Báo cáo thực tập
MỤC LỤC
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
Báo cáo thực tập
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1: Mạng lưới hoạt động của chi nhánh TMCP SHB Hà Nội 39
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
Báo cáo thực tập
LỜI MỞ ĐẦU
Vốn là yếu tố quan trọng bậc nhất để các doanh nghiệp có thể hình
thành, hoạt động và phát triển. Ngân hàng- một loại hình doanh nghiệp đặc biệt
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tiền vừa là sản phẩm đầu ra vừa là
hàng hoá đầu vào của ngân hàng. Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết
kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất
kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Với đặc thù như vậy vốn đối với
ngân hàng lại càng quan trọng, vốn quyết định tới rất nhiều yếu tố hoạt động của
ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng được hình thành chủ yếu từ ba bộ phận :
Vốn chủ sở hữu; Vốn huy động; và vốn vay, trong đó nguồn vốn huy động
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
Trong quá trình hoạt động của mình ngân hàng luôn cần một lượng vốn
rất lớn, do vậy ngân hàng luôn tìm mọi cách để có thể huy động được một
lượng vốn lớn nhất đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động kinh doanh và mang
lại thu nhập lớn cho ngân hàng. Để tăng vốn hoạt động ngân hàng không thể
tăng liên tục nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vay vì: Nguồn vốn chủ sở hữu
của ngân hàng chịu sự ràng buộc và kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng Nhà
nước. Nếu sử dụng nguồn vốn đi vay ngân hàng phải chịu chi phí rất lớn do
vậy nguồn vốn này chỉ thực sự được huy động trong ngắn hạn và trong
trường hợp cần thiết. Như vây nguồn huy động của ngân hàng là rất quan
trọng và ngân hàng luôn tìm cách phát triển nó. Vậy nguồn vốn huy động bao
gồm những nguồn vốn nào, đặc trưng tính chất của nguồn vốn này ra sao?
Trong khuôn khổ phạm vi thực tập của mình em xin đề cập tới vấn đề : “ Giải
pháp nhằm tăng cường khai thác vốn tại ngân hàng TMCP SHB Sài gòn
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
1
Báo cáo thực tập
Hà Nội”
Bài trình bày gồm ba chương:
Chương 1: Vốn và hoạt động huy động vốn tại các ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại chi nhánh ngân
hàng TMCP SHB
Chương 3: Một sĩ giải pháp và kiến nghị tăng cường huy động vốn tại
chi nhỏnh ngân hàng TMCP SHB
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo Th.s Nguyễn Bích
Phượng và các anh chị Phòng giao dịch chi nhánh Mờ Linh của Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Hà Nội đã giúp em hoàn thành chuyên đề báo cáo này!
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
2
Báo cáo thực tập
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
3
Báo cáo thực tập
CHƯƠNG 1
VỐN VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Ngân hàng thương mại
1.1 Khái niệm
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán
1.1.1 Các chức năng
- Chức năng tạo tiền
- Chức năng tạo cơ chế thanh toán
- Chức năng tạo cơ chế thanh toán
- Chức năng huy động tiết kiệm
- Chức năng mở rộng tín dụng
- Chức năng tài trợ ngoại thương
- Chức năng ủy thác
- Chức năng bảo quản an toàn vật có giá
- Chức năng môi giới
1.1.2 Các hoạt động cơ bản
- Vốn huy động
- Tín dụng
- Đầu tư và kinh doanh chứng khoán
- Kinh doanh ngoại tệ và vàng
- Quản lý rủi ro
- Thanh toán và chuyển tiền
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
4
Báo cáo thực tập
- Thanh toán quốc tế
2. Vốn của ngân hàng thương mại
Đối với bất kỳ một ngân hàng nào điều kiện đầu tiên trước khi thành lập
là phải có vốn. Vốn là điều kiện tiên quyết để giúp các doanh nghiệp có thể
hoạt động. Với mỗi loại hình doanh nghiệp hoạt động sẽ cần những mức vốn
tối thiểu nhất định để có thể hoạt động kinh doanh. Với ngân hàng cũng
không loại trừ khỏi điều kiện đó, đặc biệt ngân hàng là doanh nghiệp đặc biệt
hoạt động trong lĩnh vực tài chính mà hoạt động chính là huy động tiền của
các tổ chức dân cư để thực hiện hoạt động kinh doanh. Vì vậy có thể nói vốn
đối với ngân hàng không những chỉ cần mà còn cần nguồn vốn rất lớn. Đây là
nguồn vốn doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng có thể sử dụng lâu
dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành
và năng lực hình thành của nguồn vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất sở
hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, nhu cầu và sự phát triển của thị
trường, của nền kinh tế.
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm:
2.1 Khái niệm
Các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại
như sau:
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân ngân
hàng thương mại tạo lập hoặc hoạt động được dựng để cho vay, đầu tư hoặc
thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Khái niệm trên đã nói đầy đủ những thành phần tạo nên
2.2 Cơ cấu
- Vốn chủ sở hữu
- Vốn điều lệ
- Vốn huy động
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
5
Báo cáo thực tập
- Vốn vay
- Vốn khác
2.2.1 Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại đóng vai trị sống còn trong
việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng có khả
năng phát triển lâu dài.
