Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

tăng cường huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng á châu hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.56 KB, 60 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: những vấn đề lý luận chung về hoạt động vốn
của ngân hàng
1.1, khái niệm 5
1.1.2, kết cấu 5
1.1.2.1, vốn tự có 6
1.1.2.2, vốn huy động 6
1.1.2.3, vốn đi vay 7
1.1.2.4, vốn khác 9
1.1.3, hoạt động vốn của ngân hàng thương mại 1 1
1.2, vai trò của vốn và huy động vốn đối với hoạt động kinh doanh
ngân hang 14
1.2.1, vai trò của vốn 19
1.2.2, vai trò của hoạt động huy động vốn 20
1.2.2.1, đối với khách hang gửi tiền 20
1.2.2.2, đối với bản thân các ngân hang thương mại 21
1.2.2.3, đối với nền kinh tế thị trường 21
1.3, các hình thức huy động vốn của ngân hang thương mại 22
1.3.1, huy động tiền gửi không kì hạn 22
1.3.2 huy động tiền gửi có kì hạn 23
1.3.3, tiền gửi tiết kiệm 23
1.3.4, huy động bằng vốn vay 24
1.4, các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân
hang thương mại 25
CHƯƠNG II, thực trạng huy động vốn tại ngân hàng Á châu 25
2.1, sơ nét về ngân hang Á châu 25
2.1.1, quá trình hình thành phát triển của ngân hàng Á châu 25
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2
2.1.2, tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hang Á châu 28


2.2, thực trạng huy động vốn tại ngân hang Á châu 35
2.2.1, thực trạng huy động vốn 35
2.2.2, những kết quả đạt được trong hoạt động huy động vốn 38
2.3, hạn chế và ngyên nhân trong hoạt động huy động vốn tại ngân
hang Á châu 41
2.3.1, hạn chế 41
2.3.2, nguyên nhân 42
CHƯƠNG III: một số giải pháp và kiến nghị 43
3.1, giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hang Á châu 43
3.1.1, sự hợp lí,linh hoạt của công cụ lãi suất 43
3.1.2, đa dành hóa các hình thức huy động vốn 44
3.1.3, mở rộng các loại hình thanh toán không dùng tiền mặt 44
3.1.4, mở rộng và nâng cao cá loại hình dịch vụ 45
3.1.5, thực hiện chính sách khách hang mềm mỏng , linh hoạt 46
3.1.6, tăng cường thông tin quảng cáo 47
3.1.7, hiện đại hóa công nghệ ngân hang 47
3.1.8, tiếp tục cải tiến quy trình mạng lưới giao dịch 52
3.1.9, thực hiện bảo hiểm tiền gửi 52
3.2, một số kiến nghị nhằm huy động vốn tại ngân hang Á châu 53
3.2.1, với nhà nước 53
3.2.2, với ngân hang nhà nước 54
3.2.3, với ngân hang Á châu 54

SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 3
LỜI MỞ ĐẦU
Vốn là yếu tố quan trọng bậc nhất để các doanh nghiệp có thể hình
thành, hoạt động và phát triển. Ngân hàng- một loại hình doanh nghiệp đặc
biệt hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tiền vừa là sản phẩm đầu ra
vừa là hàng hoá đầu vào của ngân hàng. Ngân hàng là tổ chức trung gian tài

chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là
tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Với đặc
thù như vậy vốn đối với ngân hàng lại càng quan trọng, vốn quyết định tới
rất nhiều yếu tố hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng được
hình thành chủ yếu từ ba bộ phận : Vốn chủ sở hữu; Vốn huy động; và vốn
vay, trong đó nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng.
Trong quá trình hoạt động của mình ngân hàng luôn cần một lượng
vốn rất lớn, do vậy ngân hàng luôn tìm mọi cách để có thể huy động được
một lượng vốn lớn nhất đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động kinh doanh và
mang lại thu nhập lớn cho ngân hàng. Để tăng vốn hoạt động ngân hàng
không thể tăng liên tục nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vay vì: Nguồn vốn
chủ sở hữu của ngân hàng chịu sự ràng buộc và kiểm soát chặt chẽ của ngân
hàng Nhà nước. Nếu sử dụng nguồn vốn đi vay ngân hàng phải chịu chi phí
rất lớn do vậy nguồn vốn này chỉ thực sự được huy động trong ngắn hạn và
trong trường hợp cần thiết. Như vây nguồn huy động của ngân hàng là rất
quan trọng và ngân hàng luôn tìm cách phát triển nó. Vậy nguồn vốn huy
động bao gồm những nguồn vốn nào, đặc trưng tính chất của nguồn vốn này
ra sao? Trong khuôn khổ phạm vi nghiên cúư của mình em xin đề cập tới
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 4
vấn đề : “ Tăng cường huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng Á CHÂU Hà
Nội.
Em xin trân thành cảm ơn các anh chị ngân hàng Á CHÂU đã giúp em
hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I: những vấn đề lý luận chung về hoạt động vốn
của ngân hàng
1.1, khái niệm:
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập hoặc huy

động
dựng để cho vay đầu tư hoặc thể hiện ở các dịch vụ kinh doanh khác
Thực chất nguồn vốn NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm
thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà người sở
hữu chúng gửi vào Ngân hàng với các mục đích khác nhau. Hay nói cách
khác họ chỉ có quyền sở hữu còn quyền sử dụng họ đã chuyển nhượng cho
ngân hàng để hưởng một khoản thu nhập. Và như vậy ngân hàng đã thực
hiện vai trò tập trung và phân phối lại dưới hình thức tiền tệ làm tăng nhanh
quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát
triển. Đồng thời chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và hoạt
động của Ngân hàng. Bởi vốn chi phối toàn bộ hoạt động của Ngân hàng.
1.2, kết cấu vốn
1.1.2.1, vốn tự có

- Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập,
thuộc sở hữu của Ngân hàng. Nó mang tính ổn định và căn cứ để quyết định
khả năng và khối lượng vốn huy động của Ngân hàng.
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 5
- Vốn tự có của NHTM bao gồm những thành phần cơ bản sau:
+ Vốn có bản là vốn pháp định - vốn điều lệ. Trong đó vốn pháp
định là mức vốn tối thiểu để thành lập Ngân hàng do pháp luật quy định.
Còn vốn điều lệ là vốn do các cổ đông gỉp và được ghi vào trong điều lệ hoạt
động của Ngân hàng và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định.
+ Vốn tự có bổ sung bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ
dự trữ đặc biệt, lợi nhuận chưa phân phối và các quỹ nghiệp vụ khác.
- Vai trò của nguồn vốn tự có trong NHTM:
+ Vốn tự có coi như tài sản đảm bảo gây lòng tin đối với khách
hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp thua lỗ.
Vốn tự có cũng là căn cứ để tính toán các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt

động Ngân hàng.
+ Trong thực tế vốn tự có không ngừng được tăng lên từ kết quả
hoạt động kinh doanh của bản thân NHTM. Bộ phận này góp phần đáng kể
vào vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM, đồng thời nâng cao vị thế
của Ngân hàng trên thương trường.
+ Vốn tự có là nguồn vốn ổn định, Ngân hàng sử dụng một cách chủ
động. Vì vậy vấn đề đặt ra là Ngân hàng phải bảo toàn và không ngừng phát
triển vốn tự có.
1.1.2.2 vốn huy động
Ngân hàng là một trong những tổ chữ trung gian tài chính với chức
năng chủ yếu là huy động và cho vay. Ngân hàng tổ chức thu hút tiết kiệm
lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài
nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt
đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và
thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của
các doanh nghiệp, các tổ chức dân cư.
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 6
Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng.
Đây là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp ta phân phiệt
được ngân hàng và các loại hình doanh nghiêp khác. Năng lực của đội ngũ
nhân viên cũng như của các nhà quản lý ngân hàng trong việc thu hút tiền
gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm từ doanh nghiệp và cá nhân là một thước
đo quan trọng về sự chấp nhận của công chúng đối với ngân hàng. Tiền gửi
là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguốn gốc sâu xa của
lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
tiền
của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh trạnh và để cú
được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã thực hiện

nhiều hình thức huy động khác nhau
1.1.2.3 vốn đi vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên, khi cần, các ngân hàng thường vay mượn thêm. Tuy nhiên, tại nhiều
quốc gia, ngân hàng trung ương qui định tỷ lệ giữa nguồn vốn huy động và
vốn của chủ. Do vậy, nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay
mượng thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế.
Các ngân hàng thương mại thường sử dụng các nguồn vốn vay sau:
-Vay ngân hàng Trung Ương
Đây là khoản vay nhằm giả quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ ( thiếu dự trữ bắt
buôc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thường vay ngân hàng nhà nước. Các
ngân hàng Trung ương thường áp dụng hình thức cho vay chủ yếu là tái
chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các ngân hàng
thương mại chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thánh tài sản của họ. Khi cần
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 7
tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại ngân
hàng Nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của ngân hàng thương mại
giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước) tăng lên.
Ngân hàng nhà nước điều hành vay vượn một cách chặt chẽ; ngân hàng
thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định.
Thông thường Ngân hàng nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương
phiếu có chất lượng (thời gian đáp hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù
hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Trong điều
kiện chưa có thương phiếu, ngân hàng Nhà nước cho ngân hàng thương mại
vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Các ngân
hàng thường rất hạn chế vay ngân hàng Trung ương vì đây là khoản vay mà
chi phí của nó lớn hơn rất nhiều so với nguồn vốn huy động. Do khi vay
ngân hàng Trung Ương các ngân hàng vừa phải chịu lãi suất cao hơn so với

lãi suất huy động bên ngoầi và vừa phải chịu thêm lãi phạt do thiếu dự trữ.
-Vay từ các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ
chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Do tính chất hoạt động
đặc biệt của ngân hàng, nó ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ hoạt động của
nền kinh tế vì vậy mà các ngân chịu sự kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng
Nhà nước. Nguồn vốn huy động được các ngân hàng không thể sử dụng để
cho vay hoặc đầu tư toàn bộ mà bắt buộc phải dự trữ. Nguồn dự trữ này
ngân hàng Nhà nước sẽ quản lý, khi thiếu hụt dự trữ các ngân hàng sẽ chịu
phạt rất nặng vì vậy mà khi xảy ra tình trạng thiếu hụt dự trữ các ngân hàng
phải tìm mọi cách đẻ bù đắp. Khi các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu
do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay
sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn.
Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 8
thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng
thương mại khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong
nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân
hàng Nhà nước. Khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo
bằng các chứng khoán kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay
giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên. Khi vay trên thị trường liên ngân
hàng các ngân hàng thường vay với thời gian ngắn và phải chịu lãi suất cao
có khi chịu lãi suất qua đêm.
-Vay trên thị trường vốn
Thị trường vốn là thị trường huy động vốn trung và dài hạn, các ngân hang
cũng như các doanh nghiệp vay mượn trên thị trường vốn bằng cách phát
hành các giấy nợ như: kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu. Rất nhiều ngân hàng
thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi
, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là

khoản vay không có bảo đảm. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất
cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn
trực tiếp bằng cách này. Họ thường vay thông qua các ngân hàng đại lý hoặc
được bảo lãnh của ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc
vào sự phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi các công
cụ nợ dài hạn của ngân hàng
1.1.2.4Nguồn vốn khác
-Nguồn vốn uỷ thác
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho
vay, uỷ thác đầu tư, các uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và uỷ thác thu
hộ các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác cho ngân hàng .
Uỷ thác đầu tư: Đây là vốn mà ngân hàng có được do làm đại lý uỷ
thác của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư cho những
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 9
công trình dự án. Khi ngân hàng nhận uỷ thác đầu tư, các khoản tiền mà
ngân hàng đã ký nhận làm đại lý uỷ thác sẽ được chuyến dần về ngân hàng.
Tuy nhiên, nguồn tiền này không dùng hết một lúc nên ngân hàng có thể tận
dụng nguồn vốn nhàn rỗi chưa dùng tới này để đầu tư tạm thời. Nguồn vốn
này có được nhiều hay ít là phụ thuộc vào uy tín, mối quan hệ của mỗi ngân
hàng. Đây là nguồn vốn rất rẻ, ngân hàng hầu như không phải trả phí do vậy
mà các ngân hàng đề rất cố gắng để có thể thu được nguồn vốn uỷ thác, một
mặt nhận được hoa hồng uỷ thác, một mặt có thể tận dụng nguồn vốn lúc
nhàn rỗi để đầu tư. Tại Việt Nam hiện nay hầu như chỉ có các ngân hàng
thương mại quốc doanh là thu hút được nhiều vốn uỷ thác.
- Nguồn trong thanh toán
Nguồn trong thanh toán: Đó là nguồn tiên ngân hàng có được nhờ làm
trung gian thanh toán cho nền kinh tế. Trước khi đến thời điểm thực hiện các
nghĩa vụ thanh toán ngân hàng có thể thực hiện nguồn tiền đó vào kinh
doanh. Cụ thể bao gồm:

