Nguyễn Đặng Tuấn - 342204
Lời Nói Đầu
Trong 10 năm qua, (Tổ chức Thương mại thế giới) WTO đã chứng kiến
khoảng 2.100 vụ tranh chấp về bán phá giá, 180 vụ kiện chống trợ cấp và hàng
chục vụ liên quan đến tự vệ thương mại giữa các thành viên. Và cùng với xu
hướng ngày càng gia tăng các luồng giao thương quốc tế thì con cũng sẽ không
ngừng tăng. Trong bối cảnh đó, cơ chế giải quyết tranh chấp (DSM) của Cơ
quan giải quyết tranh chấp (DSB) của WTO là một trong những nền tảng, công
cụ hữu hiệu của thế giới trong việc giữ vững trật tự thương mại đa phương ngày
nay. Chính vì vậy việc nghiên cứu về vai trò của WTO trong việc giải quyết các
tranh chấp thương mại quốc tế ngày càng trở nên cần thiết.
Nội Dung
I. Khái quát chung về Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và chức năng
giải quyết các tranh chấp thương mại:
Được thành lập từ năm 1944, WTO là một tổ chức quốc tế có chức năng
giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo
các quy tắc thương mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm
thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại. Tính đến ngày 23
tháng 7 năm 2008, WTO có 153 thành viên. Mọi thành viên của WTO được yêu
cầu phải cấp cho những thành viên khác những ưu đãi nhất định trong thương
mại.
Chức năng giải quyết các tranh chấp thương mại là một trong 6 chức năng
chính của WTO. Cơ sở pháp lý của cơ quan và chức năng giải quyết các tranh
chấp thương mại của WTO là thỏa thuận về giải quyết tranh chấp của WTO, cơ
chế này được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển án lệ của GATT 1947
dựa trên Điều XXII và XXIII Hiệp định GATT 1947. Cơ quan giải quyết tranh
chấp (DSB) của WTO đóng vai trò như một loại cơ quan tài phán quốc tế theo
nghĩa là một cơ quan có thẩm quyền đưa ra những quyết định có tính chất ràng
buộc về mặt pháp lý đối với các bên tranh chấp. Và tại WTO tất cả các thành
viên đều phải chấp nhận quyền tài phán của Cơ quan giải quyết tranh chấp.
II. Cơ chế giải quyết các tranh chấp thương mại của WTO
DSM được xây dựng trên bốn nguyên tắc:
- Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên tranh chấp: theo nguyên tắc này các
nước thành viên tranh chấp dù là nước lớn hay nhỏ, phát triển, hay chậm phatd
triển trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh
- 1 -
Nguyễn Đặng Tuấn - 342204
- Nguyên tắc bí mật: Các cuộc họp của Ban hội thẩm, của CƠ quan phúc
thẩm là các cuộc họp kín, không công khai, các bên tranh chấp chỉ được mời
tham dự khi cần thiết.
- Nguyên tắc “đồng thuận nghịch” : Điều 6.1, 16.4, 17.14 quy định viếc ra
quyết định thành lập Ban hội thẩm, thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm và
Cơ quan phúc thẩm đều dựa trên nguyên tắc đồng thuận nghịch. Tức trong mọi
trường hợp , Ban hội thẩm sẽ được thành lập một cách tự động để giải quyết
tranh chấp trừ khi DSB quyết định trên cơ sở nhất trí chung không thành lập Ban
hội thẩm. Tương tự như vậy với Báo cáo của ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm.
- Nguyên tắc đối xử ưu đãi với các nước thành viên đang phát triển và
chậm phát triển. Các nước này sẽ được hỗ trợ về mặt pháp lý, có thể được kéo
dài một số thời hạn trong quá trình giải quyết tranh chấp, quyền lợi và tình hình
kinh tế của các nước này sẽ được chú ý tới trong các giai đoạn của quá trình giải
quyết tranh chấp.
Theo quy định trong WTO, chỉ có chính phủ mới có quyền tham gia các
vụ kiện, giải quyết tranh chấp. Theo cơ chế này, khi chính phủ một nước thành
viên cho rằng một nước khác có những chính sách, hành động gây phương hại
(trực tiếp hoặc gián tiếp) đến quyền lợi của mình, họ có quyền nêu vấn đề với
DSB.
Trình tự giải quyết 1 vụ tranh chấp thông thường trải qua các bước cơ bản sau:
- Hòa giải: DSB khuyến khích hòa giải nhằm giải quyết tranh chấp, nếu
hòa giải thất bại, ban sơ thẩm (panel) sẽ được thành lập.
