Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế - chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.22 KB, 100 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn là Thạc sĩ Nguyễn Thị Thúy đã
giúp đỡ em tận tình, chu đáo. Em cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của các anh chị
trong Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế - Chi nhánh Hà Nội đã giúp em rất
nhiều trong quá trình thực tập cũng như thu thập tài liệu, nghiên cứu tại Chi nhánh, để
em có thể hoàn thành bài khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Thị Thu Huyền
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt Tên đầy đủ
BĐS Bất động sản
CVTD Cho vay tiêu dùng
GDV Giao dịch viên
KH Khách hàng
NH Ngân hàng
NHNN Ngân hàng Nhà Nước
NHTM Ngân hàng thương mại
TCKT Tổ chức kinh tế
TMCP Thương mại cổ phần
TSĐB Tài sản đảm bảo
USD Đô la Mỹ
VND Việt Nam đồng
DANH MỤC CÁC BẢNG


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Quy trình Cho vay tiêu dùng trực tiếp Error: Reference source not found
Sơ đồ 1.2: Quy trình Cho vay tiêu dùng gián tiếp Error: Reference source not found


Sơ đồ 2.1: Sơ đồ bộ máy tổ chức Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng dư nợ tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế -
Chi nhánh Hà Nội Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.2: Dư nợ cho vay tiêu dùng theo mục đích của Chi nhánh Error: Reference
source not found
LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta ngày một phát triển, đời sống người dân
đang dần được nâng cao, thị trường hàng hóa cũng ngày càng đa dạng và phong phú
với nhiều mẫu mã và chủng loại khác nhau đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy
nhiên, không phải lúc nào và cũng không phải người dân nào cũng có thể chi trả cho
tất cả các nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của mình. Nắm bắt được thực tế trên, các ngân
hàng thương mại đã phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng nhằm tạo điều kiện cho
khách hàng của mình thỏa mãn các nhu cầu mua sắm trước khi có khả năng chi trả. Và
sau một thời gian sản phẩm này ra đời, số lượng khách hàng tìm đến ngân hàng tăng
lên không ngừng, tạo ra nguồn thu nhập đáng kể cho các ngân hàng.
Hiện nay, Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế – Chi nhánh Hà Nội đang
rất phát triển một số sản phẩm cho vay tiêu dùng như: Cho vay mua và sửa chữa nhà ở,
cho vay mua xe ô tô, cho vay du học… Trải qua một thời gian khá dài từ khi triển khai
hoạt động cho vay tiêu dùng, Chi nhánh Hà Nội đã thu được những kết quả khả quan.
Tuy nhiên, trong bối cảnh các ngân hàng thương mại cạnh tranh ngày càng khốc liệt
như hiện nay, để mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng một cách an toàn và hiệu quả
không phải là điều đơn giản và dễ dàng.
Trong quá trình học tập tại Đại học Thăng Long và nghiên cứu thực tế tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Quốc Tế – Chi nhánh Hà Nội, em nhận thấy được tầm quan
trọng của việc mở rộng cho vay tiêu dùng, đồng thời cũng mong muốn tìm hiểu về
thực trạng và khả năng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng trong tương lai của Chi
nhánh. Do đó, em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu cho bài khóa luận tốt nghiệp của mình
là: “Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Quốc Tế - Chi nhánh Hà Nội”.
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là:

- Hệ thống lại những vấn đề cơ bản liên quan đến mở rộng hoạt động cho vay
tiêu dùng
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Quốc Tế – Chi nhánh Hà Nội thời gian qua, từ đó rút ra các vấn
đề còn tồn tại.
- Dựa trên quan điểm, định hướng và mục tiêu phát triển của Chi nhánh và
Ngân hàng TMCP Quốc Tế, đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay
tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Quốc Tế - Chi nhánh Hà Nội.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của bài khóa luận là: Khóa luận nghiên cứu những lí
luận cơ bản, thực trạng về hoạt động cho vay tiêu dùng, giải pháp mở rộng hoạt động
cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế - Chi nhánh Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu là: Hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Quốc Tế - Chi nhánh Hà Nội từ năm 2008 đến năm 2010.
Kết cấu bài khóa luận:
Bài khóa luận ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
cổ phần Quốc Tế - Chi nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Quốc Tế - Chi nhánh Hà Nội.
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1Hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại.
1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan trọng nhất
trong nền kinh tế thị trường, đóng vai trị là “cầu nối” giữa người dư thừa vốn và người
có nhu cầu về vốn. Nhờ sự hiện hữu của NHTM mà các doanh nghiệp, công ty được

cung ứng, bổ sung vốn khi cần nhằm mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm,
tăng khả năng cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường. Không những thế, NHTM
còn giúp các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, thời gian và bảo đảm việc thanh toán an
toàn. Còn các cá nhân, hộ gia đình có thể đi vay NH để phục vụ cho các nhu cầu như
mua nhà, đất, mua ô tô, sửa chữa, xây dựng nhà cửa hay trang trải chi phí du học. Đối
với nền kinh tế, NHTM đóng vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
thông qua việc cung ứng vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất thực hiện liên tục với
quy mô ngày càng mở rộng. Ngoài ra, NHTM cũng là một địa chỉ tin cậy để các cá
nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp, TCKT gửi tiền với mức lãi suất phù hợp.
Vậy NHTM là gì?
Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa về NHTM với những cách nhìn nhận khác nhau:
- Ở Mỹ: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính
và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính.
- Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở xác nhận những khoản tiền gửi để cho vay, tài trợ
và đầu tư.
- Theo nhà kinh tế học David Begg: NHTM là trung gian tài chính có giấy phép
kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và mở tài khoản tiền gửi.
- Ở Việt Nam: Theo luật Các Tổ Chức Tín Dụng năm 2010 có định nghĩa (Luật
số: 47/2010/QH12):
+ Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định nhằm mục tiêu lợi nhuận.
+ Tổ chức tín dụng là DN hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng
với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng cung ứng các dịch vụ
thanh toán.
+ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng.
+ Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc
một số nghiệp vụ sau đây: nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán
qua tài khoản.
1