Số tiền trong thời gian đã trích khỏi tài khoản của người phải trả
nhưng chưa ghi vào tài khoản của người thụ hưởng do phải luân chuyển, xử
lý chứng từ kế toán.
Số tiền trong thời gian khách hàng phải lưu ký tiền tại ngân hàng nhưng
chưa thanh toán trong một số hình thức thanh toán. Các khoản tiền này
thường được lưu ký trên một số tài khoản như: tài khoản tiền gửi bảo đảm
mở thư tín dụng, tài khoản mở để bảo chi séc và các tài khoản tiền gửi
phong
toả do ngân hàng chấp nhân các hối phiếu thương mại
1.1.3, hoạt động vốn của ngân hàng thương mại
Vốn là yếu tố không thể thiếu cho quá trình hình thàng, hoạt động và
phát triển của doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng. Ngân hàng là
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 10
tổ chức trung gian tài chính với chức năng chủ yếu là huy động tiền nhàn rỗi
của tất cả các thành phần kinh tế trong xã hội và cho vay, tài trợ cho các dự
án. Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm 3 bộ phận chính: Vốn chủ sở hữu,
Vốn huy động và vốn đi vay. Trong đó hai bộ phận vốn trên chiếm tỷ rọng
rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Do vậy hoạt động huy động
vốn của ngân hàng là rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng.
Trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước, nguồn vốn huy động
luôn có ý nghĩa qua trọng, giữ vai trò quan định đến sự phát triển lâu dài và
vững chắc, bởi vì sự chi viện, bổ sung từ bên ngoài là viện trợ cho vay hay
đầu tư nước ngoài cũng chỉ là tạm thời. Những cuộc khủng hoảng tài chính -
tiền tệ trong và ngoài nước trong khu vực cũng như thế giới đã minh chứng
rằng không thể và không nên hoàn toàn mong đợi vào sự tăng trưởng, phát
triển nhanh và bền vững vào nguồn vốn bên ngoài mà phải tích cực mở rộng
công tác huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế. Kinh nghiệm cho thấy để ổn
định tiền tệ, kiềm chế lạm phát thì việc tăng cường huy động trong dân cư
qua hệ thống ngân hàng thương mại là rất hữu hiệu. Huy động vốn không

chỉ giúp ổn định toàn bộ nền kin tế mà còn có vai trò rất lớn đối với chính
các ngân hàng thương mại.
- Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của
ngân hàng
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong
lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nghĩa là đối với ngân hàng thì tiền vừa là hàng
hoá vừa là phương tiện trao đổi. Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt
động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất trong
tổng tài sản, tạo thu nhập lớn nhất. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân
hàng cho khách hàng. Theo quy định hịên hành, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với
tiền gửi bằng đồng Việt Nam áp dụng cho các tổ chức tín dụng như sau: các
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 11
ngân hàng thương mại nhà nước(không bao gồm ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn), ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên
doanh ,chi nhánh ngân hàng nước ngoài ,công ty tài chính là 11% trên tổng
số dư tiền gửi. Vì vậy, để có thể mở rộng hoạt động tín dụng thì lượng vốn
là yếu tố quyết định quy mô tín dụng theo tỷ lệ thuận với vốn. Về phía ngân
hàng, khi lượng vốn của ngân hàng lớn thì họ sẽ có thể cho vay nhiều hơn.
Về phía khách hàng, họ có xu hướng, tin cậy hơn khi tìm đến các ngân hàng
có tiềm lực vốn lớn hơn. Đó cũng là một lý do khiến cho hoạt động tín dụng
của ngân hàng lớn hơn về quy mô. Mặc dù khi vốn tăng lên thì tín dụng
cũng tăng lên đúng tỷ lệ đó, vì ngân hàng còn sử dụng vốn vào các hoạt
động khác như đầu tư, tự doanh, nhưng khả năng tín dụng của ngân hàng
sẽ được tăng lên về mặt pháp lý.
Sự sẵn có của vốn hay không quyết định khả năng cấp tín dụng của
ngân hàng. Hơn nữa cơ cấu vốn cũng ảnh hưởng tới cơ cấu tín dung của
chính ngân hàng. Nếu như cơ cấu vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là
nguồn ngắn hạn thì các khoản cho vay trung và dài hạn của ngân hàng sẽ bị
hạn chế. Tỷ lệ cho vay theo cơ cấu vốn huy động được ngân hàng nhà nước

quy định rõ nhằm đảm bảo sự phát triển an toàn và vững chắc cho ngân
hàng.
- Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng:
Khả năng thanh toán của ngân hàng là một yếu tố quan trọng quyết
định đến uy tín và khả năng kinh doanh của ngân hàng đó. Nó thể hiện số
lượng tiền mặt mà doanh nghiệp hiện có thể chi trả các khoản nợ mà doanh
nghiệp có thể đáp ứng tại một thời điểm. Nhưng điều tạo nên uy tín của ngân
hàng không được quyết định bởi một thời điểm mà là trong thời gian dài
kinh doanh. Vì thế, khả năng thanh toán của ngân hàng mà cao, nhanh trong
mọi thời điểm, sẽ là yếu tố tiên quyết tới uy tín của ngân hàng, nó chứng tỏ
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 12
được ngân hàng luôn làm ăn có hiệu quả, thông qua việc ngân hàng luôn có
tiền để thanh toán khi khách hàng cần họ sẽ có thể biết được phần nào tình
hình làm ăn của ngân hàng. Chính vì vậy vốn ngân hàng sẽ quyết định khả
năng thanh toán và uy tín ngân hàng. Khi vốn càng lớn, lượng tiền mặt dự
trữ lớn, khả năng thanh toán sẽ tốt, đương nhiên ngân hàng sẽ tạo được uy
tín với khách hàng. Uy tín của khách hàng với ngân hàng không chỉ thông
qua tình hinh kinh doanh, đầu tư có lãi năng lực cạnh tranh mà còn trực tiếp
từ việc thanh toán cho khách hàng nhanh hay chậm. Một khi khách hàng
nhận thấy khả năng thanh toán của ngân hàng có chút vấn đề khách hàng sẽ
đổ xô tới rút tiền làm ngân hàng đã khó khăn lại càng khó khăn hơn thì nguy
cơ đứng trước bờ vực phá sản là không thể tránh khỏi. Vì vậy mà ngân hàng
luôn đáp ứng một tỷ lệ dự trữ sao cho đáp ứng khả năng thanh toán trong
một khoản nhất định.
-Vốn tạo nên năng năng lực cạnh tranh cho ngân hàng
Cũng như các doanh nghiệp thông thường khác, lợi thế cạnh tranh
được tạo nên bởi nhiều nhân tố như: con ngưòi, thi trường, chính sách, và
vốn. Vốn với ngân hàng có một vai trò quan trọng hơn trong việc tạo lợi thế
cạnh tranh vì ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, liên quan mật thiết

