Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

hoàn thiện hệ thống kiểm tra,kiểm soát nội bộ tại chi nhánh ngân hàng phát triển nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.32 KB, 89 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế thế giới năm 2010 mặc dù đang phục hồi sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu và có những chuyển biến tích cực, song nhìn chung chưa thực sự ổn định và
còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi tác động đến kinh tế nước ta. Ở trong nước,
thiên tai liên tiếp xảy ra, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống dân cư.
Năm 2010 là năm có ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng, đây là năm cuối thực hiện
Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và Chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010.
Với quyết tâm cao của cả nước, Việt Nam được đánh giá là một trong những
nước sớm vượt qua giai đoạn khó khăn và phục hồi nhanh sau khủng hoảng tài
chính toàn cầu.GDP tăng 6,78% so với năm 2009, rong đó quý I tăng 5,84%; quý
II tăng 6,44%; quý III tăng 7,18% và quý IV tăng 7,34%. Đây là mức tăng khá
cao so với mức tăng 6,31% của năm 2008 và cao hơn hẳn mức 5,32% của năm
2009, vượt mục tiêu đề ra 6,5%. Trong 6,78% tăng chung của nền kinh tế, khu
vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,78%, đóng góp 0,47 điểm phần trăm;
công nghiệp, xây dựng tăng 7,7%, đóng góp 3,20 điểm phần trăm và khu vực
dịch vụ tăng 7,52%, đóng góp 3,11 điểm phần trăm.lạm phát tăng 11,75% so với
năm 2009,thị trường tài chính tiền tệ còn nhiều biến động.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh có rất nhiều rủi ro,
dễ bị tổn thương khi có gian lận và sai sót, việc bảo đảm an toàn trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại không những được các nhà kinh doanh
ngân hàng quan tâm mà còn là mối quan tâm của người gửi tiền, của các cơ quan
quản lý Nhà nước, của toàn xã hội về sự phá sản của một ngân hàng có thể gây
nên đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống tài chính – ngân hàng, ảnh hưởng rất lớn
đối với toàn bộ nền kinh tế. Để ngăn ngừa những tổn thất và các rủi ro có thể xảy
ra trong quá trình hoạt đông kinh doanh ngân hàng, ngoài các biện pháp thanh
tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước, trước hết đòi hỏi ngân
hàng thương mại phải có những biện pháp hữu hiệu. Mà biện pháp quan trọng
nhất là ngân hàng thương mại phải thiết lập được hệ thống kiểm tra,kiểm soát nội
bộ một cách đầy đủ và có hiệu quả. Ý thức được tầm quan trọng của việc thiết


lập hệ thống kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam em đã
quyết định lựa chọn đề tài:“Hoàn thiện hệ thống kiểm tra,kiểm soát nội bộ tại
chi nhánh Ngân hàng Phát triển Nghệ An”
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Nhằm làm sáng tỏ vấn đề về lý luận và thực tiễn KSNB. Đi vào phân tích
tình hình công tác KSNB tại Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Nghệ An. Qua đó
để thấy được những ưu điểm cũng như hạn chế của công tác KSNB.Trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hơn nữa
hiệu quả của công tác KSNB tại NHPT Việt Nam nói chung và Chi nhánh NHPT
Nghệ An nói riêng .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
-Đối tượng nghiên cứu là lý luận về KSNB, thực trạng hoạt động KSNB và
các giải pháp kiến nghị được đề xuất.
-Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu lý luận,thực tiễn về kiểm soát
nội bộ của Ngân hàng thương mại và NHPT Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.
-Nghiên cứu có hệ thống lý luận và thực tiễn có liên quan đến kiểm tra,kiểm
soát nội bộ.
-Nghiên cứu thực tiễn tổ chức bộ máy,chính sách,các quy trình nghiệp vụ
kiểm tra,kiểm soát tại NHPT Nghệ An.
5.Nội dung kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì kết cấu của đề tài được chia thành 3
chương:
Chương I:Những lý luận cơ bản về hệ thống kiểm soát nội bộ Ngân hàng.
Chương II:Thực trạng về hệ thống kiêm soát nội bộ tại Chi nhánh Ngân
hàng Phát triển Nghệ An.
ChươngIII:Một số ý kiếm nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại chi
nhánh Ngân hàng Phát triển Nghệ An.
Chương 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ

NGÂN HÀNG
1.1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
1.1.1 Khái niệm hệ thống KSNB
Hiện nay, ở Việt Nam đang tồn tại hai quan niệm khá khác nhau về
HTKSNB là quan niệm của Việt Nam và của quốc tế. Trong đó, quan niệm của
Việt Nam về HTKSNB thể hiện rõ nhất qua Chuẩn mực Kiểm toánViệt Nam số
400 - Đánh giá rủi ro và KSNB:
HTKSNB là các quy định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm
toán xây dựng và áp dụng nhằm đảm bảo cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các
quy định để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót; để lập
báo cáo tài chính trung thực và hợp lý; nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu
quả tài sản của đơn vị.
Theo quan niệm này, HTKSNB của một đơn vị bao gồm ba nhân tố là môi
trường kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm soát. Môi trường kiểm
soát là những nhận thức, quan điểm, sự quan tâm và hoạt động của thành viên
của Hội đồng quản trị, BGĐ đối với HTKSNB và vai trò của HTKSNB trong
đơn vị. Môi trường kiểm soát có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của các thủ
tục kiểm soát. Môi trường kiểm soát mạnh sẽ hỗ trợ đáng kể cho các thủ tục
kiểm soát cụ thể. Tuy nhiên, môi trường kiểm soát mạnh không đồng nghĩa với
HTKSNB mạnh. Môi trường kiểm soát mạnh tự nó chưa đủ đảm bảo tính hiệu
quả của toàn bộ HTKSNB.
Hệ thống kế toán là các quy định về kế toán và các thủ tục kế toán mà đơn
vị được kiểm toán áp dụng để thực hiện ghi chép kế toán và lập báo cáo tài
chính.
Thủ tục kiểm soát là các quy chế và thủ tục cho Ban lãnh đạo đơn vị thiết
lập và chỉ đạo thực hiện trong đơn vị nhằm đạt được mục tiêu quản lý cụ thể.
Còn quan niệm của quốc tế về HTKSNB được thể hiện qua khái niệm mới
về HTKSNB của Liên đoàn Kế toán Quốc tế trong Chuẩn mực Kiểm toán Quốc
tế (CMKTQT) số 315 – Tìm hiểu đơn vị được kiểm toán và môi trường của đơn
vị, đánh giá các rủi ro có sai sót trọng yếu - có hiệu lực cho các cuộc kiểm toán