Vốn chủ sở hữu đóng vai trị là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá
sản vì vốn chủ sở hữu giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ
cho tới khi ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề và đưa ngân
hàng trở lại trạng thái hoạt động sinh lời.
Vốn là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và
hoạt động trước khi nó có thể huy động được những khoản tiền gửi đầu tiên.
Một ngân hàng mới luôn cần vốn ban đầu để xây dựng mua sắm các tài sản,
trang thiêt bị nhằm đưa ngân hàng vào hoạt động.
Vốn chủ sở hữu tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với
chủ nợ về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Ngân hàng cần phải đủ sức
mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp
ứng nhu cầu tín dụng của họ ngay cả khi nền kinh tế đang gặp khó khăn.
Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các
hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi một
ngân hàng phát triển nó cần vốn bổ sung để thúc đẩy tăng trưởng và chấp
nhận rủi ro gắn với sự ra đời của những lĩnh vực dịch vụ mới và nững trang
thiết bị dịch vụ mới.
Vốn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm
bảo rằng sự tăng trưởng của ngân hàng có thể được duy trì, ổn định lâu dài.
Một ngân hàng mở rộng nhanh quá trình hoạt động huy động vốn và cho vay
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
6
Báo cáo thực tập
sẽ nhận được những dấu hiệu của thị trường.
Vốn chủ sở hữu đóng vai trị then chốt trong sự gia tăng mạnh mẽ của xu
hướng mua bán và sáp nhập ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn của ngân hàng, song
lại là điều kiện pháp lý bắt buộc để thành lập ngân hàng. Mặt khác, với chức
năng bảo vệ, vốn chủ sở hữu được coi là tài sản bảo đảm, tạo niềm tin đối với
khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong điều kiện ngân hàng gặp rủi ro
thua lỗ. Vốn chủ sở hữu cũng là căn cứ để tính toán các tỷ lệ đảm bảo trong
hoạt động ngân hàng. Theo quy định của ngân hàng nhà nước vốn chủ sở hữu
của ngân hàng thương mại bao gồm: vốn điều lệ, vốn bổ sung trong quá trình
hoạt động kinh doanh và các quỹ.
2.2.1.1 Vốn điều lệ
Vốn điều lệ là nguồn vốn mà các chủ sở hữu đóng góp vào để thành lập
doanh nghiệp. Nguồn vốn điều lệ này tuỳ thuộc vào các cổ đông đóng góp,
tuy nhiên do ngân hàng là loại hình doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt vì vậy
mà nguốn vốn điều lệ này tối thiểu phải bằng nguồn vốn pháp định do nhà
nước quy định đối với loại hình doanh nghiệp là các ngân hàng.
Khi nói đến vốn góp ban đầu của các doanh nghiệp trong đó có ngân
hàng bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của các doanh nghiệp nói
chung và ngân hàng nói riêng.Tuỳ theo tính chất lọai hình hoạt động của mỗi
ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn điều lệ là khác nhau. Nếu ngân hàng
thuộc sở hữu nhà nước thì vốn điều lệ do nhà nước cấp vvbà mức cấp bao
nhiêu tuỳ thuộc vào kế hoạch thành lập ngân hàng của nhà nước với quy mô
lớn, nhỏ khác nhau. Nếu là ngân hàng cổ phần, vốn điều lệ do các cổ đông
đóng góp. Nếu là ngân hàng liên doanh, liên kết thì vốn điều lệ do các bên
liên doanh liên kết góp vốn thành lập; ngân hàng tư nhân vốn thuộc sở hữu tư
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
7
Báo cáo thực tập
nhân. Nguồn vốn này cho ta biết quy mô, năng lực tài chính của ngân hàng
ban đầu thành lập. Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế hội nhập như hiện nay,
việc một ngân hàng mới được thành lập với mức vốn điều lệ ra sao ảnh hưởng
trực tiếp tới các giao dịch hoạt động của chính ngân hàng. Những ngân hàng
mới được thành lập này mà mức vốn điều lệ không lớn tương đối so với các
ngân hàng đã và đang hoạt động lâu dài thì rất khó có thể huy động vốn do
chưa chiếm được lòng tin của khách hàng và chưa tạo dựng được một thương
hiêu được mọi người biết đến trên thị trường.
2.2.1.2 Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Quy mô số vốn góp ban đầu của các chủ sở hữu ngân hàng là một yếu tố
quan trọng trong tổng vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, thông thường không chỉ có
ngân hàng mà các doanh nghiệp nói chung cũng vậy, số vốn này cần được
tăng theo quy mô phát triển của ngân hàng. Trong quá trình hoạt động của
mình các ngân hàng có thể bổ sung nguồn vốn chủ sở hữu thông qua các
phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể. Các phương thức bổ
sung vốn chủ sở hữu ngân hàng áp dụng như:
Thứ nhất, Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: nguồn vốn tích lũy từ lợi
nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư phát triển hoạt
động kinh doanh Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là
một phương thức tao nguồn tài chính quan trọng của ngân hàng. Trong điều
kiện ngân hàng hoạt động có lợi nhuận, các ngân hàng sẽ có 2 xu hướng sử
dụng lợi nhuận là phân chia lợi nhuận cho các chủ sở hữu hoặc giữ lại lợi
nhuận để tái đầu tư. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực
hiện được khi ngân hàng đã và đang hoạt động có lợi nhuận và được phép tiếp
tục đầu tư.Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy
và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
8
Báo cáo thực tập
lũy từ lợi nhuận sẽ cao so với nguồn vốn hình thành ban đầu.
