Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại bidv chi nhánh hai bà trưng hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 100 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
DANH MỤC SƠ ĐỒ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong công cuộc đổi mới đất nước, vốn là một yếu tố không thể thiếu, là
điều kiện tiên quyết để tiến hành mọi hoạt động. Trong doanh nghiệp, vốn là một
trong những yếu tố quyết định tới sự thành công trong quá trình hoạt động. Đối
với một ngân hàng - một đơn vị kinh doanh vốn lại càng quan trọng bởi không
có vốn, ngân hàng sẽ không thể tồn tại. Nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng là
huy động từ các tổ chức kinh tế và vốn nhàn rỗi trong dân cư.
Không nằm ngoài quy luật chung đó, NH Đầu tư và Phát triển Việt
Nam (BIDV) nói chung và CN Hai Bà Trưng (HBT) BIDV nói riêng đã và đang
không ngừng đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường và trở
thành một trong những NH hàng đầu tại Việt Nam hiện nay. Hơn nữa, BIDV
HBT luôn giữ vai trò quan trọng và cũng là một trong những đơn vị hàng đầu
trong nước trong việc cung ứng vốn đầu tư phát triển nền kinh tế trong sự nghiệp
CNH – HĐH, phục vụ quá trình hội nhập và phát triển.
Xuất phát từ ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn nêu trên, vấn
đề “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại BIDV chi nhánh
Hai Bà Trưng Hà Nội” được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn
thạc sỹ kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nâng cao hiệu quả huy
động của NHTM.
- Phân tích thực trạng về vấn đề nâng cao hiệu quả huy động vốn tại
BIDV HBT, từ đó rút ra những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên
nhân cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn tại BIDV HBT.
1


- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại
BIDV HBT.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nâng
cao hiệu quả huy động vốn tại NHTM, từ đó vận dụng vào phân tích thực tế
trong việc nâng cao hiệu quả huy động vốn tại BIDV HBT, để rút ra kết luận,
hạn chế và nguyên nhân, làm căn cứ đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả huy động vốn tại BIDV HBT.
- Phạm vi phân tích: Nghiên cứu hoạt động huy động vốn của BIDV HBT.
- Thời gian nghiên cứu: Chủ yếu từ tháng 10 năm 2008 đến 31/12/ 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong luận văn, các phương pháp nghiên cứu sau đây được sử dụng:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân
tích, thống kê có kết hợp các công thức, bảng biểu để tính toán, minh họa, so
sánh, phân tích và rút ra kết luận.
- Phương pháp kế thừa những nghiên cứu đã có cũng như khảo sát thực
nghiệm thu thập thông tin, tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn được kết cấu theo ba
chương như sau:
Chương 1: Vốn và nâng cao hiệu quả huy động vốn của NHTM
Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại BIDV HBT trong
khoảng thời gian cuối năm 2008 - 2010.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại
BIDV HBT
2
CHƯƠNG 1
VỐN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải có một tổ chức
kinh doanh đặc biệt – chuyên kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ trong quan hệ
vay mượn – đó là NHTM, một trung gian tài chính được hình thành lâu đời
nhất. Có thể hiểu NHTM là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với các
nội dung chính là:
Nhận tiền gửi và chi trả hộ cho khách hàng.
Sử dụng số tiền của khách hàng gửi để cho vay.
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, ngân hàng đã thực hiện thêm những dịch vụ như: chiết khấu
thương phiếu; tài trợ các hoạt động của Chính phủ; cung cấp các dịch vụ tài khoản
tiền gửi; cung cấp các dịch vụ khác như: thanh toán quốc tế, dịch vụ thuê thiết bị;
môi giới đầu tư; dịch vụ ngân hàng điện tử; dịch vụ ngân hàng tự động…
Như vậy, NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng kinh doanh trong
lĩnh vực tiền tệ và cùng với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế hoạt
động của NHTM ngày càng đa dạng hơn. Ngân hàng là một loại hình tổ chức
quan trọng đối với nền kinh tế, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua
chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi cùng với đời sống kinh
tế, chính trị xã hội. Chính vì vậy cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem
xét ngân hàng trên phương diện các dịch vụ mà chúng cung cấp như sau:
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
3
vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế”, sự đa dạng trong các dịch vụ của ngân
hàng được thể hiện ở chức năng của nó:
Sơ đồ 1.1: Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay
1.1.2. Hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1. Nhận tiền gửi

NHTM nhận tiền gửi xuất phát từ:
- Yêu cầu khách quan và khả năng của người gửi tiền:
+ Yêu cầu khách quan: Khi các chủ sở hữu có một lượng tiền nhất định
tiết kiệm được sau khi đã chi tiêu cho các nhu cầu cần thiết hoặc tạm thời
nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định họ sẽ nghĩ đến việc bảo quản
nó như thế nào cho an toàn khi đó giải pháp gửi tiền vào ngân hàng sẽ được
chọn vì mục đích cất trữ.
4
Ngân hàng hiện đại
Chức năng
bảo hiểm
Chức năng
môi giới
Chức năng ngân
hàng đầu tư và
bảo lãnh
Chức năng ủy
thác
Chức năng tín
dụng
Chức năng
lập kế hoạch
đầu tư
Chức năng
thanh toán
Chức năng
tiết kiệm
Chức năng quản lý tiền mặt
Sau đó khi các chủ sở hữu tính đến việc có thu nhập và sử dụng các
dịch vụ ngân hàng. Tùy theo lượng tiền nhàn rỗi, tùy kế hoạch sử dụng mà họ