Tuy các định nghĩa về ngân hàng thương mại có khác nhau về ngôn từ, cách
diễn đạt, song vẫn có một số nội dung về cơ bản cùng phản ánh hoạt động của ngân
hàng thương mại là kinh doanh tiền tệ - tín dụng, dịch vụ ngân hàng khác. Từ đó có
thể định nghĩa ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ - tín
dụng, với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ
ngân hàng cho nền kinh tế.
1.1.2 Khái niệm cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người
tiêu dùng, bao gồm các cá nhân, hộ gia đình. Các khoản cho vay tiêu dùng là nguồn
tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu trong cuộc
sống như: nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, học tập, du lịch, y tế trước
khi họ có đủ khả năng tài chính để hưởng thụ.
1.1.3 Đặc điểm cho vay tiêu dùng
- Quy mô hợp đồng vay thường nhỏ nhưng số lượng vay lớn
Các khách hàng khi tìm đến ngân hàng với mục đích vay tiêu dùng thường có
nhu cầu vốn không cao, ví dụ như vay để mua ô tô, mua, sửa chữa nhà ở, nhu cầu vay
về y tế, giáo dục, du lịch, còn đối với những tài sản có giá trị lớn, thông thường thì
ngân hàng sẽ yêu cầu người đi vay phải có tích lũy từ trước, dẫn đến quy mô của từng
hợp đồng cho vay thường nhỏ. Mặt khác, do cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao hơn lãi
suất của các loại cho vay trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp nên ngân hàng
cũng thường thận trọng hơn trong việc quyết định số tiền cho vay căn cứ vào khả năng
trả nợ và tài sản đảm bảo của khách hàng. Song nếu xét về quy mô thì nhu cầu vay tiêu
dùng là khá lớn do đối tượng của loại hình cho vay này là mọi cá nhân trong xã hội, từ
những người có thu nhập cao đến những người có thu nhập trung bình và thấp với
nhiều nhu cầu phong phú và đa dạng.
- Cho vay tiêu dùng thường phụ thuộc vào chu kì kinh tế
Khi nền kinh tế mở rộng, chất lượng cuộc sống và trình độ dân trí được nâng
cao, người dân lạc quan hơn về tương lai, ưa thích một cuộc sống hưởng thụ thì họ sẽ
có nhu cầu vay NH nhiều hơn để cải thiện và nâng cao mức sống. Do đó, nền kinh tế
càng phát triển, số lượng các khoản vay tiêu dùng sẽ càng nhiều. Ngược lại, khi nền

kinh tế suy thoái, tình trạng thất nghiệp gia tăng, thu nhập người dân giảm sút. Khi đó
người tiêu dùng thường có xu hướng tiết kiệm hơn để có trang trải cuộc sống, và họ có
xu hướng hạn chế đi vay NH. Hoạt động CVTD của ngân hàng từ đó cũng kém hiệu
quả hơn do nền kinh tế suy thoái.
2
- Các khoản cho vay tiêu dùng có lói suất “cứng nhắc”
Không như hầu hết các khoản cho vay sản xuất kinh doanh, lãi suất có thể thay
đổi tùy theo điều kiện thị trường, các khoản CVTD thường có lãi suất cố định, đặc biệt
là trong CVTD trả góp. Ngay khi quan hệ tín dụng được xác lập thì mức lãi suất đã
được ấn định và duy trì trong suốt thời hạn vay. Mặt khác, khi vay tiền, người tiêu
dùng thường không quan tâm nhiều tới lãi suất mà họ chỉ quan tâm tới khoản tiền phải
trả hàng kỳ, thời gian được giải ngân và khả năng trả nợ của mình bởi vì người tiêu
dùng thường coi vay mượn là công cụ để đạt được một cuộc sống thoải mái hơn chứ
không phải là một lựa chọn dùng trong tình trạng khẩn cấp hoặc để tạo ra lợi nhuận.
- Nguồn trả nợ chủ yếu của người đi vay có thể biến động lớn
Bởi nguồn trả nợ của người đi vay phụ thuộc phần lớn vào thu nhập ổn định tại
thời điểm hiện tại của người vay. Mà mức thu nhập đó tăng hay giảm, cao hay thấp
còn phụ thuộc vào quá trình làm việc, kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc của
những người này. Do vậy, nếu người vay gặp vấn đề về sức khoẻ, mất việc làm hay
gặp các biến cố bất ngờ ảnh hưởng đến thu nhập hàng tháng, ngân hàng sẽ gặp khó
khăn trong thu hồi nợ. Đây là rủi ro khó lường trước, khác với món vay kinh doanh ta
có thể hạn chế được thông qua nâng cao chất lượng thẩm định dự án. Ngược lại, đối
với những KH có công việc ổn định, mức thu nhập và trình độ học vấn cao lại là
tiêu chí quan trọng để NH ra quyết định cho vay, do người vay có nguồn trả nợ
đảm bảo, an toàn hơn.
- Chất lượng thông tin tài chính của người vay thường không cao
Khách hàng tham gia hoạt động CVTD là cá nhân, hộ gia đình. Hoạt động kinh
doanh hay thu nhập của họ thường không rõ ràng, không có số liệu thống kê để làm
căn cứ cho vay. Chính vì vậy mà việc thu thập, kiểm tra, theo dõi các thông tin tài
chính của bộ phận KH này thường khó đầy đủ, rõ ràng, minh bạch hơn so với nhóm

KH là doanh nghiệp (kết thúc một năm đều công khai kết quả kinh doanh và lợi nhuận
đạt được thông qua báo cáo tài chính), dẫn đến rủi ro đạo đức và rủi ro thông tin không
cân xứng. Các cá nhân, hộ gia đình có thể tìm cách trốn tránh không trả các khoản vay
cho dù có khả năng thanh toán, gây thiệt hại cho NH.
- Các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí cho vay khá lớn
Do số lượng món vay tiêu dùng nhiều, KH lớm và đa dạng nhưng quy mô mỗi
khoản vay lại nhỏ, NH phải huy động nhiều nhân lực cho hoạt động cho vay, từ khâu
tiếp nhận hồ sơ, thẩm định KH, quyết định cho vay, giải ngân cũng như kiểm soát và
thu nợ đối với KH sau khi cho vay. Mặt khác, NH cũng gặp không ít khó khăn để quản
3
lý các khoản CVTD với giá trị nhỏ nhưng số lượng lớn do đối với khách hàng cá nhân,
thông tin về tình hình tài chính thường không công khai minh bạch như ở các công ty
lớn. Tất cả những điều này kiến chi phí tính trên một đơn vị tiền tệ CVTD cao hơn so
với các loại hình cho vay khác.
- Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục có khả năng sinh lời cao nhất
Do các khoản vay tiêu dùng thường được định giá cao, theo ước tính chỉ khi
nào lãi suất vay vốn trên thị trường và tỉ lệ tổn thất tín dụng tăng lên đáng kể thì hầu
hết các khoản tín dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận. Việc định giá cao là
do CVTD có chi phí lớn và rủi ro cao, hơn nữa là do tâm lý người vay không quan tâm
tới lãi suất phải trả, họ thường quan tâm tới khoản tiền phải trả hàng tháng hơn là lãi
suất. Mặt khác, nếu như trong kinh doanh, người ta phải hạch toán lãi lỗ thì trong tiêu
dùng người ta đặt yếu tố thỏa mãn lên hàng đầu dự có phải trả chi phí lớn hơn. Do vậy
mà khả năng sinh lời từ các khoản CVTD cao, mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng.
1.1.4 Phân loại cho vay tiêu dùng
Việc phân loại cho vay tiêu dùng được dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau.
1.1.4.1 Căn cứ vào mục đích vay
Cho vay tiêu dùng cư trú: Là các khoản vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua
sắm, xây dựng hoặc sửa chữa nhà ở của KH là cá nhân, hộ gia đình.
Cho vay tiêu dùng phi cư trú: Là các khoản cho vay tài trợ cho việc trang trải
các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch.

