Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

149 Quản trị rủi ro trong các Ngân hàng Thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.52 KB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----


oOo


-----




NGUYỄN TIẾN LONG






QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM



Chuyên ngành : Tài chính Doanh nghiệp
Mã số : 60.31.12



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ





Người hướng dẫn khoa học:
PGS – TS NGUYỄN NGỌC ĐỊNH





Thành phố Hồ Chí Minh
Năm 2008



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu,
khảo sát và thực hiện của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và có nguồn
gốc trích dẫn rõ ràng.

TÁC GIẢ




NGUYỄN TIẾN LONG














MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN TỔNG QUAN ............................................................. 3
1.1 Hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.... 3
1.2 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại:.......... 3
1.2.1. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.... 4
1.2.1.1 Rủi ro tín dụng ................................................................................ 4
1.2.1.2 Rủi ro thanh khoản.......................................................................... 4
1.2.1.3 Rủi ro thị trường ............................................................................. 5
1.2.1.4 Rủi ro tác nghiệp............................................................................. 6
1.2.2 Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng: .......... 7
1.2.2.1 Những nguyên nhân khách quan..................................................... 7
1.2.2.2 Nhóm nguyên nhân từ phía khách hàng của ngân hàng................. 7
1.2.2.3 Nhóm nguyên nhân thuộc về bản thân ngân hàng.......................... 8
1.2.3 Hậu quả rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM................... 8
1.2.3.1 Hậu quả của rủi ro đối với ngân hàng............................................ 8
1.2.3.2 Hậu quả của rủi ro đối với khách hàng.......................................... 9

1.2.3.3 Hậu quả của rủi ro đối với nền kinh tế......................................... 10
1.3 Năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM. .... 11
1.3.1. Quản lý rủi ro và quản trị rủi ro ....................................................... 11
1.3.2 Năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng thương mại....................... 13
1.3.3 Các chỉ tiêu phản ánh năng lực quản trị rủi ro của NHTM. ........... 15
1.3.3.1 Các chỉ tiêu định lượng................................................................. 15
1.3.3.2. Các chỉ tiêu định tính................................................................... 18
1.4 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng ... 20
1.4.1 Xuất phát từ đặc điểm và hậu quả của rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại.............................................................. 20
1.4.2 Năng lực quản trị rủi ro tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. ............................. 21


1.4.3 Xu thế hội nhập quốc tế và tòan cầu hóa đòi hỏi phải nâng cao năng
lực quản trị rủi ro. ....................................................................................... 21
1.5 Khủng hoảng kinh tế tài chính tòan cầu và những cảnh báo cho hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam ....................................................... 22
1.5.1 Nợ dưới chuẩn – Hậu quả của sản phẩm tài chính hiện đại nhưng
nhiều rủi ro .................................................................................................. 22
1.5.2 Hạn chế dư chấn của “Khủng hoảng cho vay dưới chuẩn Mỹ” đến
thị trường tài chính quốc tế......................................................................... 24
1.5.3 Bài học cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam .......................... 26
CHƯƠNG II: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM .......................................................................................................... 28
2.1 Thực trạng hoạt động Ngân hàng thương mại Việt Nam.................... 28
2.1.1 Quy mô tăng vốn ................................................................................. 28
2.1.2 Tình hình huy động vốn ..................................................................... 29
2.1.3 Thực trạng rủi ro trong kinh doanh NHTM Việt Nam ................... 31
2.1.3.1 Rủi ro tín dụng .............................................................................. 31

2.1.3.2 Rủi ro ngoại hối (Rủi ro thị trường) ............................................. 40
2.1.3.3 Rủi ro lãi suất (Rủi ro thị trường)................................................. 46
2.1.3.4 Rủi ro thanh khoản....................................................................... 49
2.1.3.5 Rủi ro tác nghiệp........................................................................... 54
2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại........................................................ 57
2.2.1 Chất lượng nguồn nhân lực: ............................................................. 57
2.2.2 Năng lực tài chính của ngân hàng:................................................... 58
2.2.3 Quy mô vốn chủ sở hữu: .................................................................... 58
2.2.4 Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu:................................................................. 58
2.2.5 Điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ của ngân hàng......... 59
2.2.6 Môi trường kinh tế xã hội và kinh doanh.......................................... 60
2.3 Những thách thức đối với ngân hàng Thương mại Việt Nam trong điều
kiện hiện nay ................................................................................................... 61
2.3.1 Về hành lang pháp lý.......................................................................... 61


