứng nhận do USPTO cấp sẽ giúp cho chủ nhãn hiệu

hàng hố tránh khỏi chi phí và cơng sức đưa ra những thủ tục chứng minh về
tính hiệu lực của nhãn hiệu hàng hoá, quyền sở hữu của mình.
Ngồi ra với đặc điểm là một nước theo hệ thống pháp luật bất thành văn
( Common Law), ngoài những quy định trong các văn bản luật (Enacted Law),
Luật án lệ ( Cases Law) cũng là một nguồn quan trọng cho việc điều chỉnh các
quan hệ về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu hàng hố nói riêng.

2. Nội dung bảo hộ sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu:
Đây là những nội dung liên quan trực tiếp tới vấn đề đăng ký nhãn hiệu
hàng hoá của doanh nghiệp tại thị trường Hoa Kỳ. Những quy định này được
cơng bố trên trang web của Văn Phịng Sáng chế và Nhãn hiệu hàng hoá Hoa Kỳ
USPTO.
Trước hết, những cá nhân có đủ thẩm quyền nộp đơn xin đăng ký bảo hộ
nhãn hiệu tại USPTO là :
Mọi cá nhân tổ chức của Mỹ cũng như của các quốc gia khác đều có quyền

nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá dựa trên các cơ sở theo quy định của Luật
Nhãn hiệu.Nếu người nộp đơn không cư trú tại Mỹ thì người nộp đơn phải chỉ
định tên và địa chỉ của một người cư trú tại Mỹ để Văn phòng Sáng chế và nhãn
hiệu hàng hoá Hoa Kỳ (USPTO) thực hiện giao dịch liên quan đến nhãn hiệu.
Người nộp đơn nên sử dụng dịch vụ của luật sư đại diện sở hữu công
nghiệp để nộp đơn vào Mỹ, dù điều này là không bắt buộc theo pháp luật Hoa
Kỳ. Kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực này của luật sư sẽ
giúp người nộp đơn tránh được các khó khăn trong việc thiếu hiểu biết về luật
pháp Mỹ cũng như các quy định về thủ tục và các thời hạn người nộp đơn phải
đáp ứng.


Nghiên cứu quy định trên, doanh nghiệp sẽ đưa ra quyết định tự mình nộp
đơn xin bảo hộ hay là sử dụng tới người đại diện vì lợi ích của chính bản thân
doanh nghiệp
Khi nộp đơn, người đăng ký cần lưu ý đến những điểm sau:
Cơ sở để đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Đơn phải được nộp dựa trên các cơ sở nộp đơn của người nộp đơn. Phần
lớn cơ sở nộp đơn được dựa trên sự sử dụng hiện tại của nhãn hiệu hàng hoá
trong thương mại, hoặc ý định sử dụng trong thương mại:
- Cơ sở “ sử dụng hiện tại” trong thương mại:
Nhãn hiệu hàng hoá đã được sử dụng trong thương mại cho những hàng
hoá hoặc dịch vụ được liệt kê trong hồ sơ đăng ký.“ Sử dụng hiện tại” trong
thương mại là việc sư dụng thực tế nhãn hiệu đó trong q trình kinh doanh. Nói
chung, việc sử dụng có thể được chấp nhận trong những trường hợp sau:
• Đối với hàng hố: nhãn hiệu phải xuất hiện trên hàng hoá, thùng/ hộp đựng
hàng hoá hoặc được thể hiện cùng hàng hoá và những hàng hố nói trên phải
được đưa vào lưu thơng trên thị trường.
• Đối với dịch vụ: nhãn hiệu phải được sử dụng hoặc thể hiện trong việc cung
ứng hoặc quảng cáo dịch vụ và dịch vụ phải được cung ứng trên thực tế

Trong trường hợp đã bắt đầu sử dụng nhãn hiệu trong hoạt động thương
mại, người nộp đơn có thể nộp đơn dựa trên cơ sở này và nộp theo đơn một cam
kết ( theo mẫu của tuyên bố) rằng nhãn hiệu đã được sử dụng trong thương mại
trong đó chỉ ra ngày sử dụng đầu tiên và ngày sử dụng đầu tiên trong thương
mại.
- Cơ sở “ý định sử dụng”
Người nộp đơn có ý định thật sự trong sử dụng nhãn hiệu cho những hàng
hoá hoặc dịch vụ được liệt kê trong đơn. Đơn nhãn hiệu dựa trên cơ sở “ý định
sử dụng” phải nộp kèm theo một cam kết rằng người nộp đơn có ý định thật sự
sử dụng nhãn hiệu trong thương mại.