1.1.4.2 Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Cho vay tiêu dùng trả góp: Là hình thức CVTD trong đó người đi vay phải trả
cho NH (bao gồm cả gốc và lãi) làm nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời
hạn chovay. Phương thức này thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn
và thời hạn vay dài, hoặc thu nhập từng định kỳ của người đi vay không đủ khả năng
thanh toán hết một lần số nợ vay. Ví dụ vay để mua nhà, mua ô tô,…
Đối với hình thức CVTD trả góp, các NHTM thường chú ý tới một số vấn đề cơ
bản, có tính nguyên tắc sau:
- Loại tài sản được tài trợ: Người vay sẽ có thiện chí trả nợ tốt hơn nếu tài sản
hình thành từ tiền vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tương lai. Khi
lựa chọn tài sản để trả nợ, ngân hàng thường chú ý đến điều này.
- Số tiền trả trước: Thông thường, Ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh
toán trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm. Phần còn lại, ngân hàng sẽ cho vay.
4
Số tiền trả trước cần đủ lớn để một mặt, làm cho người đi vay nghĩ rằng họ chính chủ
sở hữu của tài sản, mặt khác có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Ngoài ra, khi
khách hàng không trả nợ, trong nhiều trường hợp, NH đành phải thụ đắc hoặc phát mại
tài sản để thu hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều có giá trị thị trường nhỏ
hơn giá trị hạch toán của tài sản nên số tiền trả trước có một vai trò rất quan trọng giúp
ngân hàng hạn chế rủi ro.
Số tiền trả trước ít hay nhiều phụ thuộc vào các yếu tố như loại TSĐB, thị
trường tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng, môi trường kinh tế, năng lực tài chính của
người vay.
- Chi phí tài trợ: Là chi phí mà người đi vay phải trả cho NH cho việc sử dụng
vốn. Chi phí tài trợ chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác có liên quan. Chi phí
tài trợ phải trang trải cho được chi phí vốn tài trợ, chi phí hoạt động, rủi ro, đồng thời
mang lại một phần lợi nhuận thỏa đáng cho ngân hàng.
- Điều khoản thanh toán:
+ Số tiền thanh toán mỗi định kỳ phải phù hợp với khả nang về thu nhập, trong
mối quan hệ hài hòa với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng, có thể được tính

theo một số các phương pháp sau:
Phương pháp gộp: là phương pháp thường áp dụng trong CVTD trả góp, do
tính chất đơn giản và dễ hiểu của nó.
Công thức tính toán như sau:
T =
Với: L = V x r x n
Trong đó: T là số tiền phải thanh toán cho ngân hàng mỗi kỳ hạn
L là chi phí tài trợ bao gồm cả lãi vay phải thanh toán, các chi phí
khác có liên quan
V là vốn gốc
n là số kỳ hạn
r là lãi suất tính cho mỗi kỳ hạn
Để bảo vệ quyền lợi của người vay, khi tính toán theo phương pháp này, pháp
luật ở các nước thường yêu cầu ngân hàng phải quy đổi lãi suất tính toán sang lãi suất
hiệu dụng và niêm yết để người vay dễ dàng cân nhắc chi phí vay mượn mà mình sẽ
phải trả cho ngân hàng, từ đó có những quyết định hợp lý.
Phương pháp lãi đơn: Theo phương pháp này thì vốn gốc người đi vay phải trả
từng định kỳ được tính đều nhau, bằng cách lấy vốn gốc ban đầu chia cho số kỳ hạn
thanh toán. Còn lại phải trả mỗi định kỳ được tính trên số tiền khách hàng thực sự còn
thiếu ngân hàng.
5
Phương pháp hiện giá: Theo phương pháp này, số tiền gốc và lãi người đi vay
phải thanh toán tính theo phương pháp hoàn trả kim niên
Công thức tính như sau:
a =
Trong đó:
a là số tiền gốc và lãi phải trả theo từng kỳ nhất định
V là số vốn gốc ban đầu
i là lãi suất cho vay
n là số kỳ hạn trả nợ

+ Giá trị tài sản tài trợ không được tháp hơn số tiền tài trợ chưa được thu hồi.
+ Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng. Kỳ hạn trả nợ
thường theo tháng, là do nguồn trả nợ chính của khách hàng thường là lương, được
nhận hàng tháng.
+ Thời hạn tài trợ không nên quá dài: Thời hạn tài trợ quá dài dễ làm giá trị tài
sản tài trợ bị giảm mạnh. Hơn nữa, khi thời hạn tài trợ quá dài thì thiện chí trả nợ của
người đi vay cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối.
- Vấn đề phân bổ lãi cho vay theo thời gian: Khi sử dụng phương pháp gộp để
tính lãi, các NH thường tiến hành phân bổ lại phần lãi cho vay đã được tính.Việc phân
bổ có thể được thực hiện theo định kỳ gắn liền với các kỳ thanh toán hoặc cũng có thể
được thực hiện theo quý hay theo năm tài chính. Tuy nhiên, việc phân bổ lãi cho vay
theo năm tài chính thường được các ngân hàng hàng áp dụng nhiều hơn
- Vấn đề trả nợ trước hạn: Thông thường người đi vay được quyền thanh toán
tiền vay trước hạn mà không bị phạt. Nếu trả tiền góp được tính theo phương pháp lãi
đơn và phương pháp giá hiện hành thì vấn đề rất đơn giản, người đi vay phải thanh
toán toàn bộ vốn gốc còn thiếu và lãi vay của kỳ hạn hiện tại (nếu có) cho ngân hàng.
Tuy nhiên, nếu tiền trả góp được tính bằng phương pháp gộp thì vấn đề phức tạp hơn.
Vì theo phương pháp này, lãi được tính dựa trên cơ sở giả định ràng tiền vay được
khách hàng sử dụng cho đến lúc kết thúc hợp đồng, cho nên nếu khách hàng trả nợ
trước hạn thì thời hạn nợ thực tế sẽ khác với thời hạn nợ giả định ban đầu. Như vậy, số
tiền lãi phải trả cũng có sự thay đổi. Trong trường hợp này, ngân hàng thường áp dụng
các phương pháp giống như các phương pháp phân bổ lãi cho vay để tính ra số lãi thực
phải thu, dựa trên thời hạn nợ thực tế.
Cho vay tiêu dùng phi trả góp: Là hình thức CVTD trong đó người đi vay chỉ
thanh toán cho ngân hàng một lần khi đến hạn. Thông thường các khoản CVTD phi trả
góp chỉ được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài.
Theo đó, việc thanh toán tiền gốc và lãi được thực hiện bằng các phương pháp sau:
6
- Tiền gốc (C) và lãi (Cn) được thanh toán một lần vào cuối hạn cho vay:
Cn = C × i ì n

Với i là lãi suất, n là kỳ hạn thanh toán
- Tiền gốc (C) được thanh toán vào kỳ cuối cùng của thời hạn trả, còn tiền lãi
mỗi kỳ (Ck) được thanh toán đều đặn theo từng kỳ hạn, trong đó:
Ck = C × i
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó ngân
hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép
thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng
được thỏa thuận trước, căn cứ theo nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ,
KH được NH cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo
một hạn mức tín dụng.
Lãi phải trả mỗi kỳ có thể tính dựa trên một trong ba cách sau:
- Lãi tính dựa trên số dư nợ đã được điều chỉnh: Theo phương pháp này, số dư
nợ được dựng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi kỳ hạn sau khi KH đã thanh
toán nợ cho ngân hàng.
- Lãi được tính dựa trên số dư nợ trước khi được điều chỉnh: Theo đó, số dư
nợ dựng để tính lãi là số dư nợ mỗi kỳ có trước khi khoản nợ được thanh toán.
- Lãi được tính trên cơ sở dư nợ bình quân
1.1.4.3 Căn cứ theo nguồn gốc trả nợ
Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó
ngân hàng trực tiếp tiếp xúc với khách hàng của mình, thẩm định và đánh giá nhu
cầu vay vốn của khách hàng và việc thu hồi vốn vay cũng được tiến hành trực tiếp bởi
chính ngân hàng.
Sơ đồ 1.1: Quy trình Cho vay tiêu dùng trực tiếp
(1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký hợp đồng tín dụng với nhau.
(2) Người tiêu dùng trả trước cho nhà cung cấp một phần số tiền mua hàng hoá.
7
Ngân hàng Nhà cung cấp
Người tiêu dùng
(5) (4)(2)
(3)