2.3.2 Về khả năng cạnh tranh..................................................................... 63
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP GIA TĂNG HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO 65
TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.......................... 65
3.1 Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại.......................................... 65
3.1.1 Giải quyết vấn đề vốn cho ngân hàng................................................ 65
- Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn. .............................................. 66
3.1.2 Thực hiện mô hình kiểm soát, dự đoán và định lượng rủi ro họat
động tín dụng. .............................................................................................. 69
3.1.3 Giải pháp đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ............................. 72
3.1.4 Đối với nghiệp vụ thanh toán............................................................. 73
3.1.5 Đối với chính sách lãi suất................................................................. 74
3.1.6 Công tác quản lý nhân lực và đào tạo cán bộ. .................................. 74
3.1.7 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng................................................... 76

3.2 Những đề xuất đối với NHNN Việt Nam.................................................. 78
3.2.1 Thực hịên quy định chung theo sự điều chỉnh của Basel II............ 78
3.2.2 Phát huy sức mạnh tài chính cho các NHTM: ................................. 80
3.2.3 Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh ......................................... 81
PHẦN KẾT LUẬN: ........................................................................................... 88
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO




DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHVN Ngân hàng Việt Nam
NHTMNN Ngân hàng thương mại Nhà nước
NHLD Ngân hàng liên doanh
WTO (World trade organision) Tổ chức Thương mại thế giới
NH Ngân hàng
TCTD Tổ chức tín dụng
NQH Nợ quá hạn
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ
Danh mục Trang
Sơ đồ 1.1 : Quy trình quản trị rủi ro ...................................................................12
Bảng 2.1 : Hệ số an toàn vốn của một số ngân hàng .........................................29
Bảng 2.2 : Tình hình huy động vốn của một số ngân hàng ...............................29
Bảng 2.3 : Tình hình tín dụng của một số ngân hàng ........................................30
Bảng 2.4 : Tóm tắt quá trình phát triển các công cụ tài chính phái sinh ...........62





1
PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam đang
trong quá trình đổi mới thích ứng với nền kinh tế thị trường, góp phần không nhỏ
trong việc tạo đà cho nền kinh tế quốc dân phát triển. Tuy nhiên bên cạnh những
chuyển biến vượt bậc đó thì vấn đề rủi ro trong hệ thống NHTM Việt Nam cũng
đang diễn ra hết sức phức tạp, Ngân hàng dễ trở thành nạn nhân của nền kinh tế
thị trường khi không có những biệp pháp phòng ngừa hữu hiệu, những rủi ro
mang lại không chỉ là từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ hay do các
vụ lừa đảo mà còn bao gồm rất nhiều rủi ro từ thị trường như rủi ro về thanh
khoản, rủi ro về thị trường (lãi suất, tỷ giá hối đoái .v.v) . Trong năm 2007 Việt
Nam đã phải đối mặt với lạm phát tăng cao do những vấn đề như: nhập siêu, hiện
tương đầu cơ .v.v đã tác động tới ổn định hoạt động của các ngân hàng và các rủi
ro tiềm ẩn bắt đầu bộc lộ, mặt khác việc mở rộng mạng lưới hoạt động và tổ chức
đã làm cho các NHTM phải đối mặt nhiều hơn với các loại rủi ro trong hoạt động
và ở cấp độ quy mô ngày càng lớn. Tình hình đó đặt ra việc xác định được các rủi
ro tổng thể tiềm ẩn của hệ thống Ngân hàng để xử lý kịp thời. Do vậy để thực
hiện mục tiêu phát triển, an toàn và hiệu quả trong kinh doanh, việc nghiên cứu áp
dụng những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong họat động kinh doanh của các
NHTM Việt nam là vô cùng cần thiết. Chính vì nhận thức được vấn đề trên, đề tài
“Quản trị rủi ro trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam” được lựa chọn
nghiên cứu trong bối cảnh hiện tại.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hỗ trợ để tăng khả năng quản trị rủi ro
của các Ngân hàng thương mại

