Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước và sự vận dụng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.02 KB, 78 trang )

Lời nói đầu
Trong quá trình học tập và trau dồi kiến thức về chính trị - pháp lý ở
trường Đại học Luật Hà Nội, có một vấn đề đã làm chúng em hết sức băn
khoăn.
Tại sao Điều 16 của Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách
mạng Pháp lại nhấn mạnh rằng : "Một xã hội trong đó không bảo đảm việc sử
dụng các quyền và không thực hiện sự phân quyền thì không có Hiến pháp"
(1)
;
hay tại sao Điều 13 của Tuyên ngôn về chủ quyền quốc gia của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang Nga lại khẳng định: "Việc phân công các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là nguyên tắc quan trọng nhất trong
hoạt động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang Nga như là
một nhà nước pháp quyền"
(2)
?
Việc chưa biết gì nhiều về tư tưởng phân chia quyền lực, và việc không
thể dùng những kiến thức đã có của mình để giải thích cho mối liên hệ giữa tư
tưởng này với công cuộc xây dựng một xã hội tôn trọng pháp luật, một nhà
nước pháp quyền đã thực sự cuốn hút chúng em để tâm tìm hiểu và nghiên
cứu.
Với sự giúp đỡ và chỉ dạy tận tình của các thầy cô giảng viên bộ môn
Lý luận Nhà nước và Pháp luật, khoa Luật Hành chính - Nhà nước, trường
Đại học Luật Hà Nội, chúng em đã rút ra được những bài học rất quý báu.
Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân - một nhiệm vụ đã được Đảng ta đề ra
trong các Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, và X, thì
việc vận dụng những hạt nhân tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước
trong tổ chức và xây dựng bộ máy nhà nước Việt Nam theo hướng dân chủ,
tiến bộ, khoa học và nhân đạo là điều tất yếu. Điều đó đã được thể hiện rõ
trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: " Nhà nước ta


là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp".
Bởi vậy, với mong muốn là góp thêm một vài dòng vào bên cạnh
những công trình nghiên cứu đã có trước đây, để càng làm rõ hơn ý nghĩa và
giá trị của tư tưởng phân chia quyền lực, cũng như cách thức vận dụng những
hạt nhân hợp lý của nó trong công cuộc xây dựng Nhà nước ta trong giai đoạn
hiện nay, chúng em đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài " Tư tưởng phân chia
3
quyền lực nhà nước và sự vận dụng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam" .
Do nguồn tư liệu được tiếp cận còn hạn chế, lại phải đề cập tới những
vấn đề có sức bao trùm cao, có ý nghĩa sâu sắc như học thuyết phân chia
quyền lực và mô hình nhà nước pháp quyền nên bản báo cáo kết quả nghiên
cứu này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong nhận được sự
chỉ bảo, đóng góp của các thầy cô để giúp chúng em hoàn thiện được kiến
thức của mình. Chúng em xin chân thành cảm ơn.
Nhân đây chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn tới Tiến sĩ Luật học Nguyễn
Thị Hồi, giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội, đã hướng dẫn và giúp đỡ chúng
em rất nhiều trong quá trình nghiên cứu.
=
4
Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước
và sự vận dụng trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền việt Nam

Mục lục
Mục lục..................................................................................................3
Lời nói đầu............................................................................................5

Chương 1.
Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng
phân chia quyền lực nhà nước trong lịch sử.....................7
1. Tư tưởng phân chia quyền lực
nhà nước trong thời kỳ cổ đại............................................10
- Tư tưởng của Aristote....................................................10
- Tư tưởng của Polybe và Cicéron....................................11
- Bộ máy nhà nước Athène..............................................13
- Bộ máy nhà nước Roma thời kỳ cộng hoà.....................15
2. Học thuyết phân chia quyền lực
nhà nước trong thời kỳ cách mạng Tư sản........................17
- John Locke ( 1632 - 1704 ).............................................17
- Chales Louis Montesquieu ( 1689 - 1755 )...................25
- Jean - Jacques Rousseau ( 1712 - 1788 )......................34
3. Học thuyết phân chia quyền lực
nhà nước trong giai đoạn hiện nay....................................42
- Phân quyền ngang.........................................................42
- Phân quyền dọc..............................................................45
5
Chương 2.
Sự vận dụng Tư tưởng phân chia
quyền lực nhà nước trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam.......................................52
1.Sự vận dụng tư tưởng phân chia quyền lực
vào việc tổ chức bộ máy Nhà nước theo hướng
xây dựng nhà nước pháp quyền.........................................53
- Khái niệm Nhà nước pháp quyền.................................53
- Mối quan hệ giữa tư tưởng phân chia quyền lực
nhà nước với mô hình Nhà nước pháp quyền.................57
2. Về cách thức tổ chức, phân công và phối hợp

hoạt động giữa các nhánh quyền lực nhà nước trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta........60
2.1. Thực trạng bộ máy Nhà nước ta
hiện nay và những tồn tại cần khắc phục.......................60
2.2. Một số giải pháp nhằm xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam.....................................67
Kết luận..............................................................................................87
Tài liệu tham khảo.............................................................................89
6
Chương 1
Quá trình hình thành và phát triển
tư tưởng phân chia quyền lực
trong lịch sử
Bàn về quyền lực, Jean - Jacques Rousseau đã viết lên những dòng thật
đẹp trong Chương 3, Quyển thứ nhất của tác phẩm kinh điển Bàn về khế ước
xã hội hay là các nguyên tắc của quyền chính trị ( Du Contrat social - ou
principes du droit politique ). Ông cho rằng quyền lực là sức mạnh có khả
năng buộc người khác phải nghe theo. Và quyền lực nhà nước cũng vậy.
Quyền lực nhà nước là sức mạnh mang tính ý chí của nhà nước, có tính
bắt buộc phải tuân theo đối với mọi cá nhân, tổ chức, lực lượng ... trong xã
hội; được đảm bảo thực hiện bởi một bộ máy chuyên nghiệp quản lý mọi mặt
đời sống xã hội, bởi các công cụ sức mạnh như nhà tù, toà án, cảnh sát, quân
đội... , và bởi hệ thống các quy tắc xử sự chung thống nhất cho toàn xã hội.
Quyền lực nhà nước về bản chất là biểu hiện tập trung cho quyền lực chính trị
của lực lượng chiếm ưu thế về kinh tế trong xã hội.
Từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp biên soạn có
nêu ra những đặc điểm cơ bản của quyền lực nhà nước như sau:
"1) Luôn luôn gắn với sự tồn tại của chính quyền nhà nước; 2) Được
phân chia thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; 3) Do giai cấp,
hoặc liên minh các giai cấp thống trị xã hội tổ chức và thực hiện; 4) Được bảo

đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước."
(1)
Trong một xã hội có giai cấp, quyền lực nhà nước là sức mạnh có tính
bao trùm rộng lớn nhất, quan trọng nhất, có khả năng khống chế và bắt buộc
mọi cá nhân, tổ chức, lực lượng trong xã hội phải phục tùng ý chí của mình.
_____________
(1) Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp: Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Nxb Tư
pháp, Hà Nôi, 2006, tr.652, từ mục " quyền lực nhà nước ".
Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về cách thức
thực hiện thứ quyền lực này, nhưng tựu chung lại thì có hai quan điểm cơ bản,
đó là tập quyền và phân quyền.
Tập quyền là "nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước thể hiện việc tập
trung quyền lực vào tay một người hoặc một cơ quan"
(1)
.
Trong chế độ quân chủ chuyên chế, mọi quyền lực nhà nước nằm hoàn
toàn trong tay nhà vua, ý chí của vua là luật pháp đối với thần dân, vua quản
lý mọi công việc hành chính của nhà nước, đồng thời vua cũng là vị quan toà
7
tối cao. Các chức vụ quan lại, đều do vua cắt cử hoặc bãi chức, chính là hệ
thống những người có nhiệm vụ thực thi các mệnh lệnh, chiếu chỉ... của nhà
vua.
Phân quyền, hiểu một cách đơn gian là trái với tập quyền, là nguyên tắc
tổ chức quyền lực nhà nước sao cho không một cá nhân hay cơ quan nào nắm
trọn vẹn quyền lực.
Nhà nước quân chủ nhị hợp là một dạng nhà nước phân quyền. Vua nắm
toàn quyền hành pháp với quyền hạn thành lập và điều hành Chính phủ, nhưng
lại không được tham gia vào công việc lập pháp, là quyền được Hiến pháp giao
cho cơ quan đại diện nhân dân (có thể là cơ quan đại diện đẳng cấp hoặc Nghị
viện), cũng như không nắm quyền tư pháp - thứ quyền lực đã thuộc về cơ quan

