Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Tổ chức thương mại thế giới WTO và tác động của nó đối với các nước đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.9 KB, 71 trang )

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AoA : Agreement on Agricultural - Hiệp định Nông nghiệp
ATC : Agreement on Texitiles and Clothing of the WTO - Hiệp định hàng
dệt may.
GATS : General Agreement on Trade in Services - Hiệp định chung về
thương mại và dịch vụ.
GATT : General Agreement on Tariffs and Trade - Hiệp định chung về thuế
quan và thương mại.
GDP : gross domestic product - Tổng thu nhập quốc dân.
IMF : International Monetery Fund - Quỹ tiền tệ Quốc tế.
ITO : International Trade Organization - Tổ chức thương mại thế giới.
MFA : Multifibre Arrangement - Hiệp định đa sợi.
MFN : Most-favored nation - Đối xử tối huệ quốc.
NT : Nation Treatment -Đãi ngộ quốc gia.
TRIMS : Trade - related investment measures - Các biện pháp đầu tư liên
quan đến thương mại.
TRIPS : Trade - related intellectual propecty rights - Khía cạnh về quyền sở
hữu trí tuệ liên quan đến thương mại.
UNCTAD : United Nations Conference on Trade and Development -
WTO : World Trade Organization - Tổ chức thương mại quốc tế.
1
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với xu thế toàn cầu hoá hiện nay, Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) kế thừa Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) bắt đầu hoạt
động từ 1/1/1995 nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho sự phát triển của hệ thông
thương mại đa biên, đảm bảo cạnh tranh công bằng, lành mạnh, xoá bỏ dần các
rào cản trong thương mại quốc tế. Từ đó cho đến nay, WTO đã không ngừng mở
rộng cả vế quy mô lẫn phạm vi hoạt động của mình, đã thực sự khẳng định được
vai trò quan trọng của mình trong quá trình tự do hoá thương mại quốc tế.
Cùng với hệ thống các quy tắc, nguyên tắc, các Hiệp định của mình,WTO
đã tạo ra một hành lang pháp lý để từ đó các nước có thể đẩy nhanh tiến hành


tiến trình toàn cầu hoá, tự do thương mại, đồng thời tiếp nhận những cơ hội
thuận lợi để phát triển nền kinh tế của mình. Tuy nhiên, hoạt động của WTO
cùng với hệ thông các nguyên tắc và hiệp định của mình không phải lúc nào
cũng có lợi và đảm bảo được sự công bằng cho các nước thành viên, đặc biệt là
đối với các nước đang phát triển.
Để có thể tìm hiểu rõ hơn về những ảnh hưởng của WTO đến sự phát
triển nền kinh tế của các nước đang phát triển, em đã lựa chọn đề tài: Tổ chức
thương mại thế giới WTO và tác động của nó đối với các nước đang phát triển.
Làm khoá luận tốt nghiệp. Ngoài phần mở đầu, kết luận, và phụ lục, nội dung
của khoá luận được chia làm ba chương:
Với những kiến thức đã được trang bị trong 4 năm qua tại Khoa Kinh tế
Đại học Quốc Gia - Hà Nội, cùng với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn
Khu Thị Tuyết Mai, em đã hoàn thành được bài khoá luận này. Tuy nhiên, do
tính phức tạp của vấn đề nghiên cứu và do trình độ có hạn của người viết khoá
luận này không tránh được nhiều thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự
góp ý của các thầy cô giáo để bài khoá luận này được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
WTO
1.1. Sự ra đời của WTO
1.1.1. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT - Tổ chức
tiền thân của WTO
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT (General agreements
on Tariff & Trade) là tổ chức tiền thân của tổ chức thương mại thế giới WTO.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, GATT được ra đời trong trào lưu hình
thành hàng loạt các cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động kinh tế quốc tế nhằm
khôi phục lại sự phát triển kinh tế thương mại thế giới.
Ý tưởng ban đầu của các nước là thành lập một tổ chức thứ ba cùng với
hai tổ chức được biết đến là Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quĩ tiền tệ

Quốc tế (IMF) nhằm giải quyết các vấn đề hợp tác kinh tế quốc tế trong hệ
thống "Bretton Woods", hình thành các nguyên tắc thế lệ cho thương mại quốc
tế, điều tiết các lĩnh vực về thương mại hàng hoá, công ăn việc làm, hạn chế và
khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc thương mại phát triển. Vì vậy kế hoạch
đầy đủ được trên 50 nước lúc đó dự định là thiết lập tổ chức thương mại thế giới
(ITO) như là một tổ chức chuyên ngành của Liên hợp quốc (UN). Dự thảo hiến
chương ITO rất tham vọng, dự thảo này đã tiến xa hơn các nguyên tắc về thương
mại gồm các lĩnh vực như lao động, hiệp định hàng hoá, thực tiễn hạn chế kinh
doanh, đầu tư quốc tế và dịch vụ.
Trước khi hiến chương ITO được phê chuẩn, 23 trong số 50 nước đã cùng
nhau tiến hành các cuộc đàm phám vế thuế quan xử lý các biện pháp bảo hộ mậu
dịch đang được áp dụng và duy trì trong thương mại quốc tế từ đầu những năm
30. Các nước này mong muốn nhanh chóng thúc đẩy tự do hoá mậu dịch, khôi
phục lại nền kinh tế bị phá huỷ nặng nề sau chiến tranh thế giới thứ II.
Hiến chương thành lập Tổ chức thương mại thế giới đã được thoả thuận
tại Hội nghị Liên hợp Quốc tế về thương mại và việc làm tại Havana từ 11/1947
3
đến 24/3/1948, nhưng do một số nước không tán thành nên việc hình thành tổ
chức thương mại thế giới (ITO) đã không thực hiện được. Tuy nhiên kết quả của
cuộc đàm phán cũng đem lại sự thành công nhất định; đã có 45000 nhượng bộ
về thuế quan, ảnh hưởng đến khối lượng thương mại trị giá 10 tỉ $, tức là gần
1/5 tổng thương mại trên thế giới. 23 nước này đều cùng nhất trí chấp nhận ủng
hộ một số quy định trong hiến chương của ITO. Các quy định này sẽ được thực
hiện hết sức nhanh chóng một cách tạm thời để có thể bảo vệ được thành quả
của những cam kết thuế quan đã được đàm phán. Kết hợp của những qui định
thương mại và cam kết thuế quan được biết đến dưới tên gọi Hiệp định chung về
thuế quan và thương mại (GATT). Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày
11/1/1948. 23 nước tham gia trở thành những thành viên sáng lập GATT, hay
còn gọi là "các bên tham gia hiệp định". Mặc dù GATT chỉ mang tính tạm thời
nhưng đây vẫn là công cụ duy nhất mang tính đa biên điều tiết thương mại thế

giới kể từ năm 1948 cho đến khi WTO được thành lập vào năm 1995 và trong
suốt thời gian đó các văn bản pháp lý của GATT vẫn được duy trì gần giống
năm 1948. Có thêm một số hiệp định mới được đưa vào dưới dạng hiệp định
"nhiều bên" và các nỗ lực cắt giảm thế quan vẫn được tiếp tục. Tất cả những
bước tiến lớn của thương mại quốc tế đã diễn ra thông qua các cuộc đàm phán
thương mại đa biên được biết đến dưới cái tên "vòng đàm phán thương mại".
4
Bảng 1: Các vòng đàm phán của GATT
Năm Địa điểm Chủ đề đàm phán Số nước
1947 Geneva Thuế quan 23
1949 Annecy Thuế quan 13
1951 Torquay Thuế quan 38
1956 Geneva Thuế quan 26
1960 - 1961 Geneva (vòng Dillon) Thuế quan 26
1964 - 1967 Geneva (vòng Kenedy) Thuế quan và các biện
pháp chống bán phá giá
62
1973 - 1979 Geneva ( Vòng Tokyo) Thuế quan và các biện
pháp
phi thuế, các hiệp định
khung.
102
1986 - 1994 Geneva (vòng Uruguay) Thuế quan và các biện
pháp
Phi thuế, dịch vụ, sở hữu
trí
Tuệ, giải quyết tranh
chấp,
Nông nghiệp,WTO...
123

