Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Kế hoạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam thời kỳ 2001-2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.18 KB, 105 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thương mại quốc tế đóng một vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới trong đó xuất khẩu là hoạt động thương
mại cực kỳ quan trọng. Nó cho phép quốc gia khai thác được lợi thế của mình
trong phân công lao động quốc tế tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất
nước.
Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế tạo tiền đề vững chắc cho công
cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và là mũi nhọn ưu tiên trong nền
kinh tế quốc dân.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục nhấn mạnh tầm
quan trọng của chiến lược “phát triển kinh tế hướng mạnh và xuất khẩu” nhằm
đẩy mạnh tốc độ phát triển nước ta thời kỳ 2001-2010 và thúc đẩy nhanh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết cũng khẳng định xuất
khẩu là một nhân tố quan trọng để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Việt Nam.
Nhờ hệ thống cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước được xây dựng
khá hoàn chỉnh và đổi mới, xuất khẩu của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
lớn trong các năm qua. Tuy nhiên, nhìn lại chặng đường đã qua ta thấy những
thành tựu của hoạt động xuất khẩu vẫn còn khá khiêm tốn so với tiềm năng của
đất nước, đặc biệt là khoảng cách so với các nước trong khu vực còn quá lớn. Vì
vậy, việc đề ra kế hoạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của nước ta là hết sức
cần thiết nhằm khai thác tối đa lợi thế của đất nước, tạo ra sức cạnh tranh của
hàng hoá Việt Nam và tìm “đầu ra” cho các hàng hoá này.
Với kiến thức đã được học ở trường và quá trình thực tập tại Vụ Kế hoạch
Thống Kê - Bộ Thương mại, tôi xin nghiên cứu đề tài: “Kế hoạch xuất khẩu các
mặt hàng chủ lực của Việt Nam thời kỳ 2001-2005”.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Vai trò của xuất khẩu đối với phát triển kinh tế Việt Nam.
Chương II: Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực thời kỳ 1996-2000.
Chương III: Giải pháp thực hiện kế hoạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực


của Việt Nam thời kỳ 2001-2005.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy Cô giáo hướng dẫn cùng các anh, chị
trong Vụ Kế hoạch Thống Kê - Bộ Thương mại đã tận tình hướng dẫn và tạo
điều kiện thuận lợi để tới hoàn thành đề tài này.
Trong thời gian thực tập và nghiên cứu tại Vụ Kế hoạch Thống Kê - Bộ
Thương mại, mặc dù có nhiều cố gắng, song do kiến thức cũng như thực tiễn còn
nhiều hạn chế nên bài viết sẽ không tránh khỏi sai sót. Tôi mong được sự quan
tâm góp ý của các thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn nữa.
CHƯƠNG I. VẠI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH
TẾ VIỆT NAM
I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hoá
và dịch vụ bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ tăng tích luỹ cho ngân sách
nhà nước, đồng thời phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống cho
nhân dân. Hoạt động xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với việc buôn bán trong
nước bởi vì hoạt động này diễn ra trên một thị trường rộng lớn, đồng tiền thanh
toán là ngoại tệ mạnh, hàng hoá được vận chuyển ra ngoài quốc gia và đặc biệt là
quan hệ buôn bán với nước ngoài. Do vậy, các quốc gia khi tham gia vào hoạt
động giao dịch quốc tế đều phải tuân thủ theo các thông lệ quốc tế hiện hành.
2. Các hình thức xuất khẩu hàng hoá phổ biến
2.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu sản phẩm do chính doanh
nghiệp sản xuất ra hay đặt mua từ các đơn vị sản xuất trong nước sau đó xuất
khẩu ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng của mình.
Hình thức này có ưu điểm là: lợi nhuận mà doanh nghiệp thu về cao hơn
so với các hình thức xuất khẩu khác vì không phải chia sẻ lợi nhuận cho khâu
trung gian. Với vai trò người bán trực tiếp doanh nghiệp có thể nâng cao uy tín
của mình trên thị trường thông qua phẩm chất, chất lượng của hàng hoá.
Tuy nhiên hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư một lượng vốn

lớn do phải ứng trước ở khâu thu mua và rất có thể gặp rủi ro như hàng hoá
không bán được, thanh toán chậm, lãi suất tiền vay của ngân hàng tăng...
2.2. Hình thức hàng đổi hàng
Hình thức này đã xuất hiện từ rất lâu nhưng nó vẫn còn phổ biến cho đến
ngày nay. Hình thức này tuy nước xuất khẩu không thu được ngoại tệ nhưng lại
bán được hàng hoá của mình và nhận về những hàng hoá khác của nước nhập
khẩu mà mình đang cần. Phạm vi sử dụng hình thức này trong những trường hợp
thích hợp thì nó rất có lợi cho người sản xuất lẫn người xuất khẩu.
2.3. Xuất khẩu gia công uỷ thác
Theo hình thức này đơn vị ngoại thương đứng ra bán nguyên liệu, bán
thành phẩm cho xí nghiệp gia công, sau đó thu hồi thành phẩm để bán lại cho
bên nước ngoài.
Các bước tiến hành gia công uỷ thác như sau:
- Ký kết hợp đồng với bên nước ngoài và nhập nguyên liệu.
- Ký hợp đồng gia công uỷ thác đối với đơn vị trong nước.
- Giao nguyên vật liệu cho bên gia công theo định mức.
- Thanh toán phí gia công cho đơn vị chế biến và nhận chi phí uỷ thác
gia công được nhận.
Hình thức này có ưu điểm là: Không cần bỏ nhiều vốn vào kinh doanh
nhưng vẫn thu được lợi nhuận, rủi ro ít, việc thanh toán bảo đảm vì đầu ra chắc
chắn. Khi xuất khẩu gia công uỷ thác đơn vị có thể xuất khẩu một phần phụ liệu
phục vụ cho quá trình gia công, nhưng điều này đòi hỏi phải làm nhiều thủ tục
xuất khẩu, cán bộ kinh doanh phải dày dặn kinh nghiệm.
2.4. Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức xuất khẩu mới nhưng đang được phổ biến rộng rãi. Đặc
điểm của hình thức này là không vượt qua khỏi ranh rới quốc gia. Do vậy, giảm
được chi phí cũng như rủi ro trong quá trình vận chuyển, bảo quản hàng hoá.
Thủ tục xuất khẩu theo hình thức này khá đơn giản, không nhất thiết là
phải có các hợp đồng phụ trợ như hợp đồng vân tải, bảo hiểm hàng hoá, thủ tục
hải quan... Ngoài ra, việc thanh toán cũng tương đối đơn giản, đồng tiền thanh

