Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong tác phẩm “tuyên ngôn của đảng cộng sản”; ý nghĩa của tư tưởng đó trong xây dựng giai cấp công nhân việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.08 KB, 18 trang )

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong tác phẩm Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản; ý nghĩa của t tởng đó trong xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam hiện nay .

1. Hoàn cảnh lịch sử của tác phẩm:
Những năm 40 của thế kỷ XIX, ch ngha t bản đang phát triển mạnh ở
Anh, Pháp và một số nc Tõy u. Đến những năm 60 của thế kỷ XIX, cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất đã cơ bản hoàn thành ở Anh, Pháp và lan ra các
nước Châu Âu, làm thay đổi công cụ sản xuất từ thủ cơng thành cơ khí máy
móc, năng xuất lao động tăng cao, công xưởng, nhà máy ra đời, kéo theo một
loạt ngành nghề mới xuất hiện, giai cấp công nhân trưởng thành nhanh chóng cả
về số lượng và chất lượng, từng bước, bước lên vũ đài lịch sử như một giai cấp
mới xuất hiện trong quá trình phát triển của xã hội loài người.
Kế thừa những quan điểm duy vật của thế kỷ “Ánh sáng” - thế kỷ XVIIIđầu thế kỷ XIX, nhiều phát minh khoa học ra đời, được công nhận cấp bằng
sáng chế và áp dụng vào sản xuất và thực tiễn cuộc, để nhận thức thế giới và cải
tạo thế giới như: Định luật bảo toàn và chuyển hố năng lượng của Maie, Giulơ,
Cơn Đinh; thuyết tế bào của Slâyđen, Svan; thuyết tiến hoá của Đác Uyn. Khoa
học tự nhiên đã chứng minh: Thế giới thống nhất ở tính vật chất; vật chất khơng
tự nhiên sinh ra, khơng tự nhiên mất đi mà ln vận động chuyển hố từ dạng
này sang dạng khác, thế giới vật chất luôn vận động, biến đổi và phát triển
không ngừng từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, thế giới vật
chất có mối quan hệ biện chứng và tác động lẫn nhau. Đúng như Ph. Ăngghen
đã viết: “ Giới tự nhiên là hòn đá khảo nghiệm phép biện chứng, khoa học tự
nhiên đã cung cấp cơ sở khoa học cho khoa học xã hội và có ý nghĩa rất lớn đến
tư duy biện chứng”.
Cùng với sự phát triển kinh tế, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội đầu thế
kỷ XIX cũng đạt được những tiến bộ đáng kể, tổng kết thực tiễn, trí tuệ lồi
người đã cho ra đời những sản phẩm tinh thần vô giá như: Triết học cổ điển Đức


-2của Hê - Ghen, PhoiơBắc; kinh tế chính trị Anh của Adam smít và Ri-Các-Đơ;


Chủ nghĩa xã hội khơng tưởng phê phán của Xanh Xi Mơng; Phu Ri ê; Ơ oen.
Đó là những tiền đề lý luận trực tiếp đã được C. Mác - Ph. Ăngghen kế
thừa một cách chọn lọc để xây dựng nên học thuyết của mình
Ph. Ăngghen viết “Cũng như bất kỳ học thuyết mới nào, chủ nghĩa xã hội
trước hết phải xuất phát từ những tư liệu tư tưởng đã tìm thấy sẵn, mặc dù gốc rễ
của nó nằm sâu trong những sự kiện kinh tế; vật chất”
Ra đời cùng với chủ nghĩa tư bản và cách mạng công nghiệp lần thứ nhất,
giai cấp công nhân khơng ngừng trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng và
chất lượng và cơ cấu. Nhưng ra đời trong sự đối lập với giai cấp tư sản nên cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản cũng diễn ra ngay từ
đầu. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản và chủ nghĩa
tư bản cũng diễn ra liên tiếp, từ thấp đến cao; từ trộm cắp tài sản đến đập phá
máy móc, bãi cơng kinh tế đến những cuộc đấu tranh độc lập đầu tiên diễn ra ở
Li - «ng ë Ph¸p (1831,1834); Xilêdi ë Đức (1844), ; đặc biệt là phong trào Hiến
chương ở Anh (1835-1848) đã mang tính chính trị và có tổ chức chặt chẽ, thu
hút được đơng o qun chỳng tham gia vào cuộc đấu tranh chống giai cÊp t s¶n.
Tuy nhiên, tất cả các phong trào đấu tranh tự phát của giai cấp công nhân
đều thất bại và bị giai cấp tư sản dìm trong biển mỏu. Có nhiều nguyờn nhõn dẫn
đến thất bại, nhng xột đến cùng là do chưa có đường lối cách mạng đúng đắn và
cha cã một chÝnh §ảng tiên phong thống nhất lãnh đạo. Các học thuyết lý luận
trước Mác đều tỏ ra bất lực trước sự đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. Vấn đề đặt
ra lúc này là phải có một lý luận tiên phong dẫn đường cho phong trào cách
mạng phát triển như là một tất yếu của lịch sö.
Năm 1846 Các Mác - Ăngghen thành lập Uỷ ban thơng tin cộng sản ở Bỉ,
sau đó ở Anh để tuyên truyền quan điểm của 2 ông và phong trào công nhân,
thông qua tổ chức này liên hệ với những người cộng sản ở trong và ngoài nước
Đức. Đồng thời, đấu tranh chống những quan điểm sai trái của Pru Đông, Vai
Tơ Linh đang ảnh hưởng đến phong trào công nhân như: Chủ trương xây dựng