Đối với các ngân hàng thương mại nhà nước việc giữ lại lợi nhuận để tái
đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng hoạt động kinh doanh sinh lợi của
chính bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái
đầu tư của nhà nước.
Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần,các ngân hàng thương mại
cổ phần là vấn đề rất nhạy cảm liên quan tới các cổ đông những người đang
nắm giữ cổ phần của ngân hàng. Việc giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư phụ thuộc
vào quyết định của đại hội cổ đông. Nhưng đây là nguồn vốn có chi phí thấp
hơn nguồn vốn huy động thông qua việc phát hành cổ phiếu phổ thông mới.
Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức của
các ngân hàng thương mại cổ phần cần lưu ý đến một số yếu tố như: Tổng lợi
nhuận ròng trong năm; Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước; sự
xếp hạng của cổ phiếu trên thị trường và mức ổn định thị giá của cổ phiếu
ngân hàng trên thị trường
Thứ hai, Nguồn vốn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp
thêm : Trong quá trình hoạt động kinh doanh, để đáp ứng nhu cầu vốn cho các
hoạt động tài trợ và mở rộng quy mô hoạt động của mình, các ngân hàng có
thể phát hành cổ phiếu ra thị trường. Đối với các ngân hàng đã có cổ phiếu
niêm yết trên thị trường thì ngân hàng thực hiện phát hành cổ phiếu mới.Các
ngân hàng có thể phát hành một trong các loại cổ phiếu : Cổ phiếu thường , cổ
phiếu ưu đãi. Ngoài ra, đối với các ngân hàng nhà nước có thể bố sung vốn
chú sở hữu bằng cách xin nhà nước cấp vốn thêm. Đây là hình thức huy động
vốn để mở rộng qui mô hoạt động, hoặc để đổi mới rang thiết bị, hoặc để gia
tăng vốn của chủ ngân hàng do ngân hàng nhà nước qui định Đặc điểm của
hình thức huy động vốn này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
9
Báo cáo thực tập
có được lượng vốn chủ sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
2.2.1.3 Các quỹ
Các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trình hoạt động của
ngân hàng.Ngân hàng có nhiều quỹ khác nhau.Mỗi quỹ có mục đích riêng.
Các quỹ này được trích lập theo quy định của ngân hàng nhà nước.
Thứ nhất, Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: quỹ này gồm hai phần
+ Khoản trích lập từ lợi nhuận hàng năm của ngân hàng. Theo quy định
của luật ngân hàng tại Việt Nam hiện nay thì hàng năm các ngân hàng được
trích lập 5% lợi nhuận sau thuế và số dư của quỹ không được vượt quá vốn
điều lệ tự có.
+ Phần chênh lệch giữa giá bán chứng khoán và mệnh giá.
Thứ hai, Quỹ đầu tư phát triển: dựng để đầu tư, phát triển công nghệ,
trang thiết bị cần sử dụng. Hàng năm các ngân hàng được trích lập tối đa
không quá 50% lợi nhuận sau thuế sau khi đã trừ đi trích lập quỹ dự trức bổ
sung vốn điều lệ, bù lỗ năm trước,
Thứ ba, Quỹ dự phòng tổn thất: Quỹ này được trích lập hàng năm và
được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Hàng năm được trích lập
10% lợi nhuận sau thuế, sau khi trừ đi khoản trích quỹ đầu tư phát triển.
Quỹ khen thưởng phúc lợi, được trích lập theo kế hoạch của ngân hàng.
Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình
thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tùy nhiên, khả năng sử dụng
các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tùy thuộc vào mục đích sử dụng.
Ngoài ra, trong nguồn vốn của ngân hàng thương mại khoản mục vay nợ
có thể chuyển thành cổ phần cũng được coi là một bơ phận vốn chủ hữu của
ngân hàng. Do đây là nguồn vốn có một số đặc điểm như: sử dụng lâu dài, có
thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không hoàn trả khi đến hạn.
2.2.2 Nguồn vốn huy động
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
10
Báo cáo thực tập
Ngân hàng là một trong những tổ chữ trung gian tài chính với chức năng
chủ yếu là huy động và cho vay. Ngân hàng tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất
trong hầu hết mọi nền kinh tế. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên
quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt
động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán
hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh
nghiệp, các tổ chức dân cư.
Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng.
