Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại công ty cổ phần vật liệu kỹ thuật điện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.76 KB, 89 trang )

MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
LUẬN VĂN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TSCĐ Tài sản cố định
TSLĐ Tài sản lưu động
VCĐ Vốn cố định
VLĐ Vốn lưu động
ĐTNH Đầu tư ngắn hạn
ĐTDH Đầu tư dài hạn
CK Cuối kỳ
ĐK Đầu kỳ
CSH Chủ sở hữu
NG Nguyên giá
KH Khấu hao
ĐT Đầu tư
NN Nhà nước
LN Lợi nhuận
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
CNV Công nhân viên
ĐTPT Đầu tư phát triển
BC Báo cáo
SXKD Sản xuất kinh doanh
KQHĐSXKD Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
BCTC Báo cáo tài chính
tr.đ triệu đồng
(…) Số … trong ngoặc < 0
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU


Sơ đồ 2.1: Sơ đồ bộ máy quản lý của Công ty cổ phần Vật liệu kỹ thuật điện

Error: Reference source not found
Sơ đồ 2.2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy tài chính kế toán của Công ty cổ phần
Vật liệu kỹ thuật điện Error: Reference source not found
Sơ đồ 2.2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy tài chính kế toán của
Công ty cổ phần Vật liệu kỹ thuật điện 38
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài sản cố định là bộ phận cơ bản tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật của
nền kinh tế quốc dân, đồng thời là bộ phận quan trọng nhất của vốn kinh
doanh TSCĐ là yếu tố sống còn đối với sự tồn tại của bất kỳ doanh nghiệp
nào. Nó không những phản ánh năng lực sản xuất, trình độ trang bị cơ sở vật
chất kỹ thuật và ứng dụng khoa học tiến bộ vào sản xuất mà còn phản ánh
được bộ phận vốn kinh doanh của doanh nghiệp. TSCĐ xét về mặt tồn tại thì
nó là điều kiện cần có để doanh nghiệp được thành lập, xét về mặt phát triển
thì nó là điều kiện cần thiết để tiết kiệm sức lao động và nâng cao năng suất
lao động. Do vậy TSCĐ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
sản xuất kinh doanh để tạo ra hàng hoá và dịch vụ. Mặt khác, vai trò của
TSCĐ không chỉ dừng lại ở việc đánh giá mức độ sử dụng TSCĐ.
Trong nền kinh tế thị trường thì tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải
biết cách kinh doanh và phải kinh doanh có hiệu quả. Vấn đề hiệu quả là vấn
đề sống còn của bất kỳ doanh nghiệp nào, nó quyết định doanh nghiệp đó sẽ
tồn tại, phát triển hay đi vào con đường phá sản. Để nâng cao hiệu quả quản
lý TSCĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp phải xây dựng
được chế độ quản lý khoa học, toàn diện đối với TSCĐ để có thể sử dụng hợp
lý, đầy đủ, phát huy hết công suất TSCĐ, tạo điều kiện hạ giá thành sản
phẩm, thu hồi nhanh vốn đầu tư để tái sản xuất trang thiết bị đổi mới công
nghệ Vì vậy các doanh nghiệp phải khẩn trương chấn chỉnh công tác quản
lý kinh tế, mà trước hết là hạch toán kế toán. Hiệu quả sử dụng TSCĐ quyết

định hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Hạch toán kế toán với chức
năng và nhiệm vụ của mình là một công cụ đắc lực của quản lý, cung cấp các
thông tin chính xác và kịp thời cho quản lý. Tổ chức hạch toán TSCĐ là một
1
khâu của hạch toán kế toán và là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý và sử dụng TSCĐ.
Công ty Cổ phần Vật liệu Kỹ thuật điện trước đây là một doanh nghiệp
Nhà nước, trực thuộc Công ty Điện lực 1. Ngành nghề kinh doanh chính của
công ty là sản xuất và kinh doanh các sản phẩm cách điện và các sản phẩm phụ
trợ phục vụ cho ngành điện. Theo quyết định số ……, tháng 07/2004 công ty
chính thức đi vào hoạt động dưới hình thức cổ phần hoá. Nhận thức được tầm
quan trọng của vấn đề quản lý và sử dụng TSCĐ, cùng với việc tìm hiểu thực
tế TSCĐ tại công ty, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu Đề tài: "Nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty Cổ phần Vật liệu Kỹ thuật điện"
nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Đây cũng là vấn đề đã và đang được các nhà
khoa học, các nhà quản lý nghiên cứu, phân tích để tìm ra những biện pháp hữu
hiệu khắc phục giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong cơ chế thị
trường. Với mong muốn tìm ra những biện pháp cụ thể, sát thực góp phần nhỏ
bé vào việc tháo gỡ những bức bách hiện nay tại Công ty.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Căn cứ vào lý luận và tình hình thực tế công tác quản lý và sử dụng vốn
cố định tại công ty để phân tích và đánh giá một số chỉ tiêu về sử dụng vốn,
vốn cố định, rút ra những mặt làm được và chưa làm được. Từ đó, đưa ra một
số giải pháp khắc phục những mặt hạn chế nhằm nâng cao hiệu quả công tác
quản lý và sử dụng vốn cố định của công ty. Đồng thời nhằm góp phần giúp
Ban Giám đốc công ty có định hướng tổng thể về công tác huy động và sử
dụng vốn cố định của công ty trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiệu quả sử dụng vốn cố định trong
doanh nghiệp.