Toà án.
Trong nhà nước quân chủ đại nghị thì vua chỉ còn là một chức danh
tượng trưng, hình thức, không có thực quyền trong tất cả các lĩnh vực hoạt
động của quyền lực nhà nước. Nghị viện nắm quyền lập pháp, quyền hành
pháp nằm trong tay Chính phủ do Nghị viện bầu ra, và Toà án nắm quyền tư
pháp.
Những nhà nước cộng hoà tư sản thể hiện hình thức phân quyền rõ rệt
và triệt để hơn nữa. Ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp
được giao cho các cơ quan khác nhau như Tổng thống, Nghị viện, Chính phủ
và Toà án, với cơ cấu tổ chức để các cơ quan này có thể giám sát, kiềm chế
lẫn nhau, không cho phép cơ quan nào có khả năng thâu tóm toàn bộ quyền
lực.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho cơ quan đại diện cao nhất của họ,
do họ trực tiếp bầu ra qua phổ thông đầu phiếu. ở Việt Nam, Điều 82 Hiến pháp
1980 và Điều 83 Hiến pháp 1992 đều
_____________
(1) Từ điển Luật học, Sđd, tr.694, từ mục "tập quyền ".
khẳng định: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam"
(1)
. Nhưng
cơ quan đại diện của nhân dân này chỉ nắm giữ quyền lập pháp, giám sát tối cao
các hoạt động của Nhà nước, và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước;
nó phải thành lập các cơ quan khác như nguyên thủ quốc gia, chính phủ, toà án
để chúng thực hiện những quyền lực khác của Nhà nước.
Tập quyền là nguyên tắc tổ chức nhà nước không còn phổ biến trên thế
giới ngày nay, trong khi phân quyền đã trở thành nguyên tắc hàng đầu trong việc
xây dựng bộ máy nhà nước. Trong điều 16 Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
8

quyền của Cách mạng Pháp năm 1789 có nêu : "Một xã hội mà trong đó việc tuân
thủ pháp luật không được đảm bảo, hay sự chia tách các quyền không được rõ
ràng, thì cũng chẳng có một hiến pháp nào hết ". Điều 13 của Tuyên ngôn về chủ
quyền quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang Nga do
Đại hội đại biểu nhân dân Liên bang Nga thông qua ngày 12/12/1989 khẳng
định: "Việc phân công các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là nguyên tắc
quan trọng nhất trong hoạt động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết
Liên bang Nga như là một nhà nước pháp quyền"
(3)
.
Nguyên tắc nền tảng cho cách thức xây dựng bộ máy nhà nước của đa số
các quốc gia trên thế giới ngày nay ấy được rút ra từ một học thuyết có tên gọi
học thuyết phân chia quyền lực, hay còn được gọi là học thuyết phân quyền.
Học thuyết phân chia quyền lực lần đầu tiên được nêu ra thành hệ
thống lý luận hoàn chỉnh vào năm 1689 bởi John Locke, trong tác phẩm
Khảo luận thứ hai về Chính quyền hay Luận về Nguồn gốc, Phạm vi và Mục
đích chân chính của Chính quyền dân sự; và được phát triển hoàn thiện bởi
Charles Louis Montesquieu
_____________
(1) Hiến pháp Việt Nam ( Năm 1946, 1959, 1980, 1992 ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm
1995, tr.102 và tr.163
(2) Declaration of the Rights of Man and of the Citizen, Approved by the National Assembly of
France, 1789, translate by Marquis de Lafayette and Thomas Jefferson
(3) TS Trần Hậu Thành: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2005, tr.225
- 226
với tác phẩm De L'esprit des Lois (Bàn về tinh thần Pháp luật),xuất bản
năm 1748 ở Paris. Nhà nước đầu tiên trên thế giới mà trong hiến pháp công
nhận thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực giữa các cơ quan nhà nước là
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ với bản Hiến pháp năm 1787.

Nhưng đó không phải là lần đầu tiên con người tìm đến nguyên tắc này
như một cách thức hữu hiệu để xây dựng bộ máy nhà nước, chống lại sự lạm
quyền của những người cai trị. Mầm mống của tư tưởng phân quyền đã xuất
hiện ngay từ những xã hội sơ khai đầu tiên của nhân loại.
1. Tư tưởng phân chia quyền lực trong thời kỳ cổ đại.
Aristote ( 384 - 322 TCN ) - bộ óc bách khoa nhất của thế giới cổ đại, là
người đầu tiên đề cập tới việc phân chia quyền lực trong các nhà nước. Trong
tác phẩm Politics ( Chính trị ) được viết từ cơ sở nghiên cứu tổ chức bộ máy
nhà nước của 158 quốc gia, ông cho rằng để đảm bảo sự công bằng trong dân
chúng, để có được những đạo luật công bằng thì nhà nước phải được tổ chức
9
có quy củ, để có sự quy củ này thì mọi nhà nước đều phải có "ba bộ phận: bộ
phận tư vấn pháp lý về hoạt động của nhà nước, bộ phận thứ hai là các toà thị
chính, bộ phận thứ ba là các cơ quan tư pháp" và "chính sự khác nhau của chế
độ nhà nước bắt nguồn từ sự khác nhau của mỗi bộ phận này"
(1)
.
Không dừng lại ở đó, ông còn trình bày về cách thức hình thành, chức
năng, quyền hạn và cơ cấu của từng bộ phận cụ thể.
Về bộ phận thứ nhất, hay còn được gọi là Hội nghị nhân dân, được ông
chỉ các chức năng là: "quyết định về vấn đề chiến tranh và hoà bình, lập ra
hoặc phá vỡ những liên mình, ban hành các đạo luật, những án tử hình, đi đày
hoặc tịch thu tài sản và yêu cầu các pháp quan giải thích về cách xử sự của họ
trong thời gian giữ chức vụ"
(2)
. Nói theo ngôn ngữ ngày nay thì Hội nghị nhân
dân này nắm quyền lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của
quốc gia. Số lượng, cách thức lựa chọn các thành viên và quyền hạn của Hội
nghị công dân có liên quan tới hình thức nhà nước: ở chế độ
_____________

(1) TS Trần Hậu Thành: Sđd, tr. 34
(2) TS Nguyễn Thị Hồi: Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy
nhà nước ở một số nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr.34
dân chủ mọi công dân đều được tham gia Hội nghị nhân dân và có quyền quyết
định mọi vấn đề trọng yếu của đất nước; chế độ đầu sỏ chính trị thì chỉ một số
công dân đặc biệt mới được tham gia quyết định các vấn đề nhà nước; còn trong
chế độ quý tộc thì một bộ phận quyết định vấn đề này, trong khi một bộ phận
khác quyết định những vấn đề khác.
Về các toà thị chính, mà cụ thể là về các pháp quan, Aristote cho rằng cần
có nhiều pháp quan để chăm lo cho từng việc cụ thể trong nhà nước: quản lý thị
trường, quản lý đường xá, nhà cửa, quản lý đất đai ... Nhưng cần có một pháp
quan cao nhất, có quyền chỉ huy toàn bộ nhân dân với tư cách như là người đứng
đầu nhà nước. Theo ông, trong chế độ dân chủ, các pháp quan được chọn ra từ
trong toàn thể nhân dân; trong chế độ đầu sỏ chính trị thì được chọn ra từ một
đẳng cấp đặc biệt; còn trong chế độ quý tộc thì một số pháp quan được chọn ra từ
nhân dân, và một số khác được chọn ra từ những đẳng cấp trên trong xã hội.
Về cơ quan tư pháp toà án, Aristote chia ra rất nhiều loại khác nhau, tuỳ
theo tính chất và đặc điểm các vụ việc mà toà án đó chuyên giải quyết. Về cách
thức lựa chọn các thẩm phán, ông cũng chỉ ra nhiều dạng tuỳ theo hình thức nhà
nước: việc mọi công dân đều có thể trở thành thẩm phán là đặc điểm của nhà
nước dân chủ; nếu chỉ có một số công dân thuộc những đẳng cấp nhất định mới
có thể trở thành thẩm phán thì đó là chế độ đầu sỏ chính trị; còn tuỳ theo từng vụ
việc cụ thể mà chọn thẩm phán trong nhân dân hay trong những người đặc biệt là
biểu hiện của chế độ quý tộc.
10
Dù là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên đề cập tới vấn đề phân chia
quyền lực, nhưng tư tưởng này của Aristote vẫn chưa chứa đựng quan điểm phân
chia quyền lực theo tinh thần của thuyết phân chia quyền lực hiện đại, và ông
mới chỉ dừng lại ở mô tả bộ máy nhà nước mà chưa đi sâu, chỉ ra mối liên hệ
giữa các cơ quan nhà nước, cũng như chưa chỉ được ra nguyên nhân phải chia