hơn với tiền. Khi ngân hàng có lượng vốn lớn sẽ có nhiều lợi thế hơn hẳn
một ngân hàng khác ít vốn. Vốn tạo ra uy tín cho ngân hàng, tạo ra cơ hội
đầu tư cho ngân hàng , khả năng cạnh tranh với các ngân hàng và tổ chức tài
chính khác. Khi nói đến ngân hàng, người ta thường nghĩ ngay tới tiền, đặc
biệt là vốn của ngân hàng đó như thế nào. Vốn của ngân hàng càng lớn thì
danh tiếng càng lớn, uy tín càng lớn, khách hàng gửi tiền càng lớn,và vốn lại
càng lớn. Vì thế mới nói vốn tạo nên lợi thế cạnh tranh rất quan trọng cho
ngân hàng.
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 13
Có thể nói, hoạt động huy động vốn trong dân là yếu tố quan trọng
qua đó đánh giá được năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng thương mại.
Do vậy, một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngân hàng thương mại là việc tăng cường khả năng huy động vốn
trong dân.
Tuy nhiên, việc huy động vốn trong dân có những han chế và khó
khăn nhất định do một số đặc điểm của loại vốn này, đó là tính phân tán, nhỏ
lẻ, đa dạng trong sở hữu và phân bố không đồng đều giữa các vùng, miền
lãnh thổ. Điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có những phương
thức, quy trình công nghệ và giải pháp thích hợp với quá trình huy động vốn,
một mặt để tăng tiện ích cho khách hàng, mặt khác hạn chế những chi phí
trong huy động vốn.
1.2, vai trò của vốn và huy động vốn đối với hoạt động kinh doanh
ngân hàng
1.2.1, vai trò của vốn
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn hoạt động kinh doanh được
thì phải có vốn bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng
kinh doanh. Đối với Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh một loại
hàng hoá đặc biệt “tiền tệ” với đặc thù hoạt động kinh doanh là “đi vay để
cho vay” nên nguồn vốn đối với Ngân hàng lại càng có vai trò hết sức quan

trọng. Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của Ngân hàng lại càng
có vai trò hết sức quan trọng. Ngoài vốn ban đầu cần thiết tức là đủ vốn điều
lệ theo luật định thì để bắt đầu hoạt động kinh doanh của mình việc đầu tiên
mà Ngân hàng phải làm là huy động vốn. Vốn huy động cho phép Ngân
hàng cho vay, đầu tư để thu lợi nhuận. Nói cách khác nguồn vốn mà Ngân
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 14
hàng huy động được nhiều hay ít quyết định đến khả năng mở rộng hay thu
hẹp tín dụng.
Với chức năng tập trung và phân phối cho các nhu cầu của nền kinh tế,
một nguồn vốn huy động dồi dào sẽ tạo cho Ngân hàng điều kiện để mở
rộng hoạt động kinh doanh, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, không bỏ lỡ
cơ hội đầu tư, giảm thiểu rủi ro, tạo dựng được uy tín cho Ngân hàng.
Bên cạnh đó nguồn vốn của Ngân hàng quyết định đến khả năng cạnh
tranh. Nếu nguồn vốn huy động lớn sẽ chứng minh rằng quy mô, trình độ
nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật của Ngân hàng hiện đại.
Các Ngân hàng thực hiện cho vay và nghiệp vụ khác chủ yếu dựa vào
vốn huy động. Còn vốn tự có chỉ sử dụng trong những trường hợp cần thiết.
Vì vậy khả năng huy động vốn tốt sẽ là điều kiện thuận lợi đối với Ngân
hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế cả về
quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay thậm
chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút
ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của Ngân hàng sẽ tăng lên
nhanh chóng và Ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động kinh
doanh, đảm bảo uy tín và năng lực trên thị trường.
Với những vai trò hết sức quan trọng đó, Ngân hàng luôn tìm cách đưa
ra những chính sách quản lý nguồn vốn từ khâu nhận vốn từ nhưng người
gửi tiền và những người cho vay khác nhau đến việc sử dụng nguồn vốn một
cách hiệu quả. Bên cạnh đó các nhà quản trị Ngân hàng cũng luôn tìm cách
để đổi mới, hoàn thiện chúng cho phù hợp với tình hình chung của nền kinh

tế. Đó là một trong những điều kiện tiên quyết đưa Ngân hàng đến thành
công.
 Các hình thức huy động vốn:
- Tiền gửi của khách hàng.
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 15
Tiền gửi của khách hàng đó là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, doanh
nghiệp cơ quan Nhà nước và các định chế tài chính trung gian cá nhân trong
và ngoài nước có quan hệ gửi tiền tại Ngân hàng.
Tiền gửi của khách hàng đựơc chia làm hai bộ phận: Tiền gửi của
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
+ Tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế bao gồm:
.Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là khoản tiền mà khách hàng có thể rút
ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng.
Thực chất đó là khoản tiền gửi dựng để đảm bảo trong thanh toán.
Tiền gửi đảm bảo thanh toán được ký thác vào Ngân hàng để thực
hiện các khoản chi trả phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của
khách hàng một cách thuận tiện và tiết kiệm. Đây là khoản tiền tạm thời
nhàn rỗi chờ thanh toán mà không phải để dành. Bởi vậy đối với khách hàng
đây là một tài sản mà họ ký thác uỷ nhiệm cho Ngân hàng bảo quản và thực
hiện các nghiệp vụ liên quan theo yêu cầu của khách hàng. Do vậy khách
hàng không mất quyền sở hữu, cũng như quyền sử dụng số tiền đó. Họ có
quyền lấy ra hoặc chuyển nhượng cho bất kỳ ai vào bất kỳ thời gian nào.
Khách hàng được sử dụng số tiền của mình bằng phương tiện thanh toán chi
trả như séc, uỷ nhiệm chi, thư chuyển tiền…
Đối với Ngân hàng đây là một khoản nợ mà Ngân hàng có nghĩa vụ
thực hiện lệnh thanh toán chi trả cho người thụ hưởng loại tiền gửi này, lãi
suất thường thấp hơn lãi suất trả cho các khoản tiền gửi có lãi khác. Nhưng
khi khách hàng mở và sử dụng các loại tài khoản này thì được Ngân hàng
cung ứng các loại dịch vụ miễn phí hoặc thu với tỷ lệ thấp, lượng tiền vốn ở