- Phạm vi nghiên cứu của đề tài này được giới hạn trong việc nghiên cứu
2
hiệu quả sử dụng vốn cố định của Công ty Cổ phần Vật liệu kỹ thuật điện
trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu đề tài này gồm có:
- Các phương pháp chung của tư duy khoa học như:
+ Phương pháp luận duy vật biện chứng
+ Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp
+ Phương pháp so sánh, tiếp cận hệ thống cấu trúc
+ Phương pháp lịch sử, logic
- Phương pháp thu thập thông tin
+ Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
chữ viết tắt, phụ lục, kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về vốn cố định và hiệu quả sử dụng vốn
cố định của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty Cổ
phần Vật liệu kỹ thuật điện
Chương III: Những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn cố định tại Công ty Cổ phần Vật liệu kỹ thuật điện
3
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VỐN CỐ ĐỊNH VÀ HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG VỐN CỐ ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. TÀI SẢN CỐ ĐỊNH VÀ VỐN CỐ ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Tài sản cố định của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tài sản cố định
Một doanh nghiệp, để tiến hành sản xuất kinh doanh phải có các yếu tố:

sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Khác với các đối tượng lao động (nguyên liệu vật liệu, sản phẩm dở
dang, bán thành phẩm ) các tư liệu lao động (máy móc, thiết bị nhà xưởng,
phương tiện vận tải ) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng
để tác động vào đối tượng lao động biến đổi nó theo mục đích của mình.
Bộ phận quan trọng nhất trọng các tư liệu lao động sử dụng trong quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là các tài sản cố định. Đó là
những tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp
trong quá trình sản xuất kinh doanh như máy móc, thiết bị phương tiện vận
tải, nhà xưởng, công trình kiển trúc, các khoản chi phí đầu tư mua sắm tài sản
cố định vô hình.
Thông thường một tư liệu lao động được coi là tài sản cố định phải đồng
thời thoả mãn hai tiêu chuẩn cơ bản:
- Một là phải có thời gian sử dụng tối thiểu, thường là một năm trở lên.
- Hai là phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức quy định. Tiêu chuẩn này
thường quy định riêng cho từng quốc gia và có thể được điều chỉnh cho phù
hợp với mức giá cả từng thời kỳ.
Những tư liệu lao động không đủ tiêu chuẩn qui định trên được coi là
4
công cụ dụng cụ nhỏ, được mua sắm bằng nguồn vốn lưu động của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, việc xem xét tiêu chuẩn, và nhận biết tài sản cố định của
doanh nghiệp là phức tạp.
Trước hết, đối với việc phân biệt giữa đối tượng lao động và các tư liệu
lao đôi khi không phải chỉ dựa vào đặc tính hiện vật mà còn dựa vào tính chất
và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Cũng có thể một
tài sản trong trường hợp này được coi là tài sản cố định, trường hợp khác lại
được coi là tài sản lưu động (máy móc, thiết bị, nhà xưởng mới hoàn thành,
đang trong kho thành phẩm chờ tiêu thụ hoặc là các công trình xây dựng cơ
bản chưa bàn giao) thì chưa được coi là tài sản lưu động.
Hai là một số các tư liệu lao động nếu xét riêng lẻ từng thứ thì không đủ

các tiêu chuẩn trên, nhưng nếu thống nhất thành hệ thống thì cả hệ thống lại
được coi là tài sản cố định. Ví dụ trong thiết bị của của một phòng thí nghiệm,
một vườn cây lâu năm
Đối với một số ngành đặc thù có một số khoản chi phí mà doanh nghiệp
đã chi ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nếu đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn trên mà không hình thành tài sản cố
định hữu hình thì được coi là tài sản cố định vô hình. Ví dụ : chi phí mua
bằng phát minh sáng chế, chi phí thành lập doanh nghiệp
Ở Việt Nam theo chuẩn mực kế toán số 03, 04, 06 và chế độ quản lý, sử
dụng và trích khấu hao TSCĐ ban hành theo quyết định số 206/2003/QĐ-BTC
ngày 12 tháng 12 năm 2003 quy định tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ như sau:
- Tiêu chuẩn nhận biết tài sản cố định hữu hình
Mỗi tài sản cố định là tài sản hữu hình có kết cấu độc lập hoặc là một hệ
thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết thống nhất với nhau để thực
hiện một hay một số chức năng nhất định. Nếu thoả mãn cả hai tiêu chuẩn
dưới đây thì được coi là tài sản cố định hữu hình.
5
a. Có thời hạn sử dụng từ một năm trở lên.
b. Có giá trị từ 10.000.000 đồng trở lên.
Trường hợp một hệ thống bao gồm bộ phận tài sản riêng lẻ được liên kết
với nhau trong đó mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau mà
nếu thiếu một bộ phận nào đó mà cả hệ thống vẫn thực hiện được chức năng
hoạt động chính của nó mà do yêu cầu quản lý sử dụng tài sản cố định đòi hỏi
phải quản lý riêng từng bộ phận tài sản thì mỗi bộ phận tài sản đó được coi là
tài sản cố định hữu hình độc lập. Ví như: từng con súc vật làm việc hoặc cho
sản phẩm, từng mảnh vườn cây lâu năm.
- Tiêu chuẩn nhận biết tài sản cố định vô hình
Mọi khoản chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra thoả mãn hai tiêu
chuẩn quy định tại khoản một, mà không hình thành tài sản cố định hữu hình
thì coi là tài sản cố định vô hình. Nếu khoản chi phí nào không thoả mãn cả