quyền lực nhà nước thành các nhánh quyền lực như vậy.
Polybe và Cicéron là những người đã thể hiện tư tưởng phân chia quyền
lực qua quan điểm về sự cai trị hỗn hợp.
Polybe ( khoảng 200 -120 TCN ) cho rằng một nhà nước lý tưởng là nhà
nước hỗn hợp của ba chính quyền - ba thế lực chính trị: chính quyền quốc
vương, chính quyền quý tộc và chính quyền nhân dân, mà theo quan điểm ngày
nay đó chính là ba thứ quyền lực: quyền hành pháp trong tay vua, quyền lập pháp
trong tay viện nguyên lão của giới quý tộc và quyền tư pháp thuộc về sự phán xét
của dư luận nhân dân. Polybe chỉ ra nhà nước tổng thể thực hiện quyền lực bằng
cách nào, và các chính quyền khác nhau trong nhà nước ấy bằng cách thức nào
có thể cản trở, kiềm chế nhau, hoặc ngược lại, bảo vệ và ủng hộ nhau. Khi một
thế lực muốn vượt quyền hạn của mình và gây phương hại tới lợi ích của các thế
lực khác thì sẽ đụng độ sự phản đối thích đáng từ các thế lực này, và kết quả là sẽ
đạt đến một trật tự đúng đắn, đảm bảo cho sự ổn định và vững mạnh của nhà
nước tổng thể.
Cicéron ( 106 - 43 TCN ) - nhà lập pháp nổi tiếng của Roma thời kỳ Cộng
hoà. Trong tác phẩm Đối thoại, ông viết: "... một phần quyền lực của nhà nước
phải được phân chia và trao cho uy thế của những người chiếm hàng đầu, còn
một số công việc phải dành cho nhân dân xét đoán và giải quyết..."
(1)
. Cicéron đã
nghiên cứu nhiều hình thức của nhà nước hỗn hợp, và cuối cùng ủng hộ cho hình
thức nhà nước có sự cân bằng giữa các phần quyền lực: "phân chia quyền lực:
nghĩa vụ và quyền hạn công bằng"
(2)
.
Như vậy, ngay từ thời cổ đại, tư tưởng phân chia quyền lực đã hình thành
với nhiều quan điểm, trường phái khác nhau, và trở thành nền tảng cho sự phát
triển của tư tưởng trong thời kỳ cách mạng tư sản và giai đoạn hiện nay.
Khi nói đến tư tưởng phân chia quyền lực thì không thể không nhắc đến

biểu hiện cụ thể của nó trong các bộ máy nhà nước, mà tiêu biểu nhất trong thời
kỳ cổ đại chính là nhà nước Athène ở Hy Lạp và nhà nước Roma cộng hòa. Từ
cơ sở nghiên cứu sự tổ chức của các nhà nước này mà các học giả cổ đại đã đưa
ra những quan điểm, tư tưởng như đã nêu trên. Ta hãy thử nhìn qua bộ máy nhà
11
nước cũng như cơ cấu phân chia quyền lực ở các thành bang này để có thể hiểu
rõ hơn tư tưởng phân quyền trong thời kỳ cổ đại.
_____________
(1) TS Trần Hậu Thành: Sđd, tr.37
(2) TS Trần Hậu Thành: Sđd, tr.38
Bộ máy nhà nước Athène:
Athène là thành bang nằm ở vùng đồng bằng Attic, miền trung Hy Lạp.
Nhà nước Athène có chính thể Cộng hoà dân chủ chủ nô, là kết quả của
những cuộc cải cách chính trị, đã biến liên minh các bộ lạc của thời mạt kỳ xã
hội thị tộc thành đỉnh cao của nền chuyên chính dân chủ thời kỳ cổ đại.
Theo truyền thuyết, Thésée là người đặt nền móng cho sự ra đời của
nhà nước Athène. Ông chia lãnh thổ miền đồng bằng Attic thành 48 địa khu,
và chia dân tự do Athène thành 3 tầng lớp: quý tộc, nông dân và thợ thủ công.
Dấu vết của các bộ lạc cũ trong liên minh đã bị xoá nhoà. Đại hội nhân dân
của các bộ lạc cũ vẫn còn tồn tại, nhưng quyền lực thực tế đã được chuyển
sang một tổ chức khác - Viện nguyên lão - gồm những đại biểu của tầng lớp
quý tộc giàu có. Viện nguyên lão có toàn quyền trong các lĩnh vực lập pháp,
tư pháp, giám sát và quyết định mọi vấn đề hệ trọng của đất nước. Chức vụ
thủ lĩnh quân sự của các bộ lạc ( basileus ) được thay thế bằng chức vụ quan
chấp chính, được cử ra từ tầng lớp quý tộc. Athène trở thành một thành bang
theo chế độ cộng hoà quý tộc chủ nô.
Trước đà phát triển của nền kinh tế công thương, năm 594 TCN, Solon
- đang là chấp chính quan của Athène, đã tiến hành một cuộc cải cách mang
tính dân chủ tiến bộ. Quan trọng nhất trong những cải cách về tổ chức bộ máy
nhà nước của ông là thành lập toà án nhân dân có nhiều bồi thẩm, cùng thảo

luận xét xử để tránh sự tuỳ tiện và tăng cường tính dân chủ.
Tiếp theo Solon là Clisthenes, và cuối cùng là hai thầy trò Ephialtes -
Pericles đã tiến hành những cuộc cải cách chính trị sâu rộng, từng bước dân
chủ hoá bộ máy nhà nước Athène, cũng như hạn chế quyền lực của Viện
nguyên lão, đưa Viện nguyên lão từ cơ quan nắm giữ mọi quyền lực nhà nước
thành tổ chức chỉ có quyền trong các hoạt động tôn giáo.
Cải cách của Pericles đã xây dựng bộ máy nhà nước Athène một cách
hoàn thiện nhất, bao gồm các cơ quan chủ yếu: Hội nghị công dân, Hội đồng
500 người, Toà án nhân dân và Hội đồng 10 tướng lĩnh.
Hội nghị công dân ( người Hy Lạp gọi là Eccơlêdia ) là cơ quan quyền
lực cao nhất của thành bang, có quyền thảo luận và biểu quyết các vấn đề hệ
trọng của đất nước, thông qua hay phủ quyết các dự luật, chọn cử những viên
12
chức nhà nước. Eccơlêdia là đại hội của tất cả các công dân nam Athène tuổi
từ 18 trở lên, họp hàng tháng, và ít nhất là 10 lần trong một năm. Trong hội
nghị, mọi công dân đều có quyền đưa ra một dự án luật hoặc đề nghị bãi bỏ
một điều luật hiện hành.
Hội nghị công dân bầu ra Hội đồng 500 người ( gọi là Bulê ) - là cơ
quan hành pháp của nhà nước. Bulê có nhiệm vụ thay mặt nhân dân thực hiện
các công việc hành chính của nhà nước trong suốt một năm. Ngoài ra Bulê
còn có nhiệm vụ kiểm tra tư cách công dân cũng như tư cách của các viên
chức trong bộ máy nhà nước. Hội đồng được chia thành 10 uỷ ban - Pơritani.
Mỗi Pơritani có chức năng thường trực thay mặt Bulê giải quyết các công việc
hành chính hàng ngày trong nhiệm kỳ 1/10 năm ( khoảng từ 36 đến 39 ngày ).
Toà án nhân dân là cơ quan tư pháp của nhà nước có cơ cấu gồm 6000
thành viên, do Hội nghị công dân bầu ra, vừa làm thẩm phán, vừa làm bồi
thẩm trong nhiệm kỳ một năm. Khi cần xét xử một vụ án cụ thể thì tiến hành
bốc thăm trong số 6000 người này để chọn ra một số thẩm phán.
Hội đồng 10 tướng lĩnh có thành viên là các quý tộc giàu có, ban đầu
chỉ nắm quyền chỉ huy quân sự, nhưng sau dần trở thành cơ quan hành chính

cao nhất của nhà nước. Hội đồng được Hội nghị công dân bầu ra theo hình
thức biểu quyết chứ không phải là bỏ phiếu kín như việc bầu cử các cơ quan
nhà nước khác, và hoạt động của Hội đồng 10 tướng lĩnh phải chịu sự giám
sát của Hội đồng 500 người.
Trong mỗi kỳ họp của Hội nghị công dân, đều có thủ tục biểu quyết
chấp thuận hay khiển trách các viên chức nhà nước. Nếu bị khiển trách, viên
chức ấy sẽ bị bãi miễn chức vụ. Ngoài ra, tại phiên họp cuối cùng hàng năm,
các viên chức phải tường trình trước một uỷ ban đặc biệt của Hội nghị công
dân về số tiền công quỹ do mình thu giữ và chi tiêu. Đây chính là hình thức
đầu tiên của hoạt động kiểm tra, giám sát của cơ quan quyền lực tối cao -
chính là nhân dân, đối với hoạt động của các viên chức trong bộ máy nhà
nước, với các cơ quan nhà nước khác.
Bộ máy nhà nước Roma thời kỳ Cộng hoà:
Theo truyền thuyết, thành Roma được vua Romulux xây dựng vào năm
753 TCN trên bờ sông Tibes, miền Trung bán đảo Italia.
Lịch sử Roma có thể chia làm ba thời kỳ: thời kỳ Vương chính ( thế kỷ
7 TCN đến thế thế kỷ 4 TCN ), thời kỳ Cộng hoà (từ thế kỷ 4 TCN đến thế kỷ
1 ), và thời kỳ Đế chế ( từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 5 ). Nhưng ở đây ta chỉ xem xét
bộ máy nhà nước dưới thời Cộng hoà.
13
Dưới thời kỳ Cộng hoà, bộ máy nhà nước Roma bao gồm các bộ phận
chủ yếu sau: Đại hội nhân dân Centuries, Đại hội bình dân Plebs, Viện nguyên
lão, hai quan chấp chính, và hội đồng các quan bảo dân. Bộ máy này thể hiện
khá rõ tư tưởng phân chia quyền lực giữa các cơ quan nhà nước.
Đại hội nhân dân Centuries, Đại hội bình dân Plebs và Viện nguyên lão
là các cơ quan nắm quyền lập pháp của nhà nước.
Đại hội nhân dân Centuries họp mỗi năm hai lần tại quảng trường Thần
Chiến tranh Mars, để quyết định những vấn đề cơ bản của nhà nước như:
chiến tranh, hoà bình, và bầu chọn các quan chức nhà nước. Hai chấp chính
quan ( consul ) cũng do Đại hội bầu ra với nhiệm kỳ 1 năm.