tài khoản thanh toán thường chiếm gần 1/3 tiền gửi ngân hàng.
Như vậy các tài khoản này đã đem lại cho khách hàng sự an toàn
trong việc bảo quản vốn và trong quá trình thanh toán trả tiền hàng hoá dịch
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 16
vụ, ngoài ra khách hàng còn được hưởng một khoản tiền lãi nhỏ và một số
dịch vụ miễn phí. Còn đối với Ngân hàng phải bỏ ra 1 khoản chi phí cho bộ
máy kế toán theo dõi và ghi chép các nghiệp vụ phát sinh, chi phí phát hành
séc và một số dịch vụ kèm theo. Chi phí này khá lớn nhưng nó được bù đắp
lại. Bởi vì trên thực tế do lượng tiền gửi vào và số lượng tiền rút ra không
cùng một lúc và chủ tài khoản thường không sử dụng hết số tiền của mình
trên tài khoản. Do đó luôn tồn tại một số tiền trên tài khoản trong một thời
gian dài số dư ấy được Ngân hàng dựng để đầu tư cho vay đối với một số
doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn sản xuất, kinh doanh để thu lợi nhuận. Như
vậy đối với tài khoản tiền gửi thanh toán số dư trên tài khoản giao dịch
không những bù đắp được chi phí mà còn có thể mang lại lợi nhuận cho
Ngân hàng.
Ngày nay do điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều công nghệ
mới được ứng dụng vào hoạt động Ngân hàng. Vì vậy có nhiều doanh
nghiệp, cá nhân, mở tài khoản giao dịch tại Ngân hàng làm cho lượng tiền
gửi ngày càng tăng. Đó là nguồn vốn dựng để cho vay hết sức quan trọng
của Ngân hàng, đồng thời lợi nhuận thu về từ nguồn vốn này cũng ngày
càng tăng.
.Tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp,
chưa sử dụng đến trong một thời gian nhất định, mà khoảng thời gian này
được xác định trước do đó các doanh nghiệp thường gửi vào Ngân hàng
dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Phần lớn các nguồn tiền gửi này xuất phát
từ nguồn tích luỹ của doanh nghiệp mà có. Về nguyên tắc khách hàng chỉ
được rút tiền khi đến hạn và được hưởng lãi trên số tiền gửi đó. Nhưng hiện

nay để thu hút vốn nhằm khuyến khích khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng,
các NHTM cho phép khách hàng rút tiền ra trước hạn. Trong trường hợp này
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 17
khách hàng không được hưởng lãi hoặc chỉ được hưởng theo lãi suất của tiền
gửi không kỳ hạn.
Do tính chất của loại tiền vốn tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử
dụng phần lớn số dư loại nguồn vốin này để cho vay trung và dài hạn. Nếu
nguồn vốn này chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn huy động sẽ tạo điều
kiện thuận lợi, chủ động của Ngân hàng trong quá trình kinh doanh. Các
NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn nhằm đáp ứng nhu cầu tiền gửi của
khách hàng. Hiện tại các NHTM có các loại tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng, 2
tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm, 2 năm. Với mỗi một kỳ hạn khác
nhau thì Ngân hàng áp dụng một loại lãi suất khác nhau. Thông thường thì
thời hạn càng dài lãi suất càng cao. Các Ngân hàng thường khuyến khích
khách hàng gửi tiền với thời hạn dài, vì loại tiền này tương đối ổn định,
Ngân hàng sẽ chủ động trong kinh doanh. Để thu hút được nhiều nguồn vốn
dài hạn thì tốc độ phát triển của nền kinh tế phải ổn định, giá trị đồng tiền
được đảm bảo, lạm phát vừa phải và tình hình hoạt động kinh doanh của các
Ngân hàng có hiệu quả.
. Tiền gửi tiết kiệm dân cư. Bao gồm tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Phát hành kỳ phiếu có mục đích và phát hành trái phiếu. Huy động vốn
thông qua việc phát hành các công cụ nợ của các NHTM như kỳ phiếu, trái
phiếu là hình thức mới trong công tác huy động vốn của NHTM ở các nước
phát triển. Vốn được huy động từ hình thức này dựng để đầu tư cho các dự
án trung và dài hạn.
Trên đây là các hình thức huy động vốn huy động chủ yếu của NHTM
tuy nhiên chất lượng hiệu quả của hoạt động này chịu ảnh hưởng tác động
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 18
của rất nhiều yếu tố, từ yếu tố mang tính chất vĩ mô đến các tính chất mang
tính vi mô của nền kinh tế cũng như các yếu tố liên quan đến NHTM.
1.2.2, vai trò của hoạt động huy động vốn
Vốn là yếu tố không thể thiếu cho quá trình hình thành, hoạt động và
phát triển của doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng. Ngân hàng là
tổ chức trung gian tài chính với chức năng chủ yếu là huy động tiền nhàn rỗi
của tất cả các thành phần kinh tế trong xã hội và cho vay, tài trợ cho các dự
án. Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm 3 bộ phận chính: Vốn chủ sở hữu,
Vốn huy động và vốn đi vay. Trong đó hai bộ phận vốn trên chiếm tỷ rọng
rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Do vậy hoạt động huy động
vốn của ngân hàng là rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng.
Trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước, nguồn vốn huy động
luôn có ý nghĩa qua trọng, giữ vai trò quan định đến sự phát triển lâu dài và
vững chắc, bởi vì sự chi viện, bổ sung từ bên ngoài là viện trợ cho vay hay
đầu tư nước ngoài cũng chỉ là tạm thời. Những cuộc khủng hoảng tài chính -
tiền tệ trong và ngoài nước trong khu vực cũng như thế giới đã minh chứng
rằng không thể và không nên hoàn toàn mong đợi vào sự tăng trưởng, phát
triển nhanh và bền vững vào nguồn vốn bên ngoài mà phải tích cực mở rộng
công tác huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế. Kinh nghiệm cho thấy để ổn
định tiền tệ, kiềm chế lạm phát thì việc tăng cường huy động trong dân cư
qua hệ thống ngân hàng thương mại là rất hữu hiệu. Huy động vốn không
chỉ giúp ổn định toàn bộ nền kin tế mà còn có vai trò rất lớn đối với chính
các ngân hàng thương mại.
- Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của
ngân hàng
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 19
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong
lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nghĩa là đối với ngân hàng thì tiền vừa là hàng