toán do hai bên thoả thuận. Tuy nhiên, xuất khẩu theo hình thức này thì giá sẽ
không cao với các hình thức khác.
2.5. Tạm nhập tái xuất
Hình thức này là doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá từ một quốc gia khác
sau đó chế biến hàng hoá này rồi lại đem xuất khẩu với mục đích là thu được số
ngoại tệ hàng hoá nhiều hơn với số tiền bỏ ra mua hàng.
Ở hình thức này, hàng hoá có thể đi từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất,
rồi từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu, hoặc hàng có thể đi từ nước xuất khẩu
sang thẳng nước nhập khẩu, nước tái xuất sẽ trả tiền cho nước xuất khẩu và thu
tiền của nước nhập khẩu.
Ngoài các hình thức xuất khẩu nêu trên còn có các hình thức xuất khẩu
khác như: xuất khẩu theo nghị định thư, chuyển khẩu...
II. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG KẾ HOẠCH 5 NĂM XUẤT KHẨU
HÀNG HOÁ
1. Sự cần thiết xây dựng kế hoạch 5 năm
Việc bảo đảm tính kế hoạch của sự phát triển trên quy mô toàn bộ nền
kinh tế quốc dân đòi hỏi phải xây dựng hệ thống các kế hoạch như thế nào để có
thể bao quát được mọi quá trình phát triển kinh tế, mọi cấp quản lý và các thời
hạn khác nhau của sự phát triển kinh tế xã hội. Xuất phát từ yêu cầu của tính
đồng bộ trong công tác kế hoạch hoá kinh tế quốc dân, hệ thống các kế hoạch
được xây dựng phù hợp với cơ cấu quản lý. Kế hoạch kinh tế quốc dân thống
nhất tương ứng với công tác kế hoạch hoá trên quy mô cả nước. Kế hoạch của
các bộ và cơ quan chủ quản ngành tương ứng với công tác kế hoạch hoá theo
ngành hoặc tổ hợp ngành.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định “xây
dựng kế hoạch 5 năm trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống kế hoạch hoá phát
triển”. Đối với Việt Nam kế hoạch 5 năm giữ vững vị trí trung tâm vì:
. Thời hạn 5 năm là thời hạn thường trùng lặp với nhiêm kỳ làm việc của
cơ quan Chình phủ, là thời hạn mà theo đó lợi tức đầu tư bắt đầu có sau 1 năm
hoặc một vài năm, đảm bảo sự lãnh đạo về kinh tế phù hợp với các đường lối,

quan điểm chính trị.
. Thời gian 5 năm là đủ dài để cho một chính sách, chương trình , dự án
bắt đầu bộc lộ các mặt mạnh và mặt yếu.
. Thời gian 5 năm đảm bảo cho tính chính xác của các chỉ tiêu kế hoạch ở
tầm vĩ mô. Những kế hoạch trong phạm vi 5 năm thường chính xác hơn, dễ thực
thi hơn những kế hoạch có thời gian dài hơn.
Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các chiến lược và quy hoạch phát triển
trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước. Nó xác định các mục tiêu, chỉ tiêu
tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ 5 năm và xác định
các cân đối, các chính sách phân bố nguồn lực, vốn chi các chương trình phát
triển của khu vực kinh tế Nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân.
Kế hoạch 5 năm có một trình độ cụ thể hoá cao hơn so với kế hoạch dài
hạn. Ngoài ra, bằng cách chia ra từng năm, kế hoạch 5 năm vừa bảo đảm sự ăn
khớp với các kế hoạch hàng năm đồng thời vừa là phần chi tiết hoá của kế hoạch
dài hạn trong thời kỳ đầu của nó. Do đó kế hoạch 5 năm là yếu tố liên kết chính
trong hệ thống kế hoạch, điều ấy cũng quyết định vai trò của nó là hình thức chủ
yếu của kế hoạch nhà nước.
2. Sự cần thiết xây dựng kế hoạch 5 năm về xuất khẩu hàng hoá
Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động quan trọng của nền kinh tế, nó có
vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế và đời sống của nhân dân. Do vậy sự
quản lý của Nhà nước đối với hoạt động này cũng là một tất yếu khách quan. Để
thực hiện nội dung quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, Nhà nước sử
dụng một hệ thống các công cụ quản lý. Trong hệ thống các công cụ quản lý nền
kinh tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng, kế hoạch 5 năm là một công
cụ quan trọng.
Đối tượng của kế hoạch 5 năm về xuất khẩu là hoạt động xuất khẩu của
các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Kế hoạch xuất khẩu là một bộ
phận quan trọng trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội. Nó hướng
các hoạt động xuất khẩu của một quốc gia đi theo một mục tiêu nhất định đồng