Trong các vòng đàm phán thương mại đầu tiên của GATT chủ yếu tập
trung vào việc cắt giảm thuế quan hơn nữa. Đến vòng Kenedy, nội dung của các
vòng đàm phán đã được mở rộng: đưa ra đàm phàn về hiệp định chống bán phá
giá, số nước tham gia là 62 nước. Tiếp theo là vòng đàm phán Tokyo, kéo dài từ
năm 1973 đến năm 1979 với sự tham gia của 102 nước. Kết quả vòng đàm phán
này bao gồm 9 thị trường công nghiệp hàng đầu trên thế giới cắt giảm trung bình
1/3 mức thuế quan và do đó mức thuế trung bình đối với hàng nông sản giảm
xuống ở mức 47%. Việc cắt giảm thuế quan sẽ được thực hiện trong vòng 8 năm
bao gồm cả vấn đề điều hoà thuế - thuế càng cao thì cắt giảm càng lớn theo tỷ lệ.
5
Tuy nhiên, bên cạnh các vấn đề có kết quả như trên thì đối với các vấn đề
khác kết quả của vòng đàm phán Tokyo là không mấy hoàn hảo. Vòng đàm
phán này đã thất bại trong việc giải quyết một số vấn đề liên quan đến thương
mại hàng nông sản, không đưa ra được hiệp định mới về các biện pháp tự vệ
(biện pháp khẩn cấp đối với hàng nhập khẩu). Mặc dù vậy, đã có nhiều hiệp
định về hàng rào phi quan thuế đã xuất hiện tại vòng đàm phán này (một vài
hiệp định mới hoàn toàn, một vài hiệp định tiếp tục bổ sung thêm từ các qui dịnh
của GATT). Trong phần lớn các trường hợp thì chỉ có một số nước rất nhỏ, chủ
yếu là các nước công nghiệp phát triển chấp nhận tham gia vào các hiêp định
mới này vì họ là những người được lợi ích nhiều nhất. Do đó, các hiệp định này
chỉ được gọi là "hệ thống qui tắc". Những qui tắc này không mang tính chất đa
biên, nhưng đây là một bước khởi đầu mới.
Các "hệ thống qui tắc" của vòng Tokyo:
+ Trợ cấp và các biện pháp đổi kháng - diễn giải điều 6.16 và 23 hiệp định
GATT.
+ Các hàng rào kỹ thuật đổi với thương mại - còn được gọi là: Hiệp định
về tiêu chuẩn.
+ Các thủ tục cấp phép nhập khẩu.
+ Mua sắm chính phủ.
+ Định giá hải quan - diễn giải điều 7.

+ Chống phá giá - diễn giải điều 6, thay cho qui định vòng Kenedy.
+ Thoả thuận về sữa quốc tế.
+ Thương mại máy bay dân dụng.
Một số hệ thống qui tắc sau vòng đàm phán Uuguay đã được điều chỉnh
lại và được cam kết mang tính chất đa biên buộc các nước thành viên phải cùng
nhau thực hiện. Chỉ có 4 hiệp định: mua sắm chính phủ, máy bay dân dụng cho
đến hiện nay vẫn mang tính nhiều bên. Vào năm 1997, hai hiệp định về thịt bò
và sữa đã được huỷ bỏ.
6
Cho đến hết vòng đàm phán Tokyo, GATT hoạt động mang tính tạm thời
và có phạm vi hoạt động hạn chế. Tuy nhiên, GATT đã đem lại những thành
công rất lớn trong việc đảm bảo tự do hoá phần lớn thương mại quốc tế. Chỉ tính
đến việc cắt giảm thuế quan đã khiến cho tốc độ tăng trưởng trung bình của
thương mại thế giới lên mức trung bình trong suốt thập niên 50-60.
Chính tốc độ tự do hoá mậu dịch đã giúp cho tốc độ tăng trưởng của
thương mại luôn luôn vượt qua tốc độ tăng trưởng kinh tế trong suốt thời kỳ
GATT tồn tại. Bên cạnh đó, ngày càng nhiều nước đệ đơn tham gia xin gia nhập
đã cho thấy hệ thống thương mại đa biên đã được công nhận như một công cụ để
phục vụ công cuộc phát triển kinh tế, thương mại của cả thế giới nói chung và
của từng quốc gia nói riêng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đã xuất hiện những vấn đề
mới nảy sinh. Vòng Tokyo đã cố gắng giải quyết một số vấn đề đó nhưng kết
quả mang lại còn khá hạn chế.
GATT đã phải đối mặt với những khó khăn rất lớn.
Thứ nhất, thành công của GATT trong việc cắt giảm thuế quan xuống
mức thấp cộng với tác động của suy thoái kinh tế trong suốt thập niên 70 và 80
đã dẫn đến việc chính phủ các nước đã tiến hành điều chỉnh các hình thức bảo
hộ đối với các lĩnh vực đang phải cạnh tranh với nước ngoài nhằm có thể giữ
được ổn định cho nền kinh tế của họ.
Tỷ lệ thất nghiệp cao cộng với việc phải đóng cửa liên tục nhiều nhà