(1)
(3) Ngân hàng thanh toán số tiền còn thiếu cho nhà cung cấp.
(4) Nhà cung cấp giao hàng hoá cho người tiêu dùng.
(5) Người tiêu dùng thanh toán khoản nợ cho ngân hàng.
- Cho vay tiêu dùng bao gồm các phương thức sau:
+ Cho vay trả theo định kỳ: Là phương thức cho vay trong đó khách hàng vay
và trả trực tiếp cho ngân hàng với mức trả và thời hạn trả mỗi lần được quy định khi
cho vay.
+ Thấu chi: Là nghiệp vụ cho phép một khách hàng rút tiền từ tài khoản vãng
lai của họ vượt quá số dư Có, tới một hạn mức đã được thỏa thuận.
+ Thẻ tín dụng: Là nghiệp vụ tín dụng trong đó ngân hàng phát hành thẻ cho
những người có tài khoản ở ngân hàng đủ điều kiện cấp thẻ và ấn định mức giới hạn
tín dụng tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng.
- Cho vay tiêu dùng có một số các ưu điểm sau:
+ Trong CVTD trực tiếp ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của
nhân viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn và có
nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng, cho nên các quyết định tín dụng trực
tiếp của ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với những trường hợp được
quyết định bởi những công ty bán lẻ.
+ Cho vay tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm là linh hoạt hơn so với CVTD gián tiếp.
+ Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với NH, có rất nhiều lợi thế có thể
phát sinh, có khả năng làm thỏa mãn quyền lợi cho cả hai phía khách hàng lẫn
ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Là hình thức cho vay trong đó NH mua các
khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho
người tiêu dùng. Như vậy, CVTD gián tiếp là hình thức NHTM tài trợ cho các hãng
bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để họ bán hàng trả góp cho người tiêu dùng.
Sơ đồ 1.2: Quy trình Cho vay tiêu dùng gián tiếp
8
Ngân hàng Công ty bán lẻ

Người tiêu dùng
(6) (3)(2)
(1)
(5)
(4)
(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ kí hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng,
ngân hàng đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán
chịu tối đa và loại tài sản bán chịu.
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng kí kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá.
Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4) Công ty bán lẻ bán toàn bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng.
(5) Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.
(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có những ưu điểm như giúp NH tiếp cận được với
đối tượng có nhu cầu vay cao, tiết kiệm được chi phí liên quan đến việc thẩm định và
đánh giá KH (do có sự trợ giúp của phía nhà bán lẻ), gia tăng uy tín và mở rộng quan
hệ với khách hàng và các hoạt động ngân hàng khác. Từ đó cho phép NH dễ dàng tăng
doanh số CVTD. Tuy nhiên, CVTD gián tiếp cũng sẽ làm tăng rủi ro đối với ngân
hàng do ngân hàng không thể tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng, thiếu sự kiểm soát
của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hóa. Không những thế,
kỹ thuật nghiệp vụ CVTD gián tiếp có tính phức tạp cao. Do vậy mà những ngân hàng
khi tham gia vào hoạt động CVTD gián tiếp thường có các cơ chế kiểm soát tín dụng
rất chặt chẽ.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp thường được thực hiện thông qua các phương thức sau:
- Tài trợ truy đòi toàn bộ: Khi bán cho NH các khoản nợ mà người tiêu dùng đã
mua chịu, công ty bán lẻ cam kết sẽ thanh toán cho ngân hàng toàn bộ các khoản nợ
nếu khi đến hạn người tiêu dùng không thanh toán cho ngân hàng.
- Tài trợ truy đòi hạn chế: Trách nhiệm của công ty bán lẻ đối với các khoản nợ
người tiêu dùng mua chịu không thanh toán chỉ giới hạn trong một chừng mực nhất

định, phụ thuộc vào các điều khoản đã được thỏa thuận giữa các ngân hàng với công ty
bán lẻ. Tài trợ truy đòi hạn chế bao gồm các khoản thỏa thuận thường gặp sau đây:
+ Công ty bán lẻ phải chịu trách nhiệm thanh toán một phần nợ trong trường
hợp nếu người mua chịu không đủ tiền để trả trước một số tiền nhất định khi mua chịu
hoặc không đủ các tiêu chuẩn tín dụng do ngân hàng đề ra.
+ Công ty bán lẻ cam kết chịu trách nhiệm cho toàn bộ số nợ đã bán chịu cho
đến khi ngân hàn thu hồi được một số lượng các khoản nợ nhất định đúng hạn
+ Toàn bộ trách nhiệm thanh toán nợ của công ty bán lẻ được giới hạn theo một
tỷ lệ nhất định so với tổng số nợ trong một thời hạn nhất định.
+ Toàn bộ trách nhiệm thanh toán nợ của công ty bán lẻ được giới hạn trong
phạm vi số tiền dự phòng ký gửi tại ngân hàng. Thông thường số tiền dự phòng được
trích từ chênh lệch giữa chi phí tài trợ mà công ty bán lẻ bán cho người mua chịu và
9
chi phí tài trợ mà ngân hàng tính cho công ty bán lẻ. Đây là trường hợp được các
NTHM áp dụng phổ biến nhất. Số tiền dự phòng ký gửi tại ngân hàng có tác dụng hạn
chế rủi ro cho ngân hàng khi người mua chịu không trả được nợ hoặc trả nợ trước
hạn.
- Tài trợ miễn truy đòi: Khi bán các khoản nợ cho ngân hàng, công ty bán lẻ
không còn chịu trách nhiệm cho chúng có được hoàn trả hay không. Phương thức này
chứa đựng rủi ro cao cho ngân hàng nên chi phí tài trợ thường được ngân hàng tính
cao hơn so với các phương thức nói trên và các khoản nợ được mua cũng được kén
chọn rất kỹ, hơn nữa ngân hàng thường áp dụng phương thức này đối với những công
ty bán lẻ đáng tin cậy.
- Tài trợ có mua lại: Khi thực hiện CVTD gián tiếp theo phương thức miễn truy
đòi hoặc truy đòi một phần, nếu xảy ra rủi ro, người tiêu dùng không trả được nợ thì
ngân hàng thường phải thanh lý tài sản để thu hồi nợ. Trong trường hợp này, nếu có
thỏa thuận trước thì ngân hàng có thể bán trở lại cho công ty bán lẻ phần nợ mình chưa
được thanh toán, kèm với tài sản đã được thụ đắc trong một thời hạn nhất định.
1.1.4.4 Căn cứ theo tình trạng công tác hoặc lao động
Nhu cầu vay tiêu dùng của cá nhân phụ thuộc vào tính chất công việc, nghề