Đại hội bình dân Plebs ra đời muộn hơn các cơ quan khác của nhà nước
Roma, là kết quả của cuộc đấu tranh giữa các cư dân mới tới ( Plebs ) đòi hỏi
phải có tiếng nói của mình bên cạnh Đại hội nhân dân Centuries của cư dân
Roma bản địa. Do người Plebs chiếm tỉ lệ cao trong số cư dân Roma nên họ tự
coi đại hội của mình là đại hội của toàn thể cư dân Roma, những quyết nghị
của đại hội này có hiệu lực như pháp luật với toàn thể công dân Roma, nhưng
Đại hội bình dân Plebs chỉ quyết định các vấn đề liên quan tới các bộ lạc hay
liên quan tới các đơn vị hành chính lãnh thổ.
Viện nguyên lão ( Senate ) bao gồm 300 thành viên, là các quý tộc giàu
có, hoạt động theo nguyên tắc: Đại hội Centuries là cơ quan quyền lực tối cao,
nhưng mọi quyết định đều phải thông qua sự phê chuẩn của Viện nguyên lão;
các quan chức của bộ máy nhà nước cũng chỉ được bầu chọn từ những nghị
viên của Viện, bởi vậy, thực tế Viện nguyên lão chính là cơ quan đại diện
thường trực của Đại hội nhân dân Centuries để quyết định những vấn đề
thường xuyên của nhà nước như: hành chính, ngân sách, ngoại giao, lễ nghi
tôn giáo ...
Hai chấp chính quan do Đại hội Centuries bầu ra nắm trong tay quyền
hành pháp, ngoài ra, còn có một số quyền lập pháp nhất định. Trong nhiệm kỳ
1 năm, nếu xảy ra trường hợp Tổ quốc lâm nguy thì một trong hai chấp chính
quan sẽ được chọn cử làm Dictato - hay Độc tài, trong thời hạn 6 tháng. Trong
thời gian này, Dictato nắm giữ quyền hành tối cao về mọi vấn đề.
Hội đồng các quan bảo dân lúc đầu chỉ gồm 2 người, rồi là 4, 6 và 10
người, để bảo vệ, bênh vực người dân trước những quyết định đi ngược lại lợi
ích nhân dân của Viện nguyên lão hay của các quan chấp chính, giám sát và
có ý kiến đối với những dự luật và việc làm của chính quyền Roma, ngoài ra
còn giải quyết các vụ án dân sự. Hội đồng này tương ứng với cơ quan tư pháp.
Theo thoả thuận giữa Viện nguyên lão với nhân dân, quyền lực và tư
cách của các quan bảo dân ( tribun ) là thiêng liêng và bất khả xâm phạm.
Nằm bên cạnh các cơ quan của nhà nước Cộng hoà, các quan bảo dân có
quyền phủ quyết đối với mọi dự luật hay đề án chính sách của Viện nguyên

14
lão nếu xét thấy có hại cho nhân dân. Quan bảo dân cũng có quyền tham dự và
theo dõi các phiên họp của của Viện nguyên lão để có thể can thiệp trực tiếp
hay phủ quyết tại chỗ các quyết nghị bất lợi cho người dân. Tuy nhiên, quyền
lực của các quan bảo dân ở Roma không phải là vô biên. Theo thoả thuận, có
một số giới hạn đối với quyền phủ quyết của quan bảo dân như: quan bảo dân
không được can dự vào chuyện quân sự, và quyền lực của quan bảo dân chỉ có
hiệu lực trong thành Roma. Trong trường hợp Tổ quốc lâm nguy, và một
trong hai quan chấp chính đã trở thành Độc tài thì quyền hành của quan bảo
dân tạm thời bị đình chỉ.

Như trên, ta đã thấy tổ chức nhà nước ở Athène và Roma thời kỳ Cộng
hoà là một hình thức phân quyền khá triệt để, các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp tách biệt nhau trong cơ cấu tổ chức và hoạt động; giữa các cơ
quan này đã có sự kiểm tra, giám sát, kiềm chế và đối trọng nhau một cách
hợp lý. Bởi vậy, nhà nước Athène và nhà nước Cộng hoà Roma là biểu hiện
cao nhất của tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong thời kỳ cổ đại.
2. Học thuyết phân chia quyền lực trong thời kỳ cách mạng Tư
sản
Trong gần 1500 năm của "đêm trường Trung cổ", tất cả các nhà nước ở
Châu Âu đều theo chính thể quân chủ chuyên chế, và không hề có sự tiếp nối
tư tưởng phân chia quyền lực từ thời kỳ cổ đại. Nhưng sự chuyên quyền của
các vua, và sự khủng hoảng của nhà nước phong kiến, cũng như sự xuất hiện
và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm thay đổi tất
cả.
Bối cảnh chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản đã tạo ra
nhiều quan điểm mới về nhà nước, cũng như về vai trò của nó trong đời sống
xã hội. Vị trí trung tâm của các quan điểm này là vấn đề tổ chức và hoạt động
của nhà nước: làm sao để loại trừ sự độc đoán quyền lực trong tay một người
hay một nhóm người, làm sao để bảo vệ được quyền tự do, bình đẳng của mọi

cá nhân trong xã hội bằng pháp luật ... ? Và các học giả trong thời kỳ này đã
tìm được câu trả lời qua một tư tưởng cổ xưa: phân chia quyền lực nhà nước.
John Locke ( 1632 - 1704 ):
Phần hai của Hai khảo luận về chính quyền ( Two Treatises of
Gorvernment ), Khảo luận thứ hai về chính quyền hay Luận về Nguồn gốc,
Phạm vi và Mục đích chân chính của chính quyền dân sự - một trong những tác
15
phẩm vĩ đại nhất của nền triết học chính trị và chính trị học nhân loại, chính là
nơi Locke trực tiếp đưa ra học thuyết của mình về nhà nước - một học thuyết
đan xen các tư tưởng pháp quyền tự nhiên, khế ước xã hội và phân chia quyền
lực.
Trong những chương đầu của tác phẩm, Locke giải thích cho sự ra đời
của nhà nước là từ một bản khế ước, khi những con người ở trạng thái tự
nhiên chấp thuận kết hợp bản thân mình vào cộng đồng quốc gia, và nhường
những quyền tự nhiên của mình cho nhà nước, nhằm mong muốn có được sự
bảo vệ tài sản và bản thân mình một cách ổn định. Từ đó, ông nêu cao yêu cầu
nhà nước và pháp luật thực định phải tôn trọng những quyền tự nhiên của con
người, như là sự thực hiện đúng những cam kết trong khế ước.
Về quyền lực nhà nước, Locke cho rằng đó là "quyền làm luật có án phạt
tử hình, và do đó, bao hàm tất cả những hình phạt thấp hơn, để quy định và bảo
toàn sở hữu, quy định và bảo toàn việc sử dụng vũ lực của cộng đồng khi thực
thi các luật này, trong việc phòng vệ của cộng đồng quốc gia trước những
phương hại gây ra từ nước ngoài; và tất cả những việc như thế chỉ duy nhất là vì
lợi ích công"
(1)
.
Từ quan điểm trên, có thể thấy Locke đồng nhất quyền lực nhà nước với
quyền lập pháp. Ông nhấn mạnh: "chỉ có thể có một quyền lực tối cao, là cơ
quan lập pháp, mà tất cả các quyền lực còn lại là, và phải là, những cái phụ
thuộc vào nó"

(2)
. Hơn thế, theo ông, "tuỳ việc quyền lực lập pháp được đặt ở
cương vị nào mà hình thức của cộng đồng quốc gia là như thế đó"
(3)
. Nếu như
quyền lực lập pháp nằm trong tay đa số cộng đồng, và việc thi hành các đạo
luật này là bởi các quan chức do chính họ bổ nhiệm thì đó là một nền dân chủ
hoàn hảo. Nếu như quyền lực này nằm trong tay một số ít người được lựa chọn
và những người thừa kế của họ thì đó là chính thể đầu sỏ. Còn nếu như quyền
lực này được giao trọn cho một người, thì đó là một nền quân chủ. Khi quyền
lực được dành cho ông ta và những người thừa kế của ông ta, đó là nền quân
chủ cha truyền con nối. Còn khi nó được dành cho ông ta trọn đời nhưng vào
lúc ông ta chết đi, quyền đề cử một người kế vị trở về với số đông nhân dân, thì
đó là nền quân chủ tuyển cử. Và từ những chính thể này mà cộng đồng quốc gia
có thể tạo sự kết hợp hoặc hỗn hợp giữa các hình thức chính quyền, theo như
cách họ cho là tốt nhất.
Bởi vậy, Locke cho rằng "Luật xác thực đầu tiên và làm nền tảng của
mọi cộng đồng quốc gia, là việc thiết lập cơ quan quyền lực lập pháp"
(4)
. Cơ
quan lập pháp không những là quyền lực tối cao của cộng đồng quốc gia, mà
còn là quyền lực thiêng liêng và không thể hoán đổi một khi cộng đồng đã nhất
trí đặt nó vào cương vị đó. Cơ quan lập pháp là cơ quan duy nhất có quyền ban
hành pháp luật, bởi nếu không có sự phê chuẩn của cơ quan lập pháp - cơ quan
đại diện cho cộng đồng toàn xã hội, thì dù đó là sắc lệnh của bất cứ ai, được bất
16
cứ quyền lực nào hậu thuẫn đi chăng nữa thì cũng không thể có được điều tuyệt
đối cần thiết đối với pháp luật - đó chính là sự chấp thuận của xã hội. Đồng
thời, không một thành viên nào của cộng đồng có thể không tuân thủ hay đi
xa hơn những luật mà cơ quan