máy đã buộc chính phủ các nước Tây Âu và Bắc Mỹ phải đi đến thoả thuận song
phương về chia sẻ thị trường với các nhà cạnh tranh và ngày càng tăng dần mức
độ trợ cấp nhằm duy trì được vị trí của mình, nhất là trong thương maị hàng
nông sản. Những thay đổi này có nguy cơ làm giảm và mất đi những giá trị của
việc giảm thuế quan đã mang lại cho thương mại quốc tế, vì vậy hiệu quả và độ
tin cậy của GATT bị suy giảm.
Thứ hai, đến thập niên 80 thì Hiệp định chung không còn đáp ứng được
những yêu cầu thực tiễn của thương mại quốc tế như ở thập niên 40 nữa. Ít nhất
7
thì hệ thống thương mại thế giới đã trở nên phức tạp, đa dạng và quan trọng hơn
rất nhiều so với 40 năm trước. Phần lớn GATT chỉ điều tiết thương mại hàng
hoá hữu hình nhưng ngày nay nền kinh tế thế giới đang trong quá trình toàn cầu
hoá mạnh mẽ, thương mại quốc tế đã phát triển nhanh chóng, thương mại dịch
vụ - lĩnh vực không được hiệp định GATT điều chỉnh đã trở thành lợi ích cơ bản
của ngày càng nhiều nước. Từ ngân hàng, bảo hiểm, vận tải biển, tư vấn ... đã
phát triển không ngừng; đầu tư quốc tế cũng được mở rộng. Thương mại dịch vụ
phát triển cũng kéo theo sự gia tăng hơn nữa của thương mại hàng hoá.
Thứ ba, trong một số lĩnh vực của thương mại hàng hoá GATT cũng còn
nhiều bất cập, ví dụ đối với lĩnh vực nông nghiệp, những lỗ hổng của hệ thống
thương mại đa biên đã bị lợi dụng triệt để và mọi nỗ lực nhằm tự do hoá hàng
nông sản đã không đạt được thành công. Trong lĩnh vực hàng dệt may cũng vậy,
các nước đã cùng nhau miễn trừ các nguyên tắc của GATT và đưa ra một hiệp
định mới là Hiệp định đa sợi.
Thứ tư, cơ cấu tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT cũng
gây ra nhiều lo ngại. GATT chỉ là một hiệp định, việc tham gia không mang tính
chất bắt buộc do vậy các nước có thể tuân theo và cũng có thể không. Bên cạnh
đó, thương mại quốc tế trong những năm 80 trở đi đòi hỏi phải có một tổ chức
cố định, có nền tảng pháp lý vững chắc để có thể đảm bảo thực thi các quy định,
các nguyên tắc chung của thương mại quốc tế. Về hệ thống các quy chế giải
quyết tranh chấp, GATT cũng chưa có cơ chế chặt chẽ, chưa có thời gian biểu

nhất định do vậy các cuộc tranh chấp thường bị kéo dài, dễ đi vào ách tắc.
Đây là những nhân tố khiến cho các thành viên của GATT tin rằng phải
có những nỗ lực mới nhằm củng cố và mở rộng hệ thống thương mại đa biên.
Những nỗ lực đó đã dẫn đến kết quả có vòng đàm phán Uruguay, tuyên bố
Marrakesh và việc tổ chức thương mại thế giới WTO ra đời.
1.1.2. Vòng đàm phán Uruguay và sự ra đời của WTO
1.1.2.1. Vòng đàm phán Uruguay
8
Vòng đàm phán Uruguay là vòng đàm phán lớn nhất cả về thời gian và
các lĩnh vực thương mại. Vòng này kéo dài 7 năm rưỡi, gần bằng 2 lần thời gian
dự định ban đầu. Đến cuối vòng đàm phán số nước tham dự đă lên tới 125 nước;
đây thực sự là vòng đàm phán thương mại lớn nhất từ trước tới nay và có lẽ đây
cũng là cuộc đàm phán thuộc loại lớn nhất trong lịch sử.
Một số thời điểm chủ chốt của vòng Uruguay:
Tháng 9/86 Punta del Este: bắt đầu.
Tháng 12/88 Montreal: rà soát giữa kỳ của các bộ trưởng.
Tháng 4/89 Geneva: Rà soát giữa kỳ hoàn thành.
Tháng 12/90 Brussels: bế mạc hội nghị bộ trưởng trong bế tắc.
Tháng 12/91 Genneva: Dự thảo đầu tiên của "Hiệp định cuối cùng" được
hoàn thành.
Tháng 11/92 Washington: Mỹ và EC đạt được mức bột phá mang tên
"Blair House" trong lĩnh vực nông nghiệp.
Tháng 7/93 Tokyo: Nhóm Quad đạt được bước đột phá về mở cửa thị
trường tại hội nghị thượng đỉnh G7
Tháng 12/93 Geneva: Phần lớn các cuộc đàm phán kết thúc (một số cuộc
thương thảo về mở cửa thị trường được tiếp tục).
Tháng 4/94 Marrakesh: Các hiệp định được ký.
Tháng 1/95 Geneva: WTO được thành lập và các hiệp định bắt đầu có
hiệu lực.
Mặc dù tại một số thời điểm, vòng đàm phán có vẻ như thất bại, nhưng

cuối cùng vòng Uruguay đã đem lại sự cải tổ lớn nhất từ trước tới nay đối với hệ
thống thương mại quốc tế.
Cơ sở cho chương trình nghị sự của vòng đàm phán Uruguay đã được
khởi đầu ngay từ tháng 11 năm 1982 tại Geneva, tuy nhiên phải mất đến 4 năm
để thăm dò làm rõ các vấn đề và xây dựng sự nhất trí thì các bộ trưởng mới đi
đến thống nhất trong việc đưa ra 1 vòng đàm phán mới. Cuộc đàm phán được
bắt đầu tại Punta del Este Uruguay (1986). Chương trình đàm phán bao gồm hầu
9
hết các vấn đề chính sách thương mại còn chưa được điều chỉnh, nhằm mở rộng
hệ thống thương mại đa biên sang một số lĩnh vực mới. Trong đó, quan trọng
nhất là: dịch vụ, sở hữu trí tuệ và cải tổ hệ thống thương mại trong một số lĩnh
vực có tính nhạy cảm cao như hàng nông sản và hàng dệt may, mọi nguyên tắc
về điều khoản ban đầu của GATT đều được rà soát lại.
Hai năm sau đó, vào tháng 12 năm 1988, các Bộ trưởng gặp nhau tại
Montreal, Canada nhằm mục đích kiểm điểm lại những tiến triển tại thời điểm
giữa vòng đàm phán, bên cạnh đó tiếp tục đề ra mục tiêu cho các cuộc đàm phán
tiếp theo. Tuy nhiên, đàm phán đã đi đến bế tắc. Mọi vấn đề chỉ được giải quyết
tại hội nghị ở Geneva 4 năm sau đó. Mặc dù gặp phải nhiều khó khăn, tại hội
nghị Montreal các vị bộ trưởng đều thống nhất thông qua hầu hết các kết quả
ban đầu gồm: các nhượng bộ mở cửa thị trường cho hàng nhiệt đới nhằm mục
đích giúp đỡ các nước đang phát triển; cơ chế giải quyết tranh chấp được đơn
giản hóa và một cơ chế rà soát chính sách thương mại. Từ trước đến nay, đây là
lần đầu tiên đưa ra được một cơ chế thường xuyên, mang tính hệ thống và toàn
diện để rà soát chính sách và thực hành thương mại đối với các nước thành viên
của GATT. Vòng đàm phán này đã dự định kết thúc tại Brussels vào tháng 12
năm 1990, nhưng do bất đồng quan điểm giữa các bên về cách thức tiến hành cải
cách hệ thống thương mại hàng nông sản nên đã phải kéo dài. Đây là thời kỳ
vòng Uruguay đang đi vào giai đoạn khó khăn nhất. Cho dù viễn cảnh chính trị
đen tối, một khối lượng công việc kỹ thuật đáng kể đã được thực hiện và dẫn
đến kết quả là có một dự thảo hiệp định pháp lý cuối cùng, dự thảo này được gọi