Đây là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp ta phân phiệt được
ngân hàng và các loại hình doanh nghiêp khác. Năng lực của đội ngũ nhân
viên cũng như của các nhà quản lý ngân hàng trong việc thu hút tiền gửi giao
dịch và tiền gửi tiết kiệm từ doanh nghiệp và cá nhân là một thước đo quan
trọng về sự chấp nhận của công chúng đối với ngân hàng. Tiền gửi là cơ sở
chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguốn gốc sâu xa của lợi nhuận
và sự phát triển của ngân hàng.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh trạnh và để có
được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã thực hiện
nhiều hình thức huy động khác nhau.
2.2.2.1 Vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm dân cư
Các tầng lớp dân cư trong mọi nền kinh tế đều có những khoản thu nhập
tạm thời chưa sử dụng đến hoặc tiết kiệm. Trong điều kiện nền kinh tế phát
triển, các dịch của ngân hàng không ngừng phát triển. Các tầng lớp dân cư
đều có thể gửi tiết kiệm tại ngân hàng nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn
và sinh lời đối với các khoản tiền tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo đảm an
toàn. Nền kinh tế càng phát triển, thu nhập của người dân tăng do vậy mà các
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
11
Báo cáo thực tập
khoản tiết kiệm càng nhiều. Chính vì vậy mà tài khoản tiền gửi tiết kiệm được
lập ra để thu hút vốn của những người muốn dành riêng một khoản tiền cho
những mục tiêu hay cho một nhu cầu về tài chính trong tương lai. Để thu hút
ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân
cư thay đổi thói quen cất trữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách không ngừng
mở rộng mạng lưới hoạt động, đa dạng hóa các hình thức huy động với các
mức lãi suất hấp dẫn cùng với các chương trình khuyến mãi, tặng quà, rút
thăm trúng thưởng. Ngày nay, với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các
ngân hàng thương mại, trong việc thực hiện giao dịch và huy động các ngân
hàng đã thực hiện rất linh hoạt và nhiều hình thức. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ
trọng lớn trong của ngân hàng thương mại trong tổng nguồn vốn huy động.
Tài khoản tiền gửi tíêt kiệm là loại tài khoản phi giao dịch nghĩa là khi sử
dụng loại tài khoản này khách hàng không được sử dụng các dịch vụ như:
phát séc, thanh toán qua tài khoản Thông thường các tài khoản này đều có
kỳ hạn nhất định, theo quy định thì khi đến hạn thanh toán khách hàng mới
được rút tiền ra khỏi ngân hàng. Nhưng trên thực tế do sự cạnh tranh giữa các
ngân hàng với nhau mà ngân hàng sẽ cho khách hàng rút tiền trước hạn nhưng
với lãi suất thấp hơn. Khi nắm giữ tài khoản này khách hàng sẽ được ngân
hàng phát hành một sổ chứng nhận tiết kiệm, khi cần có thể mang sổ đi cầm
cố để vay vốn ngân hàng.
2.2.2.2 Vốn huy động từ tiền gửi thanh toán
Trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu hóa, việc hợp tác kinh doanh giữa
các doanh nghiệp đòi hỏi sự nhanh chóng, thuận tiện chính xác. Do vậy sự
phát triển các quan hệ hợp tác này đặc biệt là hợp tác đa quốc không thể thiếu
sự hỗ trợ của các dịch vụ ngân hàng. Một loại dịch vụ thông dụng được khách
hàng sử dụng là nhờ ngân hàng thanh toán, thu chi hộ thông qua một loại tài
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
12
Báo cáo thực tập
khoản gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán. Đây là tiền của các khách hàng là
doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và
thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh
nghiệp và các cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng
tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh
toán theo yêu cầu. Lãi suất của tiền gửi thanh toán rất thấp (hoặc bằng
không), thay vào đó chủ tài khoản được hưởng các dịch vụ của ngân hàng với
mức phí thấp. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán (tiền gửi có thể
phát séc ) cho khách hàng.Thủ tục mở đơn giản.
Tiền gửi giao dịch là một trong những nguồn vốn biến động nhiều nhất
và ngân hàng khó có thể dự báo về quy mô tiền gửi giao dịch có thể huy
động. Đồng thời kỳ hạn tiềm năng của tiền gửi giao dịch là ngắn hạn nhất bởi
vì nó có thể được rút ra mà không cần báo trước. Ở các nước phát triển việc
sử dụng tài khoản thanh toán được áp dụng đối với tất cả các cá nhân, hầu
như tất cả các khoản thu chi đều được thực hiện thông qua tài khoản này.
2.2.2.3 Vốn huy động từ tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và các
tổ chức xã hội
Doanh nghiệp và các tổ chức xã hội cũng như dân cư đều có những
khoản thu bằng tiền sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh
toán tuy rất thuận tiện cho các doanh nghiệp trong việc thanh toán song lãi
suất thấp. Để tăng thu nhập đồng thời tránh để quá nhiều lượng tiền mặt trong
két, các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội đã mở tài khoản tiền gửi có kỳ
hạn. Với sản phẩm tiền gửi này khách hàng sẽ được hưởng lãi suất cao nhưng
ngược lại khách hàng sẽ không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với
tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Khi khách hàng cần,
họ phải tới ngân hàng làm thủ tục rút tiền . Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
13
Báo cáo thực tập
bằng hình thức tiền gửi thanh toán song tiền gửi có kỳ hạn của các doanh
nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ đem lại cho họ một khoản thu nhập tận dụng
từ nguồn tiền nhàn rỗi chưa dùng tới.