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài đi vào nghiên cứu những vấn đề cơ bản của ngân hàng thương mại,
phân tích, đánh giá các rủi ro trong họat động của Ngân hàng thương mại, tìm ra
nguyên nhân các rủi ro từ đó đưa ra những giải pháp hỗ trợ để tăng khả năng quản
trị rủi ro của các Ngân hàng thương mại Việt Nam

2
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp lý thuyết suy luận logic, duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phân tích hoạt động kinh tế, toán học, thống kê, so sánh, đối
chiếu, các kinh nghiệm của bản thân và của các nhà nghiên cứu tài chính tiền tệ.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận tổng quan
Chương II: Quản trị rủi ro trong Ngân hàng thương mại Việt Nam
Chương III: Giải pháp gia tăng hiệu quả quản trị rủi ro trong hệ
thống Ngân hàng thương mại Việt Nam



















3
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN TỔNG QUAN


1.1 Hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Luật của Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số
20/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật các Tổ chức tín dụng, tại điều 20 có nêu: “ Tổ chức tín dụng là doanh
nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật để hoạt động ngân hàng.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan., theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng
phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại
hình ngân hàng khác
Đối với NHTM, theo Nghị định 49/2000/NĐ-CP ban hành ngày 12/9/2000
về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng định nghĩa như sau: “Ngân hàng thương mại
là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh
tế của nhà nước. Hoạt động của NHTM là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng phân tích, khai thác nội
dung của các định nghĩa đó, có thể hiểu các NHTM đều là những trung gian tài chính

mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên của chúng là: Nhận tiền ký thác - tiền gửi
không kỳ hạn và có kỳ hạn - để làm phương tiện thanh toán và sử dụng vào các
nghiệp vụ cho vay duới nhiều hình thức khác nhau và thực hiện các dịch vụ kinh
doanh khác cho chính ngân hàng.
1.2 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại:
Từ việc nghiên cứu về đặc điểm hoạt động kinh doanh của các NHTM nói
trên có thể nhận thấy rằng, rủi ro luôn gắn liền với từng nghiệp vụ trong hoạt động
của NHTM. Đa số các nhà kinh tế thống nhất với nhau quan niệm về rủi ro trong

4
hoạt động kinh doanh của NHTM là “những biến cố không mong
đợi xảy ra và gây tổn thất đối với ngân hàng”. Mức độ và tính chất rủi ro khác nhau
sẽ gây ra những hậu quả không giống nhau song đều rất nguy hại bởi những tác
động đến uy tín của ngân hàng và khả năng lan truyền. Việc tìm hiểu về các loại rủi
ro, nguyên nhân và hậu quả của rủi ro trong hoạt động kinh doanh sẽ trả lời cho
chúng ta câu hỏi tại sao phải quản trị và nâng cao năng lực quản trị rủi ro của
NHTM.
1.2.1. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM có thể phân chia thành
nhiều loại tùy theo tiêu thức lựa chọn và mục đích nghiên cứu. Trong luận văn
này, rủi ro sẽ được phân chia và trình bày thành bốn loại bao gồm: (1) Rủi ro tín
dụng; (2) Rủi ro thanh khoản; (3) Rủi ro thị trường; và (4) Rủi ro tác nghiệp.
1.2.1.1 Rủi ro tín dụng
Là khả năng khách hàng (người đi vay) nhận khoản vốn vay nhưng không thể
hoàn trả vốn và lãi hoặc hoàn trả không đầy đủ các khoản vay và lãi cho NH, gây tổn
thất cho NH.
Rủi ro tín dụng thường chiếm tỷ trọng lớn nhất và phổ biến nhất xuất phát
từ đặc điểm của tín dụng ngân hàng như đã nêu trên đây và trên thực tế, hoạt động
tín dụng thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Về cơ bản, rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng vay vốn không có khả