thời đưa ra các chính sách và giải pháp cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu
phát triển xuất khẩu một cách có hiệu quả nhất.
Trong bối cảnh mới hiện nay cần lưu ý đến các đặc điểm mới của hoạt
động xuất khẩu và việc lập kế hoạch 5 năm xuất khẩu là hết sức cần thiết và
quan trọng bởi vì:
Một là, có nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu. Trước
đây Nhà nước nắm độc quyền trong hoạt động ngoại thương nên kế hoạch xuất
khẩu chỉ đề cập đến các doanh nghiệp Nhà nước với cách thức tác động bằng các
chỉ tiêu pháp lệnh. Hiện nay, chúng ta đã thừa nhận kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần là tất yếu, mọi thành phần kinh tế đều được tự do kinh doanh trong khuôn
khổ pháp luật, cho nên việc có nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động là tất
yếu. Điều này đòi hỏi cần phải có kế hoạch xuất khẩu với cách thức tác động
mới thì mới có thể tác động có hiệu quả đến hoạt động xuất khẩu, đảm bảo công
bằng cho mọi thành phần kinh tế. Nhà nước cần sử dụng các hình thức kế hoạch
hoá đa dạng thích hợp với từng thành phần kinh tế để vừa giải phóng mọi năng
lực sản xuất, tạo môi trường cho các thành phần sản xuất kinh doanh năng động
với hiệu quả cao, vừa đảm bảo chức năng điều tiết vĩ mô đối với các thành phần
kinh tế.
Hai là, hoạt động xuất khẩu tuân theo sự điều tiết của thị trường. Thừa
nhận kinh tế hàng hoá tất yếu thừa nhận thị trường kinh tế hàng hoá càng phát
triển thì thị trường cũng ngày càng mở rộng và càng khẳng định vai trò của nó
trong đời sống kinh tế-xã hội. Sự vận động của thị trường luôn luôn nảy sinh quá
trình tự điều tiết về quan hệ cung-cầu, trong đó giá cả giữ vai trò quan trọng. Đối
với các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế, mệnh lệnh có hiệu lực tác
động đến kinh doanh là quy luật giá trị, là tiếng gọi của thị trường thông qua hệ
thống thông tin mà họ có thể nhận biết được. Do đó, kế hoạch hoá nền kinh tế
quốc dân về xuất khẩu trên cơ sở sử dụng đúng đắn quan hệ thị trường, lợi dụng
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, làm cho hoạt động xuất khẩu trở nên sôi động
nhưng không rối loạn kế hoạch xuất khẩu xuất phát một phần quan trọng từ thị
trường, nghiên cứu sự vận động của thị trường hiện tại và xu hướng phát triển

trong thời gian tới, từ đó lựa chọn các giải pháp hợp lý để hướng dẫn và điều tiết
hoạt động xuất khẩu và thông qua thị trường đưa kế hoạch vào cuộc sống.
Như vậy, sự vận động của hoạt động xuất khẩu trong cơ chế thị trường
được định hướng và điều tiết của kế hoạch kinh tế quốc dân về xuất khẩu.
Ba là, hoạt động xuất khẩu giữa các nước được tiến hành trên cơ sở tự do,
bình đẳng theo giá cả thị trường. Nếu như trước đây, hoạt động xuất khẩu của
nước ta chủ yếu là với các nước xã hội chủ nghĩa theo các hiệp định Chính Phủ
với những điều kiện ưu đãi thì ngày nay điều đó không còn nữa. Cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật phát triển lực lượng sản xuất với quốc tế hoá nền kinh tế thế
giới lên một trình độ cao. Nền kinh tế thế giới là một thể thống nhất, bao gồm
các nước có chế độ chính trị khác nhau. Tất cả các nước đều muốn mở rộng quan
hệ kinh tế nhưng điều đó phải được tiến hành trên cơ sở tự do, các bên cùng có
lợi. Do đó, kế hoạch hoá kinh tế quốc dân về xuất khẩu làm cho thị trường nước
ta gắn liền với thị trường thế giới, phát huy những ngành, lĩnh vực mà nước ta có
thế mạnh để mở rộng sự hợp tác và phân công lao động với các nước nhằm tăng
nhanh nguồn thu ngoại tệ, thu hút mọi nguồn vốn và tiến bộ kỹ thuật của nước
ngoài để phát triển có hiệu quả nền kinh tế quốc dân.
3. Nội dung của kế hoạch xuất khẩu
Kế hoạch hoá là quá trình hoạt động mang tính tổng hợp, tính liên ngành
từ khâu phân tích, dự báo, xác định mục tiêu, lựa chọn biện pháp thực hiện cho
đến khâu tổ chức thực và kiểm tra. Vì vậy, kế hoạch xuất khẩu gồm các nội dung
chủ yếu sau:
Nội dung của kế hoạch xuất khẩu bao gồm: xác định quy mô, tốc độ xuất
khẩu sản phẩm, danh mục sản phẩm xuất khẩu chủ lực, cơ cấu sản phẩm xuất
khẩu và thị trường xuất khẩu chủ yếu.
3.1. Xác định quy mô và tốc độ tăng của xuất khẩu hàng hoá
Xác định quy mô, tốc độ xuất khẩu phụ thuộc quy mô, tốc độ tăng trưởng
kinh tế và sự biến động trên thị trường quốc tế.
Xác định tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu và tổng kim ngạch xuất khẩu.
Cơ sở để xác định hai chỉ tiêu này dựa vào:

- Dựa vào thống kê về tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân kỳ gốc.
- Dựa vào việc phân tích các yếu tố tạo nên tốc độ tăng xuất khẩu kỳ gốc.
Trên cơ sở đó loại các yếu tố đột biến.
Dự báo một số yếu tố mới của kỳ kế hoạch như: Cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu, thị trường xuất khẩu, giá cả...
Xác định chỉ tiêu về tốc độ kim ngạch xuất khẩu kỳ kế hoạch.
Xác định tổng kim ngạch xuất khẩu kỳ kế hoạch.
3.2. Danh mục sản phẩm xuất khẩu chủ yếu
Để định hướng danh mục sản phẩm xuất khẩu chủ yếu, trước hết cần dựa
vào lợi thế so sánh của đất nước. Từ đó đánh giá danh mục sản phẩm xuất khẩu
chủ yếu. Lợi thế so sánh của Việt Nam trong giai đoạn trước mắt vẫn là tài
nguyên và lao động. Do đó, hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam cần tập trung
vào các ngành hàng khai thác có lợi thế. Lợi thế về tài nguyên là các sản phẩm:
Dầu thô, thuỷ sản, gạo, cà phê, rau quả, cao su, hạt tiêu... Lợi thế về lao động và
các ngành hàng: dệt may, giày dép, điện tử, máy tính, thủ công mỹ nghệ.
Định hướng ngoại thương kỳ kế hoạch và tiến độ hội nhập. Từ đó xác định
danh mục sản phẩm xuất khẩu chủ yếu kỳ kế hoạch. Xu hướng chung của việc
lựa chọn các mặt hàng có lợi thế ở các nước đang phát triển là: giai đoạn đầu,
chọn các mặt hàng có lợi thế về điều kiện tự nhiên và điều kiện lao động rẻ. Giai
đoạn sau lựa chọn các mặt hàng có lợi thế về vốn.
3.3. Định hướng thị trường xuất khẩu
Đây được coi là vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định đến tính khả thi
của kế hoạch. Việc có được thị trường xuất khẩu nghĩa là xác định được nhu cầu
của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Nguyên tắc chung đối với vấn đề này là:
- Phát triển thị trường xuất khẩu kỳ gốc. Từ đó tìm ra và dự báo những
biến động thị trường.
- Xác định danh mục thị trường xuất khẩu với nguyên tắc là: khôi phục thị
trường truyền thống, mở rộng thị trường mới, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.
Ngoài ba nội dung chính trên của kế hoạch xuất khẩu hàng hoá, cần xác
định các chỉ tiêu đánh giá về kết quả đạt được. Đó là kim ngạch xuất khẩu so với

GDP, tốc độ tăng của xuất khẩu so với tốc độ tăng của GDP, kim ngạch xuất
khẩu bình quân (so sáng với chỉ tiêu của nước có nền ngoại thương phát triển).
Từ đó, đánh giá xem hoạt động xuất khẩu có đạt được mục tiêu đề ra và góp
phần vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ đó hay
không.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, mục tiêu của việc xuất
khẩu hàng hoá trước hết là tạo nguồn vốn đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu. Nhập
khẩu hàng hoá đảm bảo cho nhu cầu sản xuất trong nước, do đó cần ưu tiên nhập
khẩu máy móc, thiết bị, nhiên liệu. Mục tiêu thứ hai của nhập khẩu là sự chuyển
dịch cơ cấu ngành, nếu nền kinh tế có được cơ cấu ngành hợp lý, nhu cầu nhập
khẩu sẽ giảm đi. Thứ ba, việc nhập khẩu hàng hoá chủ yếu dựa vào kim ngạch
xuất khẩu, do đó xác định quy mô, tốc độ xuất khẩu cần phải đảm bảo sự tương
quan về quy mô và tốc độ nhập khẩu. Nguyên tắc chung là phải tiến tới cân bằng
được cán cân xuất-nhập khẩu sau đó là xuất siêu. Thực tế, với Việt Nam hiện
nay do danh mục các mặt hàng nhập khẩu và cơ cấu nhập khẩu không hợp lý đã
dẫn đến giá trị và tỷ trọng nhập siêu cao. Do đó, phương hướng phát triển xuất
khẩu trong kế hoạch xuất khẩu tới những bất hợp lý này cần được điều chỉnh.
III. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC ĐỐI
VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
1. Quan niệm về mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Hiện nay, chưa có khái niệm thống nhất nào cho “Mặt hàng xuất khẩu chủ
lực”, mà người ta chỉ mới quan niệm, hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Theo quan niệm của Bộ Thương mại, thì mặt hàng xuất khẩu chủ lực là
mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt từ 10000 USD trở lên. Những mặt hàng
này đóng vai trò chủ lực trong hoạt động xuất khẩu của đất nước. Sự thay đổi
kim ngạch của nó có ảnh hưởng đến tổng kim ngạch nói chung của các quốc gia.
Mặt khác các mặt hàng này có nguồn lực để tổ chức sản xuất ổn định với chi phí
hợp lý, có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định.
Cần lưu ý là quan niệm mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác với quan niệm
mặt hàng xuất khẩu chính mà hiện nay vẫn còn nhiều người nhầm lẫn.