2.2.2.4 Vốn huy động tiền gửi từ các tổ chức tín dụng
Ngày nay khi công nghệ ngân hàng ngày càng phát triển, các ngân hàng
thực hiện thanh toán giao dịch với nhau rất nhiều. Vì vậy, để thuận lợi cho
việc thực hiện các giao dịch liên ngân hàng, các ngân hàng đã mở tài khoản
tại các ngân hàng khác nhau. Các khoản tiền gửi này đều là tiền gửi không kỳ
hạn của các tổ chức tín dụng. Với nguồn vốn này ngân hàng không thể biết
trước được khi nào khách hàng sẽ sử dụng tới tương tự như tiền gửi thanh
toán. Khi có giao dịch với các tổ chức tín dụng có mở tài khoản tại ngân hàng
mình thì tài khoản này sẽ được ghi tăng hoặc giảm tuỳ theo tính chất giao
dịch. Ở Việt Nam hiện nay do hoạt động giao dịch liên ngân hàng chưa thực
sự phát triển vì vậy mà các giao dịch chủ yếu được thực hiện tại các hội sở
chính. Bên cạnh đó các ngân hàng còn có tài khoản của Kho bạc được mở tại
ngân hàng mình.
Tuy nguồn vốn huy động được từ tài khoản này không lớn song nó một
mặt tạo lợi nhuận cho ngân hàng nhớ việc tận dụng số dư trên tài khoản khi
chưa sử dụng đến. Mặt khác, nó đem lại cho ngân hàng việc thuận tiện nhanh
chóng và giảm chi phí khi thực hiện giao dịch giữa các ngân hàng.
2.2.3 Nguồn vốn vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên, khi cần, các ngân hàng thường vay mượn thêm. Tuy nhiên, tại nhiều
quốc gia, ngân hàng trung ương qui định tỷ lệ giữa nguồn vốn huy động và
vốn của chủ. Do vậy, nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay
mượng thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế.
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
14
Báo cáo thực tập
Các ngân hàng thương mại thường sử dụng các nguồn vốn vay sau:
2.2.3.1 Vay ngân hàng Trung Ương
Đây là khoản vay nhằm giả quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ ( thiếu dự trữ bắt
buôc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thường vay ngân hàng nhà nước. Các
ngân hàng Trung ương thường áp dụng hình thức cho vay chủ yếu là tái chiết
khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại
chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thánh tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân
hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại ngõn hàng Nhà
nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của ngân hàng thương mại giảm đi và
dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân hàng
nhà nước điều hành vay vượn một cách chặt chẽ; ngân hàng thương mại phải
thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân
hàng nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng (thời
gian đáp hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của ngân
hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu,
ngân hàng Nhà nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp
vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Các ngân hàng thường rất hạn chế vay
ngõn hàng Trung ương vì đây là khoản vay mà chi phí của nó lớn hơn rất
nhiều so với nguồn vốn huy động. Do khi vay ngân hàng Trung Ương các
ngân hàng vừa phải chịu lãi suất cao hơn so với lãi suất huy động bên ngoầi
và vừa phải chịu thêm lãi phạt do thiếu dự trữ.
2.2.3.2 Vay từ các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức
tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Do tính chất hoạt động đặc biệt
của ngân hàng, nó ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ hoạt động của nền kinh tế
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
15
Báo cáo thực tập
vì vậy mà các ngân chịu sự kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng Nhà nước.
Nguồn vốn huy động được các ngân hàng không thể sử dụng để cho vay hoặc
đầu tư toàn bộ mà bắt buộc phải dự trữ. Nguồn dự trữ này ngân hàng Nhà
nước sẽ quản lý, khi thiếu hụt dự trữ các ngân hàng sẽ chịu phạt rất nặng vì
vậy mà khi xảy ra tình trạng thiếu hụt dự trữ các ngân hàng phải tìm mọi cách
đẻ bù đắp. Khi các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia
tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng
cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân
hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh
khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng thương mại khác là để đáp
ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung
hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước. Khoản vay có thể
không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán kho bạc. Kết
quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng
lên. Khi vay trên thị trường liên ngân hàng các ngân hàng thường vay với thời
gian ngắn và phải chịu lãi suất cao có khi chịu lãi suất qua đêm.
2.2.3.3 Vay trên thị trường vốn
Thị trường vốn là thị trường huy động vốn trung và dài hạn, các ngân
hàng cũng như các doanh nghiệp vay mượn trên thị trường vốn bằng cách
phát hành các giấy nợ như: kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu. Rất nhiều ngân
hàng thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền
gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây
là khoản vay không có bảo đảm. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất
cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn
trực tiếp bằng cách này. Họ thường vay thông qua các ngân hàng đại lý hoặc
được bảo lãnh của ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
16
Báo cáo thực tập
sự phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi các công cụ nợ
dài hạn của ngân hàng.