_____________
(1) John Locke: Khảo luận thứ hai về Chính quyền - Chính quyền dân sự, Nxb Tri thức, Hà
Nội, năm 2007
(2) John Locke: Sđd, tr.203
(3) John Locke: Sđd, tr.180
(4) John Locke: Sđd, tr.183
lập pháp đã ban hành, khi nó vẫn hoạt động phù hợp với sự uỷ thác của xã
hội, dù cá nhân đó có được sự ủng hộ từ một quyền lực ngoại quốc hay của
bất cứ một quyền lực nào khác trong nước.
Bên cạnh những quyền hạn ấy, Locke cũng vạch ra những ranh giới mà
cơ quan lập pháp không được phép vượt qua.
Thứ nhất, nó không thể là quyền lực độc đoán, chuyên chế đặt trên cuộc
sống và vận mệnh nhân dân. Con người trong trạng thái tự nhiên không thể
xâm hại đến tính mạng và tài sản của người khác, nếu như đó không phải là sự
trừng phạt thích đáng với những gì người đó đã gây ra cho mình, vậy nên cơ
quan lập pháp - thứ quyền lực có được từ tổng số tất cả những quyền tự nhiên
được uỷ thác từ các cá nhân trong cộng đồng, cũng không thể có quyền huỷ
hoại sinh mạng của bất kỳ ai trong xã hội một cách vô cớ. Không một luật lệ
nào được coi là tốt hay là có căn cứ nếu chống lại cái luật tự nhiên căn bản là
bảo toàn loài người. Không một luật lệ nào được coi là tốt hay là có căn cứ
nếu không được thiết lập nhằm mục đích tối thượng là vì lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, hay thực chất là nguyên tắc để ngăn chặn sự độc đoán, chuyên
chế của cơ quan lập pháp, là yêu cầu phải có những đạo luật thường trực đã
ban hành và những quan toà có hiểu biết được trao thẩm quyền khi đưa ra
những quyết định có liên quan tới các quyền của mỗi thành viên trong xã hội.
Chỉ khi có những luật được minh định, những quy tắc thường trực để ràng
buộc thì con người mới biết đâu là quyền và đâu là sở hữu của mình; "còn nếu
không như thế thì hoà bình, sự yên ổn và sở hữu của họ vẫn chỉ là trong cùng
một trạng thái bất định như đã có ở trạng thái tự nhiên"
(1)

.
Thứ ba, cơ quan lập pháp không thể ban hành những quyết định cho
phép lấy toàn bộ hay một phần tài sản của bất kỳ ai mà không có sự chấp
thuận của anh ta, vì bảo toàn sở hữu là mục đích chân chính và hàng đầu của
chính quyền, và cũng là nguyên nhân con người đồng ý từ bỏ trạng thái tự
nhiên mà gia nhập vào cộng đồng quốc gia, nên vi phạm vào nguyên tắc này
nghĩa là nhà nước đã vi phạm vào khế ước đầu tiên tạo thành xã hội. Nếu
không có nguyên tắc này thì cũng có nghĩa là không ai trong xã hội có sở hữu,
17
bởi có thể bị người khác hay bởi chính chính quyền tước mất. Cụ thể,
Locke nhấn mạnh rằng: "nếu một người bất kỳ nào đòi hỏi một
_____________
(1) John Locke: Sđd, tr.189
quyền lực để đặt ra và thu thuế đối với nhân dân bằng thẩm quyền riêng của
ông ta mà không có sự chấp thuận của nhân dân, thì ông ta đã xâm lấn vào
luật căn bản của sở hữu và làm biến chất mục đích của chính quyền"
(1)
.
Thứ tư, cơ quan lập pháp không thể chuyển giao quyền làm luật vào tay
bất kỳ ai khác, bởi theo khế ước, các cá nhân trong xã hội đã trao quyền lực
vào cơ quan lập pháp với nhiệm vụ "để làm luật mà không phải là để làm nên
các nhà lập pháp, do đó, cơ quan lập pháp không có quyền gì để chuyển giao
thẩm quyền làm luật của họ và đặt nó vào tay người khác"
(2)
.
Theo Locke, luật pháp được làm nên trong thời gian ngắn nhưng có sức
mạnh bất biến và dài lâu, nên cơ quan lập pháp không phải lúc nào cũng cần
hiện diện. Hơn thế, sự cám dỗ của quyền lực rất dễ khiến những nhà làm luật
có tham vọng nắm luôn quyền thi hành nó, để rồi đặt lợi ích và bản thân mình
lên trên luật pháp, và đi trái lại mục đích của xã hội và chính quyền. Do đó,

ông đưa ra mô hình của cơ quan lập pháp tốt nhất là tập hợp của những người
khác nhau trong một thời gian nhất định để làm luật, và khi đã hoàn thành
công việc, họ sẽ lại tách ra, trở lại là một thành viên của cộng đồng và chịu sự
chi phối của những luật mà mình làm ra, như thế mới đảm bảo cho việc làm
luật của họ là vì lợi ích chung của toàn cộng đồng.
Trong một cộng đồng quốc gia, quyền lực lập pháp là thứ quyền lực đầu
tiên và quan trọng nhất, nhưng những nhà lập pháp phải luôn ghi nhớ rằng
quyền lực của họ là do nhân dân uỷ thác, và sự uỷ thác đó không phải là nhân
dân trao tất cả các quyền của mình cho cơ quan lập pháp, mà có một thứ
quyền lực tối cao vẫn luôn luôn được lưu giữ lại trong cộng đồng, đó là quyền
tự bảo toàn. Đó là quyền "cứu lấy chính mình trước cố gắng hay mưu đồ của
bất kỳ ai, cho dù là các nhà lập pháp của họ, vào bất kỳ lúc nào - khi mà những
người này trở nên quá ngu xuẩn hay quá độc ác"
(3)
, nhằm chống lại các quyền
tự do và sở hữu của con người. Khi ấy, quyền lực phải "được chuyển giao
về tay những người đã trao nó ra, để họ lại đặt nó vào nơi mà họ nghĩ là sẽ
tốt nhất cho sự an toàn và an
_____________
(1) John Locke: Sđd, tr. 195
(2) John Locke: Sđd, tr. 196
(3) John Locke: Sđd, tr.204
ninh của họ"
(1)
.
18
Trong chương XII: Về cơ quan lập pháp, hành pháp và quyền liên hiệp
của cộng đồng quốc gia, Locke chỉ ra trong quyền lực tối cao của cộng đồng
xã hội, bên cạnh quyền lập pháp còn có quyền hành pháp và quyền liên hiệp.
Bởi nếu như cơ quan lập pháp không cần, và cũng không nên hiện diện

thường xuyên thì việc thực hiện những đạo luật đã được làm ra lại luôn cần
tồn tại một cách thường trực, đó chính là quyền hành pháp. Và như đã trình
bày ở trên, nếu quyền lập pháp và hành pháp cùng nằm trong tay một cá nhân
hay một nhóm người nào đó thì có thể họ sẽ miễn cho bản thân việc chấp hành
các đạo luật, hay khiến cho cả quá trình làm luật và thực hiện luật đều chỉ vì
lợi ích của bản thân mình, nên hai quyền lực này cần được trao vào những bàn
tay khác nhau.
Theo Locke, nếu như trong một nhà nước mà cơ quan lập pháp không
tồn tại thường xuyên, một người nào đó nắm toàn quyền hành pháp và cũng
có quyền tham dự vào cơ quan lập pháp thì con người này, theo một nghĩa có
thể chấp nhận được, chính là quyền lực tối cao, bởi lẽ ông ta nắm toàn quyền
hành pháp, và bởi lẽ không có một cơ quan lập pháp cấp trên nào có thể thông
qua một đạo luật nếu không có sự đồng ý của ông ta. Từ bản thân ông ta xuất
phát ra thứ quyền cai trị của tất cả các quan cấp dưới, và các viên quan này
cũng như toàn thể dân chúng phải tuyệt đối trung thành với ông ta, phải tuân
thủ mọi ý chí của ông ta. Nhưng sự trung thành và sự tuân thủ này chỉ là một
sự chấp hành luật pháp không hơn không kém. Hành động của ông ta là dựa
theo ý chí xã hội, là thứ đã được minh định trong pháp luật, bởi vậy, ông ta
không có ý chí nào khác, quyền lực nào khác ngoài ý chí và quyền lực của
luật pháp. Nếu ông ta không thực hiện, hoặc thực hiện trái lại nhiệm vụ mà cơ
quan lập pháp đã uỷ nhiệm cho, nghĩa là ông ta đã tự giáng chức mình, trở
thành một thành viên của cộng đồng như mọi thành viên khác, và không còn
bất cứ một quyền lực nào hơn những thành viên còn lại để buộc họ phải tuân
thủ theo ý chí của mình, khi mà bản thân họ chỉ duy nhất phải tuân thủ theo ý
chí chung của pháp luật.
Những cá nhân nắm quyền hành pháp phải luôn nhớ rằng quyền
lực của mình là do cơ quan lập pháp uỷ thác, để thực hiện cũng như giám sát
sự thực hiện các đạo luật đã được ban hành. Và
_____________
(1) John Locke: Sđd, tr.203