sẽ tính toán xem gửi kỳ hạn nào với số tiền bao nhiêu thì sẽ hiệu quả nhất cho
mình. Từ những năm cuối thập kỷ 60, hoạt động ngân hàng ngày càng phát
triển khi đó người ta nghĩ đến việc sử dụng các dịch vụ tiện ích của ngân hàng
ví dụ thay vì hàng tháng họ phải mang tiền mặt đến bưu điện trả phí điện
thoại hoặc đi trả tiền điện, tiền thuê nhà, tiền thuê xe,… thì sẽ mất nhiều thời
gian và không thuận tiện vì vậy họ sẽ thông qua các dịch vụ của ngân hàng,
“ủy nhiệm” cho ngân hàng thanh toán hộ trên cơ sở số tiền họ có trong tài
khoản tại các ngân hàng.
+ Khả năng gửi tiền của các chủ sở hữu: Khi các cá nhân có tiền tiết
kiệm họ sẽ tính đến chuyện đầu tư khoản tiền gửi đó như thế nào để an toàn
và có hiệu quả thay vì giữ nó ở trong két chính vì thế họ sẽ gửi vào ngân hàng
để được hưởng lãi đó chính là hình thức gửi tiết kiệm. Ngoài ra khi hoạt động
ngân hàng phát triển, các phương tiện thanh toán hiện đại, đa dạng các cá
nhân sẽ gửi thu nhập của mình vào ngân hàng và thực hiện việc chi trả tất cả
những khoản mục cần thanh toán thông qua tài khoản của họ tại ngân hàng.
Các doanh nghiệp, tổ chức trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình có
một khoản tiền nhàn rỗi tạm thời như chưa đến kỳ trả lương, chưa đến kỳ
thanh toán tiền mua vật tư,… họ sẽ giữ lượng tiền đó trong tài khoản tại ngân
hàng hoặc chuyển sang gửi tiết kiệm với kỳ hạn phù hợp.
- Khả năng và nhu cầu của ngân hàng:
Về khả năng, NHTM có kho tàng chắc chắn, an toàn, hệ thống bảo vệ
khá nghiêm ngặt, các điều kiện về bảo mật rất tốt, điều kiện về môi trường luôn
luôn đảm bảo. Mặt khác thông qua tác nghiệp của nhân viên ngân hàng, các
quy định, quy trình gửi rút tiền, các ngân hàng luôn sẵn sàng đáp ứng kịp thời
các yêu cầu chi trả cũng như đảm bảo các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
5
Về nhu cầu, bản thân ngân hàng là những trung gian tài chính, kiếm lời
từ những khoản tiền “tạm thời nhàn rỗi” của người này đem tài trợ cho nhu
cầu của người kia với mức lãi suất cao hơn, hoặc đầu tư vào những dự án đem
lại mức lợi nhuận cao hơn. Chính vì vậy ngân hàng phải huy động vốn hay

nhận tiền gửi từ khách hàng.
Nhận tiền gửi là hoạt động tạo điều kiện cho những hoạt động khác của
ngân hàng và theo suốt quá trình tồn tại và phát triển của mỗi NHTM. Nền kinh
tế càng phát triển thì nhu cầu gửi tiền sẽ càng gia tăng, thông qua hoạt động
nhận tiền gửi ngân hàng tập hợp được một số tiền tạm thời chưa sử dụng của
các chủ sở hữu để rồi sử dụng lượng tiền đó đem tài trợ lại cho nền kinh tế.
1.1.2.2. Tài trợ
Là các hoạt động mà ngân hàng sử dụng nguồn vốn đã huy động được
để cung cấp cho các đối tượng có nhu cầu với những điều kiện do hai bên
thỏa thuận. Hoạt động này bao gồm:
Cho vay (Tín dụng):
Tín dụng ngân hàng là một quan hệ giao dịch giữa ngân hàng chuyển
giao tiền cho các chủ thể khác được sử dụng trong một thời gian nhất định và
bên nhận tiền phải cam kết hoàn trả theo thời hạn thỏa thuận.
Đây là hoạt động giữ vị trí đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng vì hoạt động này tạo ra cho NHTM
khoản thu nhập chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu nhập của
NHTM.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau người ta có thể chia thành các loại cho
vay khác nhau:
+ Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn: Cho vay bất động sản, cho vay
công nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay xây dựng,…
+ Căn cứ vào thời hạn vay: Cho vay ngắn hạn, Cho vay trung và dài hạn
6
+ Căn cứ vào phương pháp hoàn trả: Cho vay trả góp, cho vay hoàn trả theo
yêu cầu,…
+ Căn cứ vào thành phần kinh tế: Cho vay quốc doanh và ngoài quốc doanh.
Thông qua hoạt động tín dụng các NHTM đã và đang thực hiện chức
năng xã hội của mình, góp phần làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư
được mở rộng và từ đó đời sống dân chúng được cải thiện.

Đầu tư:
NHTM có thể sử dụng nguồn vốn để đầu tư như đầu tư vốn trực tiếp
vào các doanh nghiệp dưới dạng góp vốn, thành lập công ty, hùn vốn dưới
hình thức liên doanh, liên kết. Đây cũng là hoạt động có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc tạo ra lợi nhuận ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh của
mình cũng giống như các doanh nghiệp, tổ chức trong nền kinh tế ngân hàng
có những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, ngân hàng có thể gửi khoản tiền đó
vào các tổ chức tín dụng khác hay đầu tư trái phiếu Chính phủ để tăng thêm
lợi nhuận.
Cho thuê tài chính:
Là hoạt động tín dụng trung gian, dài hạn trên cơ sở các hợp đồng cho
thuê tài sản giữa bên cho thuê là NHTM với khách hàng. Khi kết thúc hợp
đồng khách hàng có thể mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều
kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời gian thuê các bên không
được đơn phương chấm dứt hợp đồng.
1.1.2.3. Thực hiện các dịch vụ
Ngoài hoạt động huy động vốn, cho vay các NHTM còn thực hiện một
loạt các dịch vụ khác cho khách hàng như:
+ Dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước:
Ngày nay, khi nền kinh tế càng phát triển thì hoạt động thương mại
càng trở nên đa dạng nhu cầu thanh toán qua ngân hàng không dùng tiền mặt
7
ngày càng chiếm vị trí chủ đạo trong các hoạt động kinh tế. Hàng loạt các
phương thức thanh toán được các ngân hàng thực hiện như ủy nhiệm thu, ủy
nhiệm chi, thanh toán séc, thanh toán bù trừ, thực hiện chuyển tiền nhanh qua
mạng, thanh toán qua thẻ tín dụng,…Đồng thời, các ngân hàng cũng chú
trọng đầu tư các trang thiết bị, cơ sở vật chất áp dụng công nghệ tiên tiến vào
hoạt động ngân hàng để đảm bảo thời gian thanh toán nhanh nhất và chính
xác, an toàn.
Thực hiện tốt các dịch vụ thanh toán góp phần tăng thu nhập ổn định