2.2.4 Nguồn vốn khác
2.2.4.1 Nguồn vốn uỷ thác
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho
vay, uỷ thác đầu tư, các uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và uỷ thác thu
hộ các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác cho ngân hàng .
Uỷ thác đầu tư: Đây là vốn mà ngân hàng có được do làm đại lý uỷ thác
của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư cho những công trình
dự án. Khi ngân hàng nhận uỷ thác đầu tư, các khoản tiền mà ngân hàng đã ký
nhận làm đại lý uỷ thác sẽ được chuyến dần về ngân hàng. Tuy nhiên, nguồn
tiền này không dùng hết một lúc nên ngân hàng có thể tận dụng nguồn vốn
nhàn rỗi chưa dùng tới này để đầu tư tạm thời. Nguồn vốn này có được nhiều
hay ít là phụ thuộc vào uy tín, mối quan hệ của mỗi ngân hàng. Đây là nguồn
vốn rất rẻ, ngân hàng hầu như không phải trả phí do vậy mà các ngân hàng đề
rất cố gắng để có thể thu được nguồn vốn uỷ thác, một mặt nhận được hoa
hồng uỷ thác, một mặt có thể tận dụng nguồn vốn lúc nhàn rỗi để đầu tư. Tại
Việt Nam hiện nay hầu như chỉ có các ngân hàng thương mại quốc doanh là
thu hút được nhiều vốn uỷ thác.
2.2.4.2 Nguồn trong thanh toán
Nguồn trong thanh toán: Đó là nguồn tiền ngân hàng có được nhờ làm
trung gian thanh toán cho nền kinh tế. Trước khi đến thời điểm thực hiện các
nghĩa vụ thanh toán ngân hàng có thể thực hiện nguồn tiền đó vào kinh doanh.
Cụ thể bao gồm:
Số tiền trong thời gian đã trích khỏi tài khoản của người phải trả nhưng
chưa ghi vào tài khoản của người thụ hưởng do phải luân chuyển, xử lý chứng
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
17
Báo cáo thực tập
từ kế toán.
Số tiền trong thời gian khách hàng phải lưu ký tiền tại ngân hàng nhưng
chưa thanh toán trong một số hình thức thanh toán. Các khoản tiền này
thường được lưu ký trên một số tài khoản như: tài khoản tiền gửi bảo đảm mở
thư tín dụng, tài khoản mở để bảo chi séc và các tài khoản tiền gửi phong toả
do ngân hàng chấp nhân các hối phiếu thương mại.
3. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
3.1 Sự cần thiết của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
Vốn là yếu tố không thể thiếu cho quá trình hình thàng, hoạt động và
phát triển của doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng. Ngân hàng là
tổ chức trung gian tài chính với chức năng chủ yếu là huy động tiền nhàn rỗi
của tất cả các thành phần kinh tế trong xã hội và cho vay, tài trợ cho các dự
án. Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm 3 bộ phận chính: Vốn chủ sở hữu,
Vốn huy động và vốn đi vay. Trong đó hai bộ phận vốn trên chiếm tỷ rọng rất
nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Do vậy hoạt động huy động vốn
của ngân hàng là rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng.
Trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước, nguồn vốn huy động
luôn có ý nghĩa qua trọng, giữ vai trì quan định đến sự phát triển lâu dài và
vững chắc, bởi vì sự chi viện, bổ sung từ bên ngồi là viện trợ cho vay hay đầu
tư nước ngoài cũng chỉ là tạm thời. Những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền
tệ trong và ngoài nước trong khu vực cũng như thế giới đã minh chứng rằng
không thể và không nên hoàn toàn mong đợi vào sự tăng trưởng, phát triển
nhanh và bền vững vào nguồn vốn bên ngoài mà phải tích cực mở rộng công
tác huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế. Kinh nghiệm cho thấy để ổn định tiền
tệ, kiềm chế lạm phát thì việc tăng cường huy động trong dân cư qua hệ thống
ngân hàng thương mại là rất hữu hiệu. Huy động vốn không chỉ giúp ổn định
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
18
Báo cáo thực tập
toàn bộ nền kin tế mà còn có vai trò rất lớn đối với chính các ngân hàng
thương mại.
3.1.1 Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động
khác của ngân hàng
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh
vực kinh doanh tiền tệ nghĩa là đối với ngân hàng thì tiền vừa là hàng hoá vừa
là phương tiện trao đổi. Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín
dụng là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản,
tạo thu nhập lớn nhất. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách
hàng. Theo quy định hịên hành, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng
đồng Việt Nam áp dụng cho các tổ chức tín dụng như sau: các ngân hàng
thương mại nhà nước(không bao gồm ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn), ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh ,chi
nhánh ngân hàng nước ngoài ,cơng ty tài chính là 11% trên tổng số dư tiền
gửi. Vì vậy, để có thể mở rộng hoạt động tín dụng thì lượng vốn là yếu tố
quyết định quy mô tín dụng theo tỷ lệ thuận với vốn. Về phía ngân hàng, khi
lượng vốn của ngân hàng lớn thì họ sẽ có thể cho vay nhiều hơn. Về phía
khách hàng, họ có xu hướng, tin cậy hơn khi tìm đến các ngân hàng có tiềm
lực vốn lớn hơn. Đó cũng là một lý do khiến cho hoạt động tín dụng của ngân
hàng lớn hơn về quy mô. Mặc dù khi vốn tăng lên thì tín dụng cũng tăng lên
đúng tỷ lệ đó, vì ngân hàng còn sử dụng vốn vào các hoạt động khác như đầu
tư, tự doanh, nhưng khả năng tín dụng của ngân hàng sẽ được tăng lên về
mặt pháp lý.