các kỳ bắt đầu từ hoặc sau ngày 15 tháng 12 năm 2004:
“KSNB là một quá trình do Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc và các nhân
viên của đơn vị thiết lập và chi phối, nó được thiết lập nhằm thực hiện ba mục
tiêu của đơn vị bao gồm tính tin cậy của báo cáo tài chính, tính hữu hiệu và hiệu
quả của hoạt động, và tính tuân thủ các luật lệ và quy định.”
Trong định nghĩa này, bản chất của HTKSNB được biểu hiện trên bốn
khía cạnh chủ yếu sau:
- KSNB là một quá trình: KSNB là một quá trình hòa nhập vào trong cơ
cấu tổ chức hoạt động của một đơn vị tạo thành một thể thống nhất, chứ không
phải là một quá trình được bổ sung thêm. KSNB mang tính môi trường, thể hiện
cách thức mà các nhà quản lý điều hành đơn vị. Khái niệm mới này về KSNB thể
hiện sự khác biệt so với một số quan điểm trước đây coi KSNB như một cái gì
đó gắn vào các hoạt động thông thường của đơn vị, hoặc như một quy chế bắt
buộc bị áp đặt bởi các cơ quan quyền lực.
- Con người là nhân tố thiết kế và vận hành KSNB: KSNB là trách nhiệm
của tất cả thành viên trong đơn vị. KSNB không chỉ đơn thuần là những chính
sách, những thủ tục, những biểu mẫu, v.v mà còn là nhân tố con người ở mọi
bộ phận trong đơn vị. Tất cả các cá nhân trong đơn vị đều đóng vai trò nhất định
đối với HTKSNB, thể hiện ở các hoạt động sản xuất kinh doanh đang diễn ra
cũng như cách mà họ thực hiện các công việc của mình. Mỗi cá nhân trong đơn
vị đều có hoàn cảnh khác nhau, có trình độ chuyên môn, tính cách, nhu cầu và sự
phấn đấu khác nhau. Những sự khác nhau đó trong mỗi cá nhân đều ảnh hưởng
đến HTKSNB và cũng đều bị ảnh hưởng bởi HTKSNB. Mọi thành viên trong
đơn vị phải biết trách nhiệm và quyền hạn của mình. Do đó, một sự liên kết chặt
chẽ và rõ ràng rất cần thiết phải duy trì giữa trách nhiệm của các cá nhân và cách
thức thực hiện các trách nhiệm đó với các mục tiêu của đơn vị.
- KSNB chỉ cung cấp một sự đảm bảo hợp lý: KSNB cho dù được thiết kế
và vận hành có hiệu quả đến đâu thì KSNB cũng chỉ cung cấp sự đảm bảo hợp lý
là các mục tiêu của đơn vị sẽ được thực hiện, chứ không phải sự đảm bảo tuyệt
đối do những hạn chế tiềm tàng của HTKSNB xuất phát từ những nguyên nhân

như: quan hệ lợi ích/chi phí, thông đồng giữa các bên liên quan, sai sót mang
tính con người, v.v
- KSNB có hiệu quả trợ giúp cho đơn vị đạt được các mục tiêu liên quan
đến hoạt động, báo cáo tài chính và tuân thủ: KSNB giữ cho đơn vị luôn hướng
tới các mục tiêu đã định và đạt được các mục đích đề ra và giảm thiểu những
biến động ngoài mong đợi trong quá trình đó. KSNB nâng cao tính hữu hiệu và
hiệu quả của các hoạt động, giảm rủi ro mất tài sản, và trợ giúp đảm bảo độ tin
cậy của các báo cáo tài chính, tuân thủ luật pháp và các quy định liên quan.
1.1.2 Mục tiêu của hệ thống KSNB
 Bảo đảm độ tin cậy và tính trung thực của thông tin
Hệ thống KSNB tốt phải bảo đảm cho hệ thống thông tin báo cáo của
doanh nghiệp phải được chính xác, cập nhật đầy đủ để doanh nghiệp có thể đưa
ra được các quyết sách kịp thời, đúng và có hiệu quả. Cụ thể hơn, hệ thống
KSNB phải bảo đảm sự tin cậy, chính xác, kịp thời về tình hình sản xuất kinh
doanh; các quyết toán năm; các hồ sơ, báo cáo tài chính, kế toán khác; các báo
cáo giải trình trước cổ đông, các cơ quan quản lý, các đối tác để khi các thông
tin này được gửi tới Hội đồng quản trị, Ban điều hành, cổ đông, cơ quan quản lý
giám sát thì những người nhận thông tin này có thể đưa ra được các quyết định
chính xác. Tính chính xác của các thông tin tài chính có thể đạt được thông qua
việc thực thi các qui trình của hệ thống KSNB.
 Bảo đảm sự tuân thủ
Hệ thống KSNB cần:
- Duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các chính sách có liên quan đến các
hoạt động của doanh nghiệp;
- Ngăn chặn và phát hiện kịp thời cũng như xử lý các sai phạm và gian lận
trong mọi hoạt động của doanh nghiệp;
- Đảm bảo việc ghi chép kế toán đầy đủ, chính xác cũng như việc lập báo
cáo tài chính trung thực và khách quan;
- Đảm bảo cho toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp theo đúng pháp luật,
phù hợp với yêu cầu của việc giám sát cũng như phù hợp với các nguyên tắc, quy