năng chi trả lãi, chi trả nợ hoặc cả hai. Loại trừ một số ít khách hàng lừa đảo, đối
với đa số khách hàng dù tình hình sản xuất kinh doanh tốt, có tình hình tài chính
lành mạnh và thực thanh toán đầy đủ cho ngân hàng song vẫn có thể xảy ra những
tình huống bất khả kháng dẫn đến không thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Vì
vậy có thể cho rằng rủi ro tín dụng là khách quan, tồn tại song song với tín dụng
ngân hàng và cả NHTM chỉ có thể hạn chế và buộc chấp nhận rủi ro tín dụng ở
mức độ nhất định mà thôi.
1.2.1.2 Rủi ro thanh khoản
Là những tổn thất xảy ra đối với ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực
tế vượt mức dự kiến, hay nói cách khác, ngân hàng không đáp ứng nhu cầu thanh
toán hay rút tiền của khách hàng. Khi khả năng thanh toán bị đe dọa, NHTM buộc
phải tìm kiếm nguồn và thường là gia tăng các khoản đi vay “nóng” với chi phí

5
rất cao, đặc biệt ở những nơi mà thị trường tiền tệ chưa phát triển. Xét trên giác
độ lý thuyết, rủi ro thanh khoản cũng là điều tự nhiên luôn tiềm ẩn trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng bởi lẽ độ thanh khoản của nguồn vốn (cầu thanh
khoản) bao giờ cũng cao hơn các khoản sử dụng vốn (cung thanh khoản). Tuy
nhiên, trên thực tế rủi ro thanh khoản thường ít xảy ra hơn hoặc cũng có thể được
giảm thiểu và “che lấp” bởi các hoạt động trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Điều có thể thấy rất rõ là rủi ro thanh khoản và các loại rủi ro khác đều tác
động đến hoạt động ngân hàng một cách ở mức độ khác nhau và dù có thể bị thua
lỗ hay phá sản thì cũng “dần dần từng bước” do vậy các ngân hàng có thể có cơ
hội để khắc phục và cải thiện tình hình. Song rủi ro thanh khoản nếu xảy ra thì lại
là vấn đề rất nghiêm trọng, thậm chí là đặc biệt nghiệm trọng vì có thể dẫn đến sự
sụp đổ của NHTM trong “chốc lát” khi khách hàng ồ át đến rút tiền.
1.2.1.3 Rủi ro thị trường
Là những tổn thất xảy ra đối với ngân hàng khi có sự biến động không
lường trước của thị trường, bao gồm rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Lãi suất và tỷ
giá là những phạm trù khác nhau, và sự biến động của chúng cũng tác động không

giống nhau đến hoạt động ngân hàng. Trong khi lãi suất biến động thì làm thay
đổi thu nhập và chi phí, thì tỷ giá biến động sẽ làm thay đổi giá trị của tài sản và
nguồn vốn của ngân hàng. Song nếu xét ở giác độ nghiên cứu khác, hai phạm trù
này lại có những điểm giống nhau là luôn thay đổi trên thị trường phụ thuộc vào
các yếu tố cung – cầu về vốn và về ngoại tệ. Quan trọng hơn, việc xác định, đo
lường mức độ và các biện pháp để hạn chế rủi ro của lãi suất và tỷ giá là hoàn
toàn tương tự và đều phải thực hiện thông qua các nghiệp vụ phái sinh trên thị
trường tiền tệ hay thị trường ngoại hối.
Trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, lãi suất và tỷ giá luôn
được quản lý và duy trì cố định hay ít nhất là ổn định bởi Nhà nước, do vậy các
NHTM không phải lo lắng đến rủi ro lãi suất và tỷ giá. Trái lại, trong điều kiện
nền kinh tế thị trường với sự vận động rất linh hoạt và phức tạp của các luồng
vốn, lãi suất và tỷ giá luôn biến động và khó có thể dự báo. Lãi suất và tỷ giá biến
động theo chiều hướng khác nhau có thể dẫn đến các kết cục khác nhau đối với
các ngân hàng có trạng thái luồng tiền và trạng thái ngoại hối khác nhau. Một
ngân hàng được “hưởng lợi” từ sự biến động tăng của lãi suất hay tỷ giá thì sẽ lại