cho ngân hàng. Hiện nay xu hướng nguồn thu về dịch vụ thanh toán ngày
càng tăng và chiếm một tỷ lệ lớn về tổng thu trong kinh doanh của ngân hàng.
Đồng thời góp phần làm tăng tốc độ chu chuyển nguồn vốn, tiết kiệm thời
gian, làm giảm khối lượng tiền tệ lưu thông, tiết kiệm chi phí in ấn, kiểm đếm
tiền,… Ngân hàng thực hiện tốt công tác thanh toán sẽ thu hút được ngày
càng nhiều khách hàng đến giao dịch từ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công
tác huy động vốn và cho vay của ngân hàng.
+ Dịch vụ bảo lãnh:
Bảo lãnh ngân hàng là sự cam kết của ngân hàng( bên bảo lãnh) với
bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghiệp vụ tài chính thay
cho khách hàng( bên được bảo lãnh) trong trường hợp khách hàng không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Thông thường các NHTM áp dụng các hình thức bảo lãnh như: bảo lãnh vay
vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng,…
+ Bảo quản vật có giá:
Đây là một trong những dịch vụ lâu đời nhất được các NHTM thực
hiện. Có hai hình thức bảo quản vật có giá là két sắt bảo quản ký thác và bảo
quản an toàn vật có giá.
8
Két sắt bảo quản ký thác được lập ra để cho khách hàng thuê, khách
hàng có quyền kiểm tra tài sản có giá của họ bất kỳ thời điểm nào. Ngân hàng
chỉ cung cấp kho bảo quản, két sắt và điều kiện an toàn.
Bảo quản an toàn vật có giá là nhiệm vụ trông nom, quản lý giấy tờ có
giá như là một đại lý đối với khách hàng.
+ Các dịch vụ khác:
Ngoài những nghiệp vụ chủ yếu nêu trên ngân hàng còn thực hiện các dịch
vụ khác như mua bán, trao đổi ngoại tệ, dịch vụ ủy thác, quản lý tiền mặt,…
Các hoạt động của NHTM đều có mối quan hệ mật thiết hữu cơ, làm
tiền đề, điều kiện cho nhau vì vậy NHTM phải thực hiện tốt đồng bộ tất cả
các hoạt động.

1.1.3. Vai trò của của các NHTM trong nền kinh tế
Ngân hàng được định nghĩa là một loại hình tổ chức tài chính trung
gian có vai trò quan trọng trong nền kinh tế chuyên cung cấp các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế. Trên thực tế một ngân hàng hiện đại phải thực
hiện rất nhiều vai trò mới có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu
cầu của xã hội:
Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia
đình, thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần
khác để đầu tư vào nhà cửa thiết bị và các tài sản khác
Vai trò thanh toán: Thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc
mua hàng hóa và dịch vụ (như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp
mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền đúc, tiền giấy.
Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng
mất khả năng thanh toán
9
Vai trò đại lý: Thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ,
phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán
Vai trò thực hiện chính sách: Thực hiện các chính sách kinh tế của
Chính phủ góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu
xã hội.
1.2.VỐN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Vốn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM
Vốn đóng vai trị rất quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng
thương mại. Nhìn chung, có thể hiểu vốn là khoản hình thành nên tài sản của
ngân hàng, giúp cho ngân hàng hoạt động một cách hiệu quả, nó có thể hình
thành từ nhiều kênh khác nhau có thể tăng giảm tùy theo tình hình hoạt động
của ngân hàng tùy từng thời kỳ. Khi bàn về vốn của Ngân hàng thương mại

chúng ta có nhiều cách tiếp cận khác nhau, có nhiều cách phân chia vốn của
Ngân hàng thương mại khác nhau: Có thể phân chia theo thời gian (ngắn hạn,
dài hạn), theo loại tiền tệ (nội tệ, ngoại tệ), theo đặc điểm của nguồn (nợ, tiền
vay), nếu tiếp cận theo cách phân chia trên bảng tổng kết tài sản vốn của ngân
hàng thương mại được chia thành:
1.2.1.1. Vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng (Vốn chủ sở hữu)
Về khía cạnh kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng có của NHTM do các
chủ sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trình
kinh doanh thể hiện dưới dạng lợi nhuận để lại. Nguồn vốn này có tính ổn định
cao, NHTM không phải hoàn lại, nó có vai trò quan trọng đối với các hoạt động
mở rộng quy mô của mình như liên doanh, liên kết, mở rộng mạng lưới,…
Vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng bao gồm nhiều loại khác nhau:
10
Vốn tự có ban đầu:
Vốn này được hình thành từ ban đầu khi mới thành lập ngân hàng. Tùy
theo từng loại hình ngân hàng( quốc doanh hay cổ phần) mà vốn này có thể
do ngân sách Nhà nước cấp hay do các cổ đông góp vốn. Vốn này là một
trong những điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập ngân hàng.
Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động:
Trong quá trình hoạt động ngân hàng có thể gia tăng vốn của chủ sở
hữu theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc từng điều kiện cụ thể.
Trong điều kiện thu nhập ròng của ngân hàng lớn các ngân hàng có xu
hướng chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu còn được bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần, góp
thêm nếu là ngân hàng cổ phần hoặc được cấp thêm từ NSNN nếu là ngân
hàng quốc doanh để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết
bị, công nghệ hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn chủ sở hữu do Nhà nước
quy định.
Đây không phải là nguồn thường xuyên song nó giúp ngân hàng có
được lượng vốn chủ sở hữu khi cần thiết.