là “Dự thảo luật cuối cùng”. Dự thảo này được đệ trình tại Geneva vào năm
1991. Dự thảo đã hoàn tất được tất cả các mục tiêu đề ra tại Punta del Este,
ngoại trừ danh mục cam kết cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường dịch vụ
của các nước. Dự thảo này đã trở thành cơ sở để có được sự thống nhất cuối
cùng.
Trong vòng hai năm tiếp theo, các cuộc đàm phán đã đứng giữa hai ngả,
một bên là thất bại cận kề, một bên là thành công với tới được. Một vài thời hạn
10
cuối cùng được đưa ra và bị vượt quá. Tại vòng đàm phán đã nảy sinh những bất
đồng quan điểm bên cạnh vấn đề nông nghiệp ; đó là dịch vụ, mở cửa thị trường,
các qui tắc chống bán phá giá và đề xuất về việc thành lập một tổ chức thương
mại mới. Tại đây, bất đồng quan điểm của Mỹ và EU chính là nguyên nhân quan
trọng nhất khiến cho vòng đàm phán chưa thể kết thúc thành công được.
Tháng 11 năm 1992, Mỹ và EU đã thống nhất được phần lớn sự khác biệt
trong lĩnh vực nông nghiệp, cả hai đã đưa ra được một thỏa thuận mang tên
“Thỏa thuận Blair House”. Đến tháng 7 năm 1993, nhóm Quad ( Mỹ, EU, Nhật,
Canada ) tuyên bố đã đạt được những thỏa thuận đáng kể trong đàm phán thuế
quan và các vấn đề liên quan đến mở cửa thị trường. Đến 15 tháng 12 năm 1993
thì tất cả mọi vấn đề đều được giải quyết và đàm phán về mở cửa thị trường cho
hàng hóa và dịch vụ được kết thúc. Ngày 15/4/1994, thỏa thuận đã được bộ
trưởng của phần lớn 125 nước tham gia hội nghị ký kết tại Marrakesh, Marốc.
Cuối cùng, vào tháng 1/1995 hội nghị bộ trưởng tại Geneva đã thống nhất
thành lập một tổ chức thương mại mới, tổ chức thương mại thế giới - World
Trade Organization - viết tắt là WTO chính thức được thành lập ; các hiệp định
được kí kết tại vòng đàm phàn Uruguay bắt đầu có hiệu lực.
Nhìn chung tại một số thời điểm, vòng Uruguay có vẻ như đã thất bại, tuy
nhiên cuối cùng thì vòng Uruguay đã đem lại sự cải tổ lớn nhất, là bước tiến
quan trọng nhất đối với hệ thống thương mại thế giới kể từ ngày GATT được
thành lập sau Đại chiến thế giới lần thứ hai. Mặc dù còn gặp phải nhiều vấn đề,
vòng Uruguay đã đem lại một số kết quả ngay từ những ngày đầu: Trong vòng 2

năm các nước tham dự đã nhất trí cắt giảm thuế nhập khẩu với hàng nhiệt đới -
những sản phẩm chủ yếu do các nước đang phát triển xuất khẩu. Các nước cũng
đã nhất trí điều chỉnh các qui định về giải quyết tranh chấp, trong đó một số biện
pháp đã được thực hiện ngay lập tức. Các nước cũng yêu cầu cần có báo cáo
thường xuyên về hệ thống chính sách thương mại của các nước thành viên, đây
là một bước tiến hết sức quan trọng nhằm làm minh bạch hóa hệ thống chính
sách của các nước trên thế giới.
11
Với kết quả của vòng đàm phán Uruguay người ta ước tính thuế quan nói
chung sẽ giảm đi trung bình khoảng 40%. Dự kiến Mĩ sẽ giảm 35%, Canada
45%, ấn Độ 55%, Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) 41%, Đài Loan giảm khoảng 30 -
50% cho hàng công nghiệp và nông sản. Với mức thuế hàng nông sản nói riêng,
trong vòng 6 năm tới tính từ năm 1995 sẽ giảm 36% và mức trợ cấp gây phương
hại cho thương mại bình đẳng cũng sẽ giảm 20%. Do đó, người ta dự đoán rằng
từ năm 1995 đến năm 2002, buôn bán quốc tế sẽ tăng thêm từ 213 - 272 tỷ đô la
mỗi năm, xuất khẩu thế giới mỗi năm tăng 5% nhập khẩu tăng 3,5%.
* Chương trình nghị sự : 15 chủ đề tại vòng đàm phán Uruguay
+ Thuế quan
+ Hàng rào phi thuế quan
+ Sản phẩm tài nguyên thiên nhiên
+ Hàng dệt may
+ Nông nghiệp
+ Sản phẩm nhiệt đới
+ Các điều khoản của GATT
+ Các hệ thống qui định của vòng đàm phán Tokyo
+ Chống phá giá
+ Trợ cấp
+ Tài sản trí tuệ
+ Các biện pháp đầu tư
+ Giải quyết tranh chấp

+ Hệ thống GATT
+ Dịch vụ.
1.2.2. Sự khác nhau giữa WTO và GATT
WTO là một tổ chức thương mại được thành lập trên cơ sở kế thừa
GATT. GATT sau WTO đã được sửa đổi, bổ sung và là một trong những hiệp
định của WTO. Sau đây là những khác biệt chủ chốt :
12
+ GATT chỉ mang tính chất tạm thời. Hiệp định chung về thương mại và
thuế quan chưa bao giờ được quốc hội các nước phê chuẩn; nó không có qui
định nào về việc thành lập một tổ chức nhất định.
WTO và các hiệp định của nó mang tính thường trực lâu dài. WTO là một
tổ chức quốc tế được thành lập bởi sự nhất trí của các quốc gia thành viên. WTO
có nền tảng pháp lý vững chức bởi vì các nước thành viên đã thông qua các
hiệp định và chính các hiệp định đã mô tả phương thức hoạt động của tổ chức.
Các quốc gia thành viên phải thực hiện đúng theo các qui định, nguyên tắc của
WTO và các hiệp định của nó.
+ GATT chỉ có "các bên tham gia ký kết", điều này cho thấy rõ ràng là
GATT chỉ mang tính chất một hiệp định. WTO có các nước thành viên và WTO
là một tổ chức quốc tế.
+ Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT chỉ giải quyết các
vấn đề liên quan đến thương mại hàng hoá. Trong khi đó WTO là tổ chức kế
thừa và phát triển GATT, hiệp định GATT tồn tại cùng với các hiệp định khác
của WTO như hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS); hiệp định về
quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS). WTO đã đưa 3 hiệp
định này vào chung một tổ chức.
+ Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO mang tính tự động và nhanh hơn
so với cơ chế của GATT. Đây là đóng góp lớn nhất của WTO đối với hệ thống
thương mại thế giới.
Trước đây việc giải quyết tranh chấp giữa các nước ký kết GATT được
dựa vào hai cơ chế chủ yếu:

+ Theo điều khoản tham vấn và điều khoản Bảo vệ các ưu đãi và lợi ích.
+ Cơ chế giải quyết tranh chấp của mỗi hiệp định đa phương.
Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT còn bị những hạn chế :
+ Các nghị quyết đạt được không giải quyết được những tranh chấp phát
sinh, thường dẫn đến việc các bên thương lượng hoà giải là chính.
13
+ Hệ thống giải quyết tranh chấp không mang tính tự động do vậy bên bị
kiện có thể dễ dàng gây khó khăn để ngăn cản một nhóm chuyên trách (Ban hội
thẩm) tiến hành hoạt động của mình.
+ Thời hạn tiến hành qui trình giải quyết tranh chấp quá dài.
+ Hệ thống không có cơ chế bảo đảm cho các nghị quyết được thực hiện.
Những khiếm khuyết trên làm giảm bớt những giá trị của tự do hoá
thương mại mà hệ thống thương maị đa phương đem lại các nước đã vấp phải
nhiều khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp với các đối tác mạnh hơn mình.
Đối với WTO, tổ chức thương mại thế giới đã đưa ra được một cơ chế
giải quyết tranh chấp hoàn chỉnh hơn, cho phép các mối quan hệ trong thương
mại quốc tế được giải quyết một cách công bằng hơn, hạn chế được những hành
động đơn phương, độc đoán của các cường quốc thương mại, cho phép nhanh
chóng tháo gỡ những ách tắc thường xảy ra và khó giải quyết trước đây. Các thủ
tục của WTO dựa trên qui định luật pháp và giúp cho hệ thống thương mại an
toàn và dễ dự báo hơn. Hệ thống này dựa trên các qui tắc được xác định rõ ràng
với cả biểu thời gian để hoàn thành một vụ tranh chấp. Một nhóm chuyên gia sẽ
được thành lập cho mỗi tranh chấp. Nhóm này sẽ đưa ra các qui định đầu tiên và
các thành viên WTO có thể ủng hộ hay phản đối, các kháng cáo dựa trên luật là
có thể chấp nhận được. Các thành viên WTO đều nhất trí rằng khi mà một nước
thành viên khác đang vi phạm qui tắc thương mại, họ sẽ sử dụng hệ thống
thương mại đa biên để giải quyết tranh chấp thay cho việc thực hiện các hành
động đơn phương.
Trước đây GATT có thủ tục để giải quyết tranh chấp nhưng nó chưa đưa
ra được thời gian biểu cụ thể, các qui định dễ bị cản trở và nhiều vụ vẫn không

giải quyết được sau một thời gian dài. WTO đã đưa ra một quy trình giải quyết
tranh chấp với thời gian và thủ tục được xác định rõ ràng hơn. Khoảng thời gian
để giải quyết một vụ tranh chấp dài hơn trước kia. Thời hạn cuối cùng cho mỗi
giai đoạn giải quyết tranh chấp rất linh hoạt. Hiệp định nhấn mạnh việc giải
14
quyết nhanh chóng là cần thiết. Các thủ tục và thời gian biểu phải được tuân
theo trong quá trình giải quyết.
WTO cũng không cho phép các nước thất bại trong vụ tranh chấp ngăn
cản việc thi hành quyết nghị. Theo thủ tục của GATT các quyết định chỉ có thể
được thông qua theo các thoả hiệp. Điều đó có nghĩa là chỉ cần một sự phản đối
nào đó cũng có thể ngăn việc thi hành quyết nghị. Nhưng hiện nay các quyết
nghị được thông qua một cách tự động, trừ khi có một thoả hiệp để từ chối một
quyết nghị. Bất kỳ một nước nào muốn ngăn cản một quyết nghị cũng cần phải
thuyết phục các thành viên khác (kể cả đối thủ) đồng ý với quan điểm của mình.
Tóm lại, hệ thống giải quyết tranh chấp được coi là một trong những
thành tựu lớn nhất của WTO.
1.2. Mục tiêu, chức năng và nguyên tắc hoạt động của WTO
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là cơ quan quốc tế duy nhất giải
quyết các qui định về thương mại giữa các quốc gia với nhau. Nội dung chính
của WTO là các hiệp định được hầu hết các nước có nền thương mại cùng nhau
tham gia đàm phán và ký kết. Các văn bản này qui định các cơ sở pháp lý làm
nền tảng cho thương mại quốc tế. Các tài liệu đó về cơ bản mang tính ràng buộc
các chính phủ phải duy trì một chế độ thương mại trong một khuôn khổ đã được
các bên thống nhất. Mặc dù các thoả thuận đạt được là do các chính phủ đàm
phán và ký kết nhưng mục đích lại nhằm giúp các nhà sản xuất kinh doanh hàng
hoá và dịch vụ trong nước; các nhà hoạt động xuất nhập khẩu có thể tiến hành
các hoạt động kinh doanh dễ dàng hơn.
1.2.1. Mục tiêu
Mục tiêu chính của hệ thống thương mại thế giới là nhằm giúp thương
mại được lưu chuyển tự do ở mức tối đa, chừng nào nó còn nằm trong giới hạn

không gây ra các ảnh hưởng xấu không muốn có.
Ngoài ra, WTO còn có những mục tiêu sau:
+ Nâng cao mức sống của con người.
15
+ Bảo đảm tạo đầy đủ công ăn việc làm, tăng trưởng vững chắc thu nhập
và nhu cầu thực tế của người lao động.
+ Phát triển việc sử dụng hợp lý của người lao động.
+ Phát triển việc sử dụng hợp lý các nguồn lực của thế giới .
+ Mở rộng việc sản xuất và trao đổi hàng hóa dịch vụ trên phạm vi toàn
thế giới.
1.2.2 Chức năng của WTO
WTO có những chức năng sau đây:
Chức năng thứ nhất của WTO: Là tổ chức các cuộc đàm phán mậu dịch đa
biên mà nội dung của nó rất đa dạng đề cập lớn tới nhiều lĩnh vực khác nhau.
Thông qua các cuộc đàm phán như vậy, việc tự do hoá mậu dịch của các nước
trên thế giới được phát triển, đồng thời những qui tắc quốc tế mới cũng được
xây dựng và sửa đổi theo yêu cầu của thời đại.
Chức năng thứ hai của WTO: Là một luật lệ quốc tế chung được các
nước thành viên cùng nhau ký kết. WTO đề ra những qui tắc quốc tế về thương
mại và đảm bảo các nước thành viên của WTO phải thực hiện các nguyên tắc
đó. Đặc trưng của các quyết định và qui tắc của WTO là nó có hiệu lực bắt buộc
tất cả các thành viên và có khả năng làm cho mọi thành viên có nghĩa vụ bắt
buộc phải thực hiện. Bất cứ một nước thành viên nào một khi đã thừa nhận "hiệp
định WTO" và những hiệp định phụ khác của WTO thì nước đó cần phải điều
chỉnh hay chuyển các quy định pháp luật và các thủ tục hành chính của mình
theo các quy định của WTO.
Chức năng thứ ba của WTO: Là khả năng giải quyết các mâu thuẫn và
tranh chấp mậu dịch quốc tế. WTO có chức năng như là một toà án giải quyết
các tranh chấp nảy sinh giữa các thành viên trong các lĩnh vực liên quan. Bất cứ
một thành viên nào của WTO khi thấy lợi ích của nước mình đang bị xâm hại