nghiệp hoặc nơi công tác. Xét theo đặc điểm phân loại trên, chúng ta có các nhóm
khách hàng sau:
- Những khách hàng làm công ăn lương
- Những người có công việc kinh doanh riêng
- Những người hành nghề chuyên nghiệp
- Những người lao động tự do
Theo cách phân loại trên thì trên thực tế những người thuộc nhóm 3 đầu có thu
nhập ổn định và cao hơn so với nhóm cuối và nhu cầu vay tiêu dùng phân theo tình
trạng công tác hay lao động cũng chủ yếu xuất phát từ những nhóm đó.
1.1.5 Vai trò cho vay tiêu dùng
1.1.5.1 Đối với người tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng có vai trò quan trọng đối với các cá nhân, hộ gia đình khi có
các nhu cầu phát sinh như mua sắm nhà cửa, đất đai, ô tô, sửa chữa, xây dựng nhà ở,…
mà chưa có đủ khả năng tài chính. CVTD cũng đáp ứng kịp thời các nhu cầu cấp bách
về y tế, giáo dục hay ngay cả nhu cầu về du lịch,…
Đối với cuộc sống của mỗi người, của cải được tích lũy dần theo thời gian. Mỗi
người đều có những điều kiện, hoàn cảnh kinh tế khác nhau nhưng hầu như mọi người
đều phải mất một khoảng thời gian dài để mua sắm đầy đủ các tiện nghi cho cuộc
10
sống. Khi đó lợi ích có thể cảm nhận được từ việc thụ hưởng có xu hướng giảm dần.
Do vậy, người tiêu dùng sẽ khéo léo kết hợp giữa thoả mãn nhu cầu ở hiện tại với khả
năng thanh toán ở hiện tại và tương lai. Khi đó, ngân hàng đóng vai trị quan trọng,
giúp người tiêu dùng thỏa mãn nhu cầu trong việc mua sắm hàng hóa thiết yếu, hàng
hóa có giá trị cao nhằm nâng cao giá trị cuộc sống.
Chính những lí do trên nên việc ngân hàng thực hiện mở rộng hoạt động CVTD
sẽ đem đến cho người tiêu dùng những lợi ích nhất định. Có thể khẳng định rằng người
tiêu dùng là người được hưởng lợi trực tiếp và nhiều nhất những lợi ích mà hoạt động
CVTD mang lại. Tuy nhiên, nếu người tiêu dùng quá lạm dụng việc đi vay để tiêu
dùng thì cũng rất tai hại vì nó có thể làm cho người đi vay chi tiêu vượt quá mức cho
phép, làm giảm khả năng tiết kiệm hoặc chi tiêu trong tương lai, hoặc nghiêm trọng

hơn là người tiêu dùng sẽ mất khả năng chi trả, gây khó khăn trong cuộc sống. Vì vậy,
người tiêu dùng cần phối hợp hài hòa giữa thỏa mãn nhu cầu hiện tại và khả năng chi
trả trong tương lai, làm sao có thể tận dụng tối đa lợi ích mà hoạt động CVTD của các
NHTM mang lại.
1.1.5.2 Đối với nhà sản xuất
Một mục tiêu chung nhất, lớn nhất mà bất kỳ nhà sản xuất nào cũng hướng đến
là tăng lợi nhuận, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh với
các đối thủ sản xuất cùng loại hàng hóa và có vị thế trên thị trường. Để đạt mục tiêu
đó, thì dự bằng cách này hay cách khác, các nhà sản xuất đều luôn mong muốn tiêu thụ
sản phẩm, hàng hóa càng nhiều càng tốt, họ sẵn sàng bán hàng hóa trả góp, thậm chí
bán chịu trong một thời gian. Việc tạo điều kiện để người tiêu dùng có thể mua hàng
hoá nhiều hơn và nhanh hơn đã giúp nhà sản xuất bán được sản phẩm, từ đó khả năng
quay vòng vốn của nhà sản xuất nhanh hơn, đem lại lợi nhuận, mở rộng quy mô sản
xuất, mở rộng thị trường. Khi đó nhà sản xuất sẽ cần thuê thêm lao động hoặc tăng
lương cho công nhân. Lương công nhân tăng hay người dân có thêm công ăn việc làm
không chỉ mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất, mà còn giúp cho cuộc sống người lao
động ổn định, nâng cao hơn, nền kinh tế ngày càng phát triển, tỷ lệ lao động thất
nghiệp giảm, xã hội văn minh hơn. Khi cuộc sống người lao động được cải thiện, thu
nhập dồi dào hơn thì cũng sẽ phát sinh các nhu cầu nâng cao cuộc sống. Và nhằm thỏa
mãn nhu cầu đó, thường thì người tiêu dùng sẽ tìm đến ngân hàng để vay tiêu dùng.
Từ đó, hoạt động CVTD giúp người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn, tạo sự năng
động cho nền kinh tế, đồng thời thúc đẩy sản xuất phát triển, nhà sản xuất càng có
nhiều cơ hội tăng lợi nhuận hơn. Như vậy, hoạt động CVTD đã gián tiếp mang lại lợi
ích cho nhà sản xuất nói riêng và xã hội nói chung. Đây cũng là nguyên do khiến càng
11
ngày càng nhiều nhà sản xuất mong muốn hợp tác với ngân hàng để mở rộng cho vay
tiêu dựng.
1.1.5.3 Đối với Ngân hàng thương mại
Như ta đã biết thì hoạt động chủ yếu của các NHTM là nhận tiền gửi, cho vay
và cung cấp các dịch vụ thanh toán. Bên cạnh những nỗ lực huy động vốn thì ngân

hàng không ngừng khai thác tối đa thị trường tín dụng, nghĩa là đáp ứng tốt nhất nhu
cầu tín dụng của nền kinh tế. Hoạt động CVTD của ngân hàng đối với các cá nhân tuy
có quy mô nhỏ nhưng số lượng khách hàng tiềm năng và sự đa dạng của nhu cầu lại
rất lớn. Từ đó giúp ngân hàng mở rộng quan hệ với khách hàng, làm tăng khả năng
huy động các loại tiền gửi cho ngân hàng. Tuy hoạt động CVTD có rủi ro và chi phí
cao nhưng đồng thời cũng tạo ra lợi nhuận lớn hơn nhiều trên một đồng vốn bỏ ra so
với các hình thức cho vay khác, tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, phân
tán rủi ro cho ngân hàng. CVTD cũng giúp ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng
sử dụng thêm các dịch vụ khác của ngân hàng, bởi vì thông thường khi cho vay tiêu
dùng, ngân hàng thường có ràng buộc khách hàng phải chuyển tiền hoặc sử dụng trả
lương qua tài khoản tại ngân hàng… Tuy nhiên, khách hàng cũng có xu hướng sử
dụng kèm các dịch vụ ngân hàng cá nhân tại ngân hàng mình đã có quan hệ tín dụng.
Đây cũng là điều kiện tiên quyết giúp ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh và hội
nhập với xu thế quốc tế.
1.1.5.4 Đối với nền kinh tế
Một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh sự phát triển của xã hội là mức
sống của người dân. Hoạt động CVTD giúp người dân nâng cao cuộc sống bằng cách
sử dụng các hàng hóa, dịch vụ khi chưa có đủ khả năng thanh toán. Từ đó có tác dụng
rất tốt cho việc kích cầu, tạo yếu tố kích thích sản xuất phát triển, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước, từ đó hỗ trợ nhà nước
trong việc đạt được các mục tiêu xã hội như xóa đói, giảm nghèo, giải quyết công ăn
việc làm, tăng thu nhập, giảm tệ nạn xã hội, nâng cao mức sống cho người dân, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng nếu CVTD không được dựng để tài trợ cho
các chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ trong nước thì nhiều khi làm giảm khả năng tiết
kiệm trong nước.
Tóm lại, CVTD là một hoạt động thiết yếu, phù hợp với sự phát triển của xã
hội. Dù là người tiêu dùng, hay người sản xuất, là NHTM hay cả nền kinh tế nói chung
đều được hưởng lợi ích từ hoạt động CVTD. Hoạt động CVTD đóng vai trị quan trọng
trong đời sống xã hội hiện nay.
12