Sự sẵn cú của vốn hay không quyết định khả năng cấp tín dụng của ngân
hàng. Hơn nữa cơ cấu vốn cũng ảnh hưởng tới cơ cấu tín dung của chính ngân
hàng. Nếu như cơ cấu vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là nguồn ngắn
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
19
Báo cáo thực tập
hạn thì các khoản cho vay trung và dài hạn của ngân hàng sẽ bị hạn chế. Tỷ lệ
cho vay theo cơ cấu vốn huy động được ngân hàng nhà nước quy định rõ
nhằm đảm bảo sự phát triển an toàn và vững chắc cho ngân hàng.
3.2.Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của
ngân hàng
Khả năng thanh toán của ngân hàng là một yếu tố quan trọng quyết định
đến uy tín và khả năng kinh doanh của ngân hàng đó. Nó thể hiện số lượng
tiền mặt mà doanh nghiệp hiện có thể chi trả các khoản nợ mà doanh nghiệp
có thể đáp ứng tại một thời điểm. Nhưng điều tạo nên uy tín của ngân hàng
không được quyết định bởi một thời điểm mà là trong thời gian dài kinh
doanh. Vì thế, khả năng thanh toán của ngân hàng mà cao, nhanh trong mọi
thời điểm, sẽ là yếu tố tiên quyết tới uy tín của ngân hàng, nó chứng tỏ được
ngân hàng luôn làm ăn có hiệu quả, thông qua việc ngân hàng luôn có tiền để
thanh toán khi khách hàng cần họ sẽ có thể biết được phần nào tình hình làm
ăn của ngân hàng. Chính vì vậy vốn ngân hàng sẽ quyết định khả năng thanh
toán và uy tín ngân hàng. Khi vốn càng lớn, lượng tiền mặt dự trữ lớn, khả
năng thanh toán sẽ tốt, đương nhiên ngân hàng sẽ tạo được uy tín với khách
hàng. Uy tín của khách hàng với ngân hàng không chỉ thông qua tình hinh
kinh doanh, đầu tư có lãi năng lực cạnh tranh mà còn trực tiếp từ việc thanh
toán cho khách hàng nhanh hay chậm. Một khi khách hàng nhận thấy khả
năng thanh toán của ngân hàng có chút vấn đề khách hàng sẽ đổ xô tới rút tiền
làm ngân hàng đã khó khăn lại càng khó khăn hơn thì nguy cơ đứng trước bờ
vực phá sản là không thể tránh khỏi. Vì vậy mà ngân hàng luôn đáp ứng một
tỷ lệ dự trữ sao cho đáp ứng khả năng thanh toán trong một khoản nhất định.
3.2.1 Vốn tạo nên năng năng lực cạnh tranh cho ngân hàng
Cũng như các doanh nghiệp thông thường khác, lợi thế cạnh tranh được
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
20
Báo cáo thực tập
tạo nên bởi nhiều nhân tố như: con ngưòi, thi trường, chính sách, và vốn.
Vốn với ngân hàng có một vai trò quan trọng hơn trong việc tạo lợi thế cạnh
tranh vì ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, liên quan mật thiết hơn với
tiền. Khi ngân hàng có lượng vốn lớn sẽ có nhiều lợi thế hơn hẳn một ngân
hàng khác ít vốn. Vốn tạo ra uy tín cho ngân hàng, tạo ra cơ hội đầu tư cho
ngân hàng , khả năng cạnh tranh với các ngân hàng và tổ chức tài chính khác.
Khi nói đến ngân hàng, người ta thường nghĩ ngay tới tiền, đặc biệt là vốn của
ngân hàng đó như thế nào. Vốn của ngân hàng càng lớn thì danh tiếng càng
lớn, uy tín càng lớn, khách hàng gửi tiền càng lớn,và vốn lại càng lớn. Vì thế
mới nói vốn tạo nên lợi thế cạnh tranh rất quan trọng cho ngân hàng.
Cú thể nói, hoạt động huy động vốn trong dân là yếu tố quan trọng qua đó
đánh giá được năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng thương mại. Do vậy, một
trong những giải pháp quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại là việc tăng cường khả năng huy động vốn trong dân.
Tuy nhiên, việc huy động vốn trong dân có những han chế và khó khăn
nhất định do một số đặc điểm của loại vốn này, đó là tính phân tán, nhỏ lẻ, đa
dạng trong sở hữu và phân bố không đồng đều giữa các vùng, miền lãnh thổ.
Điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có những phương thức, quy
trình công nghệ và giải pháp thích hợp với quá trình huy động vốn, một mặt
để tăng tiện ích cho khách hàng, mặt khác hạn chế những chi phí trong huy
động vốn.