Các quỹ của ngân hàng:
Quỹ dự phòng rủi ro: được trích lập hàng năm và được tích lũy lại
nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.
Quỹ bảo toàn vốn: Nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của
làm phát.
Ngoài ra còn có các quỹ khác như: quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi,…
nguồn hình thành các quỹ này là thu nhập sau thuế của ngân hàng. Tuy nhiên
khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tùy thuộc vào mục
đích sử dụng của các quỹ.
11
1.2.1.2. Các khoản tiền gửi Ngân hàng nhận được từ nền kinh tế
Tiền gửi thanh toán : Hay còn gọi là tiền gửi có thể phát hành séc (tiền
gửi giao dịch, tiền gửi theo yêu cầu). Mục đích gửi khoản tiền vào ngân hàng
không phải để hưởng lãi mà là nhằm sử dụng các tiện ích do ngân hàng cung
cấp như thanh toán hộ, chi trả hộ, thu hộ. Ngân hàng thương mại buộc các
khách hàng nếu muốn được ngân hàng cung cấp các dịch vụ thì cần phải ký
quỹ một lượng tiền tối thiểu, đồng thời với những khoản tiền gửi vào tài khoản
thanh toán phải có thời gian nhất định mới được rút ra để thanh toán điều này
giúp ngân hàng có thể sử dụng lượng vốn này. Thời kỳ đầu ngân hàng còn thu
phí trên số dư tiền gửi này nhưng về sau để khuyến khích khách hàng gửi tiền
vào ngân hàng không thu phí, hiện nay để cạnh tranh với nhau các ngân hàng
còn trả tiền lãi cho các số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại
ngân hàng, mặc dù vậy mức lãi suất này là rất thấp nên chi phí huy động vốn
của loại tiền gửi này là rất thấp đây chính là ưu điểm của kênh huy động vốn
này. Tuy nhiên, tính ổn định của kênh huy động vốn này là thấp nhất vì mục
đích của món tiền gửi này là dựng để thanh toán nên khách hàng có thể rút ra
bất cứ lúc nào mà ngân hàng không được phép từ chối. Biến động của tiền gửi
thanh toán phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời vụ, hoặc địa bàn
hoạt động của ngân hàng. Để đo độ biến động phức tạp của kênh huy động vốn
này, ta có thể đo tần suất biến động hoặc số vòng quay, hoặc dựa vào các con

số thống kê trong thời gian qua mà ngân hàng đưa ra kết luận. Khi sử dụng
kênh huy động vốn tiền gửi thanh toán ngân hàng phải thận trọng nếu không
rủi ro chi trả sẽ xảy ra, điều này có thể làm giảm uy tín của ngân hàng, hoặc
phải tốn chi phí để đi vay.
Ở Mỹ tiền gửi giao dịch không hưởng lãi chiếm khoảng 30% tiền gửi
ngân hàng mặc dù theo một đạo luật Liên bang Mỹ từ năm 1933 ngân hàng
không được thanh toán lãi suất trên tiền gửi giao dịch nhưng nhiều ngân hàng
12
chấp nhận trả chi phí giao dịch qua bưu điện hay cung cấp các dịch vụ miễn
phí khác do đó vẫn thu hút được một lượng lớn tiền gửi thanh toán.
Để huy động được nguồn tiền gửi thanh toán ngân hàng cần phải
khuyến khích các cá nhân và tổ chức kinh tế mở tài khoản thanh toán đồng
thời cũng cần phải nâng cấp các tiện ích và dịch vụ do ngân hàng cung cấp
kèm theo như: dịch vụ thẻ, dịch vụ thanh toán,…
Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa ngân hàng và
khách hàng về thời hạn gửi tiền trong khoảng thời gian đó ngân hàng có
quyền chủ động sử dụng số tiền đó khi khách hàng muốn rút tiền trước thời
hạn cần phải báo trước và phải được sự chấp thuận của ngân hàng. Tiền gửi
có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình hoạt động
kinh doanh do các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội tạo ra từ các
quỹ như quỹ khấu hao, quỹ đầu tư, từ các nguồn thu nhập của doanh nghiệp,
… khi họ biết trước được thời điểm sử dụng tiền, họ gửi những khoản tiền
này vào ngân hàng nhằm mục đích thu lợi và an toàn. Ngân hàng thường phải
trả lãi cao cho số dư tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, nên chi phí huy động
thường cao nhưng bù lại tính ổn định của nguồn vốn này lại cao Ngân hàng
có thể yên tâm sử dụng mà không sợ bị rủi ro về khả năng chi trả.
Tiền gửi tiết kiệm: Là khoản tiền do dân cư gửi vào ngân hàng với mục
đích an toàn và sinh lợi đây thường là khoản tiền gửi có tỷ trọng cao nhất
trong tổng số tiền gửi của ngân hàng và có tính ổn định cao nhất. Mục đích
của người gửi tiền là nhằm hưởng lãi suất chính vì vậy lãi suât là yếu tố được

người gửi quan tâm nhất, lãi suất huy động tỷ lệ thuận với thời gian gửi tiền
sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn gửi dài hơn.
Lãi suất chi trả cho người gửi tiết kiệm bao giờ cũng là cao nhất chính
vì vậy huy động nguồn vốn này sẽ có chi phí huy động lớn nhất. Để huy động
được nguồn vốn này, ngân hàng cần chú ý tới nhu cầu tiết kiệm từ dân cư,
13
lượng tiền gửi phụ thuộc vào thu nhập của dân cư, vào xu hướng tiết kiệm,
các đặc tính về dân số-xã hội, tình hình kinh tế xã hội. Muốn huy động nguồn
tiền gửi tiết kiệm ngân hàng cần phải chú ý đến các yếu tố thuộc về khách
hàng này và điều chỉnh lãi suất huy động cho phù hợp.
Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách
hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn, sự thay đổi
đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng.
Qui mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác, thông thường chiếm trên
50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng.
Tiền gửi là đối tượng phải dự dữ bắt buộc do vậy chi phí tiền gửi
thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn
thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi
tiêu và nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh
nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Trong điều kiện có lạm phát, người có tiền tiết
kiệm thường quan tâm tới lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực
dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm. Các yếu tố khác như địa
điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại hình huy
động đa dạng, các dịch vụ đa dạng,…đều ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc
của nguồn tiền. Thời vụ chi tiêu ảnh hưởng đến quy mô và tính ổn định của
nguồn tiền. Vào dịp tết, nguồn tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp
có xu hướng giảm sút đặc biệt là trong điều kiện tình trạng thanh toán bằng
tiền mặt vẫn là hình thức phổ biến nhất trong các giao dịch kinh tế ở nước ta
hiện nay. Tại những thành phố lớn, nơi tập trung các tầng lớp dân cư có thu
nhập cao, hình thành người gửi tiền lớn, thu nhập gia tăng là điều kiện để các