Mặt hàng xuất khẩu chủ lực là mặt hàng được xem xét trong phạm vi toàn
quốc gia, sự ảnh hưởng và vai trò của nó có tác động đến tổng kim ngạch xuất
khẩu nói chung của nước đó. Còn mặt hàng xuất khẩu chính là mặt hàng xem xét
ở trong lĩnh vực từng ngành cụ thể. Nó có vai trò và ảnh hưởng lớn đến tổng kim
ngạch xuất khẩu của ngành hàng đó. Tuy nhiên, nếu xem xét về tầm vĩ mô của cả
nước thì có thể nó chỉ ảnh hưởng một phần nhỏ.
Trong nền thương mại của một nước người ta thường chia thành mặt hàng
xuất khẩu chủ lực, hàng xuất khẩu quan trọng và hàng xuất khẩu thứ yếu. Theo
quan niệm này thì hàng chủ lực là loại hàng chiếm vị trí quyết định trong kim
ngạch xuất khẩu do có thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất trong nước
thuận lợi.
Sự hiểu rõ quan niệm “mặt hàng xuất khẩu chủ lực” cho phép ta đánh giá
đúng và chính xác vai trò của nó cũng như phép chúng ta đề ra các giải pháp để
đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng này.
2. Sự hình thành hàng xuất khẩu chủ lực
Vấn đề xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã được Nhà nước đề ra
từ cuối những năm 1960. Tuy nhiên, mới chỉ gần đây, khi chúng ta tiếp xúc
mạnh mẽ với nền kinh tế thị trường của thế giới, chúng ta mới cảm nhận vấn đề
một cách nghiêm túc.
Hàng xuất khẩu chủ lực được hình thành như thế nào?
Trước hết nó được hình thành qua quá trình thâm nhập vào thị trường
nước ngoài, qua những cuộc cọ xát cạnh tranh mãng liệt trên thị trường thế giới.
Và cuộc hành trình đi vào thị trường thế giới ấy kéo theo việc tổ chức sản xuất
trong nước trên quy mô lớn với chất lượng phù hợp với đòi hỏi của người tiêu
dùng. Nếu đứng vững được thì mặt hàng đó liên tục phát triển.
Như vậy, một mặt hàng chủ lực ra đời ít nhất cần có 4 yếu tố cơ bản:
1. Tận dụng được lợi thế so sánh của đất nước.
2. Có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được
trên thị trường đó.
3. Có nguồn lực để tổ chức sản xuất và sản xuất với chi phí thấp để thu

được lợi trong buôn bán.
4. Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
đất nước.
Vị trí của mặt hàng xuất khẩu chủ lực không phải là vĩnh viễn. Một mặt
hàng ở thời điểm này có thể được coi là hàng xuất khẩu chủ lực, nhưng ở thời
điểm khác thì không.
Việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có ý nghĩa lớn đối với:
- Mở rộng quy mô sản xuất trong nước, trên cơ sở đó kéo theo việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, mở rộng và làm phong phú thị
trường nội địa.
- Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.
- Tạo điều kiện giữ vững, ổn định thị trường xuất khẩu và nhập khẩu.
- Tạo cơ sở vật chất để mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế khoa học kỹ
thuật với nước ngoài.
Để hình thành được những mặt hàng xuất khẩu chủ lực Nhà nước cần có
những biện pháp, chính sách ưu tiên hỗ trợ trong việc nhanh chóng có được
những mặt hàng, nhóm hàng xuất khẩu chủ lực. Các biện pháp và chính sách ưu
tiên đó là thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước và xác định chính sách tài
chính... cho việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
3. Vai trò của xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đối với phát triển kinh
tế Việt Nam
3.1. Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập
khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất
yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để công
nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để
nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như:
- Đầu tư nước ngoài.
- Vay nợ, viện trợ.

- Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ.
- Xuất khẩu sức lao động...
Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ... tuy quan
trọng, nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này.
Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước là xuất khẩu
các mặt hàng chủ lực. Xuất khẩu các mặt hàng này quyết định quy mô và tốc độ
tăng của nhập khẩu.
Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên. Nhưng mọi cơ hội của
đầu tư và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ
đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu - xuất khẩu các mặt hàng
chủ lực - nguồn vốn duy nhất để trả nợ - trở thành hiện thực.
Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng
mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu
hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đối
với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Một là, xuất khẩu các mặt hàng chủ lực chỉ là việc tiêu thụ những sản
phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế
còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu
dùng nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì việc xuất khẩu các mặt
hàng chủ lực vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Sản xuất và sự thay đổi
cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp.
Hai là, coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng
để tổ chức sản xuất. Quan điểm thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu tổ chức của
thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất
thể hiện ở:

- Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ
hội phát triển thuận lợi.
- Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu
thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định.
- Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực tạo điều kiện mở rộng khả năng cung
cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật
nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến
xuất khẩu các mặt hàng chủ lực là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật,
công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của
Việt Nam tạo ra một năng lực sản xuất mới.
- Thông qua việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, hàng hoá của ta sẽ tham
gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh
tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất
luôn được thích nghi với thị trường.
3.3. Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực tạo điều kiện giữ vững ổn định thị
trường xuất khẩu của một quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong việc tăng
nhanh kim ngạch xuất khẩu của một đất nước. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
là các mặt hàng cho phép tận dụng được các lợi thế của đất nước đó. Từ đó sẽ
làm cho các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như của toàn bộ
nền kinh tế có hiệu quả hơn. Các lợi thế cần khai thác đó là nguồn lao động dồi
dào, cần cù, chịu khó, giá thuê rẻ, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí
địa lý thuận lợi...
Đối với một đất nước không nhất thiết phải sản xuất ra đầy đủ sản phẩm
mà mình cần. Thông qua hoạt động xuất khẩu họ có thể tập trung vào một vài
loại mà họ có lợi thế, sau đó trao đổi để có được những thứ mà họ cần. Rõ ràng ở
đây ta thấy vai trò của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong việc thúc đẩy quá
trình chuyên môn hoá sản xuất, giúp các nước khai thác được lợi thế của mình,
tạo điều kiện cho mỗi quốc gia tiến hành chuyên môn hoá sâu.
3.4. Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực có tác động tích cực đến việc giải

quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân
Tác động của xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đến đời sống bao gồm rất
nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu chủ lực là nơi thu hút hàng triệu
lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. Xuất khẩu các mặt hàng chủ
lực còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời
sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
3.5. Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy
các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta
Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động
qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể
hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác tạo điều
kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và công nghiệp
sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc
tế.... Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại tạo tiền đề cho mở rộng xuất
khẩu.
Tóm lại, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đóng một vai trò chính yếu đối
với định hướng phát triển của đất nước, góp phần vào việc thực hiện tốt các mục
tiêu, chính sách mà Đảng và Nhà nước đã đề ra và đưa đất nước trở thành nước
công nghiệp hoá-hiện đại hóa như văn kiện đại hội XI đã đưa ra.
4. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh
tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy cho phát triển kinh tế. Việc mở rộng xuất
khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như
tạo cơ sở cho phát triển các cơ sở hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất của
chính sách thương mại. Trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển hướng
ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu trở thành phương hướng chủ yếu của chính sách
ngoại thương.
Thị trường cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, cũng như nhiều nước
khác luôn luôn khó khăn. Vấn đề thị trường không phải chỉ là vấn đề của một
nước riêng lẻ nào, mà trở thành “vấn đề” trọng yếu của nền kinh tế thị trường. Vì

vậy việc hình thành một hệ thống các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu trở thành
công cụ quan trọng nhất để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài. Nhà nước đã và
đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu.
Việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là một biện pháp lớn mà Nhà
nước ta đã và đang áp dụng để tạo nguồn hàng và cải biến cơ cấu xuất khẩu.
Năm 1991 nước ta mới chỉ có 4 mặt hàng xuất khẩu chủ lực: đó là dầu thô,
thuỷ sản, gạo và hàng dệt may. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
thời kỳ 1991-1995 là: cao su, cà phê, chè, gạo, hạt điều (quy điều thô) hạt tiêu,
dầu thô, thuỷ sản, hàng dệt may, than đá. Từ năm 1996, Việt Nam xuất khẩu
nhân điều thay cho việc xuất khẩu hạt điều thô trước đây. Hàng điện tử và linh
kiện máy tính là mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới của Việt Nam từ năm 1996.
Đến năm 2000 số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã tăng lên 12 mặt
hàng. Đó là: Dầu thô, thuỷ sản, gạo, dệt may, giầy dép, cà phê, cao su, nhân điều,
than đá, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng điện tử và linh kiện máy tính, rau quả.
Theo thống kê của Bộ Thương mại hiện nay, Việt Nam có những mặt
hàng xuất khẩu chủ lực sau:
Biểu 1
Đơn vị: triệu USD
Số thứ tự Mặt hàng Kim ngạch xuất khẩu
năm 2000
1 Dầu thô 3501
2 Dệt may 1892
3 Thuỷ sản 1479
4 Giày dép 1465
5 Hàng điện tử và linh kiện máy tính 783
6 Gạo 668
7 Cà phê 501
8 Hàng thủ công mỹ nghệ 237
9 Chè 48
10 Hạt điều 167

11 Cao su 166
12 Hạt tiêu 146
CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC
THỜI KỲ 1996-2000
I. QUY MÔ VÀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG XUẤT KHẨU THỜI KỲ
1996-2000
1. Quy mô và tốc tăng trưởng xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1996-2000 ước đạt 51.341 triệu USD (năm
2000 ước đạt 14000 triệu USD). Tổng kim ngạch xuất khẩu dự kiến tăng bình
quân hàng năm là 28% (chưa kể phần xuất khẩu tại chỗ). Tăng nhanh tỷ trọng
hàng đã qua chế biến trong kim ngạch xuất khẩu, giảm tỷ trọng xuất khẩu
nguyên liệu và hàng sơ chế.
Kết quả thực hiện kế hoạch xuất khẩu thời kỳ 1996-2000:
. Tổng kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1996-2000 đạt 51.796 triệu USD, cao
hơn so với mức đề ra và bằng 100,6% kế hoạch đề ra.
. Năm 1998 là năm chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt 9,361 tỷ USD. Năm
2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 14,45 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu tính trên đầu
người năm 1997 đạt 116 USD/ người, năm 1998 đạt 122 USD/người, năm 1999
đạt 150 USD/người, năm 2000 đạt 186 USD/ người. Kim ngạch xuất khẩu bình
quân đầu người đạt 170 USD/người, là mức của quốc gia có nền ngoại thương
phát triển bình thường.
. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân thời kỳ 1996-2000 đạt
21,5%. Năm 1996 tăng 33,1% so với năm 1995 và năm 1997 tăng 22,7% so với
năm 1996, mức tăng bình quân của năm 1996-1997 là 27,9%/năm. Năm 1998 do
ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính trong khu vực, hoạt động xuất khẩu
diễn ra trong hoàn cảnh hết sức khó khăn nên kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 1,9%
so với năm 1997, năm 1999 tăng 23,3% so với năm 1998, năm 2000 tăng 25,3%
so với năm 1999.
2. Kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1996-2000

Biểu2
Đơn vị tính: Triệu USD theo giá hiện hành (năm 1999)
Năm Trị giá
xuất khẩu
Tốc độ
tăng xuất
khẩu (%)
Tốc độ
tăng GDP
(%)
GDP Xuất khẩu
so GDP
(%)
1996 7.255 33,1 9,3 23.880 30,4
1997 9.185 26,6 8,2 25.840 35,5
1998 9.361 1,9 5,8 27.340 34,2
1999 11.540 23,3 4,8 28.650 40,3
2000 14.455 25,3 6,7 30.570 47,3
Nguồn: Vụ kế hoạch thống kê-Bộ thương mại.
II. KẾT QUẢ XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC
Năm 1991 nước ta mới chỉ có 4 mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch
100 triệu USD trở lên là dầu thô, thuỷ sản, gạo, dệt may; mặt hàng đạt kim ngạch
cao nhất là dầu thô cũng chỉ đạt 581 triệu USD. Đến năm 2000 số mặt hàng xuất
khẩu chủ lực đã tăng lên 12 mặt hàng,tăng thêm 7 mặt hàng mới là cà phê, cao
su, điều, giày dép, than đá, hàng điện tử, hàng thủ công mỹ nghê. Trong số các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã có 4 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1-1,3
tỷ USD/năm là thuỷ sản, giày dép, dệt may, dầu thô và 3 mặt hàng khác đạt xấp
xỉ 500 triệu đến gần 1 tỷ USD/năm như cà phê, hàng điện tử, gạo.
Vài năm gần đây nổi lên một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có mức thị
trường hàng năm rất cao là: giày dép, dệt may, điện tử, nhân điều, chè, gạo. Có