1.2 Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng
1.2.1 Khái niệm mở rộng cho vay tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, khốc liệt như hiện nay thì
với bất cứ một tổ chức kinh tế nào muốn tồn tại và phát triển được trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, đòi hỏi tổ chức kinh tế đó phải không ngừng mở rộng, phát triển, cải
thiện chất lượng sản phẩm, dịch vụ của mình nhằm thỏa mãn tốt nhất những nhu cầu
cấp thiết hiện nay của thị trường.
Đối với các NHTM cũng vậy, muốn hoạt động ngân hàng của mình vững mạnh,
thu hút nhiều KH đến với mình hơn thì ngân hàng đó cần có những giải pháp phát
triển, mở rộng, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ. Và hoạt động CVTD ở các NHTM
cũng cần mở rộng, phát triển không ngừng. Vậy thì mở rộng CVTD là thế nào? Nói
đến mở rộng CVTD, ta có thể nói đến một số nội dung sau:
- Đa dạng hóa các hình thức CVTD: Đây là điều kiện cần thiết để mở rộng hoạt
động CVTD. Danh mục các loại hình CVTD của ngân hàng càng phong phú bao nhiêu
sẽ góp phần làm gia tăng khả năng đáp ứng của Ngân hàng với yêu cầu của nhiều đối
tượng KH ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Nếu có mụt số lượng lớn KH có nhu cầu về loại
hình CVTD mà Ngân hàng lại không đáp ứng được thì sẽ không có hợp đồng vay nào
phát sinh, kéo theo doanh số cho vay cũng không tăng, dẫn đến không mở rộng được
quy mô hoạt động cho vay.
- Gia tăng doanh số CVTD trong năm: Doanh số cho vay tiêu dùng là một chỉ
tiêu đánh giá mức độ mở rộng cho vay của Ngân hàng so với các loại hình dịch vụ
cũng như so với các đối thủ cạnh tranh. Do đó, để mở rộng cho vay, các Ngân hàng
thường cố gắng tăng doanh số cho vay của Ngân hàng mình hết mức có thể, chủ yếu
bằng các hợp đồng có giá trị lớn, mức độ rủi ro càng thấp càng an toàn.
- Nâng cao chất lượng các hợp đồng vay: Việc nâng cao chất lượng các hợp
đồng vay không phải là yếu tố then chốt quyết định đến việc mở rộng cho vay của
Ngân hàng, song cũng không kém phần quan trọng và cần được Ngân hàng chú trọng.
Bởi khi Ngân hàng thực hiện tốt nghiệp vụ cho vay của mình, tức là cho vay có chất
lượng cao như thủ tục nhanh chóng, phí suất hợp lý, tư vấn của cán bộ Ngân hàng với
khách hàng tận tình và chính xác,… đồng thời với việc Ngân hàng đáp ứng được mọi

yêu cầu của khách hàng. Từ đó, uy tín của Ngân hàng được nâng cao, nhiều KH sẽ tìm
đến Ngân hàng yêu cầu cho vay. Ngược lại, nếu chất lượng các hợp đồng cho vay
không tốt thì Ngân hàng không những không giữ được các khách hàng truyền thống
mà còn không có khả năng thu hút thêm các khách hàng mới. Khi đó, việc duy trì hoạt
13
động cho vay của Ngân hàng cũng trở nên khó khăn, khả năng mở rộng cho vay gần
như là không thể.
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay tiêu dùng
1.2.2.1 Các chỉ tiêu định tính
- Thủ tục cho vay: Thời gian gần đây thị trường cho vay tiêu dùng phát triển
rất nhanh, nhiều ngân hàng đã rất quan tâm đến thị trường này. Vì vậy để tăng khả
năng cạnh tranh và phát triển, mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng thì Ngân hàng
cần quan tâm và chú ý nhiều đến thủ tục cho vay, một trong những chỉ tiêu đầu
tiên và quan trọng để mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng. Nếu Ngân hàng áp
dụng một quy trình cho vay linh hoạt, đơn giản, nhanh gọn và thuận tiện, tiết kiệm
được thời gian đi lại và chi phí giao dịch cho KH mà vẫn đảo bảo an toàn cho ngân
hàng thì Ngân hàng đó sẽ không những làm hài lòng những KH hiện tại của Ngân
hàng, mà còn thu hút nhiều hơn nữa các KH tìm đến Ngân hàng với nhu cầu vay
vốn tiêu dùng. Một thủ tục cho vay hấp dẫn với KH yêu cầu Ngân hàng cần thiết
kế các thủ tục cho vay phù hợp với từng nhóm khách hàng, từng loại vay, cũng
như kỹ thuật tín dụng nhằm cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết, nhưng không
gây phiền hà cho khách hàng, đồng thời tiết kiệm thời gian cho cả hai như rút ngắn
thời gian xử lý hồ sơ, hướng dẫn làm hồ sơ tại nhà. Điều này sẽ giúp khách hàng
cảm thấy thoải mái khi tham gia vay vốn Ngân hàng. Bởi lẽ, trước nay người dân
Việt Nam thường quan niệm việc đến vay vốn Ngân hàng là rất rườm rà, phức tạp
nên họ chỉ tìm đến Ngân hàng khi cần lượng vốn lớn như để sản xuất kinh doanh,
mua nhà. Điều này ảnh hưởng lớn đến hoạt động cho vay du học, sửa chữa nhà
cửa, y tế, của Ngân hàng, bởi những hoạt động này thường có nhu cầu vay vốn
thấp. Do vậy, khi thủ tục cho vay của Ngân hàng nhanh gọn, thuận lợi, đơn giản sẽ
xóa dần sự ngần ngại của KH tìm đến Ngân hàng khi có nhu cầu vay vốn tiêu