hoá vừa là phương tiện trao đổi. Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt
động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất trong
tổng tài sản, tạo thu nhập lớn nhất. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân
hng cho khách hàng. Theo quy định hịên hành, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với
tiền gửi bằng đồng Việt Nam áp dụng cho các tổ chức tín dụng như sau: các
ngân hàng thương mại nhà nước(không bao gồm ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn), ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên
doanh ,chi nhánh ngân hàng nước ngoài ,công ty tài chính là 11% trên tổng
số dư tiền gửi. Vì vậy, để có thể mở rộng hoạt động tín dụng thì lượng vốn
là yếu tố quyết định quy mô tín dụng theo tỷ lệ thuận với vốn. Về phía ngân
hàng, khi lượng vốn của ngân hàng lớn thì họ sẽ có thể cho vay nhiều hơn.
Về phía khách hàng, họ có xu hướng, tin cậy hơn khi tìm đến các ngân hàng
có tiềm lực vốn lớn hơn. Đó cũng là một lý do khiến cho hoạt động tín dụng
của ngân hàng lớn hơn về quy mô. Mặc dù khi vốn tăng lên thì tín dụng
cũng tăng lên đúng tỷ lệ đó, vì ngân hàng còn sử dụng vốn vào các hoạt
động khác như đầu tư, tự doanh, nhưng khả năng tín dụng của ngân hàng
sẽ được tăng lên về mặt pháp lý.
Sự sẵn có của vốn hay không quyết định khả năng cấp tín dụng của
ngân hàng. Hơn nữa cơ cấu vốn cũng ảnh hưởng tới cơ cấu tín dung của
chính ngân hàng. Nếu như cơ cấu vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là
nguồn ngắn hạn thì các khoản cho vay trung và dài hạn của ngân hàng sẽ bị
hạn chế. Tỷ lệ cho vay theo cơ cấu vốn huy động được ngân hàng nhà nước
quy định rõ nhằm đảm bảo sự phát triển an toàn và vững chắc cho ngân
hàng.
-Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng:
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 20
Khả năng thanh toán của ngân hàng là một yếu tố quan trọng quyết
định đến uy tín và khả năng kinh doanh của ngân hàng đó. Nó thể hiện số
lượng tiền mặt mà doanh nghiệp hiện có thể chi trả các khoản nợ mà doanh

nghiệp có thể đáp ứng tại một thời điểm. Nhưng điều tạo nên uy tín của ngân
hàng không được quyết định bởi một thời điểm mà là trong thời gian dài
kinh doanh. Vì thế, khả năng thanh toán của ngân hàng mà cao, nhanh trong
mọi thời điểm, sẽ là yếu tố tiên quyết tới uy tín của ngân hàng, nó chứng tỏ
được ngân hàng luôn làm ăn có hiệu quả, thông qua việc ngân hàng luôn có
tiền để thanh toán khi khách hàng cần họ sẽ có thể biết được phần nào tình
hình làm ăn của ngân hàng. Chính vì vậy vốn ngân hàng sẽ quyết định khả
năng thanh toán và uy tín ngân hàng. Khi vốn càng lớn, lượng tiền mặt dự
trữ lớn, khả năng thanh toán sẽ tốt, đương nhiên ngân hàng sẽ tạo được uy
tín với khách hàng. Uy tín của khách hàng với ngân hàng không chỉ thông
qua tình hinh kinh doanh, đầu tư có lãi năng lực cạnh tranh mà còn trực tiếp
từ việc thanh toán cho khách hàng nhanh hay chậm. Một khi khách hàng
nhận thấy khả năng thanh toán của ngân hàng có chút vấn đề khách hàng sẽ
đổ xô tới rút tiền làm ngân hàng đã khó khăn lại càng khó khăn hơn thì nguy
cơ đứng trước bờ vực phá sản là không thể tránh khỏi. Vì vậy mà ngân hàng
luôn đáp ứng một tỷ lệ dự trữ sao cho đáp ứng khả năng thanh toán trong
một khoản nhất định.
-Vốn tạo nên năng năng lực cạnh tranh cho ngân hàng
Cũng như các doanh nghiệp thông thường khác, lợi thế cạnh tranh
được tạo nên bởi nhiều nhân tố như: con ngưòi, thi trường, chính sách, và
vốn. Vốn với ngân hàng có một vai trò quan trọng hơn trong việc tạo lợi thế
cạnh tranh vì ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, liên quan mật thiết
hơn với tiền. Khi ngân hàng có lượng vốn lớn sẽ có nhiều lợi thế hơn hẳn
một ngân hàng khác ít vốn. Vốn tạo ra uy tín cho ngân hàng, tạo ra cơ hội
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 21
đầu tư cho ngân hàng , khả năng cạnh tranh với các ngân hàng và tổ chức tài
chính khác. Khi nói đến ngân hàng, người ta thường nghĩ ngay tới tiền, đặc
biệt là vốn của ngân hàng đó như thế nào. Vốn của ngân hàng càng lớn thì
danh tiếng càng lớn, uy tín càng lớn, khách hàng gửi tiền càng lớn,và vốn lại