Một lưu ý ở đây là, nếu việc nộp đơn trên cơ sở ý định sử dụng, người nộp
đơn phải bắt đầu bằng việc bắt đầu sử dụng thật sự trong thương mại trước khi
USPTO cấp bằng đăng ký nhãn hiệu. Điều đó có nghĩa là sau khi nộp đơn trên
cơ sở “ý định sử dụng” người nộp đơn sau đó phải nộp một mẫu tuyên bố khác
là “ Viện dẫn về việc sử dụng” (alllegation of Use) để chứng minh rằng việc sử
dụng đã bắt đầu.
- Cơ sở “Đăng ký nhãn hiệu hàng hố trên cơ sở cơng ước quốc tế”:
Người nộp đơn mà nước xuất xứ là thành viên của bất kỳ công ước hay
thoả ước liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá mà Mỹ cũng là thành viên, hoặc mở
rộng quyền trên cơ sở có đi có lại với Mỹ, có thể nộp đơn đăng ký tại Mỹ dựa
trên cơ sở đăng ký ở nước xuất xứ hay việc nộp đơn đăng ký tại một nước khác
cũng là thành viên công ước. Việc nộp đơn đăng ký tại Mỹ được thực hiện trong
vòng 6 tháng kể từ ngày đơn đăng ký đầu tiên được nộp ở nước ngồi.
Việc đăng ký nhãn hiệu hàng hố tại Mỹ như trên sẽ không được chấp nhận
cho đến khi nhãn hiệu đó đã được đăng ký tại nước xuất xứ của người nộp đơn,
trừ phi người nộp đơn khẳng định là đã sử dụng nhãn hiệu đó trong thương mại.
Nguyên tắc đăng ký:
Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên (First-to-file)

Mỹ áp dụng nguyên tắc nộp đơn đầu tiên, theo đó, nếu hai hay nhiều người
cùng nộp đơn đăng ký cho cùng các hàng hoá hoặc dịch vụ hay cho các hàng
hoá hoặc dịch vụ tương tự, thì người nộp đơn đầu tiên sẽ được cấp Giấy chứng
nhận nhãn hiệu hàng hoá
Nguyên tắc sử dụng đầu tiên (First-to-use)
Khi có hai hay nhiều người cùng nộp đơn đăng ký cho cùng các hàng hoá
hoặc dịch vụ hay cho các hàng hoá hoặc dịch vụ tương tự vào cùng một ngày,
thì người sử dụng nhãn hiệu sớm nhất sẽ được cấp Giấy chứng nhận nhãn hiệu
hàng hoá.


Theo đó, doanh nghiệp càng nhanh chóng nộp đơn đăng ký sẽ càng tốt cho
nhãn hiệu của mình tránh khỏi những rủi ro bị từ chối vì có khả năng trùng hoặc
giống với nhãn hiệu của một chủ thể khác.
Ngôn ngữ của đơn:Ngơn ngữ chính thức được sử dụng là tiếng Anh
Các tài liệu cần thiết cho việc nộp đơn
Một đơn đăng ký đầy đủ phải bao gồm:


Tờ khai



Tên, quốc tịch và địa chỉ của người đăng ký



Một hoặc các cơ sở đăng ký nêu trên




Danh mục các hàng hố hoặc/và dịch vụ mà người nộp đơn sử dụng hoặc

có ý định sử dụng nhãn hiệu và phân loại quốc tế hàng hố/ dịch vụ (nếu biết)