hai tiêu chuẩn trên thì được hạch toán trực tiếp vào chi phí kinh doanh của
doanh nghiệp.
Đặc điểm chung của tài sản cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản
xuất sản phẩm và hình thái vật chất, đặc tính sử dụng ban đầu của nó vẫn
không thay đổi. Song giá trị của nó lại được chuyển dịch dần từng phần vào
giá thành sản phẩm. Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành nên một yếu tố
chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản
phẩm được tiêu thụ.
Từ những lý luận trên chúng ta thấy: Tài sản cố định của doanh nghiệp
là những tư liệu lao động chủ yếu, có giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ
sản xuất và giá trị của nó thì được chuyển dịch từng phần vào giá thành
sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất.
6
Trong nền kinh tế thị trường, tài sản cố định được coi như các loại hàng
hoá thông thường khác. Nó không chỉ có giá trị, mà còn có giá trị sử dụng.
Thông qua mua bán trao đổi các tài sản cố định được chuyển dịch quyền sở
hữu và sử dụng từ chủ thể này sang chủ thể khác.
1.1.1.2. Phân loại tài sản cố định
Phân loại tài sản cố định là việc phân chia toàn bộ tài sản cố định theo
những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ yêu cầu quản lý của doanh nghiệp,
theo quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12 tháng 12 năm 2003 quy định
tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ như sau:
a. Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện và đặc trưng kinh tế kỹ thuật
Theo cách phân loại này, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia làm
hai loại TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình:
TSCĐ hữu hình: Là những TS có hình thái hiện vật chất cụ thể thoả
mãn các tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ. Theo đặc trưng kinh tế kỹ thuật, tài sản
cố định hữu hình được chia thành:
• Nhà cửa vật kiến trúc: gồm nhà làm việc, nhà ở, nhà kho, xưởng sản xuất,
cửa hàng, nhà để xe, chuồng trại chăn nuôi, giếng khoan, bể chứa, sân phơi,

cầu cống , đường xá….
• Máy móc thiết bị: Máy móc thiết bị động lực, máy móc thiết bị công
tác và các loại máy móc thiết bị khác dùng trong sản xuất kinh doanh.
• Phương tiện vận tải truyền dẫn: ôtô, máy kéo, tầu thuyền, canô dùng trong
vận chuyển, hệ thống đường ống dẫn nước, dẫn hơi, ôxy, khi nén, hệ thống
đường dây dẫn điện, hệ thống truyền thanh thuộc tài sản của doanh nghiệp.
• Thiết bị dụng cụ quản lý: gồm các thiết bị, dụng cụ sử dụng trong quản
lý kinh doanh, quản lý hành chính, dụng cụ đo lường, thí nghiệm…
• Cây lâu năm, gia sức cơ bản….
7
• TSCĐ khác: gồm các loại TSCĐ chưa được xếp vào các loại tài sản nói
trên (tác phẩm nghệ thuật, sách báo chuyên môn kỹ thuật )
- TSCĐ vô hình: Là những tài sản không có hình thái hiện vật chất cụ
thể, chỉ thể hiện một lương giá trị mà doanh nghiệp đã đầu tư phục vụ cho lợi
ích lâu dài của doanh nghiệp, thoả mãn các tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ, tham
gia vào nhiều chu kỳ SXKD. TSCĐ vô hình gồm:
• Quyền sử dụng đất đai: là giá trị đất, mặt nước, mặt biển được hình
thành do bỏ chi phí ra mua, đền bù san lấp, cải tạo nhăm mục đích có được
mặt bằng sản xuất kinh doanh.
• Quyền phát hành: Là toàn bộ các chi phí thực tế đã chi ra để có quyền
phát hành.
• Bản quyền, bằng sáng chế: là các chi phí doanh nghiệp phải trả cho các
công trình nghiên cứu, sản xuất thử được Nhà nước cấp bằng sáng chế hoặc
doanh nghiệp mua lại bản quyền bằng sáng chế, bản quyền tác giả (bản quyền
tác giả là chi phí tiền thù lao cho tác giả và được Nhà nước công nhận cho tác
giả độc quyền phát hành và bán các tác phẩm của mình)
• Nhãn hiệu hàng hoá: Là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi
ra liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu hàng hoá.
• Phần mềm máy vi tính: Là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã
chi ra để có phần mềm máy vi tính

• Giấy phép và giấy phép nhượng quyền: Là toàn bộ các chi phí thực
tế doanh nghiệp đã chi ra để có giấy phép và giấy phép nhượng quyền thực
hiện công việc đó như giấy phép khai thác, giấy phép sản xuất một loại sản
phẩm mới
• TSCĐ vô hình khác: Là những TSCĐ vô hình khác chưa được phản
ánh ở các loại trên như quyền sử dụng hợp đồng, quyền thuê nhà…
8
Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện giúp người quản lý có một
cách nhìn tổng thể về cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có
biện pháp quản lý tài sản, tính toán khấu hao khoa học, hợp lý đối với từng
loại tài sản.
Phân loại TSCĐ theo đặc trưng kỹ thuật giúp cho việc quản lý và hạch
toán chi tiết, cụ thể theo từng loại, nhóm TSCĐ và có phương pháp khấu hao
phù hợp với từng loại từng nhóm TSCĐ.
b. Phân loại tài sản cố định theo quyền sở hữu
Căn cứ vào quyền sở hữu, TSCĐ của DN chia thành 2 loại TSCĐ tự có
và TSCĐ thuê ngoài.
- Tài sản cố định tự có là các TSCĐ được xây dựng mua sắm và hình
thành từ nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay, các quỹ của doanh nghiệp
Đây là những TSCĐ của doanh nghiệp được phản ánh trên bảng cân đối kế
toán của doanh nghiệp.
- Tài sản cố định thuê ngoài là TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời
gian nhất định theo hợp đồng đã ký kết. Phân loại thuê tài sản phải căn cứ vào
bản chất các điều khoản trong hợp đồng và phải thực hiện ngay tại thời điểm
khởi đầu thuê tài sản. Sau thời điểm khởi đầu thuê tài sản nếu có thay đổi các
điều khoản của hợp đồng (trừ gia hạn hợp đồng) thì các điều khoản mới này
được áp dụng cho suốt thời hạn hợp đồng. Nhưng thay đổi về ước tính (thay
đổi ước tính thời gian sử dụng kinh tế hoặc giá trị còn lại của tài sản thuê)
hoặc thay đổi khả năng thanh toán của bên thuê thì không làm thay đổi sự
phân loại thuê tài sản đối với ghi sổ kế toán.