trình, quy định nội bộ của doanh nghiệp. Mỗi một doanh nghiệp đều phải hoạt
động trong một môi trường pháp lý chung và chịu sự chi phối của các qui định
đặc thù cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc vi phạm các qui định
pháp lý này dù vô tình hay cố ý doanh nghiệp đều phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật, điều này sẽ gây nên những tổn thất cho doanh nghiệp thậm chí có thể
dẫn đến phá sản. Chính vì vậy hệ thống KSNB của doanh nghiệp được xây dựng
phải đảm bảo việc duy trì và kiểm tra tính tuân thủ các chính sách có liên quan
đến hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các sai phạm
và gian lận, đảm bảo việc ghi chép đầy đủ các thông tin kế toán, lập báo cáo
trung thực và khách quan.
 Bảo vệ tài sản của doanh nghiệp
Hệ thống KSNB cũng nhằm vào việc bảo vệ tài sản và các nguồn lực của
doanh nghiệp trước những hành vi chiếm đoạt không hợp lệ, sử dụng trái phép
hoặc chống mất mát để đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động an toàn, có hiệu
quả. Bảo vệ tài sản của đơn vị, tài sản ở đây phải được hiểu không chỉ là tài sản
hữu hình mà bao gồm cả các tài sản vô hình như danh tiếng của công ty, thương
hiệu…Chúng có thể bị mất do bị lấy cắp, gian lận, bị sử dụng không đúng mục
đích, bị tổn thất do không được bảo vệ bởi hệ thống kiểm soát thích hợp. Việc
bảo vệ tài sản của đơn vị của hệ thống KSNB được thực hiện thông qua các thủ
tục nhằm ngăn ngừa, phát hiện các sai phạm và gian lận trong kinh doanh.
 Bảo đảm hiệu quả các hoạt động và năng lực quản lý
Các quá trình kiểm soát trong một đơn vị được thiết kế nhằm ngăn ngừa
sự lặp lại không cần thiết các tác nghiệp, gây ra sự lãng phí trong hoạt động và
sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực trong doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, định kỳ các nhà quản lý thường đánh giá kết quả hoạt động
trong doanh nghiệp được thực hiện với cơ chế giám sát cuả hệ thống KSNB
doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng quản lý, điều hành của bộ máy quản lý
doanh nghiệp.
Tuy nằm trong một thể thống nhất song bốn mục tiêu trên đôi khi cũng có
mâu thuẫn với nhau như giữa tính hiệu quả hoạt động với mục đích bảo vệ tài

sản, sổ sách hoặc cung cấp thông tin đầy đủ và tin cậy. Nhiệm vụ của các nhà
quản lý là xây dựng một hệ thống KSNB hữu hiệu và kết hợp hài hoà bốn mục
tiêu trên.
1.1.3 Các yếu tố cấu thành hệ thống KSNB
Để thực hiện các chức năng kiểm tra kiểm soát hệ thống KSNB trong
doanh nghiệp thường bao gồm các bộ phận cấu thành cơ bản sau:
1.1.3.1 Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ nhân tố bên trong và bên ngoài
đơn vị, có tính môi trường tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lý dữ liệu
của các loại hình KSNB.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 400, môi trường kiểm soát là những
nhận thức, những quan điểm, sự quan tâm và hành động của các thành viên Hội
đồng quản trị, Ban giám đốc đối với hệ thống KSNB và vai trò của hệ thống
KSNB trong đơn vị. Nếu Ban quản lý cấp cao tin rằng sự kiểm soát là quan
trọng, những người khác trong tổ chức cũng sẽ cảm thấy như vậy và đáp ứng
bằng cách tôn trọng triệt để những chế độ và những thể thức được đề ra. Ngược
lại, nếu các thành viên trong tổ chức thấy rõ kiểm soát không là điều quan tâm
chính của Ban quản lý cấp cao, và họ chỉ tán thành hơn là hỗ trợ một cách có ý
nghĩa, thì hầu như chắc chắn là các mục đích kiểm soát sẽ không đạt được một
cách có hiệu quả.
Một môi trường kiểm soát tốt là nền móng cho những tiêu chuẩn khác. Nó
quy định sự thực thi và cấu trúc cũng như môi trường ảnh hưởng đến chất lượng
KSNB. Một vài nhân tố chính ảnh hưởng tới môi trường kiểm soát là:
Đặc thù về quản lý:
Các nhà quản lý cấp cao là người quyết định và điều hành mọi hoạt động
của đơn vị, chính vì thế các quan điểm khác nhau trong việc điều hành các hoạt
động của các nhà quản lý tạo nên đặc thù về quản lý của đơn vị. Các quan điểm
này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các chính sách, chế độ, quy định và cách thức
tiến hành kiểm soát trong đơn vị. Việc trả lời một số câu hỏi tương tự sau đây về
quan điểm điều hành của Ban quản lý sẽ cho biết thái độ của Ban quản lý đối với

việc kiểm soát:
- Ban quản lý có tuân thủ những đạo đức trong kinh doanh hay không? Họ
có duy trì một mối liên hệ thường xuyên với các người quản lý bộ phận hay
không? Họ có chấp nhận rủi ro hay chống đối rủi ro
- Hội đồng quản trị có chủ động và độc lập hay không? hay bị Ban giám
đốc khống chế? Họ có tổ chức thường xuyên hay kịp thời những cuộc họp cần
thiết hay không
Cơ cấu tổ chức:
Để chỉ đạo và kiểm soát hoạt động của đơn vị, thì cơ cấu tổ chức đóng một
vai trò quan trọng. Cơ cấu tổ chức bất hợp lý có thể dẫn đến cách phân quyền
trong quản lý theo những chiều hướng trái ngược nhau, hoặc là phân quyền quá
tập trung hoặc phân quyền quá phân tán. Với một cơ cấu hợp lý sẽ giúp cho quá
trình thực hiện phân công phân nhiệm, sự uỷ quyền, quá trình xử lý nghiệp vụ và
ghi chép sổ sách được kiểm soát nhằm ngăn ngừa mọi dạng sai phạm.
Chính sách nhân sự:
Khía cạnh quan trọng nhất của bất kì hệ thống kiểm soát nào cũng có là
con người. Nếu nhân viên có năng lực và đáng tin cậy, nhiều quá trình kiểm soát
không cần thực hiện mà vẫn có thể đảm bảo được các mục tiêu đề ra của KSNB,
và sẽ giảm bớt được nhiều hạn chế vốn có của KSNB. Ngược lại, với đội ngũ
nhân viên kém năng lực và không trung thực, dù các chính sách và thủ tục kiểm
soát được thiết kế và vận hành chặt chẽ đến đâu thì hệ thống KSNB vẫn không
thể phát huy hiệu quả. Ngay cả khi con người có thể có năng lực và trung thực,
họ vẫn có những khuyết điểm mang tính bẩm sinh.
Vì tầm quan trọng của con người có năng lực và trung thực trong việc
cung cấp quá trình kiểm soát hiệu quả, các nhà quản lý cần có những chính sách
cụ thể và rõ ràng về tuyển dụng, đào tạo, sắp xếp, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật
hợp lý đối với nhân viên.
Công tác kế hoạch:
Hệ thống kế hoạch và dự toán bao gồm kế hoạch về sản xuất, tiêu thụ, thu
chi quỹ, đầu tư, sửa chữa lớn tài sản cố định, tài chính là những nhân tố quan