3.3 Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
3.3.1 Huy động tiền gửi
Hoạt động huy động tiền gửi đối với ngân hàng thương mại là hoạt động
tạo nguồn vốn lớn nhất và rất quan trọng đối với các ngân hàng thương mại.
Có nhiều tiêu chí để phân loại tiền gửi:
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
21
Báo cáo thực tập
Thứ nhất, Phân loại theo thời gian huy động: Nguồn vốn của ngân
hàng bao gồm ba bộ phận
+ Huy động vốn ngắn hạn: Theo quy định hiện hành của luật ngân hàng
của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam đây là những nguồn vốn có thời gian gửi
dưới 12 tháng. Nguồn vốn này được các ngân hàng thương mại phân chia
thành 1, 2,3,6,9 tháng. Nguồn vốn này có lãi suất thấp huy động thấp hơn
lãi suất nguồn trung và dài hạn.
+ Huy động vốn trung hạn: Đây là những nguồn có thời gian huy động
từ 12 tháng tới 36 tháng.
+ Huy động vốn dài hạn: Đây là nguồn vốn có thời hạn từ 36 tháng trở lên.
Trong cơ cấu vốn của các ngân hàng thương mại chủ yếu là vốn ngấn hạn
thường chiếm tới hơn 60% tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Tuỳ theo
tính chất hoạt động của ngân hàng và nhu cầu sử dụng vốn từng thời điểm mà
các ngân hàng đưa ra cho mình chính sách huy động vốn theo cơ cấu nào.
Thứ hai, Phân loại theo nguồn tiền: Nguồn vốn của ngân hàng thương
mại bao gồm 2 loại:
+ Huy động vốn ngoại tệ: Khi nền kinh tế hội nhập và phát triển quan hệ
sản xuất kinh doanh mang xu hướng toàn cầu hoá. Do vậy khi thực hiện quan
hệ thương mại giữa các quốc gia, các doanh nghiệp sẽ cần ngoại tệ và ngân hàng
là tổ chức trung gian giúp các doanh nghiệp giải quyết vấn đề này. Ngân hàng
thực hiện huy động ngoại tệ cũng có nhiều kỳ hạn khác nhau và lãi suất huy
động của ngoại tệ bao giờ cũng thấp hơn lãi suất đồng nội tệ. Việc huy động vốn
ngoại tệ chịu sự kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng Nhà nước, vì ngân hàng nhà
nước đóng vai trị là người điều tiết cuối cùng mua lại ngoại tệ cho các ngân hàng
thương mại. Khi huy động vốn ngoại tệ các ngân hàng cũng đưa ra các kỳ hạn
nhất định với các mức lãi suất phù hợp các kỳ hạn này.
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
22
Báo cáo thực tập
+ Huy động vốn nội tệ: Vốn nội tệ huy động trong ngân hàng chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Đây là cơ sở để ngân
hàng thực hiện các hoạt động của mình. Lợi nhuận của ngân hàng chủ yếu
dựa vào lợi nhuận thu được từ tín dụng mà hoạt động tín dụng phụ thuộc rất
nhiều vào nguồn vốn huy động của ngân hàng. Nguồn vốn này được ngân
hàng huy động với nhiều kỳ hạn khác nhau tương ứng với mỗi loại kỳ hạn sẽ
có mức lãi suất khác nhau để thu hút vốn nhằm phục vụ cho mục đích đáp
ứng nhu cầu kinh doanh của ngân hàng.
Thứ ba, Chia theo đối tượng gửi: Nguồn vốn huy động của ngân hàng
bao gồm bốn bộ phận:
+ Tiền gửi của Nhà nước và các tổ chức tài chính: Đây là tài khoản tiền
gửi của kho bạc Nhà nước và của các tổ chức tín dụng mở tại ngân hàng.
Nguồn vốn huy động này chiếm tỷ trọng không nhiều trong tổng nguồn vốn
của các ngân hàng thương mại. Đây là nguồn vốn gửi với lãi suất thấp nhằm
mục đích giao dịch và thanh toán trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn vốn
này các ngân hàng phải trả lãi suất thấp và khi thực hiện giao dịch ngân sẽ thu
thêm được phí giao dịch. Đây là nguồn vốn không ổn định thông thường ngân
hàng không thể biết trước khi nào khách hàng của mình sẽ sử dụng đến.
+ Tiền gửi của các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp có thể mở hai loại
tài khoản tại ngân hàng với hai mục đích hoàn toàn khác nhau.
Trước tiên là tài khoản giao dịch: Đây là tài khoản các doanh nghiệp mở
tại ngân hàng để phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh của mình được thuận
lợi, nhanh chóng và an toàn. Loại tiền gửi này ngân hàng phải trả lãi suất thấp
thậm chí không phải trả phí. Nguồn vốn này không ổn định và ngân hàng
không thể biết trước khi nào khách sẽ sử dụng tới số tiền trên tài khoản này vì
vậy mà ngân hàng rất khó lập kế hoạch để sử dụng nó. Nhưng tại ngân hàng
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp:
TCNH
23