Phân loại thuê tài sản được căn cứ vào mức độ chuyển giao các rủi ro và
lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản thuê từ bên cho thuê bao gồm thuê
tài chính và thuê hoạt động.
9
- Thuê tài chính: là thuê tài sản mà bên cho thuê có sự chuyển giao
phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản cho bên thuê.
Quyền sở hữu tài sản có thể chuyển giao vào cuối thời hạn thuê. Các trường
hợp thuê tài sản dưới đây thường dẫn đến hợp đồng thuê tài chính:
a) Bên cho thuê chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên thuê khi hết
thời hạn thuê.
b) Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, bên thuê có quyền lựa chọn mua lại
tài sản thuê với mức giá ước tính thấp hơn giá trị hợp lý vào cuối thời hạn thuê.
c) Thời hạn thuê tài sản tối thiểu phải chiếm phần lớn thời gian sử dụng
kinh tế của tài sản cho dù không có sự chuyển giao quyền sở hữu.
d) Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, giá trị hiện tại của khoản thanh
toán tiền thuê tối thiểu chiếm phần lớn (tương đương) giá trị hợp lý của tài
sản thuê.
e) Tài sản thuê thuộc loại chuyên dùng mà chỉ có bên thuê có khả năng
sử dụng không cần có sự thay đổi, sửa chữa lớn nào.
Hợp đồng thuê tài sản cũng được coi là hợp đồng thuê tài chính nếu hợp
đồng thoả mãn ít nhất một trong ba trường hợp sau:
a) Nếu bên thuê huỷ hợp đồng và đền bù tổn thất phát sinh liên quan đến
việc huỷ hợp đồng cho bên cho thuê
b) Thu nhập hoặc tổn thất do sự thay đổi giá trị hợp lý của giá trị còn lại
của tài sản thuê gắn với bên thuê
c) Bên thuê có khả năng tiếp tục thuê lại tài sản sau khi hết hạn hợp đồng
thuê với tiền thu thấp hợp gia thuê thị trường
TSCĐ thuê tài chính cũng được coi như TSCĐ của doanh nghiệp được
phản ảnh trên bảng cân đối kế toán. Doanh nghiệp có trách nhiệm, quản lý, sử
10

dụng và trích khấu hao như các TSCĐ tự có của doanh nghiệp.
- Thuê hoạt động Nếu nội dung của hợp đồng thuê tài sản không có sự
chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản.
Thuê tài sản là quyền sử dụng đất thường là thuê hoạt động vì quyền sử dụng
đất thường có thời gian sử dụng kinh tế vô hạn và quyền sở hữu sẽ không
chuyển giao cho bên thuê khi hết thời hạn thuê. Số tiền thuê tài sản là quyền
sử dụng đất được phân bổ dần cho suốt thời gian thuê.
Phân loại TSCĐ theo quyền sở hữu giúp cho việc quản lý và tố chức
hạch toán TSCĐ được chặt chẽ, chính xác, thúc đẩy việc sử dụng TSCĐ có
hiệu quả cao nhất.
c. Các cách phân loại khác
Ngoài các cách phân loại các TSCĐ nói trên, trong quản lý và hạch toán
còn có thể phân loại TSCĐ theo các tiêu thức sau:
* Phân loại tài sản cố định theo mục đích sử dụng
Tài sản cố định dùng theo mục đích kinh doanh, là những tài sản cố định
dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và dùng trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi sự nghiệp, an ninh quốc
phòng đó là những tài sản cố định do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho
các hoạt động phúc lợi sự nghiệp.
Tài sản cố định bảo quản hộ, giữ hộ, cất giữ hộ Nhà nước đó là những tài
sản cố định doanh nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ cho các đơn vị khác hoặc cho
nhà nước theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
* Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng
Căn cứ vào tình hình sử dụng tài sản cố định, người ta chia tài sản cố
11
định của doanh nghiệp thành các loại:
1. Tài sản cố định đang sử dụng đó là tài sản cố định của doanh nghiệp
đang sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động phúc
lợi sự nghiệp hay an ninh quốc phòng của doanh nghiệp.