6
bị “tổn thất” khi lãi suất hay tỷ giá giảm xuống. Xác suất thu được lợi ích và chịu
tổn thất đối với mỗi ngân hàng là bằng nhau và bằng 50%, song xét về bản chất,
lợi ích mà ngân hàng này có được lại chính là thiệt hại của ngân hàng khác. Do
vậy, các ngân hàng đều tập trung sự quan tâm vào khả năng gặp phải tổn thất có
nghĩa là không chấp nhận sai lầm, cũng từ lẽ đó mà rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá
được coi là điều hoàn toàn tự nhiên đối với các ngân hàng có trạng thái luồng tiền
và ngoại hối khác “mở” và các ngân hàng luôn phải hạn chế rủi ro loại này thông
qua việc đo lường xác định và thực thi các nghiệp vụ phái sinh để phòng và
chống.
1.2.1.4 Rủi ro tác nghiệp
Là những tổn thất xảy do những “trục trặc” trong quá trình vận hành các
hoạt động kinh doanh của NHTM như: Sai lệch về thông tin và xử lý thông tin,

bất hợp lý về quy trình và kỹ thuật nghiệp vụ và sự phối hợp giữa các bộ phận
chức năng trong ngân hàng, v.v…
Thực ra rủi ro tác nghiệp đã xuất hiện từ lâu và luôn tiềm ẩn trong hoạt
động ngân hàng nhưng chỉ đến những năm gần đây mới được quan tâm nghiên
cứu đẩy đủ hơn. Như đã đề cập trên đây, các hoạt động kinh doanh của NHTM là
rất phức tạp và được thực hiện theo những quy trình và quy định rất chặt chẽ,
song cũng chính vì vậy mà những sai xót rất dễ xảy ra. Bất kỳ một sự bất cẩn hay
là non kém về mặt nghiệp vụ, thu thập xử lý thông tin thiếu chính xác và không
kịp thời của các bộ phận chức năng trong hệ thống đều có thể ảnh đến những
quyết định của giám đốc điều hành và toàn bộ các tác nghiệp tiếp theo.
Rủi ro tác nghiệp của các NHTM có xu hướng ngày càng gia tăng, trước
hết, do sự mở rộng quy mô, phạm vi và sự đa dạng hoá hoạt động kinh doanh;
mỗi ngân hàng thậm chí có thể trở thành các tập đoàn tài chính và là những công
ty đa quốc gia. Thêm nữa, môi trường kinh doanh cũng ngày càng phức tạp hơn,
áp lực công việc tăng do tốc độ và khối lượng giao dịch tăng, sự lệ thuộc vào kỹ
thuật và công nghệ nhiều hơn, v.v… Do vậy, các ngân hàng tiên tiến và có quy
mô lớn trên thế giới luôn nghiên cứu và tối ưu hoá quy trình tác nghiệp trên cơ sở
mô hình tổ chức phù hợp nhất đối với mỗi loại hình ngân hàng.

7
1.2.2 Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng:
Rủi ro xảy ra trong hoạt động kinh doanh của NHTM có thể nảy sinh từ
những đặc điểm nội tại của hoạt động kinh doanh ngân hàng song cũng có thể
chịu ảnh hưởng từ những điều kiện và môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội.
Trên cơ sở đó, các chuyên gia tài chính ngân hàng đã phân chia nguyên nhân rủi
ro thành 3 nhóm như sau:
1.2.2.1 Những nguyên nhân khách quan.
Đây là những nguyên nhân xảy ra rủi ro như thảm hoạ tự nhiên (bảo lụt,
hạn hán, động đất, v.v…) hay những thay đổi về chính sách quản lý kinh tế – xã
hội của Chính phủ, gây thiệt hại khách hàng hoặc trực tiếp cho các ngân hàng.