trọng trong môi trường kiểm soát. Nếu việc lập và thực hiện kế hoạch được tiến
hành nghiêm túc sẽ trở thành công cụ kiểm soát rất hữu hiệu. Thí dụ về một hệ
thống dự toán hiệu quả là phải nhận biết rõ những chênh lệch trọng yếu giữa kết
quả thực tế với kế hoạch, và có hành động sửa sai thích hợp ở cấp quản lý thích
hợp.
Uỷ ban kiểm soát:
Uỷ ban kiểm soát bao gồm những lãnh đạo cao nhất đơn vị như thành viên
hội đồng quản trị nhưng không kiêm nhiệm chức vụ quản lý và những chuyên
gia am hiểu về lĩnh vực kiểm soát. Uỷ ban kiểm soát thường có nhiệm vụ và
quyền hạn sau:
- Giám sát việc chấp hành pháp luật của công ty.
- Kiểm tra và giám sát công việc của kiểm toán viên nội bộ.
- Giám sát quá trình lập báo cáo tài chính của đơn vị.
- Đại diện cho công ty mời kiểm toán viên bên ngoài và phải giữ liên lạc
với họ.
- Hoà giải mâu thuẫn (nếu có) giữa Ban giám đốc và kiểm toán viên bên
ngoài.
Vì thế, sự độc lập và hữu hiệu trong hoạt động của Uỷ ban kiểm soát là
nhân tố quan trọng trong môi trường kiểm soát.
Môi trường bên ngoài:
Ngoài các nhân tố bên trong nêu trên, thì môi trường kiểm soát chung của
doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài, như môi trường
pháp lý, đường lối phát triển của đất nước Những nhân tố này tuy không phụ
thuộc vào sự kiểm soát của các nhà quản lý nhưng ảnh hưởng rất lớn đến phong
cách điều hành của các nhà quản lý cũng như việc thiết kế và vận hành các quy
chế và thủ tục KSNB.
Kiểm toán nội bộ:
Theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế (International Federation of Accountants
- IFAC), kiểm toán nội bộ là “một hoạt động đánh giá được lập ra trong một
doanh nghiệp như là một loại dịch vụ cho doanh nghiệp đó, có chức năng kiểm

tra, đánh giá và giám sát thích hợp và hiệu quả của hệ thống kế toán và KSNB”.
Đây là hoạt động kiểm toán được tiến hành trong phạm vi một doanh nghiệp, do
người của doanh nghiệp thực hiện để phục vụ cho các yêu cầu quản lý sản xuất
kinh doanh và quản lý tài chính của các nhà quản lý doanh nghiệp.
Với vai trò là hạt nhân của hệ thống KSNB, có thể coi kiểm toán nội bộ là
một bộ phận độc lập được thiết lập trong đơn vị, có chức năng kiểm tra, đánh giá
tính phù hợp, hiệu quả, sự tuân thủ pháp luật và các qui định của hệ thống kế
toán và hệ thống KSNB của đơn vị, cung cấp một sự quan sát, đánh giá thường
xuyên về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Để bộ phận kiểm toán nội bộ hoạt
động hiệu quả, điều kiện tiên quyết là đội ngũ nhân viên kiểm toán nội bộ phải
độc lập với phòng kế toán, với các bộ phận hoạt động được kiểm tra, và đội ngũ
đó báo cáo trực tiếp cho cấp quyền hạn cao đủ để không bị giới hạn phạm vi hoạt
động. Mặt khác, bộ phận kiểm toán nội bộ phải tuyển chọn những nhân viên có
năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp phù hợp với các quy định hiện
hành.
Hệ thống quản lý rủi ro
Theo COSO định nghĩa quản lý rủi ro doanh nghiệp “là một quy trình
được thiết lập bởi hội đồng quản trị, ban quản lý và các cán bộ có liên quan khác
áp dụng trong quá trình xây dựng chiến lược doanh nghiệp thực hiện xác định
những sự vụ có khả năng xảy ra gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp đồng thời
quản lý rủi ro trong phạm vi cho phép nhằm đưa ra mức độ đảm bảo trong việc
đạt được mục tiêu của doanh nghiệp”. Trong khi đó, rủi ro được định nghĩa là tập
hợp của các khả năng không mong muốn có thể xảy ra của một sự việc nào đó
cũng như hậu quả của nó.
Quản lý rủi ro doanh nghiệp ngày nay được coi như là một bộ phận không
thể tách rời với chiến lược doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là chiến lược của
doanh nghiệp sẽ được xem là không đầy đủ nếu thiếu vắng sự gắn kết với quản
lý rủi ro. Một doanh nghiệp da giầy nào đó chẳng hạn bất ngờ phải đối mặt với
một vụ kiện chống bán phá giá dẫn tới những thua thiệt trong việc nhận đơn
hàng. Nhân công của một nhà máy nào đó bất ngờ đình công làm ngưng trệ sản

xuất. Hàng loạt nhân viên giỏi của một công ty nào đó ra đi để chuyển sang
doanh nghiệp khác hoặc thành lập công ty riêng .v.v. Những rủi ro đó sẽ làm cho
doanh nghiệp bị bất ngờ và dẫn đến thiệt hại ảnh hưởng đến mục tiêu của doanh
nghiệp nếu như chúng không được doanh nghiệp lường trước. Vì vậy mỗi doanh
nghiệp cần phải xây dựng cho mình một chính sách, quy trình và phương pháp
quản lý rủi ro thích hợp.
Chính sách quản lý rủi ro được xây dựng trong đó xác định phương pháp
tiếp cận đối với rủi ro và quản lý rủi ro. Đồng thời chính sách quản lý rủi ro cũng
nêu rõ trách nhiệm trong việc quản lý rủi ro trong toàn bộ doanh nghiệp.
Quy trình quản lý rủi ro được thiết kế mang tính đồng bộ và có sự gắn kết
với việc xây dựng và thực thi chiến lược của doanh nghiệp. Về cơ bản, quy trình
quản lý rủi ro cần chứa đựng những giai đoạn hay bước công việc cơ bản như
xác định rủi ro, mô tả rủi ro, lượng hóa rủi ro, phân tích rủi ro, xếp hạng rủi ro,
đánh giá rủi ro, lập báo cáo về rủi ro, xử lý rủi ro, theo dõi và rà soát quy trình
trình quản lý rủi ro.
Kèm theo quy trình quản lý rủi ro là hệ thống những phương pháp luận và
công cụ phục vụ công tác quản lý rủi ro đồng bộ được thiết kế cho các công đoạn
khác nhau của quy trình kinh doanh. Để thực thi quy trình quản lý rủi ro một
cách hiệu quả cần tranh thủ sự ủng hộ và cam kế tủng hộ của lãnh đạo doanh
nghiệp, phân công trách nhiệm rõ ràng cũng như phân bổ nguồn lực phù hợp,
đào tạo và tuyên truyền về quản lý rủi ro cho mọi đối tượng liên quan.
Tóm lại môi trường kiểm kiểm soát bao gồm toàn bộ các nhân tố ảnh
hưởng đến việc thiết kế, vận hành và xử lý dữ liệu của hệ thống KSNB, trong đó
nhân tố quan trọng là sự nhận thức về hoạt động kiểm tra kiểm soát và điều hành
của các nhà quản lý doanh nghiệp.
1.1.3.2 Hệ thống thông tin
Hệ thống kế toán là hệ thống thông tin chủ yếu của đơn vị, bao gồm toàn
bộ hệ thống chứng từ, sổ sách, tài khoản kế toán và các báo cáo tài chính thường
niên. Mục đích của hệ thống này là nhận biết, thu thập, phân loại, phân tích, ghi
sổ và báo cáo các nghiệp vụ kinh tế tài chính của đơn vị, thoả mãn chức năng