2. Tài sản cố định chưa cần dùng là những tài sản cố định cần thiết cho
hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp song
hiện tại chưa cần dùng đang được dự trữ để sử dụng sau này.
3. Tài sản cố định không dùng chờ thanh lý là những tài sản cố định
không cần thiết hay không phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp cần được thanh lý, nhượng bán để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra
ban đầu.
Cách phân loại này giúp cho các doanh nghiệp thấy được cơ cấu tài sản
cố định của mình theo mục đích sử dụng của nó. Từ đó có biện pháp quản lý
tài sản cố định theo mục đích sử dụng sao cho có hiệu quả nhất.
Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng có hiệu quả các tài sản cố
định của doanh nghiệp như thế nào, từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu
quả sử dụng.
1.1.2. Vốn cố định của doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm - đặc điểm của vốn cố định
VCĐ là số vốn đầu tư ban đầu ứng trước để mua sắm, xây dựng các
TSCĐ. VCĐ gọi là vốn đầu tư ứng trước, vì số vốn này nếu sử dụng có hiệu
quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại dần sau khi tiêu thụ được các
sản phẩm,hàng hoá, dịch vụ của mình. Vì thế quy mô của VCĐ nhiều hay ít
sẽ quyết định mức độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất của
một doanh nghiệp.Song ngược lại, đặc điểm kinh tế của TSCĐ trong quá trình
xây dựng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu
12
chuyển của VCĐ.
Xét trên mối quan hệ như vậy có thể khái quát những nét đặc thù về sự
vận động của vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau:
Một là: vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, do
đặc điểm của tài sản cố định có thể phát huy trong nhiều chu kỳ sản xuất và
được sử dụng lâu dài.
Hai là: vốn cố định được luân chuyển dần từng phần trong các chu kỳ

sản xuất. Khi tham gia vào chu kỳ sản xuất, giá trị sử dụng của tài sản cố định
giảm dần và theo đó một bộ phận vốn cố định đã nhập vào chi phí sản xuất
sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao
mòn của tài sản cố định.
Ba là: sau nhiều chu kỳ sản xuất, vốn cố định mới hoàn thành một vòng
luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá
thành sản phẩm được dần dần tăng lên thì phần vốn đầu tư ban đầu vào tài sản
cố định lại dần giảm xuống. Kết thúc sự biến thên nghịch chiều đó cũng là lúc
tài sản cố định hết thời gian sử dụng và vốn cố định cũng hoàn thành một
vòng luân chuyển. Những đặc điểm luân chuyển trên đây của vốn cố định đòi
hỏi việc quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hiện vật các
tài sản cố định.
Do vậy, Vốn cố định là số vốn đầu tư ứng trước để hình thành tài sản
cố định, nó luân chuyển từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn
thành vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng
Việc nghiên cứu kỹ lưỡng về tài sản cố định và vốn cố định của doanh
nghiệp là cơ sở cho việc xem xét tổ chức quản lý sản xuất, tổ chức huy động
vốn, quản lý sử dụng vốn cố định có hiệu quả.
1.1.2.2. Nguồn hình thành vốn cố định
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có thể khai thác
13
nguồn vốn đầu tư và TSCĐ từ nhiều nguồn khác nhau: Vốn do Ngân sách Nhà
nước cấp, nguồn vốn tự bổ sung, tư vốn vay dài hank của Ngân hàng, từ thị
trường vốn tuy vậy mỗi một nguồn vốn trên đều có ưu điểm, nhược điểm
riêng và điều kiện thực hiện khác nhau, có chi phí sử dụng khác nhau. Vì thế
trong quá trình khai thác, tạo lập, sử dụng các nguồn VCĐ doanh nghiệp phải
chú trọng tới việc đa dạng hoá các nguồn tài trợ, cân nhắc kỹ các ưu điểm từng
nguồn vốn để lựa chọn cơ cấu các nguồn tài trợ sao cho hợp lý và có lợi nhất
cho doanh nghiệp. Chẳng hạn, đối với nguồn vốn tự bổ sung mà chủ yếu do
doanh nghiệp được lấy một phần từ lợi nhuận để lại, số vốn được bổ sung từ lợi

nhuận này đượ thực hiện dưới hình thức lấy một phần từ quỹ đầu tư páht triển,
quỹ dự phòng tài chính.
Ngoài việc lấy một phần từ lợi nhuận để lại, doanh nghiệp còn được để lại
toàn bộ số khấu hao cơ bản TSCĐ để đầu tư, thay thế đổi mới TSCĐ. Nguồn
vốn tự bổ sung hay tài trợ mang lại lợi thế cho doanh nghiệp như giúp doanh
nghiệp chủ động trong việc đầu tư đổi mới TSCĐ. Tuy vậy, trong sản xuất kinh
doanh do nhu cầu thường xuyên cần vốn, doanh nghiệp cần phải tích cực huy
động các nguồn vốn, không được trông chờ, ỷ lại vào các nguồn vốn đã có sẵn.
Vì thế nà cần phải đa dạng hoá các nguồn tài trợ.
Định hướng trong việc tạo lập nguồn vốn đối với doanh nghiệp đó là:
- Các nguồn vốn đầu tư cho TSCĐ phải là những nguồn vốn có tính chất
ổn định
- Khái thác các nguồn vốn trên cơ sở đảm bảo khả năng tài chính tự chủ của
doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo hạn chế và phân tán
bớt các rủi ro, đồng thời phát huy tối ưu đặc điểm các nguồn vốn được huy động.
1.1.3. Khấu hao tài sản cố định
1.1.3.1. Hao mòn tài sản cố định
Tài sản cố định của doanh nghiệp trong quá trình sử dụng bị hao mòn
dần bởi nhiều nguyên nhân. Có hai loại hao mòn: hao mòn hữu hình và hao
14
mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình là sự hao mòn về vật chất, giá trị sử dụng và giá trị
của tài sản cố định.
Về mặt vật chất, đó là sự thay đổi trạng thái vật lý ban đầu ở các bộ
phận, chi tiết tài sản cố định dưới tác động của ma sát, trọng tải, nhiệt độ
Về giá trị sử dụng, đó là sự giảm sút về chất lượng tính năng kỹ thuật ban đầu
trong quá trình sử dụng, dần dần tài sản đó không sử dụng được nữa. Về mặt
giá trị, đó là sự giảm dần giá trị của tài sản diễn ra cùng với quá trình chuyển
dịch từng phần giá trị hao mòn vào giá thành sản phẩm sản xuất.
Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến mức độ hao mòn hữu hình như thời