- Sơ thẩm: Ban sơ thẩm thông thường gồm 3 chuyên gia (có chuyên môn,
kinh nghiệm về luật thương mại quốc tế) từ các nước không liên quan đến vụ
kiện, sẽ hoàn thành công việc của mình trong vòng 6 tháng (trong một số trường
hợp khẩn cấp, phải giải quyết trong 3 tháng). Báo cáo (phán quyết) của Ban sơ
thẩm sẽ được DSB thông qua (hoặc phủ quyết) trên cơ sở đồng thuận trong thời
hạn 60 ngày. Nếu một bên có liên quan trong vụ kiện không chấp nhận phán
quyết, quá trình phúc thẩm sẽ bắt đầu.
- Phúc thẩm: Phúc thẩm là nội dung mới trong quá trình giải quyết tranh
chấp thương mại trong WTO. Ban phúc thẩm (appellete body) gồm 7 thành
viên, có thời hạn tối đa 60 ngày để hoàn thành công việc. Báo cáo của Ban phúc
thẩm, sau khi được DSB thông qua trên cơ sở đồng thuận, sẽ được các bên trong
- 2 -
Nguyễn Đặng Tuấn - 342204
vụ kiện chấp thuận không điều kiện và có tính ràng buộc pháp lý, trừ khi DSB
bỏ phiếu đồng thuận phủ quyết (negative consensus). Các bên có liên quan trong
vụ kiện sẽ thông báo với DSB về kế hoạch thực hiện phán quyết, và DSB sẽ
thực hiện chức năng giám sát quá trình thực hiện phán quyết cho đến khi tranh
chấp được giải quyết.
Sau khi có phán quyết cho tranh chấp, các bên liên quan sẽ đàm phán để
đạt được giải pháp về đền bù (cho bên chịu thiệt hại trong tranh chấp). Nếu
không đạt được đền bù, DSB cho phép nước đi kiện trả đũa thông qua việc chấm
dứt ưu đãi dành cho bên kia, thông thường trong cùng lĩnh vực với vụ kiện. Tuy
nhiên, nước đi kiện cũng có thể trả đũa trong lĩnh vực khác, ví dụ, trong vụ kiện
về chuối giữa Ecuador với EU, khi được xử thắng kiện và được phép trả đũa,
Ecuador đã chấm dứt việc áp dụng các ưu đãi trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ với
EU.
III. Bình luận về những ưu điểm của hệ thống giải quyết tranh chấp của
WTO và những khắc phục từ nhược điểm của GATT.
Ra đời trên cơ sở GATT (Hiệp định chung về thương mại và thuế quan),
WTO đã đánh dấu một bước ngoặt lớn cho hệ thống giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế bằng việc khắc phục được những hạn chế đã làm giảm tính
hiệu lực và hiệu quả mà GATT đã vấp phải. Mà đó là:
- Thứ nhất, tiến trình giải quyết tranh chấp của WTO được tiến hành một
cách tự động nhờ nguyên tắc “Đồng thuận nghịch” như đã nêu ở trên. So với
GATT với một tiến trình không ổn định, không rõ ràng, dễ bị trì hoãn ở mọi giai
đoạn bởi mọi hoạt động đều đặt trên cơ sở ra quyết định đồng thuận do đó việc
chấp nhận các bản báo cáo và thực thi có thể bị ngăn chặn ở mọi bước bởi sự
phản đối kiên quyết của các bên tranh chấp. Thì với nguyên tắc “Đồng thuận
nghịch” WTO đã khắc phục được một trong những nhược điểm lớn nhất của
GATT và cũng từ đó mà giảm được thiệt hại cho các quốc gia bị gây hại từ việc
rút ngắn được thơi gian tranh chấp.
- Thứ hai, trước đây việc giải quyết của GATT chỉ được tiến hành ở một
cấp, tức là chỉ được xem xét thông qau Ban hội thẩm. Các bên tranh chấp không
có quyền kháng cáo, GATT không có Cơ quan phúc thẩm để xem xét lại vụ
tranh chấp một cách thỏa đáng. Thì nay, theo quy định của DSU, các bên tranh
chấp có quyền kháng cáo Báo cáo của Ban hội thẩm và việc xem xét kháng cáo
- 3 -
Nguyễn Đặng Tuấn - 342204
này sẽ do một cơ quan độc lập với Ban hội thẩm thực hiện gọi là cơ quan phúc
thẩm. Cơ quan phúc thẩm thường trực sẽ được DSB thành lập và nghe ý kiến
kháng cáo về các vụ việc của Ban hội thẩm. Và với quy trình này thì tính chính
xác trong việc giải quyêt tranh chấp giữa các bên sẽ được đảm bảo hơn nhiều so
với GATT.
- Thứ ba là phạm vi điều chỉnh của WTO đã được mở rộng bao gồm hàng
loạt các lĩnh vực thương mại như thương mại hóa, thương mại dịch vụ, sở hữu
trí tuệ, cơ chế rà soát chính sách thương mại, giải quyết tranh chấp thương mại
quốc tế.