trong hoạt động kinh tế ở một thị trường nào đó vì có thành viên khác đang thực
hiện chính sách trái với các qui tắc của WTO thì có quyền khởi tố lên cơ quan
giải quyết mâu thuẫn mậu dịch của WTO và yêu cầu nước đó ngừng các hoạt
16
động kinh tế xâm hại đến lợi ích của mình. Bất cứ thành viên nào cũng phải
chấp nhận khi bị các thành viên khác khởi tố lên WTO vì đây là một trong
những nghĩa vụ của mọi thành viên, không nước nào có thể tránh khỏi.
Chức năng thứ tư của WTO: Là phát triển nền kinh tế thị trường. Để nền
kinh tế thị trường hoạt động và nâng cao được hiệu quả, WTO xúc tiến việc
giảm nhẹ qui chế. Phần lớn các nước trước kia theo cơ chế quản lý kinh tế kế
hoạch hoá tập trung hiện nay đều đang chuyển sang nền kinh tế thị trường đã và
đang làm thủ tục để xin gia nhập WTO. Qua các cuộc đàm phán cần thiết để gia
nhập WTO, các nước này có thể tìm hiểu được về hệ thống kinh tế thị trường và
đồng thời xắp xếp lại những chế độ và qui tắc để có thể quản lý nền kinh tế theo
cơ chế thị trường.
1.2.3. Các nguyên tắc của WTO
Các hiệp định của WTO mang tính chất lâu dài và phức tạp đó là vì những
văn bản pháp lý bao trùm nhiều lĩnh vực hoạt động rộng lớn. Các hiệp định này
giải quyết các vấn đề liên quan đến: nông nghiệp, hàng dệt may, ngân hàng, bưu
chính viễn thông, mua sắm chính phủ, tiêu chuẩn công nghiệp, các qui định về
vệ sinh dịch tễ, sở hữu trí tuệ và nhiều lĩnh vực khác nữa. Tuy nhiên có một số
các nguyên tắc hết sức cơ bản và đơn giản xuyên suốt tất cả các hiệp định. Các
nguyên tắc đó chính là nền tảng của hệ thống thương mại đa biên. Sau đây là chi
tiết các nguyên tắc đó.
Nguyên tắc thứ nhất: Là thương mại không phân biệt đối xử. Nguyên tắc
này được áp dụng bằng hai loại đãi ngộ song song, đó là đãi ngộ tối huệ quốc và
đối xử quốc gia.
Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): đối xử mọi người bình đẳng như
nhau. Theo qui định của các hiệp định WTO, nguyên tắc này được áp dụng như
sau: Mỗi thành viên đối xử với mọi thành viên khác bình đẳng với nhau như là

các bạn hàng được ưu đãi nhất. Nếu như một nước cho một nước khác được
hưởng lợi nhiều hơn thì đối xử "tốt nhất" đó phải được giành cho tất cả các
nước thành viên WTO khác để các nước khác vẫn tiếp tục có được đối xử tối
17
huệ quốc. Nguyên tắc MFN đảm bảo rằng mỗi thành viên WTO đối xử trên 140
thành viên khác tương tự nhau.
Nguyên tắc này rất quan trọng vì vậy nó được ghi nhận tại điều đầu tiên
của hiệp định chung về quan thuế và thương mại GATT về thương mại hàng
hoá. Nguyên tắc MFN cũng được đề cao trong hiệp định chung về dịch vụ
GATS, hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại TRIMs tuy
có khác nhau một ít ở từng hiệp định.
Đối xử quốc gia (NT): đối xử người nước ngoài và người trong nước như
nhau. Hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước phải được đối xử như nhau,
ít nhất là sau khi hàng hoá nhập khẩu đã đi vào đến thì trường nội địa. Theo
nguyên tắc này, khi áp dụng những qui chế trong nước và thuế nội địa đối với
hàng nhập khẩu thì phải cung cấp các điều kiện tương tự như đối với sản phẩm
trong nước. Vì thế các thành viên của WTO không được áp dụng thuế nội địa để
bảo vệ sản xuất trong nước và không được phân biệt đối xử đối với hàng nhập
khẩu từ các nước thành viên WTO khác.
Nguyên tắc này cũng áp dụng cho dịch vụ nhãn hiệu thương mại, bản
quyền và quyền phát minh sáng chế trong nước và của nước ngoài. Đối xử quốc
gia chỉ áp dụng được khi hàng háo dịch vụ và đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ
đã vào đến thị trường. Vì vậy, việc đánh thuế nhập khẩu hàng hoá không vi
phạm nguyên tắc này mặc dù hàng nội địa không chịu thuế tương tự.
Nguyên tắc thứ hai: Thương mại phải ngày càng được tự do thông qua
đàm phán.WTO đảm bảo thương mại giữa các nước ngày càng tự do hơn thông
qua quá trình đàm phán hạ thấp hàng rào thuế quan để thúc đẩy buôn bán. Hàng
rào thương mại bao gồm thuế quan, và các biện pháp khác như cấm nhập khẩu,
quota có tác dụng hạn chế nhập khẩu có chọn lọc, đôi khi vấn đề khác như tệ
quan liêu, chính sách ngoại hối cũng được đưa ra đàm phán.

Kể từ khi GATT, sau đó là WTO được thành lập đã tiến hành 8 vòng
đàm phán để giảm thuế quan, dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan và mở cửa thị
trường. Để thực hiện nguyên tắc tự do thương mại này, WTO đảm nhận chức
18
năng là diễn đàn đàm phán thương mại đa phương để các nước có thể liên tục
thảo luận về vấn đề tự do hoá thương mại.
Nguyên tắc thứ ba: WTO tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình
đẳng. WTO là một hệ thống các nguyên tắc nhằm thúc đẩy cạnh tranh tự do,
công bằng và không bị bóp méo. Các quy định về phân biệt đối xử được xây
dựng nhằm đảm bảo các điều kiện công bằng trong thương mại. Các đều khoản
về chống phá giá, trợ cấp cũng nhằm mục đích tương tự. Tất cả các hiệp định
của WTO như Nông nghiệp, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương
mại đều nhằm mục đích tạo ra được một môi trường cạnh tranh ngày càng bình
đẳng hơn giữa các nước.
Nguyên tắc thứ tư: Tính tiên liệu được thông qua ràng buộc thuế. Các cam
kết không tăng thuế cũng quan trọng như việc cắt giảm thuế vì cam kết như vậy
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể dự đoán tốt hơn các cơ hội trong
tương lai.
Trong WTO, khi các nước thoả thuận mở cửa thị trường cho các hàng hoá
và dịch vụ nước ngoài, họ phải tiến hành ràng buộc các cam kết thuế. Đối với
thương mại hàng hoá, các ràng buộc này được thể hiện dưới hình thức thuế trần.
Một nước có thể thay đổi mức thuế ràng buộc, tuy nhiên điều này chỉ có
thể thực hiên được sau khi nước đó đã đàm phán với các nước bạn hàng và có
nghĩa là phải bồi thường cho khối lượng thương mại đã bị mất. Qua vòng đàm
phán Uruguay, một khối lượng thương mại lớn được hưởng cam kết về ràng
buộc thuế. Tính riêng trong lĩnh vực hàng nông sản 100% sản phẩm đã được
ràng buộc thuế. Kết quả là WTO đã tạo được sự đảm bảo cao hơn cho các doanh
nghiệp và các nhà đầu tư.
Nguyên tắc thứ năm: Các thoả thuận thương mại khu vực. WTO thừa
nhận các thoả thuận thương mại khu vực nhằm mục tiêu đẩy mạnh tự do hoá