dùng.
- Khả năng thực hiện cho vay: Đây là chỉ tiêu quan trọng đối với mỗi Ngân
hàng. Khả năng thực hiện cho vay tiêu dùng của Ngân hàng được phản ánh qua một số
yếu tố như:
+ Năng lực vốn: Nếu nguồn vốn huy động từ tiền gửi cũng như nguồn vốn chủ
sở hữu của Ngân hàng càng lớn mạnh thì khả năng thực hiện cho của Ngân hàng càng
cao. Khi tìm đến Ngân hàng, mỗi KH thường có một nhu cầu vay tiêu dùng riêng, có
người vay nhiều, có người vay ít, nếu Ngân hàng không có một nguồn vốn lớn, ổn
định thì Ngân hàng khó có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn đa dạng của KH, dẫn đến khả
năng thực hiện cho vay của Ngân hàng thấp, thu nhập và lợi nhuận đạt được để duy trì
hoạt động Ngân hàng cũng gặp khó khăn.
14
+ Phần lớn người dân tìm đến Ngân hàng vay tiền bằng VND. Tuy nhiên, trong
nền kinh tế đang rất phát triển và có nhiều biến đổi như hiện nay, Ngân hàng cần chú
trọng nhiều hơn nữa đến việc thực hiện cho vay bằng các ngoại tệ như USD, NDT,
EUR,… Với việc phát triển cách thức cho vay này sẽ giúp ngân hàng tăng khả năng
thực hiện cho vay hơn, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ của KH. Từ
đó tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác trên thị trường tiền tệ.
+ Điều kiện vay vốn: Hoạt động CVTD có mức rủi ro cao, chi phí thực hiện cho
vay lớn do tình hình tài chính của các cá nhân, hộ gia đình có thể thay đổi nhanh
chóng tùy theo tình trạng công việc và sức khỏe của họ, nên điều kiện vay vốn của NH
thường rất khắt khe nhằm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra. Điều này khiến nhiều KH e
ngại khi đến NH vay vốn, trở thành rào cản khiến hoạt động CVTD khó có thể phát
triển mạnh mẽ. Nếu NH tiến hành nới lỏng điều kiện vay vốn nhưng vẫn đảm bảo các
nguyên tắc an toàn cho vay thì sẽ thu hút nhiều KH hơn, làm tăng khả năng thực hiện
CVTD của NH.
- Uy tín của Ngân hàng: Đó là hình ảnh của ngân hàng trong lòng khách hàng,
là niềm tin của KH đối với ngân hàng. Uy tín của NH được xây dựng, hình thành trong
suốt quá trình hoạt động, phát triển. Mỗi người vay vốn khi tìm đến Ngân hàng thường
lựa chọn những Ngân hàng lâu đời chứ ít khi là những Ngân hàng mới thành lập.

Những ngân hàng lớn thường được ưu tiên hơn những ngân hàng nhỏ. Việc cho vay
thỏa mãn nhu cầu của KH, tỷ lệ thu hồi nợ của ngân hàng cao, bảo hiểm tiền gửi làm
tăng độ an toàn, năng lực vốn lớn mạnh, lợi nhuận hàng năm tăng… tất cả các hoạt
động ngân hàng đều có thể làm tăng uy tín, tăng niềm tin của KH đối với NH. Những
NH có uy tín luôn chiếm được lòng tin của KH cũng là tiền đề để Ngân hàng phát
triển, mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của mình.
1.2.2.2 Các chỉ tiêu định lượng
Các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá việc mở rộng hoạt động CVTD:
- Doanh số cho vay tiêu dùng: Là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng tiêu
dùng của ngân hàng đối với nền kinh tế. Doanh số CVTD là chỉ tiêu tuyệt đối phản
ánh tổng số tiền Ngân hàng cho KH (bao gồm cá nhân, hộ gia đình) vay trong một
khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Từ đó thấy được khả năng mở
rộng CVTD của Ngân hàng qua các năm.
Tỷ trọng doanh số CVTD (%) = × 100
- Tăng trưởng dư nợ cho vay tiêu dùng: Là chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền
ngân hàng cấp cho nền kinh tế nhằm mục đích tiêu dùng tại một thời điểm nhất định.
15
Dư nợ cho vay
tiêu dùng năm
nay
=
Dư nợ cho
vay tiêu dùng
năm trước
+
Doanh số cho
vay tiêu dùng
năm nay
-
Doanh số thu nợ

cho vay tiêu dùng
năm nay.
- Cơ cấu cho vay tiêu dùng: Là chỉ tiêu phản ánh sự tập trung vào một sản
phẩm hay đa dạng các loại hình cho vay tiêu dùng. Nếu cơ cấu CVTD khá đồng đều
cho thấy ngân hàng có sự đa dạng hóa về sản phẩm, còn nếu cơ cấu CVTD không
đồng đều thể hiện sự tập trung phát triển của ngân hàng vào những sản phẩm chiếm tỷ
trọng cao. Vì vậy mà tùy vào từng thời kì và mục đích phát triển mà ngân hàng có
chiến lược thay đổi cơ cấu phù hợp.
- Nợ quá hạn: Là các khoản phát sinh từ mối quan hệ vay không hoàn trả khi cá
nhân, hộ gia đình vay vốn không thực hiện hoăc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả
nợ đúng hạn như đã ký kết trong hợp đồng tín dụng. Chỉ tiêu nợ quá hạn được thể hiện
qua tỷ lệ nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn CVTD và tổng dư nợ
CVTD của Ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Tỷ lệ nợ quá hạn càng thấp thì chất
lượng cho vay sẽ cao. Bởi lẽ, hoạt động cho vay luôn tiềm ẩn những rủi ro tác động
đến lợi nhuận và sự an toàn của Ngân hàng, nên việc bảo đảm thu hồi vốn vay đúng
hạn là vấn đề quan trọng trong quản trị Ngân hàng.
Theo quy định tại điều 6 quyết định 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/4/2005 các
Ngân hàng tiến hành phân loại nợ căn cứ vào nợ vay đã hạch toán vào tài khoản nợ
quá hạn, trích lập dự phòng rủi, xử lý nợ quá hạn. Việc phân loại theo 5 nhóm sau:
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
Các khoản nợ trong hạn mà TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi gốc và lãi
đúng hạn.
Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ cả gốc và lãi quá hạn và thu đúng thời hạn còn lại.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 10 đến dưới 90 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày.

Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn nợ
đã được cơ cấu lại.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày.
16
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo
thời hạn nợ đã được cơ cấu lại.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn nợ
đã được cơ cấu lại.
Quyết định cũng quy định nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 là nợ xấu. Nợ từ 6 đến 12
tháng là nợ có vấn đề, nợ quá hạn trên 12 tháng được gọi là nợ khó đòi.
- Vòng quay vốn tín dụng CVTD: Là chỉ tiêu phản ánh tần suất sử dụng vốn,
đánh giá khả năng quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu
cầu khách hàng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao thì chứng tỏ nguồn vốn của Ngân
hàng có tốc độ luân chuyển nhanh. Qua đấy thấy được khả năng quản lý vốn tín dụng
của Ngân hàng, từ đó đánh giá hiệu quả của hoạt động CVTD.
Vòng quay vốn tín dụng (%) = × 0 - Thu nhập từ
hoạt động CVTD: Là chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của các khoản CVTD, phần
lợi nhuận thu được của Ngân hàng ở đây được hiểu là phần chênh lệch giữa lãi suất
huy động và thu nhập từ lãi suất cho vay của các khoản tín dụng. Đây là chỉ tiêu rất
quan trọng đối với các Ngân hàng bán lẻ, phát triển dịch vụ KH cá nhân
Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động VTD = × 10
1.2.3 Ý nghĩa của mở rộng cho vay tiêu dùn
Ngân hàng là một ngành kinh tế đặc thù trong nền kinh tế thị trường, với các
hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ thanh toán nhằm
phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, trao đổi thương mại, tác động lớn đến nhiều
lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội. Chính vì lí do đó, các NHTM cần phải nỗ lực
không ngừng để mở rộng, phát triển các hoạt động của mình, đặc biệt là trong hoạt