thông tin và kiểm tra của hoạt động kế toán. Số nhân lực và quy trình làm việc
trong hệ thống kế toán tuỳ thuộc vào quy mô của đơn vị. Đối với những công ty
có quy mô vừa và nhỏ, hệ thống kế toán được thiết kế nhỏ gọn, quy trình đơn
giản tương ứng với số lượng ít các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Ngược lại, với
những công ty lớn hoặc các tập đoàn, tổng công ty, hệ thống kế toán có thể được
thiết kế theo mô hình chức năng, hoặc theo mô hình ma trận nhằm đảm bảo mục
đích kết nối các công ty con lại với nhau, phạm vi quản lý của lãnh đạo sẽ tập
trung hơn, hiệu quả hoạt động sẽ được nâng cao.
Hệ thống kế toán của đơn vị bao gồm hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống
sổ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán và hệ thống báo cáo kế toán trong đó quá
trình lập và luân chuyển chứng từ đóng vai trò quan trọng trong công tác KSNB
của đơn vị. Mục đích của hệ thống kế toán là nhận biết, thu thập và phân loại,
ghi sổ và báo cáo các nghiệp vụ kinh tế tài chính của một doanh nghiệp, thoả
mãn chức năng thông tin và kiểm tra của hoạt động kế toán. Quy trình kế toán
bao gồm:
Lập chứng từ: Đây là giai đoạn đầu tiên và rất quan trọng vì số liệu kế
toán chỉ chính xác nếu chứng từ được lập đầy đủ, hợp lệ, hợp pháp và phản ánh
chính xác mọi nghiệp vụ phát sinh do đó có thể ngăn ngừa mọi sai phạm, bảo vệ
hữu hiệu và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đơn vị.
Vào sổ sách kế toán: Đây là giai đoạn chính trong quá trình xử lý dữ liệu
của kế toán. Giai đoạn này thực hiện việc ghi chép, phân loại, tính toán, tổng hợp
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Lập báo cáo: Là giai đoạn cuối cùng của quy trình kế toán, thực hiện việc
tổng hợp các số liệu trên sổ sách thành những chỉ tiêu trên báo cáo. Các thông tin
trên báo cáo tài chính phải phản ánh một cách trung thực tình hình tài chính và
kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị và phải được trình bày theo đúng chế
độ kế toán hiện hành.
1.1.3.3 Các nguyên tắc và thủ tục kiểm soát
Trong việc thiết kế hệ thống KSNB trong một đơn vị cần phải tuân thủ các
nguyên tắc sau:

Nguyên tắc phân công, phân nhiệm
Theo nguyên tắc này, mỗi người trong đơn vị đều phải đảm đương một
nhiệm vụ, trọng trách khác nhau, và công việc được phân công đều cho mọi
người. Như vậy, sẽ tránh tình trạng công việc không hiệu quả do năng lực có hạn
của một số cá nhân, hoặc xảy ra gian lận do không có sự chuyên môn hoá, soát
xét thường xuyên giữa những người thực hiện với nhau.
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm
Cần thiết phải có sự phân cấp trách nhiệm, quyền hạn theo phạm vi thích
hợp nhằm ngăn ngừa hiện tượng lạm dụng quyền hạn vào mục đích cá nhân, như
tách biệt người ghi sổ tài sản với người quản lý tài sản, tách biệt thủ quỹ với kế
toán quỹ,
Nguyên tắc uỷ quyền, phê chuẩn
Nguyên tắc uỷ quyền phải được đảm bảo hợp lý rằng việc uỷ quyền được
tiến hành bởi đúng cấp có thẩm quyền, đúng đối tượng được uỷ quyền, và chỉ
được thừa lệnh trong một phạm vi nhất định. Theo nguyên tắc này, quá trình uỷ
quyền được tiếp tục mở rộng xuống các cấp thấp hơn, tạo nên hệ thống phân chia
trách nhiệm và quyền hạn mà vẫn không làm mất tính tập trung của doanh
nghiệp.
Thủ tục kiểm soát là các quy chế và thủ tục do Ban lãnh đạo đơn vị lập và
chỉ đạo thực hiện trong đơn vị nhằm đạt được các mục tiêu quản lý cụ thể.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 Đánh giá rủi ro và KSNB,
các thủ tục kiểm soát chủ yếu gồm:
- Lập, kiểm tra, so sánh và phê duyệt các số liệu, tài liệu liên quan đến đơn
vị;
- Kiểm tra tính chính xác của các số liệu kế toán;
- Kiểm tra chương trình ứng dụng và môi trường tin học;
- Kiểm tra số liệu giữa sổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết;
- Kiểm tra, phê duyệt các tài liệu kế toán;
- Đối chiếu số liệu nội bộ với bên ngoài;
- So sánh, đối chiếu kết quả kiểm kê thực tế với số liệu trên sổ kế toán;