gian, cường độ sử dụng, các nhân tố về tự nhiên, môi trường (độ ẩm, nhiệt độ ),
chất lượng chế tạo tài sản cố định (nguyên vật liệu, công nghệ chế tạo ) và đặc
biệt là việc chấp hành các quy trình vận hành, bảo dưỡng tài sản cố định.
Hao mòn vô hình là sự giảm sút về giá trị trao đổi của tài sản cố định do
ảnh hưởng của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Để khắc phục điều này, doanh
nghiệp phải coi trọng việc đổi mới kỹ thuật để tạo lợi thế cho doanh nghiệp
trong cạnh tranh trên thị trường.
1.1.3.2. Các phương pháp khấu hao tài sản cố định
Để thu hồi được đầy đủ giá trị tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình
sản xuất kinh doanh, người ta thực hiện trích khấu hao tài sản cố định.
Khấu hao tài sản cố định là việc tính toán phần giá trị hao mòn của tài
sản cố định thành một yếu tố chi phí tạo nên giá thành sản phẩm, theo các
phương pháp nhất định. Xét về mặt tài chính, bộ phận đó được thu về sau khi
sản phẩm được tiêu thụ và biểu hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là tiền khấu
hao tài sản cố định, chúng tạo lập thành quỹ khấu hao tài sản cố định. Đây là
một nguồn tài chính quan trọng để tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở
15
rộng tài sản cố định.
Để tính và trích khấu hao tài sản cố định người ta thường dùng nhiều
phương pháp, nhưng đều tuân thủ nguyên tắc khấu hao tài sản cố định phải
phù hợp với mức độ hao mòn của tài sản cố định và đảm bảo thu hồi đầy đủ
giá trị vốn ban đầu.
Các phương pháp áp dụng:
- Phương pháp khấu hao bình quân:
- Phương pháp khấu hao nhanh theo số dư giảm dần.
- Phương pháp khấu hao nhanh theo theo tổng số.
- Phương pháp khấu hao giảm dần kếp hợp với phương pháp khấu hao
bình quân.
Mỗi phương pháp tính khấu hao có những ưu nhược điểm riêng. Tuỳ vào
tình hình cụ thể của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn phương pháp khấu hao

phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mình, đảm bảo cho việc
thu hồi bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
1.2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỐ ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1. Quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn cố định
Vốn cố định là một bộ phận ứng trước của vốn đầu tư về tài sản cố định,
biểu hiện dưới hình thành hiện vật là các tài sản cố định do đặc điểm của tài
sản cố định được sử dụng lâu dài nên vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ
sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm, tương ứng với phần
giá trị hao mòn của tài sản cố định do vậy nếu không quan lý sử dụng tốt tài
sản cố định để xảy ra tình trạng tài sản cố định hư hỏng trước thời hạn sử
dụng hoặc hết thời hạn sử dụng nhưng vẫn chưa khấu hao hết thì sẽ gặp rủi ro
gây thất thoát vốn cố định vì không thu hồi đủ vốn.
Vấn đề đặt ra thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý là làm thế nào để
16
vốn cố định trong suốt thời gian dài tham gia vào quá trình sản xuất mang lại
nhiều lợi nhuận nhất có thể được cho doanh nghiệp, để đạt được điều đó đòi
hỏi doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả số vốn cố định của mình.
Vậy hiệu quả sử dụng vốn cố định là mối quan hệ giữa kết quả đạt được
trong quá trình sử dụng vốn cố định vào sản xuất với số vốn cố định đã sử
dụng để đạt được kết quả đó.
Quan niệm về tính hiệu quả sử dụng vốn cố định phải thực hiện trên hai mặt.
1. Với số vốn hiện có có thể sản xuất thêm một lượng sản phẩm với chất
lượng tốt, giá thành hạ để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
2. Đầu tư thêm vốn một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất
nhằm tăng doanh số tiêu thụ sản phẩm với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi
nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng vốn.
Để sử dụng vốn cố định có hiệu quả trong hoạt động kinh doanh thường
xuyên cần thực hiện các biện pháp không chỉ để bảo toàn mà còn phát triển
được vốn cố định của doanh nghiệp sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Thực chất là
phải luôn đảm bảo duy trì một lượng vốn này doanh nghiệp có thể thu hồi

hoặc có thể mở rộng được số vốn mã đã bỏ ra ban đầu để đầu tư, mua sắm tài
sản cố định theo giá hiện tại.
1.2.2. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định
trong các doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt và khốc liệt bất kỳ
một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và đứng vững được đều phải quan tâm
đến hiệu quả của đồng vốn đã bỏ ra nói chung và vốn cố định nói riêng. Điều
này thể hiện ở một số mặt sau:
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định có nghĩa là khai thác triệt để khả
năng hiện có của tài sản cố định của doanh nghiệp, phát huy hết công suất cuả
17
máy móc thiết bị, tận dụng tối đa giờ máy. Để từ đó tạo ra nhiều sản phẩm
tăng lợi nhuận cho DN làm cho kết quả thu được trên 1 đồng chi phí về tài sản
cố định (vốn cố định) ngày một tăng.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay là rất
cần thiết. Nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp
điều này xuất phát từ những lý do chủ yếu sau:
Xuất phát từ mục đích kinh doanh của mỗi doanh nghiệp: Tối đa hoá LN
là mục tiêu cần phải đạt được của bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia
hoạt động sản xuất kinh doanh. LN là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá kết quả kinh tế
của các hoạt động của doanh nghiệp vì DN muốn tồn tại và phát triển được
hay không điều quyết định là doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay
không. LN tác động hầu hết đến các mặt hoạt động của DN. Việc thực hiện
chỉ tiêu lợi nhuận là một vấn đề quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính
của doanh nghiệp trở lên vững chắc. Để đạt được điều đó đòi hỏi các doanh
nghiệp phải tăng cường công tác sản xuất trong đó có việc tổ chức, việc sử
dụng vốn nói chung và vốn cố định nói riêng có như vậy mới đem lại LN cao
góp phần giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển.