thương mại. Các liên kết như vậy là một ngoại lệ của nguyên tắc đãi ngộ Tối huệ
quốc theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, nhằm bảo đảm các thoả thuận này tạo
19
thuận lợi cho thương mại các nước liên quan song không làm tăng hàng rào cản
trở thương mại với các nước ngoài liên kết.
Nguyên tắc thứ sáu: Các điều kiện đặc biệt dành cho các nước đang phát
triển. WTO là một tổ chức quốc tế với hơn 2/3 tổng số nước thành viên là các
nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi, vì thế một trong những
nguyên tắc cơ bản của WTO là khuyến khích phát triển, dành những điều kiện
đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước này, với mục tiêu đảm bảo sự tham gia
sâu rộng hơn của họ vào hệ thống thương mại đa biên. Để thực hiện được
nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế
đang chuyển đổi những linh hoạt và các ưu đãi nhất định trong việc thực thi các
hiệp định, đồng thời chú ý đến việc trợ giúp kỹ thuật cho các nước này.
20
CHƯƠNG 2. TÁC ĐỘNG CỦA WTO ĐẾN CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT
TRIỂN
2.1. Những ảnh hưởng của WTO đối với các nước đang phát triển
2.1.1. Những ảnh hưởng tích cực
Tổ chức thương mại thế giới WTO là một tổ chức quốc tế, điều tiết hệ
thống thương mại đa biên, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế
thế giới nói chung và đến nền kinh tế của mỗi quốc gia thành viên nói riêng. Đối
với các nước đang phát triển, gia nhập WTO đã mang lại được rất nhiều lợi ích
thiết thực đối với công cuộc phát triển kinh tế của họ. Cùng với quá trình toàn
cầu hoá kinh tế và đặc biệt là sự ra đời của WTO từ năm 1995, tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế bình quân của các nước đang phát triển luôn đạt khoảng từ 4% đến 5%.
Tỷ trọng kinh tế của các nước này trong nền kinh tế toàn cầu đã tăng lên nhanh
chóng, từ 13% năm 1995 lên 29% năm 1998 (chỉ 3 năm, sau khi WTO ra đời).
Tỷ trọng trong thương mại thế giới của các nước đang phát triển cũng tăng lên
từ 11% đến 32% trong cùng thời kỳ. Đến năm 2010, theo dự báo, tỷ lệ này có

thể lên tới 45%. Đặc biệt, các nền kinh tế Đông á trong nhiều năm liền có tốc độ
tăng trưởng nhanh đã đạt đến tỷ lệ 7%. Các nước Mỹ La Tinh cũng đạt mức tăng
trưởng bình quân cao; các nước Châu Phi đã dần dần bước ra khỏi tình trạng bi
đát về kinh tế. Năm 1999, Châu Phi đã đạt mức tăng trưởng 3,6% là mức cao
nhất từ hơn một thập kỷ qua. Một số nước đang phát triển có tốc độ phát triển
cao đã trở thành một trong những động lực thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Đây là
những con số tổng quan về những thành công của hoạt động của tổ chức thương
mại thế giới đối với các nước đang phát triển, làm rõ thêm những ảnh hưởng tích
cực của WTO đến các mặt của nền kinh tế:
Thứ nhất, tất cả các hàng hoá và dịch vụ của các nước đang phát triển là
thành viên của WTO đều được đối xử theo các nguyên tắc, quy định của WTO;
được đối xử bình đẳng, không phân biệt đối với hàng hoá và dịch vụ của các
nước phát triển. Các loại hàng hoá và dịch vụ này khi được xuất khẩu sang bất
kỳ một thị trường của một nước thành viên nào kể cả Mỹ hay EU đều được
21
hưởng mọi quyền lợi mà chính phủ nước đó dành cho hàng hoá và dịch vụ nước
mình.
Thứ hai, các rào cản thuế và phi thuế quan đều buộc phải cắt giảm, các
biện pháp hạn chế định lượng đều bị cấm sử dụng được áp dụng cho mọi thành
viên của WTO không loại trừ một thành viên nào của WTO. Do đó cơ hội xuất
khẩu của các nước đang phát triển gia tăng rõ rệt, thị trường tiêu thụ hàng hoá và
dịch vụ được mở rộng. Các nước đang phát triển đã và sẽ tập trung chuyên môn
hoá các mặt hàng mà mình có lợi thế, nhằm thúc đẩy xuất khẩu ra thị trường
nước ngoài.
Thứ ba, sản xuất trong nước được chú trọng và thu hút được nhiều lao
động, tạo được nhiều công ăn việc làm hơn cho người dân, đặc biệt là trong
những ngành nghề sản xuất phục vụ xuất khẩu làm tăng nhanh sự tăng trưởng
của nền kinh tế và xã hội của nước đó.
Thứ tư, là thành viên của WTO, có nghĩa là các nước đã tạo dựng được
một môi trường kinh tế, chính trị ổn định, tạo được sự tín nhiệm của các nước

trên thế giới. Chính vì vậy, các nước đang phát triển có thể mở rộng được thị
phần của mình trên thị trường quốc tế, giành được nhiều ưu đãi thương mại tạo
được cho mình lợi thế kinh tế chính trị, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư của
nước ngoài.
Thứ năm, các quan hệ kinh tế, văn hoá, chính trị với các nước thành viên
được mở rộng, tiếp thu được nhiều kinh nghiệm tốt trong quản kí kinh tế, xã hội,
khoa học kĩ thuật, tiếp cận được các thành tựu KHKT tiên tiến trên thế giới,
cũng như tiếp thu được các lối sống văn hoá của các nền văn minh khác nhau
trên thế giới.
Thứ sáu, hoạt động của WTO khiến cho cạnh tranh quốc tế ngày càng trở
nên gay gắt, do đó các doanh nghiệp của các nước đang phát triển buộc phải tìm
tòi, khắc phục những hạn chế của mình, đồng thời áp dụng công nghệ mới phát
triển bền vững hoạt động sản xuất kinh doanh, tích tụ được nhiều nguồn lực để
có thể nâng cao khả năng cạnh tranh tích cực trong nước thúc đẩy nền kinh tế
22
phát triển và có đủ năng lực canh tranh được với nước ngoài, thích ứng với xu
hướng toàn cầu hoá hiện nay. Cạnh tranh với bất cứ bản chất nào thì cũng khiến
cho các nước đang phát triển có tầm nhìn tốt hơn, tiếp cận được kỹ thuật công
nghệ tiên tiến của các nước phát triển, đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp nội
địa cải tiến và chấp nhận các tiêu chuẩn giám sát quốc tế tốt nhất, kiểm soát
được rủi ro và thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Thứ bẩy, vấn đề di chuyển lao động giữa các nước thành viên đã trở nên
dễ dàng hơn. Di chuyển lao động tự do đã mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho
các nước đang phát triển. Cái lợi của các nước đang phát triển thường xuyên
xuất khẩu lao động là nhận được một khoản thu nhập ngoại tệ không nhỏ từ tiền
lương mà nước sở tại trả cho người lao động. Theo báo cáo của Economic
Aspects thì trong những năm 1990 - 1995 khoản tiền đó lên đến 70 tỷ USD.
Xuất khẩu lao động có vị trí đặc biệt đối với các nước đang phát triển, vừa thay
đổi cán cân kinh tế vừa tăng sức mua của xã hội thúc đẩy thương mại và sản
xuất nội địa. Thêm vào đó, các nước phát triển thường nhập khẩu lao động từ