- Giới hạn việc tiếp cận trực tiếp với các tài sản và các tài liệu kế toán;
- Phân tích, so sánh giữa số liệu thực tế với dự toán, kế hoạch.
1.1.4 Những hạn chế vốn có của hệ thống KSNB
Một hệ thống KSNB được xây dựng hoàn hảo về cấu trúc, thì hiệu quả
thật sự của nó tùy thuộc chủ yếu vào nhân tố con người, tức là phụ thuộc vào
năng lực làm việc và tính đáng tin cậy của lực lượng nhân sự. Hệ thống KSNB
dù được thiết kế hoàn hảo đến đâu cũng không thể ngăn ngừa hay phát hiện mọi
sai phạm có thể xảy ra, đó là những hạn chế cố hữu của hệ thống KSNB. Những
hạn chế đó gồm:
- Ban giám đốc thường yêu cầu chi phí cho hệ thông KSNB không vượt
quá lợi ích mà hệ thống đó mang lại.
- Phần lớn công tác kiểm tra nội bộ thường tác động đến những nghiệp vụ
lặp đi lặp lại mà không tác động đến những nghiệp vụ bất thường.
- Sai sót bởi con người thiếu chú ý, đãng trí, sai sót về xét đoán hoặc do
không hiểu rõ yêu cầu công việc, coi trọng hình thức hơn vật chất. Một trong
những đe doạ lớn đối với sự hữu hiệu của KSNB là việc chỉ chú ý đến hình thức
mà không quan tâm đến thực chất của các thủ tục kiểm soát. Ví dụ: Đơn vị qui
định: những khoảng chi từ 10 triệu đồng trở lên phải có chữ ký của hai người xét
duyệt. Trên thực tế người thứ hai ký duyệt nhưng không kiểm tra mà chỉ căn cứ
trên chữ ký của người thứ nhất. Hoặc trong quy trình mua hàng, đơn vị sử dụng
phương pháp đấu thầu giữa các nhà cung cấp. Tuy nhiên đơn vị không thay đổi
và luôn chỉ mời ba nhà cung cấp quen thuộc. Việc đấu thầu lúc này chỉ mang tính
hình thức vì các nhà cung cấp hoàn toàn có thể thống nhất với nhau để ép giá. Để
hạn chế điều này, người quản lý cần có quan điểm chú trọng hơn đến thực chất
của các thủ tục kiểm soát, thường xuyên kiểm tra để đánh giá kết quả của các thủ
tục.
- Khả năng vượt tầm kiểm soát của hệ thống KSNB do có sự thông đồng
của một người trong ban giám đốc hay một nhân viên với những người khác
trong hay ngoài đơn vị.
- Khả năng những người chịu trách nhiệm thực hiện KSNB lạm dụng đặc

quyền của mình. Trong thực tế, có nhiều trường hợp, người quản lý bỏ qua các
qui định kiểm soát trong việc thực hiện một nghiệp vụ cụ thể (tuyển dụng nhân
viên trực tiếp không qua kiểm tra phỏng vấn của bộ phận nhân sự). Các quyết
định này thường được biện minh bằng tính hiệu quả của công việc, bằng mối
quan hệ giữa chi phí và lợi ích. Điều này đúng trong một số trường hợp. Tuy
nhiên, việc dành cho người quản lý một sự tùy tiện quá lớn có thể dẫn đến không
kiểm soát được rủi ro và làm cho môi trường kiểm soát trở nên yếu kém.
- Sự mâu thuẫn quyền lợi: Sự mâu thuẫn quyền lợi của một nhân viên sẽ
xảy ra khi một lợi ích khác ảnh hưởng đến họ ngoài lợi ích của họ gắn với tổ
chức. Khi đó, lòng trung thành của họ đối với tổ chức sẽ bị chi phối, họ có thể
chọn lựa những hành động gây tổn hại cho lợi ích của tổ chức quản lý theo kiểu
“gia đình trị” hay “đồng hương” cũng là một nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn
quyền lợi. Khi đó nhân viên có thể đặt quyền lợi của người thân lên trên quyền
lợi của tổ chức, có rất nhiều dạng mâu thuẫn quyền lợi có thể xảy ra. Nói chung,
khi một nhân viên trung thành với cùng một lúc hai quyền lợi khác nhau thì mâu
thuẫn quyền lợi sẽ tồn tại.
- Quan hệ giữa lợi ích và chi phí: việc thiết kế hệ thống nội bộ phải đảm
bảo nguyên tắc: Lợi ích từ hệ thống của hệ thống KSNB phải lớn hơn chi phí để
thực hiện nó.
- Hệ thống KSNB không bao quát được những rủi ro không lường trước
được: Hầu hết các biện pháp kiểm soát đều tập trung vào các sai phạm dự kiến,
vì thế khó có thể phát hiện được các sai phạm đột xuất hay bất thường.
1.2 KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ KIỂM
TRA,KIỂM SOÁT TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1 Khái quát về ngân hàng thương mại.
*Khái niệm:
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM: Ở Mỹ :
Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương

mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc
của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng
tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài
chính”.
Ở Việt Nam, theo Luật tổ chức tín dụng khoản 1 và khoản 7 Điều 20 đã xác định
"tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ
ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung
cấp các dịch vụ thanh toán" và trong các loại hình tổ chức tín dụng thì " ngân
hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là
nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để
cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán".
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài
chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ
bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra,
NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản
phẩm dịch vụ của xã hội.
*Chức năng:
Chức năng trung gian tín dụng:
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại . Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM
đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với
chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng
vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất
nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia:
người gửi tiền và người đi vay
Chức năng trung gian thanh toán:
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực
hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền
gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi
của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các

NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc,
ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo
nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp.
Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để
gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng
một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể
kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an
toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh
tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Chức năng tạo tiền:
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân
NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn
tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc
thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là
chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín
dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại
được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư
trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận
của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với
chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong
nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM:
Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục sản phẩm dịch vụ:
Ngày nay, các ngân hàng đang mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ tài
chính mà họ cung cấp cho khách hàng. Qúa trình mở rộng danh mục sản phẩm
dịch vụ đã tăng tốc trong những năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh gia tăng từ
các tổ chức tài chính khác, từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng, và
từ sự thay đổi công nghệ. Nó cũng làm tăng chi phí của ngân hàng và dẫn đến rủi
ro phá sản cao hơn. Các sản phẩm dịch vụ mới đã có ảnh hưởng tốt đến ngành