- Xuất phát từ vị trí vai trò của vốn cố định trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Vốn cố định của doanh nghiệp là thành phần cơ bản của vốn sản xuất,
thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Năng lực sản xuất của tài sản cố định quyết định năng lực sản xuất, năng suất lao
động của doanh nghiệp. Nó góp phần làm giảm chi phí nâng cao chất lượng sản
phẩm Vì vậy việc nâng cao năng lực sản xuất của tài sản cố định sẽ làm cho
hiệu quả của việc sử dụng vốn cố định tăng lên khi hiệu quả sử dụng vốn cố định
tăng lên sẽ làm cho hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên.
18
Đây là mục tiêu cần đạt tới của bất cứ doanh nghiệp nào.
- Xuất phát từ ý nghĩa của việc sử dụng vốn cố định có hiệu quả tức là
bảo toàn và phát triển được vốn cố định. Một mặt tạo được sản phẩm có chất
lượng, giá thành hạ, nâng cao sức cạnh tranh và uy tín của doanh nghiệp trên
thị trường. Mặt khác mở rộng được quy mô tăng trưởng của doanh nghiệp.
- Xuất phát từ yêu cầu hạch toán kinh doanh đầy đủ của các doanh
nghiệp trong điều kiện nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường bất kỳ một doanh nghiệp nào
cũng phải tuân theo nguyên tắc hoạch toán kinh doanh. Yêu cầu của nguyên tắc
này là kinh doanh phải lấy thu bù chi và có lãi. Nếu không đạt được yêu cầu
này doanh nghiệp sẽ có nguy cơ phá sản. Chính vì vậy, các doanh nghiệp phải
luôn có biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh mà một
trong những giải pháp quan trọng là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất
kinh doanh nói chung và vốn cố định nói riêng.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
1.2.3.1. Hiệu suất sử dụng vốn cố định.
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có thể tạo ra được bao
nhiêu đồng DT (hoặc DT thuần) trong kỳ.
Hiệu suất sử dụng VCĐ =
Với

VCĐ bình quân sử dụng trong kỳ =
Để đánh giá đúng mức kết quả quản lý của từng thời kỳ chỉ tiêu hiệu
suất sử dụng vốn cố định phải xem xét trong mối quan hệ với chỉ tiêu hiệu
suất sử dụng tài sản cố định.
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
19
1.2.3.2. Chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định
Là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Nó
phản ánh để tạo ra 1 đồng doanh thu thuần phải cần bao nhiều đồng vốn cố định.
Hàm lượng VCĐ =
Ngoài các chỉ tiêu tổng hợp trên người ta còn sử dụng 1 số các chỉ tiêu
phân tích sau đây:
- Hệ số hao mòn tài sản cố định chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn
của tài sản cố định trong doanh nghiệp so với thời điểm ban đầu và nó được
xác định như sau:
Hệ số hao mòn TSCĐ =
- Hệ số trang bị tài sản cố định cho 1 công nhân trực tiếp sản xuất. Chỉ tiêu
này phản ánh giá trị tài sản cố định bình quân cho 1 công nhân trực tiếp sản xuất.
Hệ số trang bị TSCĐ =
1.2.3.3 Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định
Là tỷ số giữa lợi nhuận hoặc lợi nhuận ròng (Lợi nhuận sau khi đã trừ
thuế thu nhập doanh nghiệp) trong kỳ với số vốn cố định bình quân sử dụng
trong kỳ.
Hiệu quả sử dụng VCĐ =
Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định phản ánh cứ 1 đồng vốn cố định
bình quân trong kỳ tham gia tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Đây là 1 chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và hiệu quả của
việc đầu tư cũng như chất lượng sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
1.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỐ
ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP

Như đã trình bày trên vốn cố định thường chiếm một tỷ trọng lớn trong
20
tổng số vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quy mô và trình độ trang
thiết bị máy móc công nghệ là nhân tố quyết định khả năng tăng trưởng và
cạnh tranh của doanh nghiệp. Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ của sản
xuất kinh doanh và giá trị của nó được thu hồi dần dần. Trong chu kỳ vận
động của mình giá trị của vốn cố định luôn bị đe doạ bởi các nhân tố, lạm
phát, hao mòn vô hình, thiên tai Do vậy cần phải tổ chức công tác quản lý
và sử dụng vốn cố định để giúp doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn kinh
doanh, tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm góp phần làm tăng lợi nhuận
của doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả sử dụng của doanh nghiệp có thể áp
dụng một số biện pháp chủ yếu sau:
1.3.1. Công tác đầu tư xây dựng mua sắm tài sản cố định
Đầu tư vào tài sản cố định thuộc loại đầu tư dài hạn, là một trong những
nhân tố chủ yếu cho sự phát triển của 1 doanh nghiệp quyết định đầu tư dài hạn
là một trong những quyết định có tính quan trọng bậc nhất, nó quyết định đến
tương lai của một doanh nghiệp bởi mỗi quyết định đầu tư đều ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong suốt một thời gian dài,
ảnh hưởng đến quy mô và trình độ trang thiết bị công nghệ sản xuất. Từ đó ảnh
hưởng đến sản xuất tiêu thụ sản phẩm trong tương lai của doanh nghiệp đó.
Hiệu quả sử dụng vốn cố định trước hết phụ thuộc vào chất lượng của
công tác mua sắm đầu tư xây dựng tài sản cố định để sử dụng có hiệu quả vốn
cố định trong các hoạt động đầu tư dài hạn doanh nghiệp phải thực hiện đúng
các quy chế quản lý đầu tư xây dựng từ khâu chuẩn bị đầu tư lập dự án và
thẩm định dự án đầu tư. Điều này sẽ giúp cho các nhà doanh nghiệp tránh
được các hoạt động đầu tư kém hiệu quả. Chính vì vậy điều đầu tiên phải làm
khi quyết định mua sắm tài sản cố định là phải xem xét lựa chọn loại tài sản
cố định phù hợp với điều kiện khả năng của doanh nghiệp để sao cho tận
21
dụng được hết năng lực và công suất của tài sản cố định vào sản xuất tránh

lãng phí nguồn lực. Khi đầu tư mua sắm tài sản cố định cần chú ý một số
điểm sau:
Chỉ tiến hành đầu tư mua sắm tài sản cố định khi thực sự cần thiết tránh
ứ đọng vốn. Lựa chọn phương án đầu tư phải chú trọng đến yếu tố tiến bộ
khoa học kỹ thuật khi đầu tư mua sắm tài sản cố định, nhằm hạn chế hao mòn
vô hình. Tuy nhiên, cũng không nên mua sắm các tài sản quá hiện đại không
phù hợp năng lực và trình độ sản xuất của công ty sẽ gây ra lãng phí mà hiệu
quả mang lại không cao.
Đầu tư tài sản cố định phải chú trọng đến tỷ trọng tài sản cố định những
tài sản cố định đóng vai trò chủ đạo, phải có xu hướng tăng lên còn các tài sản
dùng ngoài sản xuất kinh doanh nên giảm xuống để giảm tối thiểu chi phí
quản lý cho DN. Đồng thời căn cứ vào việc xây dựng tỷ lệ hợp lý giữa các
loại tài sản cố định, giữa các khâu trong quy trình công nghệ để lập kế hoạch
đầu tư theo hướng đồng bộ hoá thiết bị có sẵn, cải tạo thiết bị cũ, thải loại các
thiết bị sửa chữa mà chi phí sửa chữa quá lớn.
Nhu cầu của thị trường ngày càng tăng người tiêu dùng luôn đòi hỏi
những sản phẩm có mẫu mã đẹp chất lượng cao giá thành hạ. Như vậy để đáp
ứng được nhu cầu thị trường, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định nói
riêng và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung các doanh nghiệp phải
đầu tư đổi mới kịp thời về thiết bị công nghệ.
1.3.2. Tổ chức quản lý tài sản cố định hiện có
Sau khi đã đầu tư mua sắm tài sản cố định thì cần phải thực hiện:
- Phải bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý khai thác tối đa công suất thiết
kế và nâng cao hiệu suất công tác của máy móc thiết bị, sử dụng triệt để vào
22
sản xuất, đảm bảo mức chi phí khấu hao phù hợp với giá thành sản phẩm.
- Cần xử lý nhanh những tài sản cố định không cần dùng hoặc hư hỏng
không được sử dụng được, tránh ứ đọng vốn của doanh nghiệp.
- Cần tiến hành phân cấp quản lý tài sản cố định cho các phân xưởng bộ
phận sản xuất trong doanh nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm vật chất trong

quản lý chấp hành nội quy, quy chế sử dụng bảo dưỡng, sửa chữa tài sản cố
định giảm tối đa thời gian ngững làm việc của tài sản cố định.
- Phải thường xuyên quan tâm đến việc bảo toàn vốn cố định, quản lý chặt
chẽ tài sản cố định về mặt hiện vật, không để mất mát hư hỏng tài sản cố định
trước thời hạn. Khấu hao hàng năm phải lập kế hoạch khấu hao theo khung quy
định của Nhà nước và kịp thời điều chỉnh lại giá trị của tài sản cố định khi trượt
giá để tính đúng tính đủ khấu hao vào giá thành và bảo toàn vốn cố định.
1.3.3. Thực hiện khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao tài sản cố định
Trích khấu hao là một hình thức thu hồi vốn cố định phục vụ cho việc tái
sản xuất tài sản cố định nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh
nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn bỏ ra.
Trong quá trình sử dụng: tài sản cố định chịu nhiều nhân tố tác động đặc
biệt là hao mòn vô hình. Do đó làm thế nào để thực hiện khấu hao một cách
hợp lý, tính đúng, tính đủ và có căn cứ.
Để làm điều đó mỗi doanh nghiệp nên lựa chọn phương pháp khấu hao
và xác định mức khấu hao cho hợp lý, đảm bảo thu hồi đủ vốn khi tài sản cố
định hết thời hạn sử dụng.
Quyết định 166/1999 QĐ - BTC ban hành 30/12/1999 đã giải quyết được
vấn đề hết sức cơ bản, cho phép các doanh nghiệp chủ động linh hoạt trích
khấu hao tài sản cố định theo khung quy định và cho phép các doanh nghiệp
được quyền giữ lại quỹ khấu hao để tái đầu tư tài sản cố định. Quỹ khấu hao
23

×