do quyền lực đó được cơ quan lập pháp trao cho, nên cơ quan lập pháp cũng
có quyền thu hồi nó lại khi nhận thấy sự yếu kém hay sự đi ngược lại luật
pháp của quyền hành pháp, và trao lại cho một cá nhân hay tập thể khác thích
hợp hơn nắm giữ.
Còn một thứ quyền lực khác nữa của chính quyền được Locke đưa ra,
đó là quyền liên hiệp, dù bản thân ông tự nhận là không quan tâm tới việc đặt
19
tên gọi cho nó. Ông cho rằng thứ quyền lực này "bao hàm quyền lực về chiến
tranh và hoà bình, tạo liên minh và lập đồng minh, cũng như tất cả mọi giao
kết khác, với mọi cá nhân và cộng đồng, bên ngoài cộng đồng quốc gia"
(1)
. Giải
thích cho nguồn gốc của quyền liên hiệp, Locke chỉ ra rằng trong trạng thái tự
nhiên con người có những mối liên hệ với các cá nhân khác, bởi vậy, khi đã
liên kết lại với nhau thành xã hội, thì cái cơ thể chính trị mới này - tức là cộng
đồng quốc gia, cũng phải có những mối liên hệ với các cá nhân hoặc với
những cơ thể chính trị - cộng đồng quốc gia khác.
Theo Locke, quyền liên hiệp có tầm quan trọng to lớn đối với cộng
đồng quốc gia, hơn thế, lại rất khó để có thể điều chỉnh hoạt động của nó theo
những luật xác thực đã được cơ quan lập pháp thông qua, do những biến đổi
thường xuyên trong hành động, ý đồ và quyền lợi của những người nước
ngoài, nên cần phải trao nó vào tay một cá nhân cụ thể thông thái và cẩn
trọng.
Về quyền liên hiệp này, nhiều nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng nó
không có ý nghĩa thực tiễn trong bộ máy nhà nước. Nhưng chúng em không
nghĩ như thế, nhất là xét trong hoàn cảnh thế giới hiện nay: khi xu thế toàn
cầu hoá, hợp tác quốc tế đang ngày càng được tăng cường, ranh giới giữa các
quốc gia ngày càng bị xoá nhoà, và sau các cuộc chiến tranh "bất hợp pháp"
của Mỹ ở Afghanistan năm 2001, ở Iraq năm 2003 ... thì theo chúng em, việc
quan tâm tới quyền liên hiệp đang là một yêu cầu quan trọng của tổ chức bộ

máy nhà nước trong thời đại ngày nay.
Theo Locke, dù quyền hành pháp và quyền liên hiệp rất khác nhau, vì
một thứ là sự thực thi các đạo luật đã có ở bên trong cộng đồng quốc gia đối
với những thành viên của nó, còn một thứ là sự bảo đảm an ninh và lợi ích của
các cá nhân cũng như toàn thể cộng đồng trong mối liên quan bên ngoài với
các cá nhân và cộng đồng khác, nhưng thực chất chúng luôn thống nhất với
nhau. Ông viết: _____________
(1) John Locke: Sđd, tr.201
"quyền hành pháp và quyền liên hiệp của mỗi cộng đồng thực sự phân biệt với
nhau, những chúng khó mà bị chia tách và cùng lúc
đặt vào tay của những cá nhân khác nhau. Vì cả hai quyền lực này đều cần đến
vũ lực của xã hội cho việc thực thi chúng, nên hầu như phi thực tế nếu đặt vũ
lực của cộng đồng quốc gia vào những bàn tay riêng biệt và không phụ thuộc
nhau, hay đối với cơ quan hành pháp và quyền lực liên hiệp phải được đặt vào
những cá nhân có thể hành động tách rời nhau, và theo đó mà sức mạnh cưỡng
bức của dân chúng sẽ được đặt dưới những mệnh lệnh khác nhau, là điều có
khuynh hướng gây ra sự hỗn loạn và phá hoại, vào lúc này hay lúc khác"
(1)
.
Quay lại với cơ quan lập pháp, về thời điểm nhóm họp và hoạt động của
cơ quan quyền lực tối cao này, Locke đưa ra hai phương án: thứ nhất là thời
20
điểm này được ấn định rõ ràng trong hiến pháp gốc, và cơ quan hành pháp chỉ
phải điều hành cụ thể việc bầu chọn và hội họp của cơ quan lập pháp theo
đúng quy định; thứ hai là cơ quan hành pháp, bằng sự cân nhắc thận trọng của
mình, tiến hành tuyển cử hay triệu tập cơ quan lập pháp, khi nhận thấy đòi hỏi
phải tu chỉnh, sửa đổi những luật cũ hay ra những luật mới, hoặc khi nhận
thấy những hiểm nguy đang đe doạ nhân dân.
Việc trao quyền triệu tập hay giải tán cơ quan lập pháp cho cơ quan
hành pháp không phải là trao một vị thế cao hơn cho nó. Đó đơn giản chỉ là

niềm tin được uỷ thác cho nó, vì lợi ích cao nhất của nhân dân. Có thể cần ban
hành ngay một điều luật mới, có thể cần sửa đổi hay bãi bỏ ngay một điều luật
cũ, có thể cần qiải quyết một vấn đề khẩn cấp của cộng đồng, cũng có khi là
không có việc gì cần tới cơ quan lập pháp ..., mà thời gian hội họp của cơ
quan lập pháp được ghi nhận trong hiến pháp là không hợp lý ở hoàn cảnh đó,
bởi vậy, một cá nhân luôn luôn hiện diện, có nhiệm vụ canh giữ cho lợi ích
công, được nắm quyền triệu tập hay giải tán cơ quan lập pháp là phương cách
tốt nhất có thể tìm được cho khiếm khuyết này.
Một câu hỏi được đặt ra là phải làm sao khi cơ quan hành pháp, với vũ
lực của toàn thể cộng đồng trong tay, sử dụng nó để cản trở việc hội họp
và hoạt động của cơ quan lập pháp ? Locke khẳng định rằng hành động đó của
cơ quan hành pháp là trái với thẩm quyền và nhiệm vụ đã được uỷ thác cho
nó, và hơn thế, khi dùng sức mạnh để chống lại nhân dân thì đây đã là trạng
thái chiến
_____________
(1) John Locke: Sđd, tr. 202
tranh đối với nhân dân, và nhân dân có đầy đủ lý do cũng như thẩm quyền để
xoá bỏ sức mạnh ấy đi bằng vũ lực.
Locke khẳng định rằng cơ quan hành pháp - dù khi đã nắm giữ luôn
quyền liên hiệp, và có quyền triệu tập hay giải tán cơ quan lập pháp, thì vị trí
của nó vẫn không cao hơn, nó vẫn luôn chỉ là quyền lực được uỷ thác để thực
thi các đạo luật của cơ quan lập pháp. Nhưng không phải lúc nào cơ quan
hành pháp cũng phải nhất nhất tuân thủ theo quyết định và luật pháp của cơ
quan hành pháp, mà trong một số trường hợp nó có thể giải quyết tự do theo ý
chí riêng của nó. Locke gọi đó là đặc quyền hành động của cơ quan hành
pháp. Có đặc quyền này bởi không phải lúc nào cơ quan lập pháp cũng có thể
nhìn nhận thấy trước những vấn đề xã hội cần phải điều chỉnh trong tương lai
để có luật thích ứng, nên khi ấy cơ quan hành pháp phải hành động theo ý
mình, nhưng mục đích cuối cùng cần đạt được là lợi ích cao nhất của nhân
dân. Cũng vì mục đích này, trong một số trường hợp khác, cơ quan hành pháp

có thể giải quyết các sự vụ khác với quy định trong pháp luật, thậm chí là đi
ngược lại, bởi sự khắc nghiệt của luật pháp không phải lúc nào cũng đúng,
21
Locke cho ví dụ của trường hợp này là: không cho kéo sập nhà của một người
vô can để dừng ngọn lửa lại khi căn nhà bên đang cháy; do vậy, việc làm này
trái với quy định của pháp luật thực định nhưng lại phù hợp với pháp luật tối
cao, chính là lợi ích của nhân dân, như câu nói nổi tiếng của nhà luật học
Lamã Cicéron: "Salus populi suprema lex - Hạnh phúc của nhân dân là pháp
luật tối cao".
Trong những dòng cuối cùng của tác phẩm, Locke đưa ra một câu hỏi:
Vậy ai sẽ là người phán xét rằng quốc vương hay cơ quan lập pháp có hành
động trái với sự uỷ thác đã được đặt vào họ hay không ? Locke khẳng định: đó
chính là nhân dân. Ông cho rằng khi có tranh cãi giữa quốc vương với một số
người dân khi pháp luật không có quy định rõ ràng, hay khi vấn đề tranh cãi
có hậu quả lớn thì người trọng tài thích hợp nhất phải là cơ quan quyền lực
của nhân dân, bởi ai sẽ là người phán xét rằng một người được uỷ nhiệm có
hành động tốt và theo đúng sự uỷ nhiệm hay không thích hợp hơn chính người
đã uỷ nhiệm ? Nhưng nếu quốc vương phản đối cách giải quyết của cơ quan
quyền lực nhân dân thì việc cáo kiện buộc phải "đưa đến trời cao", mà ở đây
có thể hiểu là việc sử dụng bạo lực và cách mạng để lật đổ ông vua ấy đi, để
thay thế cái hình thức chính quyền cũ ấy đi, bằng những con người mới,
những hình thức mới mà nhân dân cho là tốt đẹp nhất.
Tóm lại, qua tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền hay còn có tựa
đề phụ là Luận về Nguồn gốc, Phạm vi và Mục đích chân chính của chính
quyền dân sự của Locke, ta có thể khẳng định tư tưởng phân quyền của Locke
là một bước phát triển hơn hẳn so với các học giả thời kỳ cổ đại Hy Lạp -
Lamã. Tuy vẫn còn một số điểm hạn chế, mà chủ yếu là chưa phân tách quyền
tư pháp ra độc lập với quyền hành pháp, nhưng tư tưởng phân chia quyền lực
của Locke vẫn là nền tảng đầu tiên vững chắc cho các học giả tư sản về sau
tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện.