công nghiệp này thông qua việc tạo ra những nguồn thu mới cho ngân hàng – các
khoản lệ phí của dịch vụ không phải lãi, một bộ phận có xu hướng tăng trưởng
nhanh hơn so với các nguồn thu truyền thống từ lãi cho vay.
Sự gia tăng cạnh tranh:
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở lên quyết
liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ
. Các ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu
trí, dịch vụ tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là
những dịch vụ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng
khác, các hiệp hội tín dụng, ngân hàng đầu tư Merrill Lynch, các công ty tài
chính như GE Capital và các tổ chức bảo hiểm như Prudential. Áp lực cạnh tranh
đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai.
Sự gia tăng chi phí vốn:
Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng chi phí
trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Với
sự nới lỏng các luật lệ, ngân hàng buộc phải trả lãi do thị trường cạnh tranh quyết
định cho phần lớn tiền gửi. Đồng thời, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng phải sử
dụng vốn sở hữu nhiều hơn – một nguồn vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản
của mình. Điều đó buộc họ phải tìm cách cắt giảm các chi phí hoạt động khác
như giảm số nhân công, thay thế các thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử
hiện đại. Các ngân hàng cũng buộc phải tìm các nguồn vốn mới như chứng
khoán hóa một số tài sản, theo đó một số khoản cho vay của ngân hàng được tập
hợp lại và đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán; các chứng khoán được đảm bảo
bằng các món vay được bán trên thị trường mở nhằm huy động vốn mới một
cách rẻ hơn và đáng tin cậy hơn. Hoạt động này cũng có thể tạo ra một khoản thu
phí không nhỏ cho ngân hàng, lớn hơn so với các nguồn vốn truyền thống (như
tiền gửi).
Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất:
Các qui định của Chính phủ đối với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách
hàng khả năng nhận được mức thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng chỉ có công

chúng mới làm cho các cơ hội đó trở thành hiện thực. Và công chúng đã làm việc
đó. Hàng tỷ USD trước đây được gửi trong các tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp
và các tài khoản giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã được chuyển sang các tài
khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ thu nhập thay đổi theo
điều kiện thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với
những khách hàng có giáo dục hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền
gửi “trung thành” của họ có thể dễ tăng cường khả năng cạnh tranh trên phương
diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và nhạy cảm hơn với ý thích thay đổi
của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm.
Cách mạng trong công nghệ ngân hàng:
Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng
đã và đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế
cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong công việc nhận tiền
gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các
máy rút tiền tự động ATM, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của
họ 24/24 giờ; Máy thanh toán tiền POS được lắp đặt ở các bách hóa và trung tâm
bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy;
và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh
chóng trên toàn thế giới
1.2.2 Kiểm tra,kiểm soát nội bộ trong ngân hàng thương mại.
Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán Australia (Australian Accounting Standards
Board) định nghĩa “Kiểm soát là khả năng của một thực thể trong việc chi phối
quá trình ra quyết định, trực tiếp hoặc gián tiếp, trong mối quan hệ với các chính
sách tài chính và vận hành của một thực thể khác, qua đó tạo khả năng cho chủ
thể đó vận hành theo các mục tiêu của chủ thể kiểm soát”. Khái niệm kiểm soát,
đo đó sẽ bao gồm 3 nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất là khả năng kiểm soát liên quan đến năng lực của hội sở (được ví như
công ty mẹ) về quyền lực tài chính để có thể chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp quá
trình ra quyết định của chi nhánh, công ty trực thuộc, công ty tham gia góp vốn
(công ty con).

Thứ hai là lĩnh vực kiểm soát liên quan đến việc Hội sở sẽ kiểm soát các chi
nhánh, các công ty trực thuộc hoặc công ty tham gia góp vốn ở những khâu nào,
từ quyết định đầu tư, chiến lược phát triển, nhân sự cho đến các giao dịch hàng
ngày như huy động vốn, cho vay, kinh doanh ngoại tệ v.v
Kiểm soát nội bộ lại được hiểu theo nghĩa khác và gói gọn trong nội bộ của một
thực thể nào đó. Nó liên quan đến những công việc mang tính tác nghiệp cụ thể
mà một bộ phận nào đó của ngân hàng được giao thực hiện. Cơ chế kiểm soát
nội bộ là toàn bộ các chính sách, các bước kiểm soát và thủ tục kiểm soát được
thiết lập nhằm quản lý và điều hành các hoạt động của ngân hàng. Mục đích của
kiểm soát nội bộ nhằm:
- Sử dụng các nguồn lực và quản lý hoạt động kinh doanh của ngân hàng một
cách hiệu quả.
- Đảm bảo chắc chắn các quyết định và chế độ quản lý đã được ngân hàng và các
cơ quan quản lý có thẩm quyền ban hành được thực hiện đúng thể thức và giám
sát mức độ hiệu quả cũng như tính hợp lý của các chế độ đó.
- Phát hiện kịp thời những vướng mắc trong kinh doanh để hoạch định và thực
hiện các biện pháp đối phó.
- Ngăn chặn, phát hiện các sai phạm trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Đảm bảo việc ghi chép, hạch toán đầy đủ, chính xác và đúng thể thức các giao
dịch phát sinh của ngân hàng.
- Đảm bảo việc lập các báo cáo tài chính kịp thời, hợp lệ và tuân theo các yêu
cầu pháp định có liên quan.
- Đảm bảo tài sản và thông tin không bị lạm dụng hoặc sử dụng sai mục đích.
Các yếu tố cấu thành cơ chế kiểm soát nội bộ gồm môi trường kiểm soát chung,
hệ thống kế toán, các loại kiểm soát và thủ tục kiểm soát.
Môi trường kiểm soát chung được hiểu là các nhân tố xung quanh tác động đến
việc thiết kế, hoạt động và sự hữu hiệu của các chính sách, thủ tục kiểm soát của
ngân hàng như đặc thù về cơ chế quản lý, cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự,
các quy định của pháp luật, các yêu cầu của khách hàng và cổ đông.
Thông qua việc quan sát, đối chiếu, tính toán và ghi chép các giao dịch phát sinh,