-3chủ nghĩa xã hội bình quân, khổ hạnh; phương pháp cách mạng là âm mưu lật đổ
của một nhóm người; phủ nhận sự cần thiết phải có đảng lãnh đạo và đấu tranh
chính trị…
Đồng minh những người chính nghĩa là một tổ chức của những công nhân
Đức yêu nước, sống lưu vong ở Pháp, được thành lập năm 1836 do Giôdép Môn,
Vai Tơ Linh, Baue, Sáp Bơ lãnh đạo. Năm 1939, tổ chức này bị trục xuất sang
Luân Đôn và kết nạp thêm nhiều người thuộc quốc tịch khác nhau như Hà lan,
Anh, XCăng đinavơ nên nó trở thành một tổ chức cơng nhân có tính quốc tế đầu
tiên .
Nhưng do ảnh hưởng của những tư tưởng sai lầm của Vai Tơ Linh, nên
tiên chỉ, mục đích của tổ chức này không rõ ràng, thể hiện: khẩu hiệu chiến lược
“Mọi người đều là anh em”; phương pháp tiến hành âm mưu lật đổ; tổ chức theo
kiểu phường hội, công khai, thiếu tập trung thống nhất.
Do đó, mùa xn 1847 Giơ dép Môn - một thành viên trong ban lãnh đạo
Đồng minh những người chính nghĩa đến Brúc xen gặp Mác, sau đó đến Pari
gặp Ăngghen, thay mặt tổ chức mình đề nghị Mác- Ăngghen ra nhập đồng minh
và mời hai ông cải tổ đồng minh để tổ chức này thực sự là tổ chức cách mạng
của giai cấp công nhân.
Việc cải tổ Đồng minh những người chính nghĩa, được thực hiện tại đại
hội lần thứ nhất vào tháng 6 /1847 ở Ln Đơn ( chỉ có Ăngghen tham dự). Đại
hội đã quyết định đổi tên “Đồng minh những người chính nghĩa” thành “Đồng
minh những người cộng sản”; đổi khẩu hiệu chiến lược “Mọi người đều là anh
em” thành “Vô sản tất cả các nước liên hiệp lại” ; thành lập cơ quan báo chí để
tuyên truyền đường lối, chủ trương, mục tiêu của đồng minh,; khai trừ Vai Tơ
Linh ra khỏi đồng minh; dự thảo điều lệ mới qui định cơ quan lãnh đạo cao nhất
của đồng minh là đại hội được triệu tập thường kỳ, Ban chấp hành là cơ quan
cao nhất giữa hai kỳ đại hội, có nhiệm vụ tổ chức thực hiện nghị quyết của đại
hội; mọi cơ quan lãnh đạo đều do đại hội bầu ra bằng phiếu kín; nguyên tắc hoạt



-4động là tập trung dân chủ, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ
chức, mọi hội viên phải nộp hội phí đều đặn.
Đại hội quyết định lấy chủ nghĩa cộng sản khoa học làm ngọn cờ tư tưởng
của hội, mở đầu cho quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
Đại hội 2 họp ở Luân Đôn vào cuối tháng 11 đầu tháng 12/1847 có cả
Mác - Ăngghen tham dự. Đại hội đã thơng qua điều lệ chính thức với những nội
dung cơ bản như: mục đích của đồng minh là lật đổ giai cấp tư sản giành quyền
thống trị cho giai cấp vô sản, xoá bỏ xã hội tư bản là xã hội dựa trên chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất, đối kháng giai cấp, xây dựng xã hội mới không có tư
hữu, khơng có giai cấp, khơng có áp bức bóc lột. Điều kiện kết nạp vào đồng
minh: thừa nhận điều lệ của hội và tích cực đấu tranh chống giai cấp tư sản.
Đồng thời, giao cho Mác - Ăngghen viết tuyên ngôn của đồng minh để tuyên bố
với thế giới và giai cấp tư sản đã có một tổ chức cộng sản của giai cấp cơng
nhân ra đời có cương lĩnh, mục đích hoạt động rõ ràng, chứ khơng phải là “Bóng
ma ám ảnh Châu Âu” như các học giả tư sản tuyên truyền.
Để viết tuyên ngôn của đảng cộng sản tháng 6/1847 Ăngghen đã thảo ra
“Biểu tượng lòng tin cộng sản”; tháng 10/1847 Ph. Ăngghen chỉnh lý thành tác
phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản” dưới dạng 25 câu hỏi - đáp về
chủ nghĩa cộng sản. Trên cơ sở bản thảo đó và bằng trí tuệ uyên bác, khoa học
của hai ông, C. Mác – Ph. Ăngghen đã hồn thành tác phẩm Tun ngơn của
đảng cộng sản, được thông qua Ban chấp hành Hội đồng và công bố lần đầu tiên
bằng 6 thứ tiếng: Anh, Đức, Pháp, Italia, Phla Măng, Đan Mạch vào ngày
24/02/1848 tại Luân Đôn thủ đô nước Anh.
Đến nay tác phẩm Tuyên ngôn của đảng cộng sản đã được tái bản hơn 100
lần, dịch ra hơn 100 thứ tiếng và phát hành trên toàn thế giới, trở thành cuốn
sách gối đầu giường của nhng ngi cng sn chõn chớnh.
Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đợc in trong C.Mác và Ph.
ng-ghen, Toàn tËp, tËp 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 591-646.
2. Kết cấu và tư tưởng cơ bản của tác phẩm



-5Tác phẩm Tuyên ngôn của đảng cộng sản gồm 4 chương
Chương 1: Tư sản và vô sản
Chương 2: Những người vô sản và những người cộng sản
Chương 3: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
Chương 4: Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập.
Tư tưởng cơ bản của tác phẩm: C. Mác - Ph.Ăngghen đã trình bày một
các sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công
nhân; con đường để thực hiện sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là cách mạng
vơ sản; vị trí, vai trị, mối quan hệ của Đảng cộng sản với giai cấp công nhân.
Đồng thời, chỉ ra những nguyên tắc chiến lược, sách lược của Đảng Cộng sản;
đấu tranh phế phán các trào lưu xã hội chủ nghĩa phản động, bảo thủ, không
tưởng và những lời xuyên tạc bỉ ổi của giai cấp tư sản.
Sø mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là một trong những phạm trù hết sức
căn bản của chủ nghĩa xà hội khoa học đợc trình bày trong Tuyên ngôn Đảng
cộng sản.
3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong Tuyên ngôn Đảng Cộng
sản
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản C.Mác và Ph. ngghen
đà khẳng định: Giai cấp vô sản hiện đại là ngời làm cuộc cách mạng xà hội đánh
đổ CNTB, xoá bỏ hình thái kinh tế dựa trên nền tảng chế độ t hữu và xây dựng xÃ
hội mới, lấy chế độ công hữu về t liệu sản xuất làm nền tảng, không có ngời bóc
lột ngời. Thực chất đó là quá trình giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải
phóng nhân loại.
Với cách nhìn biện chứng, C.Mác và Ph. ngghen đà phân tích một cách
khoa học về sự diệt vong không thể tr¸nh khái cđa CNTB, vỊ tÝnh tÊt u cđa sù
qu¸ độ từ CNTB lên CNXH. C.Mác và Ph. ng-ghen đà chỉ ra bớc quá độ đó
không phải tự phát mà phải bằng con đờng cách mạng lật đổ sự thống trị của giai
cấp t sản và xoá bỏ các quan hệ sản xuất TBCN. Hai ông đà phát hiện ra lực lợng
xà hội có khả năng thực hiện bớc quá độ đó là giai cấp vô sản. C.Mác và Ph.