càng lớn. Vì thế mới nói vốn tạo nên lợi thế cạnh tranh rất quan trọng cho
ngân hàng.
Có thể nói, hoạt động huy động vốn trong dân là yếu tố quan trọng
qua đó đánh giá được năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng thương mại.
Do vậy, một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngân hàng thương mại là việc tăng cường khả năng huy động vốn
trong dân.
Tuy nhiên, việc huy động vốn trong dân có những han chế và khó khăn nhất
định do một số đặc điểm của loại vốn này, đó là tính phân tán, nhỏ lẻ, đa
dạng trong sở hữu và phân bố không đồng đều giữa các vùng, miền lãnh thổ.
Điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có những phương thức, quy
trình công nghệ và giải pháp thích hợp với quá trình huy động vốn, một mặt
để tăng tiện ích cho khách hàng, mặt khác hạn chế những chi phí trong huy
động vốn
1.3, các hình thức huy động vốn của ngân hang thương mại
1.3.1 huy động tiền gửi không kì hạn
Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân
hàng không có thoả thuận về thời hạn rút tiền, khách hàng có thể gửi vào
hay rút ra bất cứ lúc nào. Rút ra một phần hay toàn bộ theo yêu cầu. Nhưng
không giống như tài khoản cá nhân người gửi không được hưởng các
dịchvụ thanh toán qua ngân hàng. Phần lớn khách hàng gửi tiền không kì
hạn là do họ chưa xác định được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai,
nhưng lại muốn hưởng một mức lãi suất trong thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 22
Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn tuy không được coi là những nguồn vốn có
kì hạn dài, nhưng chúng vẫn có một sự ổn định tương đối, do vậy vẫn có thể
được ngân hàng sử dụng cho mục đích có kì hạn dài hơn ở một mức độ nhất
định
1.3.2 huy động tiền gửi có kì hạn

Đây là loại tiền gửi vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời kì
lãi suất, cách thức trả,… Đối với loại tiền gửi này, về nguyên tắc khách hàng
chỉ được rút ra khi đến hạn. Tuy nhiên trên thực tế, ngân hàng vẫn có thể đáp
ứng nếu như khách hàng có nhu cầu rút tiền trước hạn với điều kiện khoản
tiền này chỉ được hưởng lãi suất thấp (thường bằng mức lãi suất của tiền gửi
tiết kiệm không kì hạn) hoặc thậm chí không được hưởng lãi. Đối với ngân
hàng thì đây là một nguồn vốn khá ổn định để thực hiện các hoạt động tín
dụng.
Do tính kì hạn của loại tiền gửi này mà nó trở thành nguồn vốn mang tính ổn
định của ngân hàng. Ngân hàng có thể chủ động trong iệc sử dụng, thuận lợi
trong việc cho vay nhất là cho vay với thời hạn tương ứng. Ngân hàng cũng
có thể sử dụng một phần từ nguồn tiền này dành cho tín dụng dài hạn.
Với loại hình tiết kiệm này, mục đích chính của người gửi là sinh lời, cho
nên vấn đề lãi suất là vấn đề quan trọng. Nhằm mục đích phục vụ cho các
nhu cầu khác nhau của khách hàng cũng như nhu cầu về vốn của mình, ngân
hàng có thể áp dụng tiền gửi tiết kiệm có kì hạn thông thường (người gửi chỉ
được hưởng lãi trong từng thời kì) và có thể áp dụng tiền gửi tiết kiệm có
thưởng kèm theo lãi để khuyến khích người dân gửi tiền tiết kiệm vào ngân
hàng. Các ngân hàng cũng áp dụng nhiều kì hạn gửi tiền tiết kiệm khác nhau
để người gửi có điều kiện lựa chon thời hạn phù hợp nhất đối với mình (3
tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 1 năm , 2 năm, 3 năm, 5 năm…) Với mỗi
kì hạn, ngân hàng thường áp dụng với các mức lãi suất khác nhau và luôn
đảm bảo theo nguyên tắc kì hạn càng dài thì lãi suất càng cao
1.3.3 tiền gửi tiết kiệm
- Căn cứ vào loại tiền.
Ngân hàng còn căn cứ vào loại tiền để phân tiền gửi tiết kiệm thành tiền gửi
tiết kiệm bằng nội tệ, tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ.:
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 23
+ Tiền gửi tiết kiệm bằng nội tệ:

Ngân hàng huy động tiền gửi tiết kiệm bằng VNĐ thông qua rất nhiều các
hình thức huy động khác nhau với các mục đích sử dụng khác nhau. Trong
tiền gửi tiết kiệm ngân hàng huy động được thì tiền gửi tiết kiệm huy bằng
VNĐ chiếm tỷ trọng cao, đáp ứng các nhu cầu về sử dụng vốn của ngân
hàng.
+ Tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ:
Ngoài huy động tiền gửi tiết kiệm bằng VNĐ, ngân hàng cũng tiến hành huy
động tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ. Số tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ quy
ra VNĐ cũng chiếm tỷ lệ lớn trong hoạt động của ngân hàng. Mục đích huy
động tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu
thanh toán quốc tế cũng như hoạt động kinh doanh ngoại tệ của khách hàng
cũng như ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ chủ yếu là USD hoặc
EUR
1.4.4 huy động bằng vốn vay
Các giấy tờ có giá là các công cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy động
vốn trên thị trường. Nguồn vốn này tương đôid ổn định để dử dụng cho nhu
cầu vốn trung và dài hạn. Lãi suất của loại này phụ thuộc vào viêc cấp thiết
của việc huy động vốn nên thường cao hơn lãi suất tiền gửi có kì hạn thông
thường.
Các giấy tờ có giá do ngân hàng thương mại phát hành bao gồm kỳ phiếu,
trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá.
+ Kỳ phiếu: Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân
hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân một cách linh hoạt, đáp ứng
nhu cầu cho đầu tư sản xuất, cho một số chương trình, một số dự án kinh tế
hoặc kinh doanh của ngân hàng.
Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành theo từng đợt và được gọi là kỳ phiếu
có mục đích. Ngân hàng căn cứ vào nguồn vốn và nhu cầu mở rộng tín dụng
để phát hành kỳ phiếu.
+ Trái phiếu: Theo nghĩa chung nhất, trái phiếu có giá trị xác nhận nợ của
chủ thể phát hành với cam kết:

- Thanh toán một số tiền nhất định vào một ngày xác định trong tương lai;
- Với mức lãi suất xác định tương ứng với các thời hạn xác định.
Căn cứ vào những tiêu thức phân loại khác nhau mà người ta chia trái phiếu
thánh nhiều loại như: trái phiếu vô danh và trái phiếu ký danh; trái phiếu có
lãi suất thả nổi và trái phiếu có lãi suất cố định…Tuy nhiên tất cả các trái
phiếu này đều mang những đặc điểm sau:
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 24
- Có mệnh giá: mệnh giá là giá trị ghi trên trái phiếu, nó quy định số tiền mà
người phát hành phải trả cho người chủ sở hữu vào ngày đáo hạn, trái phiếu
ngân hàng thường có mệnh giá rất lớn.
- Có ngày đáo hạn: ngày đáo hạn là ngày cuối cùng mà người phát hành phải
trả toàn bộ số tiền ghi trên trái phiếu.
- Có ghi mức lãi suất: mức lãi suất là tỷ lệ lãi suất ấn định khi phát hành.
- Có phương thức thanh toán:
* Đối với trái phiếu Coupon: trái chủ sẽ được hưởng lái định kỳ (có thể là
nửa năm hay một năm) trên cơ sở lãi suất đã công bố.
* Đối với trái phiếu chiết khấu (Discount): trái chủ được quyền lĩnh lãi
trước, hay nói cách khác người mua trái phiếu sẽ mua với giá thấp hơn mệnh
giá, đến ngày đáo hạn sẽ được thành toán đầy đủ số tiền theo mệnh giá.
Trái phiếu ngân hàng được phát hành theo quy mô lớn và đồng loạt trong cả
hệ thống. Thông qua phát hành trái phiếu, ngân hàng sẽ huy động được một
lượng vốn lớn có tính ổn định lâu dài. Vì thế ngân hàng có thể chủ động sử
dụng nguồn này để cho vay trung dài hạn cũng như đầu tư vào các mục tiêu
chiến lược khác. Việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngoài mục đích chính là
huy động vốn còn có tác dụng ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần
hình thành và phát triển thị trường vốn
CHƯƠNG II, thực trạng huy động vốn tại ngân hàng Á châu
2.1, sơ nét về ngân hàng Á châu
-bối cảnh thành lập

Pháp lệnh về Ngân hàng nhà nước và Pháp lệnh về ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín
dụng và công ty tài chính được ban hành vào tháng 5 năm 1990 đã tạo dựng một khung
pháp lý cho hoạt động ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Ngân
hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) đã được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-
GP do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 24/04/1993, GIấy phép số 553/GP-UB
do Ủy ban Nhân dân TP. Hồ Chí Minh cấp ngày 13/05/1993. Ngày 04/06/1993, ACB
chính thức đi vào hoạt động
- tầm nhìn
Ngay từ ngày đầu hoạt động, ACB đã xác định tầm nhìn là trở thành ngân
hàng thương mại cổ phần bán lẻ hàng đầu Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế
xã hội Việt Nam vào thời điểm đó “Ngân hàng bán lẻ với khách hàng mục
tiêu là cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ” là một định hướng rất mới đối với
ngân hàng Việt Nam, nhất là một ngân hàng mới thành lập như ACB
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 25
-phát triển với các cột mốc đáng nhớ
Tầm nhìn, mục tiêu và chiến lược nêu trên được cổ đông và nhân viên
ACB đồng tâm bám sát trong suốt 16 năm hoạt động của mình và những kết
quả đạt được đã chứng minh rằng đó là các định hướng đúng đối với ACB.
Đó cũng chính là tiền đề giúp Ngân hàng khẳng định vị trí dẫn đầu của mình
trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam trong lĩnh vực
bán lẻ. Dưới đây là một số cột mốc đáng nhớ của ACB:
• 04/06/1993: ACB chính thức hoạt động.
• 27/04/1996: ACB là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam
phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-Mastercard.
• 15/10/1997: ACB phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-Visa.
• Năm 1997 – Tiếp cận nghiệp vụ ngân hàng hiện đại: Công tác chuẩn bị
nhằm nhanh chóng đáp ứng các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân
hàng đã được bắt đầu tại ACB, dưới hình thức của một chương trình đào tạo
nghiệp vụ ngân hàng toàn diện kéo dài hai năm. Thông qua chương trình đào

tạo này, ACB nắm bắt một cách hệ thống các nguyên tắc vận hành một ngân
hàng hiện đại, các chuẩn mực trong quản lý rủi ro, đặc biệt trong lĩnh vực
ngân hàng bán lẻ, và nghiên cứu điều chỉnh trong điều kiện Việt Nam để áp
dụng trong thực tiễn hoạt động ngân hàng.
• Thành lập Hội đồng ALCO: ACB là ngân hàng đầu tiên của Việt Nam
thành lập Hội đồng Quản lý tài sản Nợ - Có (ALCO). ALCO đã đóng vai trị
quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu quả của AC
• Mở siêu thị địa ố: ACB là ngân hàng tiên phong trong cung cấp các dịch
vụ địa ốc cho khách hàng tại Việt Nam. Hoạt động này đã góp phần giúp thị
trường địa ốc ngày càng minh bạch và được khách hàng ủng hộ. ACB trở
thành ngân hàng cho vay mua nhà mạnh nhất Việt Na
• Năm 199: ACB bắt đầu triển khai chương trình hiện đại hóa công nghệ
thông tin ngân hàng (TCBS) nhằm trực tuyến hóa và tin học hóa hoạt động
của AC
• Năm 2000 – Tái cấu trú: Với những bước chuẩn bị từ năm 1997, đến
năm 2000, ACB đã chính thức tiến hành tái cấu trúc (2000-2004) như là một
bộ phận của chiến lược phát triển trong nửa đầu thập niên 2000. Cơ cấu tổ
chức được thay đổi theo định hướng kinh doanh và hỗ trợ. Các khối kinh
doanh gồm có Khối khách hàng cá nhân, Khối khách hàng doanh nghiệp,
Khối ngân quỹ. Các đơn vị hỗ trợ gồm có Khối công nghệ thông tin, Khối
giám sát điều hành, Khối phát triển kinh doanh, Khối quản trị nguồn lực và
một số phòng ban. Hoạt động kinh doanh của Hội sở được chuyển giao cho
Sở Giao dịch. Tổng Giám đốc trực tiếp chỉ đạo Ban Chiến lược, Ban kiểm
SV: ĐẶNG QUANG NAM Lớp: TCNH 17A3

×