gia đình tăng quy mô và kỳ hạn của các khoản tiền gửi. Như vậy ngân hàng
cần phải nghiên cứu đặc điểm thị trường nguồn tiền để có biện pháp quản lý
14
và sử dụng thích ứng. Tuy nhiên ngân hàng thường rất khó dự tính được chính
xác việc thay đổi quy mô và kết cấu của tiền gửi
Phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM có thể phát hành kỳ phiếu, trái
phiếu và chứng chỉ tiền gửi với đặc điểm có kỳ hạn và khoản lãi được hưởng
thường là hấp dẫn được in trên GTCG đó để huy động vốn của tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước. Hình thức huy động này được thực hiện với mục
đích sử dụng vốn cụ thể với số lượng và thời gian phát hành nhất định khi cần
thiết. Đặc điểm của khoản nợ này có tính ổn định cao, quyền đòi tiền xếp sau
các loại tiền gửi khác. Hiện nay, ở Việt Nam có một số giấy tờ có giá có thể
được mua bán trên thị trường, trong khi đó ở các nước có thị trường tài chính
phát triển thì việc mua bán các công cụ nợ diễn ra khá phổ biến và sôi động.
Hiện nay, nhu cầu vốn trung và dài hạn còn rất lớn chính vì vậy việc phát
hành giấy tờ có giá kỳ hạn dài đóng vai trị quan trọng trong việc tạo và gia
tăng nguồn vốn trung và dài hạn cho ngân hàng. Huy động vốn bằng việc phát
hành giấy tờ có giá thường có lãi suất hấp dẫn hơn các loại tiền gửi có cùng
kỳ hạn vì vậy chi phí vốn cho việc huy động nguồn vốn bằng cách này rất cao
tuy nhiên “tính lỏng” của loại vốn này lại cao vì có thể đưa ra mua bán trên
thị trường vốn và tính ổn định của nó cũng rất cao.
Theo kinh nghiệm cho thấy việc huy động vốn từ trái phiếu khá phổ
biến ở các nước. Ở Nhật Bản, vốn huy động từ phát hành trái phiếu có kỳ hạn
1 năm, 2 năm và 5 năm là rất phổ biến trong đó trái phiếu kỳ hạn 5 năm chiếm
quá nửa trong tổng số trái phiếu phát hành và chúng được nắm giữ bởi các
Công ty bảo hiểm, các Hợp tác xã nông nghiệp và rất nhiều tổ chức đầu tư
khác. Loại kỳ phiếu có kỳ hạn 1 năm cũng có sức hấp dẫn đặc biệt đối với các
cá nhân và chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng lượng trái phiếu phát hành.
Ở Mỹ, các NHTM có khoản mục tiền gửi có kỳ hạn chiếm gần 50% và chủ
yếu thể hiện dưới dạng chứng chỉ tiền gửi, với các CDs thường có kèm theo

15
quy định về kỳ hạn cố định với một mức lãi suất được xác định trước hoặc
theo thỏa thuận và không có giới hạn về số tiền gửi tối thiểu. Khoản mục này
bao gồm các CDs có thể chuyển nhượng giá trị lớn khoảng 100.000USD hoặc
hơn – những chứng chỉ tiền gửi hưởng lãi mà ngân hàng sử dụng để huy động
vốn từ các khách hàng quen thuộc. Để hạn chế việc rút trước hạn đối với tiền
gửi có kỳ hạn, thì các ngân hàng Mỹ có một quy định hết sức chặt chẽ là việc
rút trước hạn đó sẽ bị xử phạt và mức phạt có thể vượt cả mức tiền lãi được
hưởng tính đến ngày rút tiền.
1.2.1.3. Tiền vay
Tiền gửi là nguồn tiền do khách hàng chủ động mang đến cho ngân
hàng, ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này để kinh doanh. Tuy nhiên
không phải lúc nào các kênh tiền gửi cũng đủ đáp ứng nhu cầu kinh doanh
của ngân hàng, chính vì vậy khi nhu cầu cho vay vượt quá khả năng hiện có
của ngân hàng, ngân hàng có thể đi vay để đáp ứng.
Ngân hàng thương mại có thể đi vay từ nhiều nguồn khác nhau:
- Vay từ ngân hàng trung ương:
Ngân hàng thương mại có thể vay từ ngân hàng trung ương qua các
hình thức như chiết khấu, tái chiết khấu, hình thức vay này thông qua thị
trường mở. Ngân hàng thương mại thường nắm giữ một lượng giấy tờ có giá,
khi cần tiền mặt, ngân hàng thương mại đưa lượng giấy tờ này cầm cố tại
ngân hàng trung ương, thông qua lãi suất chiết khấu mà ngân hàng trung ương
có thể điều chỉnh được cung tiền tệ cũng như cơ cấu nguồn vốn của ngân
hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại còn có thể vay từ các nguồn ngắn hạn như vay
để bù đắp dự trữ thiếu hụt, nâng cao khả năng thanh toán, nâng cao khả năng
thanh khoản. Các khoản vay này thường là trong thời gian rất ngắn. Trong
những trường hợp đặc biệt NHTM vẫn có thể vay NHNN để cho vay lại nền
16
kinh tế theo kế hoạch của Nhà nước với một mức lãi suất ưu đãi nhưng khoản