ngghen cho rằng: vai trò lịch sử của giai cấp vô sản đợc quyết định trớc hết do
địa vị của giai cấp đó trong nền sản xuất xà hội. Từ sự phân tích kết cấu giai cấp
trong xà hội t bản và hai ông đà khẳng định: trớc hết, giai cấp t s¶n s¶n sinh ra


-6những ngời đào huyệt chôn chính nó 1, sau đó giai cấp vô sản có sứ mệnh là xây
dựng thành công CNXH và CNCS trên toàn thế giới.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là tất yếu khách dựa trên cơ sở chính
bản thân của giai cấp vô sản.
Về địa vị kinh tế-xà hội của giai cấp công nhân: giai cấp công là con đẻ
của nền đại công nghiệp, sinh ra, trởng thành, phát triển gắn liền với nền đại
công nghiệp Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát
triển của nền đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản là sản phẩm của bản thân
nền đại công nghiệp. Hơn nữa, giai cấp công nhân đại diện cho lực lợng sản
xuất tiên tiến trong xà hội t bản. C.Mác và Ph. ngghen cho rằng: giai cấp vô
sản là đại biểu cho lực lợng sản xuất mới, nó thực sự là giai cấp cách mạng triệt
để nhất trong tiến trình giải phóng lao động, giải phóng lực lợng sản xuất thoát
khỏi sự gò bó, kìm hÃm của quan hệ sản xuất TBCN.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiêu biểu cho lực lợng sản xuất tiến bộ nhất;
là giai cấp đợc rèn luyện trong nền sản xuất đại công nghiệp; là sản phẩm của
chính bản thân nền đại công nghiệp. Họ là những ngời công nhân làm thuê hiện
đại. Vì họ mất hết các t liệu sản xuất của bản thân nên buộc phải bán sức lao
động của mình để sống. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: Một khi ngời thợ đà bị chủ
xởng bóc lột và đợc trả tiền công rồi thì anh ta lại trở thành miếng mồi cho
những phần tử khác trong giai cấp t sản: chủ nhà cho thuê, chủ hiệu bán lẻ, kẻ
cho vay nặng lÃi 2. Giai cấp vô sản ra đời gắn liền với quá trình sản xuất công
nghiệp, đợc đại công nghiệp rèn luyện nên giai cấp công nhân có những phẩm
chất u việt mà giai cấp khác không có đợc, đó là: tính tổ chức chặt chẽ, kỉ luật
nghiêm minh; tính cách mạng triệt để,; tính tiên tiến và tinh thần đoàn kết quốc
tế vô sản, thông nhất cao về lợi ích. Họ tuyệt nhiên không có lợi ích nào tách

khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản 3. Và phong trào vô sản là phong trào
độc lập của khối đại đa số, mu lợi ích cho khối đại đa số 4. Vì vậy trong cuộc
cách mạng ấy, những ngời vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói
buộc họ. Họ sẽ giành đợc cả thế giới 5. Từ những đặc điểm cơ bản trên, giai cấp
vô sản là giai cấp thực sự cách mạng nhất, là một lực lợng chính trị độc lập đóng
vai trò lÃnh đạo cách mạng. Các giai cấp khác, C.Mác và Ph.Angghen gọi là:
những tầng lớp trung đẳng. Cho nên họ đều không cách mạng mà bảo thủ.
Thậm chí, hơn thế nữa họ lại phản động 6.
1

S®d, tr. 613.

2

S®d, tr. 606.
S®d, tr. 614.
S®d, tr. 611.
S®d, tr. 646.
S® d, tr.610.

3
4
5
6


-7Giai cấp t sản trong giai đoạn đầu đà đóng một vai trò hết sức cách mạng
trong lịch sử. Bất cứ chỗ nào mà giai cấp t sản chiếm đợc chính quyền thì nó
đạp đổ những quan hệ phong kiến, gia trởng và điền viên và tất cả nhng mối liên
hệ phức tạp 7. Đặc biệt, giai cấp t sản đà tạo ra một lực lợng sản xuất vô cùng