hệ thống kế toán không những cung cấp thông tin cho các cấp quản lý ra quyết
định mà còn có tác dụng kiểm soát nhiều mặt hoạt động của ngân hàng. Chính vì
thế, hệ thống kế toán là một mắt xích quan trọng của cơ chế kiểm soát nội bộ.
Thủ tục hay quy trình kiểm soát là trình tự và nội dung của các bước công việc
mà bộ phận kiểm soát nội bộ có thẩm quyền phải thực hiện để hoàn thành trách
nhiệm được giao. Tuỳ từng lĩnh vực hoạt động của ngân hàng mà quy trình và
thủ tục kiểm soát được tiến hành khác nhau. Tuy nhiên, dù thủ tục kiểm soát có
khác nhau thì vẫn phải đảm bảo một số nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc phân
công, phân nhiệm; nguyên tắc bất kiêm nhiệm và nguyên tắc uỷ quyền và phê
chuẩn. Hoạt động kiểm soát của ngân hàng, do đó, sẽ được phân loại như sau:
- Kiểm soát quản lý là việc kiểm soát các hoạt động riêng lẻ của ngân hàng, do
nhân viên độc lập với người thực hiện hoạt động đó tiến hành. Kiểm soát quản lý
diễn ra thường xuyên và là hoạt động quan trọng nhất trong cơ chế kiểm soát nội
bộ của ngân hàng.
- Kiểm soát xử lý được đặt ra để kiểm tra việc xử lý các giao dịch, tức là kiểm tra
lại những công việc mà nhân viên ngân hàng đã thực hiện và đã được công nhận,
cho phép, phân loại, tính toán, ghi chép và tổng hợp trong báo cáo.
- Kiểm soát để bảo vệ tài sản là các biện pháp, quy chế kiểm soát nhằm đảm bảo
sự an toàn của tài sản và thông tin trong ngân hàng.
- Kiểm soát tổng quát là sự kiểm soát tổng thể đối với tất cả các hoat động và
giao dịch diễn ra trong ngân hàng.
Dễ dàng nhận thấy, kiểm soát nội bộ đóng vai trò rất quan trọng đối với sự an
toàn và khả năng phát triển trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại. Việc xây dựng và thực hiện được một cơ chế kiểm soát nội bộ phù hợp và
hiệu quả sẽ cho phép các ngân hàng thương mại chống đỡ tốt nhất với rủi ro.
1.3 QUY TRÌNH KIỂM TRA,KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
Quy trình của một cuộc kiểm tra,kiểm soát gồm 3 bước:
+ B1 : lập kế hoạch kiểm tra,kiểm soát.
+ B2 : thực hiện kiểm tra,kiểm soát.

+ B3 : lập báo cáo kiểm tra,kiểm soát.
1.3.1. Lập kế hoạch kiểm tra,kiểm soát.
Kiểm tra viên phải lập kế hoạch kiểm tra khi bắt đầu tiến hành cuộc kiểm
tra, nó giúp cho việc kiểm tra được tiến hành khoa học và có hiệu quả cao, đúng
thời gian.
Để lập kế hoạch kiểm tra thì Kiểm tra viên cần tìm hiểu về đối tượng được
kiểm tra để xác định những đặc trưng cơ bản có liên quan đến đối tượng được
kiểm tra như môi trường hoạt động, môi trường pháp lý, môi trường kinh tế xã
hội, lĩnh vực ngành nghề kinh doanh. đặc biệt kiểm tra viên phải hiểu biết được
về những văn bản có liên quan đến ngành nghề và chỉ ra được những lĩnh vực có
rủi ro, những lĩnh vực trọng yếu trong hoạt động của đơn vị, tình hình rủi ro
kiểm soát của doanh nghiệp, trên cơ sở đó Kiểm tra viên xác định được trọng
tâm kiểm tra đồng thời nhằm hạn chế rủi ro.
Cụ thể Kiểm tra viên cần thu thập những thông tin cần thiết về đối tượng
được kiểm tra:
- Phạm vi và quy mô hoạt động kinh doanh.
- Quá trình thành lập, điều kiện, khả năng hiện tại và tương lai của doanh
nghiệp.
- Tổ chức sản xuất và những quy trình công nghệ sản xuất kinh doanh chủ
yếu, các rủi ro tiềm tàng.
- Tình trạng tài chính và các mối quan hệ kinh tế chủ yếu của khách hàng.
- Tổ chức quản lý kinh doanh, trình độ, năng lực của những người điều
hành chính của doanh nghiệp.
- Tổ chức bộ máy và công việc kế toán, tài chính thống kê.
- Đánh giá thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp trong công tác kế
toán, quản lý hay hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khi có được các thông tin trên kiểm tra viên phải đưa ra kết luận:
+ Tình hình kinh doanh và rủi ro.
+ Môi trường hệ thống thông tin.
+ Môi trường kiểm soát.

+ Các chế độ kế toán.
Các bộ phận cấu thành kế hoạch kiểm tra.
- Kế hoạch về nội dung kiểm tra: bao gồm các thông tin, các nghiệp vụ
được kiểm tra, để lập được kế hoạch về nội dung kiểm tra, kiểm tra viên cần
phân tích được đối tượng kiểm tra, xác định được mục tiêu tổng thể và mục tiêu
chi tiết của cuộc kiểm tra, qua đó xác định phạm vi, quy mô, xác định lĩnh vực
trọng yếu cần kiểm tra. trong kế hoạch về nội dung kiểm tra viên cũng cần xác
định được các phương pháp cũng như các phương tiện hỗ trợ và sự phối hợp
giữa các bước, các nhóm kiểm tra
- Kế hoạch về thời gian:
+ Thời gian tổng thể của cuộc kiểm tra,kiểm soát.
+ Thời gian chi tiết để kiểm tra từng khâu, từng nghiệp vụ.
- Kế hoạch về nhân sự: liên quan đến việc lựa chọn số lượng Kiểm tra
viên cũng như các yêu cầu nghề nghiệp đối với các Kiểm tra viên.
1.3.2. Thực hiện kiểm tra,kiêm soát.
Thực hiện kiểm tra là giai đoạn Kiểm tra viên triển khai thực hiện các nội
dung đã ghi trong kế hoạch kiểm tra.
Thực hiện kiểm tra gồm các bước sau:
+ Nghiên cứu đánh giá hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ.
+ Thu thập bằng chứng bằng việc áp dụng các kỹ thuật.
+ Tiến hành phân tích, đánh giá các thông tin đã thu thập được để đưa ra ý
kiến nhận xét của mình về đối tượng kiểm tra.
1.3.3. Kết thúc kiểm tra,kiểm soát.
Trong bước này kiểm toán viên phải làm những công việc cuối cùng để
hoàn tất kiểm toán, các bước phải làm là:
+ Chuẩn bị hoàn thành kiểm tra.
+ Lập báo cáo kiểm tra.
+ Hoàn chỉnh hồ sơ kiểm tra.
+ Giải quyết các sự việc phát sinh sau khi lập báo cáo kiểm tra nếu có.
* Chuẩn bị hoàn thành kiểm tra:

Sau khi hoàn thành công việc kiểm tra tại các bộ phận riêng lẻ, Kiểm tra
viên chuẩn bị lập báo cáo kiểm tra. trước khi lập báo cáo kiểm tra, Kiểm tra viên
cần tổng hợp các kết quả thu thập được. Đây chính là công việc chuẩn bị hoàn
thành kiểm tra, bao gồm việc xem xét các khoản công nợ ngoài dự kiến, xem xét

×