vay này thường bị hạn chế về số lượng đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc
gia đang thắt chặt.
Vay ngân hàng trung ương để cho vay các dự án mà Chính phủ chỉ định
Lãi suất vay từ ngân hàng trung ương thường là ưu đãi nhưng để vay được
nguồn vốn này lại phụ thuộc vào chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
- Vay từ các tổ chức tín dụng khác:
Khi thị trường tiền tệ liên ngân hàng phát triển, ngân hàng thương mại
có thể vay từ các tổ chức tín dụng khác. Nghiệp vụ này sẽ tạo ra thị trường
liên ngân hàng trong nước và quốc tế. Lãi suất đi vay thường cao hơn vay từ
ngân hàng trung ương, quy mô món vay phụ thuộc vào thị trường, về kỳ hạn
có thể co giãn, hoặc là rất ngắn hoặc có thể tới 3-5 năm.
Nguồn tiền đi vay không phải dự trữ bắt buộc, không cần bảo hiểm tiền
gửi đồng thời ngân hàng cũng chủ động được thời gian hoàn lại nhưng lãi suất
lại cao.
Ngân hàng có thể đi vay bằng cách phát hành các giấy tờ có giá như
phát hành các trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, CDs, hiện nay hình thức vay từ
việc phát hành các giấy tờ có giá chiếm tỷ trọng ngày càng cao so với tổng
lượng tiền đi vay của các ngân hàng. Bởi hình thức phát hành giấy tờ có giá là
một phần của chiến lược huy động vốn tiền gửi của Ngân hàng, lãi suất của
các giấy tờ có giá do Ngân hàng phát hành ra sẽ thấp hơn lãi suất đi vay, tuy
nhiên Ngân hàng phải mất thêm chi phí in ấn, phát hành và quảng cáo cho các
giấy tờ có giá này.
Vay từ nước ngoài:
Theo Nghị định 134/2005/NĐ-CP ngày 01/11/2005 của Chính phủ về
quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài thì các Ngân hàng thương mại có
thể vay vốn trung và dài hạn ở Ngân hàng nước ngoài để cho vay lại trong
17
nước, các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay có quan hệ đại lý và
quan hệ thanh toán rộng rãi với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới
nên nghiệp vụ này tiến hành cũng khá thuận lợi. Lãi suất vay được áp dụng

theo lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới. Tuy nhiên, khi vay thì các NHTM
Việt Nam phải chấp hành một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy định, hạn
mức này phải do Chính phủ hoặc NHNN Việt Nam bảo lãnh, theo Nghị định
134/CP thì mức bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho một tổ chức tín dụng không
quá 6 lần vốn tự có của tổ chức đó, nhưng hạn mức trên phải trừ đi số nợ
trước chưa trả đến thời điểm vay mới. Như vậy, muốn tận dụng được hạn mức
tín dụng nước ngoài các Ngân hàng thương mại Việt Nam phải thực hiện tốt
khâu hoàn trả. Các khoản vay nước ngoài của các Ngân hàng thương mại Việt
Nam đều do Ngân hàng Nhà nước trực tiếp kiểm soát và quản lý. Vì vậy, các
hồ sơ vay vốn đều phải qua Ngân hàng Nhà nước xét duyệt, các Ngân hàng
thương mại có quyền chủ động tìm kiếm các nguồn vay từ nước ngoài, qua đó
góp phần quan trọng trong việc tài trợ các hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Tỷ trọng của nguồn tiền vay trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn
tiền gửi, đồng thời các khoản đi vay thường là có thời hạn và quy mô xác định
trước nên tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi,
ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên: ngân hàng chỉ vay lúc
cần thiết; ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp
với nhu cầu sử dụng, nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và
bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay
thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi với cùng kì hạn. Các khoản vay Ngân
hàng Nhà nước và vay ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song thường có thời
hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời khi nhu cầu thanh toán của
khách hàng tăng cao. Vay Ngân hàng Nhà nước phụ thuộc rất lớn vào chính
sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Việc vay mượn các ngân hàng khác trên cùng
18
địa bàn cũng gặp khó khăn khi nhiều ngân hàng đang thiếu phương tiện thanh
toán. Muốn mở rộng quy mô vay mượn trên thị trường liên ngân hàng, một
ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân hàng quốc tế với khả năng phân
tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
Vay thông qua phát hành các giấy nợ trung và dài hạn đóng vai trị quan

trọng trong việc tạo và gia tăng các nguồn trung và dài hạn ổn định cao cho
ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này để cho vay các dự án, tài trợ
cho trang thiết bị và bất động sản của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Các
nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất là thu nhập của dân cư và ổn định vĩ mô,
sau đến là các kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính thanh khoản
của các giấy nợ và thuận tiện đối với người cho vay. Mặc dù lãi suất thường
cao hơn các nguồn khác, song ngân hàng vẫn phải sử dụng phát hành giấy nợ
trung và dài hạn khi tiền gửi không đáp ứng được yêu cầu như ổn định, quy
mô đủ lớn trong khoảng thời gian xác định.
1.2.1.4. Nguồn vốn ủy thác và tín thác
Nguồn ủy thác: gồm cả ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác giải
ngân, ủy thác cấp phát,…: Đây là nguồn được hình thành do các tổ chức, cá
nhân, ủy thác tiền, tài sản vào ngân hàng nhờ ngân hàng cho vay, đầu tư, giải
ngân vốn. Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều tổ
chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn
tài chính đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục
tiêu kết quả là hình thành nguồn ủy thác, làm gia tăng nguồn vốn cho ngân
hàng. Nguồn này khá ổn định, các ngân hàng thực hiện hộ khách hàng và
hưởng hoa hồng, không phải trả lãi tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng là
rất đáng kể như phải tìm kiếm các chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ, nghiên
cứu dự án mà họ tài trợ,…
19
Nguồn tín thác: Không phải tất cả các ngân hàng đều có năng lực cung
cấp dịch vụ tín thác bởi năng lực này phải được các nhà lập pháp thông qua
song phần lớn các ngân hàng lớn và trung bình đều có bộ phận tín thác. Bộ
phận tín thác thường cung cấp một lượng rất lớn tiền gửi cho ngân hàng bởi
họ quản lí tài sản của khách hàng trong đó có cả khách hàng là cá nhân, tổ
chức. Các hoạt động của phòng tín thác có thể chịu sự chỉ đạo của khách hàng
cũng có thể thay mặt cho khách hàng đưa ra các quyết định cụ thể ví dụ như
lựa chọn tài khoản tiền gửi có lợi nhất cho khách hàng. Tiền gửi tại phòng tín