Tun bố có xác nhận



Mẫu nhãn hiệu



Phí đăng ký cho ít nhất một loại hàng hoá hoặc dịch vụ
Đây là vấn đề liên quan đến thủ tục vì thế doanh nghiệp cần tuân thủ theo

đúng quy định để nhanh chóng hồn thiện bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ.
Ngày nộp đơn
Đơn đăng ký có thể được nộp trực tiếp qua Internet bằng cách sử dụng Hệ
thống nộp đơn nhãn hiệu điện tử (TEAS) (tại địa chỉ http:// USPTO.gov). Ngoài
việc nộp đơn qua Internet, người nộp đơn cũng có thể nộp trực tiếp hoặc qua
đường bưu điện tới USPTO. Đơn nộp bằng fax sẽ không được chấp thuận.
Nếu đơn được chuyển đến Internet, ngày nộp đơn là ngày đơn đến được
máy chủ của USPTO.
Trong trường hợp đơn và các tài liệu khác được nộp qua đường bưu điện,
dịch vụ chuyển phát nhanh của Mỹ, ngày nộp đơn là ngày tài liệu được gửi tại
bưu điện, thể hiện trên dấu gửi thư đi. Trong trường hợp không xác định được
ngày gửi, ngày USPTO nhận được đơn gửi qua bưu điện sẽ là ngày nhận đơn.



Vấn đề ngày nộp đơn sẽ có ý nghĩa rất quan trọng khi xảy ra tranh chấp
liên quan tới việc sở hữu một nhãn hiệu, mang lại lợi thế bước đầu cho doanh
nghiệp.
Thủ tục đăng ký qua mạng
Bước tiến hành đầu tiên trong quy trình đăng ký qua mạng sẽ là kiểm tra
nhãn hiệu qua mạng
Doanh nghiệp có thể kiểm tra xem nhãn hiệu của mình đã bị đăng ký chưa
bằng cách truy cập vào trang chủ của USPTO để tìm kiếm. Trong trang này có
Hệ thống đăng ký nhãn hiệu điện tử TEAS ( Trademark Electronic Application
System) chuyên cho quá trình đăng ký nhãn hiệu qua mạng.
Để đăng ký được, điều kiện đầu tiên doanh nghiệp cần là trình độ ngoại
ngữ. Mọi thủ tục và phương thức đăng ký khá phức tạp, nếu không thông thạo
ngoại ngữ doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần
một tài khoản tín dụng quốc tế để thanh tốn chi phí thực hiện thủ tục đăng ký.
Số tiền cần thiết trong tài khoản có thể lên đến 2-3 ngàn USD.
Bước một, cần phải xác định nhãn hiệu muốn đăng ký, có chữ ký và biểu
tượng của nhãn hiệu sản phẩm. Màu sắc của nhãn hiệu rất quan trọng vì đây là
một trong những đặc điểm chính của nhãn hiệu. Bước hai, cần tìm kiếm xem
nhãn hiệu mình muốn đăng ký đã có chưa và có nhãn hiệu nào tương tự khơng?
TEAS cung cấp một hệ thống thơng tin tìm kiếm TESS ( Trademark Electronic
Search System), cho phép tra cứu tất cả các nhãn hiệu đã từng đăng ký tại Mỹ
cũng như tình trạng hiệu lực của mỗi nhãn hiệu. Tại hệ thống này, bất cứ ai cũng
có thể tìm hiểu từng nhãn hiệu thương mại đã và đang đăng ký, chủ sở hữu và
thông tin liên quan khác. Các doanh nghiệp có tiếng ở Việt Nam rất nên kiểm tra
hệ thống này xem nhãn hiệu của mình đã bị đăng ký hay chưa? Chẳng hạn, khi
tra thử nhãn hiệu Phở Hồ, có tới 4-5 nhãn hiệu đã đăng ký, trong đó có cả một
hàng phở của Việt Nam tại Mỹ.
USPTO chấp nhận các loại thẻ tín dụng VISA, Master Card, Discover và
American Express. Do đó, để trả tiền, doanh nghiệp cần phải có một trong các



×