Charles Louis Montesquieu ( 1689 - 1755 ):
Bàn về Tinh thần pháp luật ( De L'esprit des Lois ) - viên ngọc sáng
trong kho tàng lý luận về khoa học pháp lý cũng như triết học và nhiều môn
khoa học xã hội khác của nhân loại, là tác phẩm đồ sộ nhất và cũng là tác
phẩm xuất sắc nhất của người tiên phong cho phong trào Khai sáng Pháp
Charles Louis Montesquieu. Đây chính là nơi ông thể hiện một cách sâu sắc
toàn bộ tư tưởng của mình.
Thành tựu to lớn nhất của Bàn về Tinh thần pháp luật chính là tư tưởng
phân chia quyền lực, bởi vậy khi nhắc đến Bàn về Tinh thần pháp luật là người
ta nghĩ ngay đến tư tưởng phân quyền, và bởi sự xuất sắc của Montesquieu
22
trong tác phẩm kinh điển này mà khi nhắc đến tư tưởng phân quyền, người ta
cũng sẽ nghĩ ngay đến Bàn về Tinh thần pháp luật. Tư tưởng này của
Montesquieu được tập trung thể hiện trong quyển 11, chương 6: Hiến pháp
nước Anh, mà ta có thể dễ dàng nhận ra nhiều sự tiếp thu, kết nối với tư tưởng
phân quyền của Locke trong Khảo luận thứ hai về chính quyền.
Ngay từ dòng đầu tiên của chương này, Montesquieu đã khẳng định:
"Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực: quyền lập pháp, quyền thi hành
những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật
dân sự.
Với quyền lực thứ nhất, nhà vua hay pháp quan làm ra các thứ luật cho
một thời gian hay vĩnh viễn, và huỷ bỏ hay sửa đổi các luật này.
Với quyền lực thứ hai, nhà vua quyết định việc hoà hay chiến, gửi đại sứ
đi các nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược.
Với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân
xử tranh chấp giữa các cá nhân. Người ta sẽ gọi đây là quyền tư pháp, vì trên
kia là quyền hành pháp quốc gia"
(1)
.
Ta có thể nhận ra ngay sự tiến bộ hơn hẳn trong tư tưởng phân quyền

của Montesquieu so với tư tưởng của Locke, khi đã tách quyền lực xét xử -
quyền tư pháp ra độc lập với các thứ quyền lực khác.
Theo Montesquieu, một nhà nước tự do hoàn hảo là một nhà nước mà
ba thứ quyền lực này được phân chia và được đặt vào tay những cá nhân, tổ
chức khác nhau: "Tự do chính trị ... chỉ có được khi không có sự lạm dụng
quyền lực. Nhưng kinh nghiệm muôn đời chỉ ra cho chúng ta rằng bất kỳ ai khi
được trao quyền lực là sẽ có khuynh hướng lạm dụng quyền lực ấy, và sẽ tăng
quyền lực của anh ta lên đến hết mức ... Để ngăn chặm sự lạm dụng này, điều
cần thiết rất tự nhiên là quyền lực phải được ngăn cản ( kiềm chế ) bởi quyền
lực"
(2)
.
Về nguyên nhân của sự phân quyền, ông viết:
"Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một
người hay một viện nguyên lão, thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì người ta sợ
rằng chính ông ta hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc
tài. Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập
pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì
người ta sẽ độc đoán đối với quyền sống và quyền tự do của công dân, quan
toà sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp
thì ông quan toà sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp.
Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc
của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết"
(3)
.
23
Nguyên nhân này, so với nguyên nhân do Locke đưa ra về cơ bản là
giống nhau, bởi đều xuất phát từ luận đề: người nắm quyền luôn có xu hướng
lạm quyền, nên muốn chống sự lạm quyền đó để
_____________

(1) Charles Louis Montesquieu: Bàn về Tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
2006, tr.105
(2) TS Nguyễn Thị Hồi: Sđd, tr.75
(3) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.106
bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân thì phải tổ chức và phân chia quyền
lực sao cho đảm bảo "quyền lực ngăn cản quyền lực". Thực tế lịch sử đã
chứng minh: xu hướng lạm quyền của nhà cầm quyền là rất phổ biến khi các
quyền lực không được phân tách rõ ràng. Chính bản thân Montesquieu đã đưa
ra rất nhiều minh chứng cho hiện tượng này.
Ông cho rằng ở phần lớn các nước châu Âu, khi nhà vua nắm quyền lập
pháp, hành pháp và nhường quyền tư pháp cho nhân dân thì việc cai trị còn có
mức độ; nhưng ở các nhà nước mà quyền lực bị thâu tóm toàn bộ trong tay
một người hay một nhóm người thì "nền chuyên chế nghiệt ngã đè lên đất
nước"
(1)
. Và ông nghiên cứu khá kỹ các nhà nước cộng hoà Italia - những biểu
hiện của việc quyền lực tập trung trong tay một tập đoàn quý tộc. Theo ông,
nhân dân trong các nhà nước này có ít quyền tự do hơn nhiều so với trong các
nước quân chủ châu Âu. Ông khẳng định: "ở đây, tất cả quyền lực chỉ là một.
Tuy bề ngoài chẳng có sự phô trương gì của ông vua chuyên chế, mà người ta
vẫn cảm thấy sự chuyên chế vào bất cứ lúc nào"
(2)
. Nhưng sự chuyên chế của
những nhà nước cộng hoà này không giống hẳn chính thể chuyên chế ở châu
á, ví dụ như ở Cộng hoà Venise có sự phân quyền tương đối, khi Đại hội đồng
có quyền lập pháp, các đại quý tộc Prégadi nắm quyền hành pháp, và nắm
quyền tư pháp là các quý tộc Quaranties; nhưng cái dở ở nhà nước Venise này
là: tuy có sự phân quyền, nhưng mọi cơ quan này đều nằm trong tay tầng lớp
quý tộc, nên cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thực chất cũng chỉ là
một thứ quyền lực mà thôi, thực chất là chẳng có một sự phân quyền nào cả.

Và ông chỉ ra cái tai hại của nhà nước ấy: "cơ quan cầm quyền vừa là kẻ thi
hành luật vừa tự cho mình là kẻ lập pháp. Họ có thể tàn phá quốc gia bằng
những ý chí chung sai lầm của họ. Mà họ còn nắm cả quyền xét xử nữa thì họ
có thể đè nát mỗi công dân theo ý muốn của họ"
(3)
.
Cũng giống như Locke, Montesquieu đặc biệt chú trọng tới cơ quan lập
pháp, dù ông hoàn toàn không thừa nhận rằng đây là cơ quan quan trọng
nhất, có khả năng uỷ thác quyền lực để hình thành nên các cơ quan khác như
trong học thuyết của Locke.
_____________
(1) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.106
(2)(3) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.107
24
Theo ông, trong một nước tự do thì mọi người dân cũng được tự do, và
do đó họ có quyền tự quản, bởi vậy, dân chúng phải nắm quyền lập pháp.
Nhưng theo ông, nếu mọi người dân đều tham gia vào công việc lập pháp, như
trong Hội nghị công dân của các nhà nước dân chủ thời cổ đại thì hoàn toàn
không thích hợp, vì họ thường đòi hỏi thực hiện những việc mà bản thân họ và
cộng đồng không đủ sức làm... Bởi vậy, tốt nhất dân chúng chỉ nên tham gia
vào công việc của nhà nước bằng cách bầu chọn đại biểu của mình. Và cơ
quan đại biểu dân chúng cũng không nên giải quyết các công việc cụ thể, vì
họ không thể làm tốt điều này, họ chỉ nên làm ra luật, và xem xét người ta
thực thi những luật này ra sao.
Về tổ chức của cơ quan lập pháp - cơ quan đại biểu nhân dân,
Montesquieu cho rằng nó nên gồm hai viện: Viện quý tộc và Viện thứ dân.
Nguyên nhân của việc cần có hai nghị viện riêng biệt, theo ông là do
trong xã hội có những người mà dòng giống, của cải hoặc danh vọng của họ
nổi bật lên trên những người khác, nên nếu trong cuộc bầu cử họ chỉ có được
một phiếu bầu như các công dân khác thì sự tự do chung là xiềng xích nô lệ