- Thứ tư, Trong vòng 30 ngày sau ngày thông qua Báo cáo của Ban hội
thẩm hoặc Cơ quan phcus thẩm. Tại cuộc họp của DSB được tổ chức, thành viên
liên quan phải thông báo cho DSB về các dự định của mình đối với việc thực
hiện các khuyến nghị và phán quyết của DSB. Nếu không thể thực hiện được
việc tuân theo ngay lập tức các khuyến nghị và phán quyết thì thành viên liên
quan sẽ có một khoảng thời hạn hợp lý để thực hiện mà theo điều 21.3 của DSU
đó là: Khoảng thời gian do thành viên có liên quan đưa ra với điều kiện là thời
hạn đó được DSB thông qua; Nếu như không được phê duyệt như vậy thì sẽ là
khoảng thời gian các bên tranh chấp thỏa thuận trong vòng 45 ngày sau ngày
thông qua các khuyến nghị và phán quyết; nếu không đạt được thỏa thuận giữa
các bên thì sẽ là khoảng thời gian được xác định thông qua biện pháp trọng tài
bắt buộc trong vòng 90 ngày sau ngày thông qua các khuyến nghị và phán quyết.
Khi hết thời hạn thi hành phán quyết mà bên vi phạm đã thua kiện không chịu
điều hành biện pháp thương mại bị khiếu nại cho phù hợp với các nghĩa vụ theo
các hiệp định, thỏa thuận có liên quan của WTO, thì bên thắng kiện có thể yêu
cầu bồi thường hoặc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ
khác (trả đũa). Điểm này giúp cho việc thực thi các phán quyết được đảm bảo
hơn bởi các phán quyết đã được quy định rõ ràng một khoảng thời gian hạn chế
để bên vi phạm thi hành phán quyết và hơn nữa việc thi hành các phán quyết sẽ
được DSB giám sát một cách chặt chẽ. Khắc phục được một nhược điểm lớn của
GATT khi với cơ chế của GATT các nước thành viên có thể ngăn cản việc thực
thi phán quyết với vô số cách cùng với nguyên tắc “đồng thuận” hay việc thi
hành phán quyết sẽ bị các bên vi phạm kéo dài nhiều năm gây ảnh hưởng xấu tới
bên bị vi phạm.
- 4 -
Nguyễn Đặng Tuấn - 342204
- Thứ năm, Ban hội thẩm của WTO được ưu tiên lựa chọn từ các chuyên
gia độc lập, không làm việc cho chính phủ, có uy tín quốc tế trong luật thương
mại quốc tế. Trước đây với GATT, rất khó để tìm thấy một thành viên đủ năng
lực của Ban hội thẩm và ban hội thẩm của GATT thường né tránh hơn là đối đầu
trực tiếp với khó khăn và những gì Ban hội thẩm tìm được thường không có mấy
giá trị trong việc kết thúc tranh chấp.
- Cuối cùng là cùng với đối xử ưu đãi với các nước thành viên chậm và
đang phát triển WTO đã bảo vệ được lợi ích của các nước đang và chậm phát
triển trong quá trình giải quyết tranh chấp.
IV. Về Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của WTO đối với các nước
đang phát triển, phát triển và Việt Nam.
Như đã nói, là một trong những nền tảng của trật tự thương mại thế giới
hiện nay. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của WTO đóng vai trò rất
quan trọng trong giao lưu thương mại đang ngày một gia tăng hiện nay. Có ý
nghĩa thiết thực với cả các nước phát triển, đang phát triển và cả với Việt Nam
chúng ta.
1. Với các nước đang phát triển
Được hưởng quy chế đối xử đặc biệt và khác biệt (S&D) trong việc thực
thi các quy định chung của WTO, trong đó có cả DSM thông qua: trợ giúp về
pháp lý, ưu đãi trong thủ tục giải quyết tranh chấp v.v. Việc áp dụng quy chế
S&D được các nước ĐPT và chậm phát triển vận dụng tối đa trong các vụ kiện,
tranh chấp thương mại trong WTO. Chính vì vậy cơ chế giải quyết tranh chấp
trong WTO được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu đối với các nước
đang phát triển nói chung nhằm bảo đảm công bằng thương mại và giảm nguy
cơ tranh chấp thương mại leo thang. Tính đến nay, trong tổng số gần 500 vụ
kiện, tranh chấp thương mại được đưa ra WTO, thực tế số lượng các vụ kiện do
các nước đang phát triển khởi xưởng chiếm phần lớn chứng tỏ sự tham gia, vận
dụng tích cực cơ chế DSM trong WTO của các nước đang phát triển.
Bên cạnh đó, khi giải quyết tranh chấp thông qua DSM, các nước đang
phát triển cũng gặp nhiều khó khăn. Trước hết, quy trình khởi kiện là phức tạp
và đòi hỏi một đội ngũ nhân sự có chuyên môn, hệ thống các cơ quan đại diện
ngoại giao – thương mại rộng khắp trên thế giới, các ngành công nghiệp, doanh
nghiệp hùng mạnh ở trong nước.. để tham gia các vụ kiện. Các nước đang phát
- 5 -