một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có khả năng gây tác động nhất định tới thị
trường khu vực va thị trường thế giới là gạo xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới sau
Ấn Độ, cà phê đứng thứ 3 thế giới sau Braxin và Colombia.
1. Gạo
. Kết quả xuất khẩu gạo cua Việt Nam thời kỳ 1996-2000 đạt 18,31 triệu
tấn, bình quân hàng năm đạt 3,6 triệu tấn, về trị giá đạt 4,44 tỷ USD, đạt
127,15% về luợng và 132,5% về trị giá so với kế hoạch đề ra.
Năm 1996 xuất khẩu gạo đạt 3 triệu tấn, năm 2000 xuất khẩu 3,5 triệu tấn,
đạt giá trị kim ngạch khoảng 668 triệu USD, bằng 1,2 lần khối lượng gạo xuất
khẩu năm 1996; giai đoạn 1996-2000 đạt 18,31 triệu tấn gấp 2,1 lần so với thời
kỳ 1995. Về giá trị, thời kỳ 1996-2000 đạt 4,44 tỷ USD, tăng 2,4 lần so với thời
kỳ 1991-1995. Giá gạo xuất khẩu thời kỳ 1991-1995 la 215 USD/tấn.
Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam: Châu Á 33%, Châu Phi 46%,
Trung Đông 13% và Châu Mỹ 8%.
Gạo bắt đầu được xuất khẩu với khối lượng lớn vào năm 1989 (1,42 triệu
tấn) nhưng chỉ tới thời kỳ 1991-1995 vị trí của gạo trong cơ cấu hàng xuất khẩu
mới được khẳng định với lượng xuất khẩu đạt bình quân trên 1,5 triệu tấn/năm.
Năm 1998 xuất khẩu 3,75 triệu tấn gạo, đạt trị giá hơn 1 tỷ USD, mức cao nhất
từ trước đến nay. Năm 2000 là năm thứ 5 liên tiếp xuất khẩu trên 3 triệu tấn/năm.
Gạo Việt Nam, theo thông kê hải quan, đã được bán cho hơn 30 nước bạn
hàng khác nhau nhưng mua với khối lượng lớn và ổn định thì chỉ có khoảng 7-8
bạn hàng. Trong số này có 04 bạn hàng Châu Á (Singapore, Philippines,
Malaysia, Hồngkông), 02 bạn hàng Châu Âu (Thuỵ Sĩ, Hà Lan), 01 bạn hàng
Trung Đông (Irăc) và Mỹ. Cụ thể theo biểu dưới đây:
Biểu 3
Đơn vị: %
Thị
trường
Thứ tự
năm

1997
Thứ tự
năm
1998
Thứ tự
năm
1999
Thứ tự
năm
2000
Tỷ
trọng
năm
1998
Tỷ trọng
năm
1997
Indonesia 14 01 01 03 25.3 1.8
Philippines 05 02 03 02 13.2 8.1
Singapore 03 03 02 06 11.3 8.9
Thụy Sĩ 01 04 05 11 10.5 22.5
Irắc 06 05 04 01 8.2 7.2
Hà Lan 02 06 13 22 4.2 9.4
Mỹ 04 07 18 09 4.1 8.6
Nguồn: Vụ kế hoạch thống kê-Bộ Thương Mại.
Sự thiếu vắng của thị trường Châu Phi không nhất thiết thể hiện sức cạnh
tranh kém của gạo Việt Nam bởi với chi phí sản xuất (trong đó có chi phí nhân
công) không cao, khả năng thâm canh tăng vụ tốt, năng suất bình quân khá (36,8
tạ/ha so với 24,2 tạ/ha của Thái Lan) gạo của Việt Nam có thể cạnh tranh tốt trên
mọi thị trường, đặc biệt là thị trường gạo phẩm cấp thấp. Điểm yếu của Việt

Nam là khả năng cung cấp tín dụng cho bạn hàng. Do điểm yếu này mà gạo Việt
Nam vẫn phải thông qua khách hàng của một nước thứ ba để nhập vào thị trường
Châu Phi và đây cũng là lý do giải thích vì sao trong số 10 nước bạn hàng mua
gạo lớn nhất của Việt Nam lại xuất hiện Thụy sĩ và Hà Lan là những nước không
có truyền thống tiêu thụ gạo với số lượng lớn.
Số liệu thống kê cũng cho thấy Trung Quốc nhập khẩu gạo của Việt Nam
rất ít nhưng Trung Quốc nhập khẩu gạo lớn thứ 6 của Thái Lan với lượng mua
năm 1998 đạt tới 155 ngàn tấn. Năm 1997 Trung Quốc mua của Việt Nam hơn
14 ngàn tấn, đứng thứ 25 trong danh sách bạn hàng nhưng sang năm 1998 chỉ
mua chưa đầy 1400 tấn và đứng thứ 29 trong danh sách bạn hàng.
Ngoài vấn đề thị trường, xuất khẩu gạo của Việt Nam còn một vấn đề nữa
là hạn ngạch và đầu mối xuất khẩu. Mặc dù đã 3 năm liền xuất khẩu trên 3 triệu
tấn một năm với tốc độ tăng bình quân gần 12%/năm nhưng gạo vẫn là mặt hàng
được quản lý bằng hạn ngạch và đầu mối chủ yếu vì lý do an ninh lương thực.
Tham gia xuất khẩu gạo, cho tới năm 1997, vẫn chỉ là một số doanh nghiệp quốc
doanh. Năm 1998 Chính phủ mới quyết định cho 5 doanh nghiệp ngoài quốc
doanh tham gia thí điểm. Việc này đã hạn chế khá nhiều tính năng động trong
việc tìm kiếm và thâm nhập thị trường ngoài. Năm 2001 Việt Nam dự kiến bãi
bỏ cơ chế hạn ngạch và đầu mối xuất khẩu.
Xuất khẩu gạo hiện nay đang phải đối mặt với hai vấn đề lớn là thị trường
xuất khẩu và giá gạo trên thế giới có xu hướng giảm do các nước xuất khẩu liên
tục được mùa.
Các doanh nghiệp của Việt Nam nhìn chung chưa có được những hợp
đồng lớn, ổn định và cũng chưa bán trực tiếp được gạo sang Châu Phi. Để giành
được những hợp đồng lớn cần có những thoả thuận ở cấp Chính phủ và nước
xuất khẩu thường phải có những thoả hiệp nhất định với nước nhập khẩu, thí dụ
như cấp tín dụng xuất khẩu (bán trả chậm) hoặc chấp nhận đổi hàng thông qua
việc mua lại một lượng hàng hoá nào đó. Một trong những thị trường có thể áp
dụng biện pháp này là Hàn Quốc bởi hàng năm Việt Nam thường nhập khẩu trên
dưới 200 triệu USD phân bón, sắt thép và ô tô các loại từ thị trường này.