đối với họ, bởi phần lớn các quyết nghị chung sẽ chống lại họ. Bởi vậy, những
người này cần phải có một cơ quan đại diện riêng bên cạnh cơ quan đại diện
dân chúng, để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mình. Ngoài ra, theo ông,
quyền lập pháp cần phải có một uy lực điều chỉnh để dung hoà, nên cơ quan
lập pháp gồm hai viện riêng biệt là một cơ chế thật thích hợp để phát huy sự
dung hoà này.
Quan điểm này là một hạn chế của Montesquieu, bởi chính bản thân
ông cũng là một nam tước - nam tước De La Brède. Nhưng cách thức hoạt
động của các viện này được ông đưa ra lại là sự tiến bộ rất rõ ràng.
Theo ông, cơ quan đại diện quý tộc có thể đình chỉ dự định của cơ quan đại
diện dân chúng, cũng như cơ quan đại diện dân chúng có thể ngăn cản các
quyết định từ cơ quan đại diện các nhà quý tộc. Montesquieu chia quyền lập
pháp ra làm hai chức năng: chức năng quy định và chức năng ngăn cản. Trong
đó, "chức năng quy định là quyền tự mình ra lệnh, hoặc tự mình sửa lại điều
mà người khác ra lệnh"; còn "chức năng ngăn cản là quyền làm cho quyết định
của người khác trở thành vô hiệu"
(1)
. Theo ông, Viện quý tộc chỉ được
_____________
(1) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.113
tham gia vào công việc lập pháp với chức năng ngăn cản chứ không có chức
năng quy định, tức là chỉ có quyền phủ quyết hoặc chuẩn y các quyết định của
Viện thứ dân mà không được sửa đổi quyết định đó, hoặc đưa ra một quyết
định khác. Nguyên nhân của việc này, theo ông là do Viện quý tộc có hình
thức cha truyền con nối, mà lại được lập nên để bảo vệ đặc quyền của một
25
nhóm người, nên có thể nó sẽ chỉ biết đến lợi ích riêng tư của mình mà quên
đi lợi ích chung của cả cộng đồng.
Về hoạt động của các đại biểu dân chúng trong cơ quan lập pháp, theo
Montesquieu, các đại biểu này là người đã nhận được ý kiến chung của những

người bầu ra họ, là đại diện cho ý chí của các cử tri, nên không nhất thiết mọi
việc đều phải hỏi ý kiến dân chúng. Ông thừa nhận làm như thế mới đảm bảo
được quyền tự do và dân chủ của nhân dân, nhưng như vậy thì công việc sẽ
kéo dài vô tận, và trong những trường hợp cấp bách thì lối làm việc này sẽ
làm ngưng trệ cả quốc gia, hay thậm chí là huỷ diệt nó. Và ông đưa ra cách
làm mà ông cho là hợp lý như ở quốc hội Hà Lan, khi các đại biểu chỉ phải
báo cáo lại công việc với các cử tri.
Về cách thức bầu cử cơ quan lập pháp, Montesquieu cho rằng người
dân biết rõ nhu cầu của thành phố mình hơn là của các thành phố khác, hiểu
năng lực của người láng giềng mình hơn là láng giềng của người khác, nên
dân chúng ở mỗi địa phương phải được chọn ra một người đại biểu, chứ
không nên tiến hành bầu cử chung trong cả nước.
Về tinh thần của người lập pháp, được ông nêu lên trong Chương 1,
Quyển 29, và được khẳng định lại bởi một chính khách Pháp về sau là Abel
Francois Villemain thì: "Luật phải thật vô tư, không thiên vị. Chính người lập
pháp phải vô tư để không ghi tham vọng của mình vào tác phẩm luật"
(1)
. Và
Montesquieu nhấn mạnh lại quan điểm chính phủ phải "trung dung" của
Aristote trong quyển 1, sách Politics: "Một chính phủ càng xa đảng phái và
càng gắn với phương sách trung dung thì càng được vững vàng. Nhiều nhà lập
pháp trong chính thể quý tộc đã cho người giàu quá nhiều và rút bớt của
người nghèo cũng quá nhiều. Lầm lẫn đưa tới cái xấu xa thực sự; ưu thế của
nhà giàu đánh đổ chính phủ nhiều hơn là ưu thế của người nghèo, của muôn
dân"
(2)
. Có thể nhận thấy đây là một
_____________
(1) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.228
(2) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.228

quan điểm rất tiến bộ của Montesquieu, nhưng tiếc là ông lại không chỉ ra làm
sao để có được sự "vô tư" và "trung dung" ấy, nên ta chỉ có thể phỏng đoán
dựa trên tư tưởng của ông rằng, theo ông, cái mà một nhà lập pháp khôn
ngoan cần có chính là "đức hạnh" và trí thông minh.
Về thời điểm họp bàn của cơ quan lập pháp, ông khẳng định nếu trong
thời gian dài mà cơ quan này không nhóm họp thì cũng sẽ không có tự do nào
hết, bởi hoặc nhà nước sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ do không có nghị
quyết lập pháp mới phù hợp hoàn cảnh, hoặc cơ quan hành pháp sẽ nắm lấy và
thao túng các nghị quyết lập pháp cũ, dẫn đến tình trạng chuyên chế. Nhưng
cơ quan lập pháp họp liên tục thì cũng bất hợp lý. Thứ nhất nó là sự bất tiện
với các đại biểu. Thứ hai nó là khó khăn cho cơ quan hành pháp, bởi sẽ mãi
26
chỉ lo bảo vệ quyền hạn chuyên trách của mình mà không lo được việc chấp
hành các đạo luật. Và cuối cùng, nếu như nghị viện rơi vào tình trạng sa đoạ
thì thật là vô phương cứu chữa, bởi nó luôn hiện diện nên nhân dân sẽ nhận
thấy ngay sự bại hoại của cơ quan lập pháp, nhận thấy ngay sự vô nghĩa ở
pháp luật, họ sẽ tức giận mà nổi loạn, hoặc thờ ơ, hững hỡ với công việc quốc
gia.
Vậy là cơ quan lập pháp phải có thời gian họp bàn nhất định, và sau
thời gian đó nó phải giải tán. Nhưng sự triệu tập và triển hạn của cơ quan này
sẽ diễn ra như thế nào ?
Theo Montesquieu, cơ quan lập pháp không nên tự mình triệu tập lấy
mình mà cơ quan hành pháp, tuỳ theo hoàn cảnh mà nó cho là hợp lý, sẽ quyết
định thời gian và thời hạn họp bàn của nghị viện.
Vậy nghị viện có quyền tự triển hạn cho mình hay không ? Nếu như vậy thì có
thể nó sẽ không bao giờ tự triển hạn cả, và như thế thật là nguy hiểm khi nghị
viện có ý định công kích cơ quan hành pháp. Và Montesquieu lại nhấn mạnh
rằng ở nước Anh, nhà vua - người nắm quyền hành pháp có thể triển hạn nghị
viện và tổ chức bầu cử nghị viện mới; nhưng ông cũng không loại trừ hình
thức xác định nhiệm kỳ của nghị viện bằng Hiến pháp.

Về quyền hành pháp, Montesquieu cho rằng nó phải nằm trong tay một
vị vua chúa, bởi bản thân quyền hành pháp luôn cần đến những hành động tức
khắc, kịp thời, mà nếu phải qua một cuộc họp bàn thì quyết định đưa ra
thường đã muộn hơn yêu cầu thực tế. Ông cũng khẳng định cần phải có một vị
vua, bởi vua nắm quyền bằng con đường thế tập chứ không phải do được bầu
chọn ra; nếu cá nhân hành pháp lại được nghị viện bầu ra thì đó thường là
người trong nghị viện, và như thế thì sẽ chẳng còn tự do nữa, bởi hai quyền
lập pháp và hành pháp đã nhập lại với nhau, con người hành pháp ấy có thể
nhúng tay vào cả quyền này lẫn quyền kia.
Như đã nói ở trên, theo Montesquieu, nhà vua có quyền triệu tập và
triển hạn nghị viện, tuỳ theo hoàn cảnh mà vua thấy thích hợp. Còn về quyền
ngăn cản giữa hai cơ quan này thì sao? Theo Montesquieu, cơ quan lập pháp
không có quyền ngăn cản cơ quan hành pháp, do hành pháp có những đặc
điểm riêng của nó, mà ở đây có thể hiểu là ông muốn nói đến "đặc quyền hành
động" của cơ quan hành pháp, như theo quan điểm của Locke. Nhưng cơ quan
hành pháp phải có quyền ngăn cản cơ quan lập pháp, bởi nếu không cơ quan
lập pháp sẽ trở thành chuyên chế, sẽ tạo ra những đạo luật để tự ban cho mình
mọi thứ quyền hành, và xoá bỏ các quyền lực khác. Ông khẳng định: "quyền
lực hành pháp phải vận dụng chức năng ngăn cản để tham gia việc lập pháp,
nếu không nó sẽ bị tước mất ưu quyền. Nhưng trái lại, nếu quyền lực lập pháp
tham gia vào việc hành pháp thì quyền hành pháp sẽ bị thủ tiêu"
(1)
.
27

×