thác đòi hỏi phải tuyệt đối an toàn và được bảo hiểm giống như bảo hiểm tiền
gửi. Tín thác được coi là một trong những loại hình dịch vụ cần thiết đem lại
lợi nhuận cho khách hàng của ngân hàng song nó thường không đem lại lợi
nhuận lớn cho ngân hàng bởi để có thể cung cấp được dịch vụ tín thác ngân
hàng phải đầu tư một lượng lớn các cán bộ có trình độ cao, chuyên nghiệp tuy
nhiên cùng với sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng xu hướng tăng cường
đánh phí đối với các dịch vụ, hoạt động kinh doanh tín thác ngân hàng đã trở
thành một nguồn thu phí dịch vụ ngày càng phổ biến.
Tín thác bao gồm tín thác hiện hữu hay tín thác trợ cấp có thể hủy
ngang cho phép cán bộ tín thác đại diện cho khách hàng hiện đang sống mà
không cần luật pháp phải cho phép, việc này thường giúp khách hàng tránh
khỏi những chi phí không nhỏ trong quá trình thực hiện chúc thư khi họ qua
đời hoặc không đủ năng lực pháp lý. Ngoài ra còn có hình thức tín thác chúc
thư để thực hiện di chúc, tín thác không hủy ngang cho phép tài sản là quà
tặng hoặc có thể sử dụng để phân bổ các quỹ nhận được theo phán quyết của
tòa án hoặc theo hợp đồng, tín thác từ thiện ủng hộ các mục tiêu nhân đạo, tín
thác hợp đồng là trường hợp ngân hàng giữ và quản lý tài sản được sử dụng
để làm vật đảm bảo cho việc phát hành chứng khoán của công ty và sau đó
thay mặt công ty phát hành mua lại toàn bộ chứng khoán khi mãn hạn.
20
Như vậy, phòng tín thác thực hiện những vai trò và chức năng rất quan
trọng chủ yếu là việc tạo lập mối quan hệ ủy thác với khách hàng, bảo vệ tài
sản của khách hàng, ra các quyết định quản lý tài sản và phân bổ lại tài sản,
lập kế hoạch cho các bất động sản và đảm bảo rằng bất động sản sẽ được
chuyển nhượng cho người có quyền thụ hưởng hợp pháp. Đồng thời, bộ phận
tín thác đóng vai trị quan trọng trong việc thu hút một lượng đáng kể tiền gửi,
hơn nữa, nhiều ngân hàng còn sử dụng phòng tín thác để tạo ra các quỹ đầu tư
nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng tín thác cũng như cho phép
ngân hàng tăng quy mô vốn đầu tư nhanh hơn.
1.2.1.5. Các kênh huy động khác

Các kênh này được hình thành từ nghiệp vụ mua, bán, quản lý tài sản
hộ. Khi ngân hàng thương mại càng phát triển nghiệp vụ trung gian càng
nhiều thì nguồn này chiếm tỷ trọng càng lớn.
Các kênh khác này thường không lớn, việc gia tăng các kênh này nằm
trong chính sách tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị ảnh hưởng rất lớn bởi
khả năng thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ khác.
1.2.2. Hiệu quả huy động vốn của NHTM
1.2.2.1. Phân tích chi phí huy động vốn của NHTM
* Đối với kênh tiền gửi
Giả định rằng các yếu tố khác không đổi, ngân hàng sẽ huy động vốn
bằng cách cung cấp các loại hình gửi tiền có chi phí thấp nhất, hay thu nhập
ròng tạo ra từ việc sử dụng các nguồn vốn tiền gửi này là lớn nhất sau khi đã
trừ đi mọi chi phí. Nếu ngân hàng có thể huy động được nguồn tiền gửi có chi
phí thấp nhất và đầu tư vào các tài sản có mức lãi suất cao nhất, ngân hàng sẽ
tối đa được mức chênh lệch lãi suất và tối đa hóa thu nhập. Tuy nhiên, mỗi
một nguồn tiền gửi đều có những ưu, nhược điểm riêng cần phải phân tích.
21
Đối với tiền gửi giao dịch (Bao gồm cả tiền gửi giao dịch không hưởng
lãi và tiền gửi giao dịch có hưởng lãi) là loại tiền gửi có chi phí thấp nhất mà
ngân hàng cung cấp. Đối với tiền gửi giao dịch ngân hàng thường phải chịu
hai loại chi phí chính đó là chi phí xử lý séc và quản lý tài khoản. Tuy nhiên,
việc ngân hàng không phải trả lãi hay chỉ phải trả một mức lãi suất không
đáng kể trên những tài khoản này đã giúp cho tài khoản giao dịch có mức chi
phí thấp hơn đáng kể so với tài khoản tiết kiệm, tài khoản kỳ hạn và những
nguồn vốn khác. Hơn nữa, sau này khi công nghệ ngân hàng phát triển chi phí
xử lý séc đã giảm đi rất nhiều bởi séc điện tử được đưa vào sử dụng cho phép
lưu trữ được nhiều hơn, xử lý séc nhanh hơn với chi phí thấp hơn. Mức chi
phí cho một đồng vốn huy động tiền gửi giao dịch có thể tương đương với chi
phí huy động cho một đồng tiền gửi phi giao dịch nhưng mức thu phí dịch vụ
cao hơn đã giúp tiền gửi giao dịch có mức chi phí ròng thấp hơn tiền gửi kỳ