các nước đang phát triển và sau thời gian làm việc cho các hãng, công ty kinh
nghiệm, tay nghề và trình độ của người lao động được nâng lên, có khả năng
tiếp cận với nền công nghiệp tiên tiến, khi trở về tổ quốc, họ sẽ trở thành nguồn
nhân lực quan trọng cho phát triển đất nước.
2.1.2. Những ảnh hưởng tiêu cực
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, những lợi ích không nhỏ, nhận được
từ WTO, các nước đang phát triển phải đối mặt với những ảnh hưởng tiêu cực
của nó:
Thứ nhất, trong tổ chức thương mại thế giới, theo các nguyên tắc của nó,
mọi thành viên đều được đối xử như nhau, đều được hưởng mọi đãi ngộ MFN
và NT, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan của các nước đều được giảm
dần... chính vì vậy, thị trường tiêu thụ được mở rộng, các nước đều tập trung sản
xuất theo định hướng xuất khẩu. Các nước đang phát triển cũng không là ngoại
lệ. Các nước này đều chú trọng sản xuất các mặt hàng xuất khẩu mà mình có lợi
23
thế so sánh và mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất là nguyên liệu thô và các mặt hàng
công nghiệp có giá trị thấp. Tuy nhiên trên thực tế, các nước đang phát triển
cũng bị buộc phải sản xuất ra các mặt hàng có giá trị và lợi nhuận thấp đó. Các
nước phát triển sử dụng đòn bẩy thuế quan buộc các nước đang phát triển phải
tập trung khai thác và xuất khẩu hai loại hàng hoá có mức thuế thấp như nguyên
liệu thô và hàng hoá bán thành phẩm, còn mặt hàng công nghiệp có giá trị cao
thì chịu thuế cao hơn và vấn đề tìm kiếm thị trường cũng gặp nhiều khó khăn
hơn, điều này ảnh hưởng rất lớn đến nền công nghiệp nội địa của các nước đang
phát triển. Do các nước đang phát triển chỉ sản xuất được các hàng công nghiệp
có giá trị thấp, không chú trọng được vào đầu tư và phát triển các ngành công
nghiệp giá trị cao và phải nhập khẩu các mặt hàng này từ các nước phát triển.
Công nghiệp nội địa của các nước đang phát triển do đó không có cơ hội để
phát triển. Mặt khác, trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, vai trò của các ngành
công nghiệp dịch vụ và lao động kỹ năng ngày càng tăng lên và cùng với nó là
sự giảm dần tầm quan trọng của các hàng hoá sơ chế và lao động không kỹ

năng. Bên cạnh đó, sự tiến bộ trong khoa học công nghệ cũng không chỉ làm
thay đổi cơ cấu mà còn làm thay đổi tầm quan trọng của các sản phẩm đầu vào.
Các ngành công nghiệp hiện đại ngày càng ít sử dụng tài nguyên thiên nhiên, do
đó chúng không còn là yếu tố cạnh tranh quan trọng nữa. Điều này đã khiến cho
các nước đang phát triển vốn là những nước xuất khẩu hàng hoá sơ chế và
nguồn lao động không kỹ năng rơi vào tình trạng rất bất lợi.
Thứ hai, trong lĩnh vực nông nghiệp, các nước đang phát triển cũng phải
chịu những tác động rất lớn trong quá trình điều tiết hệ thống thương mại đa
biên của WTO:
Do định hướng xuất khẩu, nền nông nghiệp của các nước đang phát triển
cùng chú trọng vào sản xuất các mặt hàng có giá trị xuất khẩu, đất đai ngày càng
khan hiếm, vì một phần bị lấy đi để phát triển công nghiệp, thành thị. Sản lượng
lương thực của nhiều nước giảm đi rõ rệt. Điều đó, có nghĩa là sự sản xuất nông
nghiệp tự cung tự cấp đã không thoả mãn yêu cầu của nhân dân trong nước do
24
sự bành trướng của cây công nghiệp. Rất nhiều nước đang phát triển, vấn đề an
ninh lương thực bị đe doạ nghiêm trọng, buộc các nước này phải nhập khẩu
lương thực từ nước ngoài, mức độ lệ thuộc lương thực của các nước này ngày
càng gia tăng.
Sự chênh lệch giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn ngày càng trở
nên rõ rệt hơn. Các nước đang phát triển phần lớn đều phải gánh chịu tình trạng
dù tỷ lệ tăng trưởng của cả nước khá cao và ngày càng gia tăng nhưng tại các
khu vực nông thôn, tình trạng đói nghèo vẫn tồn tại, có nơi còn tăng lên. Sự
phồn vinh chỉ thấy được tại các khu vực thành thị. Nguyên nhân của hiện tượng
này là do các nước đangphát triển quá chú trọng vào phát triển công nghiệp,dẫn
đến sự phát triển bất cân đối, các nguồn lực ít được đầu tư cho nông nghiệp,
nông dân không có đủ điều kiện để phát triển sản xuất.
Thứ ba, xu hướng đô thị hoá cộng với tình trạng nguồn lực của nông thôn
bị hạn chế buộc rất nhiều nông dân ra thành phố kiếm sống. Nhiều thành phố vì
thế đã trở nên quá tải, mật độ dân cư tăng lên quá nhanh ,đã khiến cho tình trạng

ô nhiễm, các tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông... tăng vọt.
Thứ tư, để thực hiện theo quy định của WTO, các nước đang phát triển sẽ
bị thúc ép, buộc phải từ bỏ ngày càng nhiều các chính sách hiện hữu đang bảo
vệ và phát triển nền kinh tế nội địa của mình cho hàng hoá và dịch vụ của nước
ngoài tự do tràn vào, gây ra các tác động xấu:
Phải mở cửa nền kinh tế khi đất nước chưa đủ tiềm lực và sự chuẩn bị đối
phó trước những tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp
trong nước chưa đủ mạnh và chưa chuẩn bị sẵn sàng để cạnh tranh với các tập
đoàn lớn, có thể các công ty, tập đoàn đó sẽ thế chân họ trên thị trường trong
nước.
Hàng hoá hoặc dịch vụ nước ngoài có thể tràn ngập thị trường, thế chỗ
hàng hóa và dịch vụ nội địa do chúng có sức cạnh tranh cao hơn, như giá rẻ hơn,
chất lượng tốt hơn. Do vậy, các công ty nước ngoài sẽ ngày càng chiếm được
nhiều thị phần của khu vực nội địa.
25

×