động tín dụng, luôn đảm bảo an toàn, chính xác và có hiệu
ả.
Xu thế hiện đại hóa, toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại ngày càng trải rộng khắp
các quốc gia trên thế giới. Điều này tạo cho các NHTM không chỉ là những cơ hội mà cả
những thách thức để mở rộng và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ của mình trong
điều kiện cạnh tranh ngày một khốc liệt. Các ngân hàng để có thể tồn tại và nâng cao vị
thế của mình trên thị trường thì ngân hàng cần đặc biệt quan tâm, nỗ lực mở rộng gắn liền
17
với cải thiện, nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trong hoạt động
CVTD - là một trong những hoạt động đem lại lợi nhuận cao cho ngân
ng.
Tóm lại, mở rộng hoạt động CVTD luôn phải gắn liền với nâng cao chất lượng
CVTD là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết đối với mỗi NHTM để có thể tăng lợi
nhuận, tăng uy tín cho ngân hàng. Từ đó giúp ngân hàng tồn tại, phát triển vững bền,
lâu dài hơn trong nền kinh tế đang có sự cạnh tranh gay gắt như hiện
ay.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay tiêu
ùng
1.3.1 Các nhân tố có thể kiểm soát
- ợc.
Nhân tố cần quan tâm đầu tiên chính là đạo đức nhân viên tín dụng. Nếu nhân
viên tín dụng không có đạo đức nghề nghiệp, làm việc không nghiêm túc thì cho dù
người đó có năng lực, có tài giỏi cũng vô giá trị. Họ sẽ sẵn sàng vì tư lợi cá nhân mà
làm ảnh hưởng đến lợi ích, uy tín của ngân hàng. Bên cạnh đạo đức nhân viên tín
dụng, cũng cần xem xét đến năng lực, trình độ nghiệp vụ của người tín dụng. Một
nhân viên tín dụng có trình độ nghiệp vụ cao, hiểu biết sâu rộng thì sẽ có những thẩm
định chính xác, từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn khi thực hiện cho vay. Hoạt
động CVTD lại càng cần thiết những nhân viên tín dụng có đạo đức nghề nghiệp, trình
độ nghiệp vụ giỏi. Vỡ lẽ, khi khách hàng đến với ngân hàng để vay tiêu dùng, họ sẽ
được tiếp đón bởi cán bộ tín dụng. một cán bộ tín dụng có khả năng giao tiếp, trình độ

ngoại ngữ tốt, vi tính thành thạo, nhiệt tình, có đạo đức trong công việc sẽ tạo được
những ấn tượng tốt đẹp đối với khách hàng. Từ đó tạo được lòng tin, sự an tâm của
khách hàng đối với ngân hàng. Hơn nữa, nếu cán bộ tín dụng có mối quan hệ xã hội
rộng rãi cũng có thể thu hút được nhiều khách hàng tìm đến ngân hàng. Càng nhiều
khách hàng đến với ngân hàng thì không chỉ các hoạt động CVTD mà các hoạt động
khác của ngân hàng càng có khả năng mở rộng, phát triển hơn
- ữa.
Năng lực tài chính của ngân hàng: Đây là một trong những nhân tố quan trọng,
được các nhà lãnh đạo ngân hàng quan tâm, xem xét khi đưa ra các quyết định cho
hoạt động ngân hàng, trong đó có hoạt động CVTD. Một số chỉ tiêu để đánh giá năng
lực tài chính của ngân hàng có tốt hay không như tỷ lệ phần trăm lợi nhuận của năm
18
sau so với năm trước, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, số lượng vốn chủ sở hữu, khả
năng huy động vốn,… Đối với một ngân hàng có số vốn chủ sở hữu lớn, nợ quá hạn
thấp, lợi nhuận năm sau lớn hơn năm trước, có khả năng khả năng huy động vốn lớn
trong một thời gian ngắn, có nghĩa năng lực tài chính của ngân hàng là rất mạnh. Khi
ngân hàng có sức mạnh về tài chính, ngân hàng hoàn toàn có thể tăng đầu tư vào các
danh mục hoạt động kinh doanh mà ngân hàng quan tâm. Hoạt động CVTD nhờ đó có
cơ hội mở rộng, phát triển hơn. Ngược lại, nếu năng lực tài chính của ngân hàng thấp
sẽ hạn chế việc đầu tư vào các hoạt động của ngân hàng do thiếu số vốn cần thiết để tài
trợ. Do đó, hoạt động CVTD cũng ít có cơ hội để mở
- ộng.
Chính sách tín dụng của ngân hàng: Là hệ thống các chủ trương, định hướng
quy định chi phối hoạt động tín dụng do hội đồng quản trị đưa ra nhằm sử dụng hiệu
quả nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân. Một chính
sách tín dụng thông thường bao gồm các khoản mục sau: hạn mức tín dụng, các loại
hình cho vay mà ngân hàng thực hiện, quy định về tài sản đảm bảo, kỳ hạn của các
khoản tín dụng, hướng giải quyết phần tín dụng vượt quá hạn mức cho vay, cách thức
thanh toán nợ… Một chính sách tín dụng đúng đắn, hợp lý sẽ vạch ra cho các cán bộ
tín dụng hướng đi và khung tham chiếu rõ ràng về những căn cứ để xem xét nhu cầu

vay vốn. Vì vậy, các yếu tố được nêu trong chính sách tín dụng đều có những tác động
mạnh mẽ đến việc mở rộng hoạt động cho vay, trong đó bao gồm cả hoạt động cho
vay tiêu dùng. Chẳng hạn như trong chính sách tín dụng của một ngân hàng quy định
không thực hiện hình thức cho vay theo thẻ tín dụng, khi đó mặc dù khách hàng đáp
ứng đủ điều kiện nhưng vẫn không được cấp tín dụng, từ đó hạn chế mở rộng hoạt
động cho vay. Nhưng mặt khác, nếu chính sách tín dụng cho phép ngân hàng được
thực hiện nhiều hình thức cho vay, nghĩa là hình thức cho vay của ngân hàng rất đa
dạng, phong phú sẽ giúp ngân hàng dễ dàng thu hút nhiều khách hàng hơn, việc mở
rộng hoạt động cho vay trở nên thuận lợi hơn so với những ngân hàng có hình thức
cho vay đơn
- iản.
Định hướng phát triển của ngân hàng: Đây là nhân tố cũng rất quan trọng ảnh
hưởng đến việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng và hoạt động tín dụng
nói chung. Nếu trong kế hoạch phát triển ngân hàng không đề cập đến vấn đề mở rộng
hoạt động CVTD, nghĩa là ngân hàng không chú trọng đầu tư vào CVTD, khách hàng
vay tiêu dùng cũng sẽ không được quan tâm. Nhưng nếu ngân hàng quan tâm đến việc
mở rộng hoạt động CVTD, ngân hàng sẽ đưa ra những chiến lược cụ thể nhằm thu hút
nhiều hơn khách hàng đến với mình. Hoạt động CVTD càng có cơ hội mở rộng, phát
triể
19

×