mạnh mẽ mà bản thân nó cũng không lờng hết đợc, nhờ đó xà hội loài ngời phát
triển nhảy vọt. Giai cấp t sản trong quá trình thống trị giai cấp cha đầy một thế
kỉ, đà tạo ra những lực lợng sản xuất nhiều hơn, đồ sộ hơn lực lợng sản xuất của
tất cả các thế hệ trớc kia gộp lại8. Tuy nhiên giai cấp t sản tồn tại trên sự bóc lột
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nên bản chất t hữu bóc lột là cố hữu và
không bao giờ khắc phục đợc. Giai cấp t sản còn tạo ra và nuôi dỡng các loại tệ
nạn xà hội khác. Hệ t tởng của họ là hệ t tởng t sản, phản động, đi ngợc lại lịch
sử. Chính vì vậy giai cấp t sản không thể và không bao giờ là giai cấp triệt để
cách mạng.
Đối với giai cấp nông dân, giai cấp đông đảo trong xà hội, nhng họ không
đại diện cho một phơng thức sản xuất tiến bộ có hệ t tởng độc lập. Bản chất của
họ vẫn là t hữu, manh mún, nhỏ lẻ và họ không có khả năng đứng lên để tập hợp
quần chúng làm cách mạng. Vì vậy, giai cấp nông dân cũng không thể là giai cấp
trung tâm của thời đại.
Đội ngũ trí thức, là một tầng lớp xà hội đặc biệt và không thuần nhất, tồn
tại đan xen trong các giai tầng của xà hội; không phải là một lực lợng kinh tế,
chính trị độc lập; tri thức không có lợi ích đối kháng với giai cấp t sản.Trí thức
cha bao giờ và không bao giờ là một giai cấp. Nó không đại biểu cho một phơng
thức sản xuất tiên tiến. Nó chỉ đi theo và chịu ảnh hởng hệ t tëng cđa giai cÊp mµ
nã phơc vơ. Thùc tÕ lịch sử cho thấy, cha bao giờ có một tầng líp trÝ thøc nµo cã
thĨ thay thÕ mét giai cÊp để lÃnh đạo một cuộc cách mạng xà hội thành công.
Nh vậy, từ phân tích địa vị kinh tế xà hội của giai cấp vô sản C.Mác và Ph.
Ăng-ghen đà khẳng định rằng, không những giai cấp công nhân là ngời đào
huyệt chôn CNTB, mà giai cấp công nhân còn là ngời có sứ mệnh xây dựng một
xà hội mới tốt đẹp nhất trong lịch sử loài ngời, đó là CNXH và cncs.
Để thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp vô sản phải
tiến hành đấu tranh bằng cuộc cách mạng vô sản chống lại giai cấp t sản, giành
chính quyền về tay giai cấp vô sản. Sứ mệnh lịch sử và cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản là tất yếu khách quan. C.Mác và Ph.Ăngghen đà chứng minh: Lịch
sử tất cả các xà hội tồn tại từ trớc đến nay (lịch sử thành văn) chỉ là lịch sử đấu

tranh giai cấp 9. Hai ông đà điểm lại các chế độ xà hội có phân chia giai cấp và
7
8
9

Sđ d, tr. 599 - 600
Sđ d, tr. 603.
S®d, tr.596.


-8đối kháng giai cấp, đồng thời chỉ ra mâu thuẫn cơ bản trong các chế độ ấy. Đứng
vững trên quan ®iĨm cđa chđ nghÜa duy vËt biƯn chøng vµ duy vật lịch sử C.Mác
và Ph.Ăngghen chỉ rõ: lịch sử đấu tranh giai cấp là nhằm giải quyết mâu thuẫn
giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất. Trong phơng thức sản xuất TBCN,
mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất trong lòng TBCN phát
triển ngày càng gay gắt, biểu hiện về mặt xà hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô
sản và giai cấp t sản. Giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác
nhau. Cuộc đấu tranh của họ chống giai cấp t sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra
đời 10. Vì vậy cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp t sản là tất
yếu khách quan. Cuộc đấu tranh đó sẽ dẫn tới sự sụp đổ của giai cấp t sản và
thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu nh nhau 11.
Tính chất của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp t sản
rất gay go, quyết liệt, bởi vì: Mục đích cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản là xoá
bỏ chế độ t hữu TBCN , thiết lập quyền thống trị của giai cấp vô sản, xây dựng
một chế độ xà hội công bằng, văn minh, mu cầu lợi ích cho tuyệt đại đa số nhân
dân lao động. C.Mác và Ph.ngghen viết: Đặc trng của chủ nghĩa cộng sản
không phải là xoá bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xoá bỏ sở hữu t sản12.
Theo ý nghĩa đó, những ngời cộng sản có thể tóm tắt lí luận của mình thành
một luận điểm duy nhất này là: xoá bỏ chế độ t hữu13, là sự đoạn tuyệt thống
trị triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ14. Còn tất cả

những phong trào lịch sử, từ trớc đến nay đều do thiểu số thực hiện, hoặc đều mu
lợi ích cho thiĨu sè”15.
Nh vËy, mơc ®Ých cc ®Êu tranh cđa giai cấp vô sản khác hẳn tất cả các
cuộc đấu tranh trớc đó. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản xoá bỏ tận gốc chế độ
ngời bóc lột ngời. Đây là cuộc đấu tranh chính nghĩa, hợp qui luật và cũng là một
cuộc đấu tranh phức tạp, gay go nhất trong lịch sử.
Để giai cấp vô sản đi đến thắng lợi cuối cùng, không lặp lại vết xe đổ của
những cuộc đấu tranh trớc đây, C.Mác và Ph. ngghen đà chỉ ra con đờng và
hình thức đấu tranh cho giai cấp vô sản là thiết lập sự thống trị của mình bằng
cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp t sản 16. Đó là một cuộc cách mạng xà hội sâu
sắc nhất, toàn diện nhất, triệt để nhất trong lịch sử nhằm lật đổ sự thống trị của
giai cấp t sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền 17. Và giai cấp vô sản sẽ
Sđd, tr.607.
Sđd, tr. 613.
12 Sđd, tr. 615.
13 S®d, tr. 616.
14 S®d, tr. 626.
15 S®d, tr. 611.
16 S®d, tr. 612.
17 S®d, tr. 615.
10
11