Việc trực tiếp xuất khẩu gạo sang Châu Phi gặp khó khăn là do khả năng
thanh toán của bạn hàng. Để giải quyết vấn đề này, trước mắt vẫn phải dựa vào
các nước và các tổ chức cung cấp viện trợ cho Châu Phi nhưng có thể thăm dò
một hướng đi mới là đổi hàng.
2. Cà phê
Khối lượng cà phê xuất khẩu thời kỳ 1996-2000 đạt 2,2 triệu tấn, về giá trị
đạt 2.600 triệu USD, bằng 107% về luợng và 105,6% về giá trị so với kế hoạch
đề ra, tăng gấp 2,3 lần so với thời kỳ 1991-1995. Năm 1996 xuất khẩu cà phê đạt
283.000 tấn, năm 2000 xuất khẩu 680.000 tấn, tăng 1,86 lần so với năm 1996.
Giá bình quân thời kỳ 1996-2000 là 1.106,7 USD/tấn, thấp hơn giá bình
quân thời kỳ 1991-1995 (1.585 USD/tấn)
Xu thế cung cà phê lớn hơn nhu cầu trong nhiều năm làm giá cà phê có xu
hướng ngày càng giảm.
Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam chủ yếu là EU, Thụy Sĩ, Hoa
Kỳ, Singapore, Thái Lan, Nhật Bản... cà phê của Việt Nam nói chung có sức
cạnh tranh trên thị trường thế giới, do chất lượng tốt và có hiệu quả với người
sản xuất cà phê do năng suất cao (gấp 2-3 lần so với các nước trồng cà phê trong
khu vực)
Việt Nam đã vượt qua Uganda và Indonesia để trở thành nước xuất khẩu
cà phê robusta lớn nhất thế giới. Nếu tính tất cả các chủng loại cà phê thì Việt
Nam đã vượt Mexico để chiếm vị trí thứ 3, chỉ sau Braxin và Colombia. Tỷ trọng
của Việt Nam trong thương mại cà phê quốc tế hiện nay khoảng 10%.
Biểu sau đây cho thấy bước tiến vượt bậc của cà phê Việt Nam trong các
năm từ 1996 đến 2000 (vụ mùa cà phê được tính từ tháng 10 năm trước đến hết
tháng 9 năm sau):
Biểu 4
Niên vụ
Sản lượng xuất
khẩu
(tấn)

Kim ngạch xuất
khẩu
(ngàn USD )
Giá bình quân
USD/T FOB
Việt Nam
1996-1997 358.512 427.991 1.194
1997-1998 391.326 592.279 1.514
1998-1999 405.616 557.000 1.373
1999-2000 733.935 501.950 684
Nguồn: Thống kê hải quan và Bộ Thương mại
Do năng suất cao, cà phê của Việt Nam có giá thành tương đối thấp (dưới
1000 USD/ tấn) và sức cạnh tranh mạnh. Vụ mùa của Việt Nam và của Indonesia
lại lệch nhau hoàn toàn (khi Indonesia kết thúc vụ thì Việt Nam vào vụ và ngược
lại) nên vấn đề thị trường tiêu thụ hầu như không gặp vướng mắc gì.
Trước năm 1995, cà phê Việt Nam được đưa vào thị trường thế giới thông
qua mạng lưới tiêu thụ của các doanh nhân Singapore (chiếm tỷ trọng gần 45%).
Từ năm 1995, khi Mỹ bỏ cấm vận, vai trò của trung gian Singapore giảm dần.
Khách hàng Mỹ đã nhanh chóng tìm đến Việt Nam và chỉ sau 1 năm họ đã trở
thành bạn hàng số1, hàng năm mua khoảng 25% lượng cà phê của Việt Nam
(năm 1996 lên tới gần 30%). Khách hàng Đức luôn chiếm vị trí số 2. Những bạn
hàng quan trọng khác gồm: Pháp, Bỉ, Italia, Tây Ban Nha, Anh, Angiêri, Ba Lan
và Nhật Bản. Singapore, kể từ năm 1996, không còn nằm trong danh sách 10 bạn
hàng lớn nhất nữa. Một yếu tố đáng chú ý là ngoài các nhà buôn, các nhà rang
xay nổi tiếng trên thế giới cũng đã xuất hiện tại Việt Nam để thiết lập quan hệ

×