hạn. Khi chúng ta sử dụng tiền gửi để cho vay hay đầu tư độ chênh lệch giữa
lợi nhuận tiền gửi giao dịch và tiền gửi phi giao dịch là khoảng 40% đối với
một ngân hàng trung bình. Phí về dịch vụ tài khoản giao dịch nói chung là bù
đắp khoảng 1/3 chi phí mà ngân hàng phải chịu. Ngược lại, phí về dịch vụ đối
với tiền gửi kỳ hạn chỉ góp một phần không đáng kể vào việc bù đắp chi phí.
Hơn nữa, chi phí trả lãi bình quân cho một đồng tiền gửi tiết kiệm cao hơn ba
lần so với chi phí trả lãi liên quan đến một đồng tiền gửi giao dịch.
Xét về mặt chi phí huy động đối với ngân hàng thì tiền gửi phi giao
giao dịch gồm tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn, các loại chứng chỉ tiền
gửi xếp sau tiền gửi giao dịch, nhìn chung tiền gửi tiết kiệm có chi phí tương
đối cao vì nó rất nhạy cảm với lãi suất song trong nhiều trường hợp ngân hàng
lại không phải in ấn các bản báo cáo hàng tháng cho khách hàng nên lại tiết
kiệm được chi phí. Tuy nhiên, đối với tài khoản tiết kiệm theo sổ, khách hàng
cũng cố gắng sử dụng nó như tài khoản giao dịch bằng cách tiến hành nhiều
22
hoạt động rút, gửi tiền và các ngân hàng cố gắng hạn chế tốc độ quay vòng đó
bằng cách quy định giới hạn số lần rút tiền và thông qua việc thu phí. Chắc
chắn rằng chi phí hoạt động cho tiền gửi giao dịch sẽ cao hơn do yêu cầu về
nhân công và thiết bị cao phục vụ cho việc xử lý giao dịch trong khi đó chi
phí này là rất nhỏ đối với tiền gửi tiết kiệm. Sự khác biệt quan trọng trên
phương diện lợi nhuận cho ngân hàng chính là lệ phí đối với dịch vụ mà tài
khoản giao dịch mang lại. Điều này giải thích tại sao trong những năm gần
đây khi phải đối mặt với vấn đề chi phí hoạt động ngày càng tăng, ngân hàng
đã tăng giá đối với tài khoản giao dịch, buộc người gửi tiền phải trả một tỷ lệ
cao hơn cho các chi phí mà họ gây ra khi ký phát séc.
Về quy mô, tiền gửi phi giao dịch ít biến động hơn so với tài khoản tiền
gửi giao dịch tuy vậy chi phí trả lãi cao hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch
trong khi chi phí duy trì và quản lý đối với tài khoản này nói chung là thấp.
Trong những năm gần đây, cùng với yêu cầu của công chúng về các loại tài
khoản tiền gửi mang lãi suất cao, sự gia tăng của mức độ phi quản lý hóa đã

làm cho tỷ trọng khoản tiền gửi phi giao dịch trên tổng nguồn huy động của
các ngân hàng ngày càng tăng.
* Đối với kênh tiền vay
Đối với ngân hàng nguồn tiền vay thường chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng
ngân hàng có thể chủ động quyết định quy mô, thời hạn tuỳ theo nhu cầu của
mình. Nguồn tiền vay không cần phải dự trữ bắt buộc, không cần bảo hiểm
tiền gửi, không cần chi phí để duy trì, quản lý nhưng lãi suất lại cao nên chi
phí huy động nguồn này rất cao, cao hơn huy động từ nguồn tiền gửi bù lại thì
tính ổn định của nguồn tiền này cũng rất cao.
Trong trường hợp NHTM đi vay từ Ngân hàng Trung ương thì có thể
lãi suất ưu đãi hơn nhưng thời hạn, quy mô của món vay đó lại tuỳ thuộc vào
chính sách tiền tệ mà Ngân hàng trung ương đang theo đuổi. Nếu đi vay từ
23
TCTD khác thì ngân hàng hoàn toàn có thể chủ động với món vay này song
lãi suất lại cao và thường là thời hạn ngắn.
Khi thị trường tiền tệ liên ngân hàng phát triển ngân hàng có thể đi vay
bằng cách phát hành các giấy nợ trung và dài hạn để tạo lập nguồn vốn trung
và dài hạn cho mình. Tuy nhiên, muốn mở rộng quy mô vay trên thị trường
tiền tệ liên ngân hàng ngân hàng cần phải nâng cao khả năng phân tích rủi ro
lãi suất và rủi ro hối đoái.
* Đối với các kênh huy động khác
Để huy động được các nguồn này ngân hàng không phải trả lãi như với
các khoản vay hay khoản tiền gửi nhưng để thu hút và duy trì được thì ngân
hàng cần phải đầu tư về nhân sự, cơ sở vật chất,…nâng cao tiện ích phục vụ
của mình cũng như chi phí tìm kiếm, phân tích, quản lý,…
1.2.2.2. Đa dạng hóa các kênh huy động vốn
Số lượng sản phẩm huy động: Tùy theo đặc điểm kinh doanh mà mỗi
NH áp dụng một hệ thống các sản phẩm khác nhau trong quá trình huy
động vốn. Số lượng các sản phẩm này tùy thuộc và cũng là một yếu tố
phản ánh khả năng quản lý của NH. Chỉ những NH có hoạt động kinh

doanh đa dạng, phong phú, nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao, khả năng
quản lý tốt… mới có điều kiện phát triển nhiều loại công cụ huy động vốn
khác nhau.
Sự đa dạng về kỳ hạn và loại tiền tệ sử dụng: Đó là khả năng huy
động các nguồn vốn với các loại kỳ hạn khác nhau, trong đó có cả nội tệ và
ngoại tệ, với mức lãi suất khác biệt tương ứng sao cho người gửi tiền chấp
nhận và cảm thấy mức lãi suất đưa ra với kỳ hạn đó là hợp lý, nhờ đó NH
đạt được cơ cấu về kỳ hạn và loại tiền mong muốn đối với nguồn vốn cần
huy động.
24

×