-9dùng sự thống trị của mình để từng bớc đoạt lấy toàn bộ t bản trong tay giai cấp
t sản18.
Thực tiễn phong trào của giai cấp vô sản phát triển tõ thÊp ®Õn cao, tõ ®Êu
tranh kinh tÕ ®Õn ®Êu tranh chính trị, từ tự phát đến tự giác. Khi cuộc đấu
tranh đạt đến một trình độ nhất định thì nó chuyển hoá thành cuộc đấu tranh
chính trị. Cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp vô sản đợc tiến hành bằng cuộc

cách mạng xà hội toàn diện, sâu sắc, triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xà hội. Cuộc đấu tranh đó muốn đi đến thắng lợi cuối cùng, giai cấp vô sản phải
có Đảng lÃnh đạo.
Khi đà giành đợc chính quyền, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản vẫn tiếp
tục nhằm xây dựng thành công CNXH và cncs trên phạm vi toàn thế giới. Đây
là một cuộc đấu tranh giai cấp hết sức gian khổ, quyết liệt. Giai cấp t sản tuy đÃ
bị lật đổ nhng vẫn còn mang những dấu vết, tàn d của chế độ xà hội cũ. Chính vì
vậy giai cấp vô sản tất yếu phải thiết lập nền chuyên chính vô sản, phải tiếp tục
cuộc đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới, với những nội dung, hình thức mới
thông qua Đảng cộng sản - đội tiền phong của giai cấp.
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, giai
cấp vô sản phải thành lập ra Đảng cộng sản. Đảng cộng sản luôn trung thành với
sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân, là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho
giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng cộng sản phải đợc xây dựng vững mạnh về chính trị, t tởng và tổ chức.
Có Đảng thì giai cấp công nhân mới đợc giáo dục, giác ngộ về sứ mệnh
lịch sử của mình, chuyển đấu tranh của giai cấp công nhân từ tự phát lên tự giác,
đấu tranh có tổ chức xoá bỏ xà hội cũ, xây dựng xà hội mới và cũng từ khi đó
giai cấp vô sản mới chuyển từ giai cấp tự mình thành giai cấp vì mình. Chính
vì vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: Trong cuộc đấu tranh của mình, chống quyền
lực liên hợp của các giai cấp của nó, giai cấp công nhân chỉ khi đợc tổ chức
thành một chính đảng độc lập đối lập với tất cả các chính đảng cũ do các giai cấp
của nó lập nên, thì mới có thể hành động với t cách là một giai cấp. Việc tổ chức
giai cấp công nhân thành một chính đảng là cần thiết để bảo đảm thắng lợi của
cách mạng xà hội và thắng lợi của mục đích cuối cùng của nó là: thủ tiêu các
giai cấp. Cho nên phải có một đảng chính trị vững vàng, kiên định và sáng suốt,
có đờng lối chiến lợc và sách lợc đúng đắn thể hiện lợi ích của toàn giai cấp và
toàn bộ phong trào để giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình.
18


Sđd, tr. 626.


- 10 Về mối quan hệ giữa Đảng và giai cấp, giai cấp công nhân là cơ sở xà hộigiai cấp của Đảng, là nguồn bổ sung lực lợng cho Đảng. Đảng là lÃnh tụ chính
trị, đội tiền phong, bộ tham mu chiến đấu của giai cấp, là biểu hiện tËp trung lỵi
Ých, ngun väng, phÈm chÊt, trÝ t cđa giai cấp công nhân và của dân tộc. Giữa
Đảng và giai cấp công nhân có mối liên hệ hữu cơ, không thể tách rời. Những
đảng viên của Đảng có thể không phải là công nhân, nhng phải là ngời giác ngộ
về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trờng của giai cấp
này. Với một Đảng cộng sản chân chính thì sự lÃnh đạo của Đảng chính là sự
lÃnh đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất. Nhng Đảng là ngời có
trình ®é lÝ ln vµ tỉ chøc cao nhÊt ®Ĩ l·nh đạo giai cấp và dân tộc; vì thế không
đợc lẫn lộn Đảng với giai cấp, Đảng phải là đội tiền phong của giai cấp. C.Mác
và Ph.Ăngghen khẳng định: tính tiền phong của Đảng phải đợc thể hiện toàn
diện cả về chính trị, t tởng và tổ chức; cả về lí luận và thực tiễn; cả về t tởng và
hành động. Đảng đem lại giác ngộ cho toàn bộ giai cấp, sức mạnh đoàn kết, nghị
lực cách mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở
đó lôi cuốn tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác và cả dân tộc đứng lên
hành động theo đờng lối của Đảng nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Thực tiễn từ giữa thế kỉ XIX, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp t
sản ngày càng gay gắt làm cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát
triển mạnh mẽ ở nhiều nơi. Ph. Ăngghen viết: Từ những năm 1840 trở đi, lại bắt
đầu những phong trào chống lại chế độ hiện hành. Tiêu biểu là các phong trào:
Khởi nghĩa của công nhân dệt Li-ông ở Pháp (1831); Khởi nghĩa của công nhân
dệt Xi-lê-di ở Đức (1844); Phong trào Hiến chơng ở Anh (từ 1838-1848) Những
phong trào này mang tính chất chính trị rõ rệt, đó là ý thức giành chính quyền và
xoá bỏ chế độ t hữu. Nhng các phong trào đều bị thất bại, bị đàn áp. Nguyên
nhân lớn nhất, theo C.Mác và Ph.Ăngghen là do các phong trào đều tự phát và
thiếu một lí luận cách mạng dẫn đờng, cha có một lÃnh tụ cách mạng kiệt xuất và
cha có một tổ chức chính Đảng của giai cấp công nhân với t cách là đội tiền

phong, bộ tham mu chiến đấu, lÃnh tụ chính trị của giai cấp lÃnh đạo phong trào.
Từ những vấn đề về lí luận và thực tiễn ở trên, khẳng định: T tởng của
C.Mác và Ph. ngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong tác
phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là hết sức đúng đắn và khoa học. Chính
C.Mác và Ph. ngghen đà đứng trên quan điểm duy vật lịch sử, xuất phát từ cơ
sở kinh tế để nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển của CNTB. Hai ông đà đi
sâu nghiên cứu mâu thuẫn cơ bản trong các hình thái kinh tế xà hội trong lịch sử
để tìm ra lực lợng đóng vai trò trung tâm có khả năng lật đổ giai cấp t sản trong


- 11 hình thái kinh tế TBCN, đó là giai cấp vô sản. Có thể nói, đây chính là công lao
to lớn, vĩ đại có ý nghĩa lịch sử của C.Mác và Ph.Ăngghen. Hai ông đà vạch rõ
cho giai cấp vô sản ở tất cả các nớc thấy đợc vai trò, nhiệm vụ, sứ mệnh lịch sử
của họ là ngời có khả năng tập hợp các giai cấp, tầng lớp khác để đào huyệt chôn
CNTB. Nh vậy học thuyết Mác đà làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô
sản. Và để thực hiện những mục tiêu cao cả của giai cấp công nhân trong cuộc
đấu tranh cách mạng xoá bỏ nền thống trị của giai cấp t sản phải tất yếu thành
lập chính đảng cách mạng của giai cấp vô sản và chỉ khi có Đảng lÃnh đạo, giai
cấp công nhân mới thực hiện đợc sứ mệnh lịch sử của mình.
Nh vậy, thông qua tác phẩmTuyên ngôn của Đảng cộng sản C. Mác và
Ph. Ăngghen đà làm rõ sự ra đời và phát triển của giai cấp vô sản gắn liền với
CNTB và cách mạng công nghiệp; sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; cơ sở
khách quan quy định sứ mệnh lịch; Đảng cộng sản và vai trò của nó với sứ mệnh
lịch sử của giai cấp vô sản; đề ra chiến lợc, sách lợc của Đảng cộng sản trong
cách mạng vô sản và phê phán những quan điểm sai trái, cho ta thấy bức tranh
toàn cảnh về sự vận động, phát triển của xà hội loài ngời, sự diệt vong của chủ
nghĩa t bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa xà hội là tất yếu nh nhau.
Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đánh dấu sự ra đời của chủ
nghĩa Mác nói chung, cđa chđ nghÜa x· héi khoa häc nãi riªng, là tiếng chuông
khai tử cho một chế độ xà hội đà lỗi thời và một giai cấp đà hết vai trò tiến bộ

trong lịch sử. Tác phẩm tạo bớc nhảy vọt về chất, tìm ra câu trả lời của lịch sử:
Ai? Làm gì? Làm nh thế nào? Để giải phóng quần chúng khỏi áp bức, bóc lột,
bất công và xây dựng một xà hội bình đẳng, ấm no, hạnh phúc. Sự ra đời của tác
phẩm đánh dấu sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân, đa phong
trào công nhân từ đấu tranh tự phát lên tự giác. Chấm dứt thời kỳ khủng hoảng đờng lối của phong trào công nhân quốc tế.
Ngày nay, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là cơ sở lý luận để các chúng ta
xem xét, luận chứng sự ra đời và tất yếu diệt vong của chủ nghĩa t bản hiện đại.
Đồng thời còn là cơ sở để bảo vệ và phát triển sứ mệnh lịch sử của giai công
nhân trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá và con đờng, điều kiện, biện
pháp thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay. Nó là một giá
trị văn minh, nhân văn, nhân đạo tất cả vì con ngời và hạnh phúc con ngời; là
ngọn cờ soi đờng cho nhân dân tiến bộ ở thế kỷ XXI mà cha có học thuyết nào
thay thế đợc.
Tuyờn ngụn ca ng Cng sản là cương lĩnh chính trị, kim chỉ nam cho
hành động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; là ngọn cờ dẫn dắt


- 12 giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Với ý nghĩa lớn
lao đó, V.I.Lênin khẳng định: “Cuốn sách mỏng ấy có giá trị bằng hàng bộ sách,
tinh thần của nó đến bây giờ vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vơ sản có tổ
chức và chiến đấu trong thế giới văn minh”.
Phát hiện và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một
trong những cống hiến vĩ đại của C.Mác vµ Ph. ¡ngghen, là một giá trị to lớn
trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Tun ngơn đã luận chứng một cách có
cơ sở khoa học, đầy thuyết phục về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công
nhân; chỉ rõ sứ mệnh lịch sử thế giới đó là do chính địa vị kinh tế - xã hội của
giai cấp công nhân trong xã hội quy định.
Hiện nay, có khơng ít những luận thuyết, quan điểm khác nhau tiến công,

phủ nhận giá trị của Tun ngơn, địi thay thế chủ nghĩa Mác - Lê-nin; những lý
thuyết hoài nghi, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nở rộ ở nhiều
nơi. Người ta cố tình lập luận: C.Mác đã gắn cho giai cấp cơng nhân cái sứ
mệnh mà nó khơng có bởi vì ơng thương đó là giai cấp nghèo khổ; rằng, chủ
nghĩa tư bản đã thay đổi về chất, trở thành “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, khơng
cịn dựa trên sự bóc lột lao động làm th nữa; rằng, cơng nhân ở các nước tư
bản khơng cịn bị bóc lột, địa vị của họ đã thay đổi căn bản, cho nên khơng cịn
sứ mệnh lịch sử nữa?!... Thực chất đó là sự biện hộ cho địa vị thống trị và bóc
lột của giai cấp tư sản, cho sự tồn tại “vĩnh hằng” của chủ nghĩa tư bản, phủ
nhận vai trò lịch sử khách quan của giai cấp công nhân.
Mặc dù có những thay đổi và đạt được những thành tựu to lớn trong các
thập kỷ gần đây, nhưng trong lòng thế giới tư bản hiện đại, mâu thuẫn vốn có
giữa lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất không những vẫn tồn tại, mà có mặt
cịn sâu sắc hơn và lan ra phạm vi rộng hơn. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm


- 13 ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song không thể khắc phục nổi
những mâu thuẫn vốn có.
Trong điều kiện mới, cho dù chủ nghĩa tư bản có thay đổi, thích nghi và
phát triển như thế nào, nhưng bản chất bóc lột, phản động của nó vẫn khơng thay
đổi. Khơng những thế, sự bóc lột và bản chất phản động đang được chủ nghĩa tư
bản ra sức mở rộng đến các nước đang phát triển bằng các hình thức nơ dịch và
chủ nghĩa cường quyền mới về chính trị, kinh tế và cả quân sự. Dù có thể tận
dụng những thành tựu cách mạng khoa học công nghệ hiện đại để phát triển,
nhưng chủ nghĩa tư bản khơng thể thích nghi mãi được, dẫu nó đang cố gị lực
lượng sản xuất trong khn khổ chật hẹp của quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thối kinh tế tồn cầu hiƯn nay đã nói lên những hạn chế của chủ
nghĩa tự do kinh tế, những mâu thuẫn không thể khắc phục và giới hạn của chủ

nghĩa tư bản hiện đại.
4. ý nghÜa trong x©y dùng giai cÊp công nhân Việt Nam hiện nay
Do iu kin lch s ra ®êi ở một nước thuộc địa nưa phong kiÕn, GCCN
Việt Nam ra đời và trưởng thành gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
và đi lên xây dựng CNXH. GCCN Việt Nam có mối quan hệ tự nhiên, máu thịt
với giai cấp nông dân, với tầng lớp trớ thc v nhõn dõn lao ng. Giai cấp công
nhân Việt Nam đà nhanh chóng vơn lên đảm đơng vai trò lÃnh đạo cách mạng và
đa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thực tiễn lịch sử
cách mạng Việt Nam đà chứng minh, trớc khi có Đảng (năm 1930) cha bao giờ
có một giai cấp, một tầng lớp nào đứng lên lÃnh đạo một cuộc cách mạng thành
công. Chỉ có giai cấp công nhân Việt Nam thông qua chính Đảng của mình đà đa
cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Giai cp cụng nhõn Việt Nam thơng qua chính Đảng của mình là giai cấp
duy nhất lãnh đạo cách mạng, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước đến thắng lợi
hồn tồn. Vai trị lãnh đạo, bản chất cách mạng và tính tiền phong của giai cấp
công nhân không hề thay đổi. Những tư tưởng của Tuyên ngôn về sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân, cùng với thực tiễn lãnh đạo cách mạng hơn 8 thập kỷ


- 14 qua là cơ sở cho phép chúng ta khẳng định và tin tưởng vào vai trò và sứ mệnh
lịch sử của giai cấp cơng nhân Việt Nam.
C«ng cc đổi mới do Đảng ta khởi xớng và lÃnh đạo, đà thu đợc nhiều
thành tựu to lớn. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong việc xây dựng xà hội mới,
nhằm thực hiện mục tiêu: dân giàu, nớc mạnh, xà hội, dân chủ, công bằng, văn
minh. Đó là bằng chứng về năng lực lÃnh đạo của giai cấp công nhân thông qua
đội tiền phong của mình là Đảng cộng sản ViÖt Nam.
Sau hơn hai mươi năm tiến hành đổi mới, từ một nước nông nghiệp là
chủ yếu, chúng ta đang chuyển dần thành một nước công nghiệp theo xu hướng
hiện đại. GCCN Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, hội nhập kinh tế quốc tế và đã có nhiều cố gắng để phát huy vai trò nòng

cốt trong liên minh giữa GCCN với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Trong những năm đổi mới, GCCN nước ta đã có những
bước phát triển tích cực, mạnh mẽ, đang tăng nhanh về số lượng, ngày càng đa
dạng về cơ cấu, đồng thời chất lượng đội ngũ được nâng lên, đã xuất hiện bộ
phận cơng nhân trí thức. Cùng với các giai cấp, giai tầng xã hội khác trong khối
đại đồn kết tồn dân tộc, GCCN đã có đóng góp to lớn vào q trình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Về mặt sản xuất, GCCN là lực lượng cơ bản, chủ
yếu, có vai trị to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng GCCN ở
nước ta chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số dân cư (khoảng 13%) nhưng nắm
giữ những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội,
quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế. GCCN là lực
lượng lao động đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước. Hằng năm GCCN
đóng góp khoảng 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn 60% ngân sách
nhà nước. Sự lớn mạnh của GCCN là nhân tố quan trọng để đưa công cuộc đổi
mới đi vào chiều sâu, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Tuy nhiªn, chóng ta cịng thÊy phải thừa nhận một thực tế là: Số lợng, cơ
cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cha đáp ứng đợc yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; tác
phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân


- 15 xuất thân từ nông dân cha đợc đào tạo cơ bản và có hệ thống. Thiếu trầm trọng
các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề. Một bộ phận
công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trờng. Địa vị chính trị của giai cấp
công nhân cha thể hiện đầy đủ; còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dới sự
lÃnh đạo của Đảng. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân
không đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỷ
lệ đảng viên và cán bộ lÃnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ
phận công nhân cha thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong

các tổ chức chính trị - xà hội. Lợi ích một bộ phận công nhân đợc hởng cha tơng xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của
chính mình. Việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có
nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động giản đơn
tại các doanh nghiệp của t nhân và doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài.
Nguyên nhân của những hạn chế là do những hạn chế, yếu kém trong phát
triển kinh tÕ-x· héi. Nghị quyết Hội nghị T.Ư 6 (khóa X) chỉ rõ: "Đảng có chú
trọng xây dựng giai cấp công nhân, nhưng quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang
tầm với vị trí, vai trị của giai cấp cơng nhân trong thời kỳ mới. Nhà nước ban
hành nhiều chính sách, pháp luật xây dựng giai cấp cơng nhân, nhưng chính
sách, pháp luật này vẫn còn hạn chế..."; "tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất
thân từ công nhân cịn thấp... Lợi ích một bộ phận cơng nhân được hưởng chưa
tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của
chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có
nhiều khó khăn, bức xúc...". Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa được
thể hiện đầy đủ. Sự phát triển của giai cấp công nhân cũng chưa đáp ứng được
yêu cầu về số lượng, về cơ cấu và trình độ học vấn, về chun mơn, kỹ năng
nghề nghiệp cho sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng ta
vẫn còn thiếu nghiêm trọng đội ngũ chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi,
công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động ở một bộ phận
cơng nhân cịn nhiều hạn chế; những nông dân và các tầng lớp lao động xã hội
khác mới gia nhập hàng ngũ GCCN chưa được o to c bn v cú h thng.
Để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng vững mạnh, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc trong thời kì mới,


- 16 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đà đặc biệt quan tâm phơng hớng
xây dựng giai cấp công nhân, Đại hội chỉ rõ: Đối với giai cấp công nhân, coi
trọng phát triển về số lợng và chất lợng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện trí thức hoá công nhân, nâng cao
năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lợng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lợng đi đầu trong sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc và vai trò lÃnh đạo cách mạng
trong thời kì mới 19.
Mc tiờu phấn đấu của chúng ta đến năm 2020 là đưa Việt Nam cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong thời gian từ nay đến
mốc thời gian đó, kinh tế thế giới chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức, tốc độ
tăng trưởng kinh tế sẽ cao, khoảng cách giữa các nước giàu và nghèo sẽ ngày
càng gia tăng. Do vậy, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước phải đẩy mạnh hơn,
CNH phải gắn với kinh tế tri thức để rút ngắn thời gian, bảo đảm kinh tế phát
triển bền vững, môi trường được bảo vệ, an sinh xã hội được tăng cường, xã hội
phát triển hài hịa, nguồn nhân lực ngày càng có chất lượng, trình độ cao. Trong
bối cảnh đó, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu
trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta, với đầy đủ những mặt tích cực và
cả những mặt trái của nó đặt ra cho GCCN Việt Nam những địi hỏi mới, những
thử thách mới phải vượt qua.
Nhằm khắc phục những tồn tại yếu kém để xây dựng GCCN đủ sức đảm
nhiệm được sứ mệnh của mình là lực lượng chủ yu y mnh CNH, HH,
ng ta yờu cu phải quán triệt và thực hiện tốt những quan điểm chỉ đạo sau
đây:
Một là, kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lÃnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện
cho phơng thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sù nghiƯp x©y dùng
chđ nghÜa x· héi, lùc lợng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc; lực lợng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức dới sự lÃnh đạo của Đảng. Sự lớn mạnh của giai cấp công
19

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội ĐBTQ lần th IX, Nxb CTQG, H.2001,Tr. 124,125.


- 17 nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới,

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Hai là, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây
dựng, phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức dới sự lÃnh đạo của Đảng, với tất cả các giai cấp, các tầng lớp
xà hội trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc - động lực chủ yếu của sự phát triển
đất nớc; đồng thời tăng cờng quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công
nhân trên toàn thế giới.
Ba là, chiến lợc xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt
chẽ với chiến lợc phát triển kinh tế - xà hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, hội nhập kinh tế quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế
với thực hiện tiến bộ và công bằng xà hội và chăm lo xây dựng giai cấp công
nhân; bảo đảm hài hoà lợi ích giữa công nhân, ngời sử dụng lao động, Nhà nớc
và toàn xà hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công
nhân.
Bốn là, đào tạo, bồi dỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân,
không ngừng trí thức hoá giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lợc. Đặc
biệt, quan tâm xây dựng thế hệ công nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kỹ
năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trờng giai cấp và
bản lĩnh chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân.
Năm là, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, của toàn xà hội và sự nỗ lực vơn lên của bản thân mỗi ngời công
nhân, sự tham gia đóng góp tích cùc cđa ngêi sư dơng lao ®éng; trong ®ã, sù lÃnh
đạo của Đảng và quản lý của Nhà nớc có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò
quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân...
Để giữ vững và tăng cờng bản chất giai cấp công nhân của Đảng
theo tinh thần của Tuyên ngôn Đảng cộng sản, đòi hỏi Đảng ta phải tự đổi mới,
tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa năng lực lÃnh đạo và sức chiến đấu của mình để
luôn xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp công nhân. Tiếp tục khảng định
bản chất giai cấp công nhân của Đảng, Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cơng
lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xà hội (1991 - 2011)
xác định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,

đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc. Đảng phải
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát
triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ


- 18 nghĩa xà hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của
mỗi cán bộ, đảng viên, trớc hết của cán bộ lÃnh đạo chủ chốt của các cấp; không
dao động trong bất cứ tình huống nào. Kiên định đờng lối đổi mới, chống giáo
điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc ( Đảng
cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc Lần thứ XI, Nxb
CTQG, Hà Nội 2011, trang255).
Quân đội ta trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân
dân, có tinh thần chiến đấu dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu lý tởng cách
mạng của Đảng, có ý chí quyết chiến, quyết thắng. Tất cả những phẩm chất ấy đợc bắt nguồn từ sự giác ngộ chính trị sâu sắc, từ bản chất giai cấp công nhân của
quân đội. Xây dựng quân đội theo hớng cách mạng, chính qui, tinh nhuệ và
từng bớc hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, trớc hết cần phải quán
triệt và thực hiện tốt những nguyên lý xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp
công nhân về chính trị. Đó là: Quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân tất yếu
phải mang bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng, cần đặc biệt chăm
lo xây dựng quân đội về chính trị, nhất là củng cố, tăng cờng bản chất giai cấp,
coi đó là vấn đề sống còn của quân đội cách mạng, là nguyên lý căn bản trong
xây dựng quân đội ta hiện nay; xây dựng quân đội về chính trị phải tăng cờng sự
lÃnh đạo của đảng cộng sản với quân đội, đảm bảo sự lÃnh đạo của đảng giữ vai
trò quyết định toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và chiến đấu của quân đội,
xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội vững mạnh, nâng cao hiệu quả công
tác t tởng, công tác tổ chức; trong quá trình xây dựng quân đội, cần tuân thủ
nghiêm ngặt tính giai cấp trong nguyên tắc, cơ cấu tổ chức, đào tạo, bồi dỡng, sử
dụng cán bộ; thờng xuyên giáo dục chính trị t tởng, ý thức hệ của giai cấp công
nhân vào thống trị đời sống tinh thần trong quân đội; chăm lo củng cố, xây dựng

mối quan hệ máu thịt giữa quân đội với giai cấp công nhân, với nhân dân và tăng
cờng mối quan hệ nội bộ quân đội; thấm nhuần chủ nghĩa yêu nớc, chủ nghĩa
quốc tế vô sản chân chính; coi trọng cuộc đấu tranh trên mặt trận t tởng lý luận,
làm thất bại âm mu phi chính trị hoá quân đội của các thế lực thù địch.



×