Đặc điểm chung của nhóm nguyên nhân này là cả ngân hàng và khách hàng
không thể có bất kỳ hành động nào để hạn chế ngoài việc dự đoán, dự báo, dự
phòng và chịu đựng. Do vậy, các NHTM luôn phải chủ động dự phòng để khắc
phục hậu quả rủi ro là điều có ý nghĩa hơn cả.
1.2.2.2 Nhóm nguyên nhân từ phía khách hàng của ngân hàng
Bao gồm các cá nhân và doanh nghiệp, kể cả các NHTM và các định chế
tài chính khác. Khi các đối tượng khách hàng không thể hoặc không muốn thực
hiện những cam kết với ngân hàng thì ngân hàng sẽ phải chịu những tổn thất.
Trên thực tế, điều rất dễ nhận thấy là trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đời
sống của khách hàng là có thể gặp phải rủi ro và ít nhất thì một phần rủi ro đó sẽ
được “chia sẻ” hay “chuyển sang” cho ngân hàng. Nói cách khác NHTM cùng
phải chịu tổn thất từ những rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống
của khách hàng. Có thể nói phần lớn (trên 90%) khách hàng không thực hiện cam
kết vời ngân hàng vì bản thân họ gặp rủi ro. Ngoài ra, số ít hơn (dưới 5%) khách
hàng chủ động chối bỏ không thực hiện những cam kết vì những lợi ích nhất thời
nào đó và một số khách hàng (khoảng 3%) chủ động thực hiện những hành vi lừa
đảo đối với ngân hàng. So với nhóm nguyên nhân thứ nhất, nhóm nguyên nhân
này có thể được ngân hàng hạn chế ở mức độ nhất định thông qua việc thực hiện
các biện pháp hỗ trợ, tư vấn để khắc phục sự yếu kém về năng lực quản lý, kinh
nghiệm và trình độ công nghệ giúp khách hàng phòng tránh và hạn chế được chế
rủi ro sau khi đã tiến hành các biện pháp sàng lọc phân loại để loại bỏ những
khách hàng có hành vi hay động cơ không tốt.

8
1.2.2.3 Nhóm nguyên nhân thuộc về bản thân ngân hàng
Đối với tất các các ngân hàng trên thế giới, nhóm nguyên nhân này được
coi là quan trọng nhất vì khả năng phòng chống và hạn chế rủi ro phụ thuộc chủ
yếu bởi năng lực của ngân hàng. Có thể thấy rất rõ là từ sự hợp lý về chính sách
đến trình độ công nghệ và đạo đức nghề nghịêp của cán bộ công nhân viên làm
việc trong ngân hàng đều là các nhân tố tác động đến mức độ rủi ro của mỗi ngân

hàng. Các ngân hàng có trình độ công nghệ cao với chủng loại sản phẩm đa dạng
phong phú kết hợp với nguồn nhân lực có phẩm chất tốt luôn có mức độ rủi ro ở
mức thấp, thậm chí, ngay cả khi rủi ro đã xảy ra, các ngân hàng vẫn có thể hạn
chế hậu quả thông qua các biện pháp kinh tế và thị trường để giảm thiểu tổn thất
tài chính và uy tín.
1.2.3 Hậu quả rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Rủi ro được định nghĩa là những tổn thất xảy ra đối với ngân hàng do vậy
khi rủi ro xảy ra đồng nghĩa với ngân hàng phải chịu đựng những tổn thất về tài
chính và uy tín. Điều đáng lưu ý là những tổn thất xảy ra không chỉ ảnh hưởng
đến bản thân ngân hàng mà còn có tác động xấu đến toàn bộ hệ thống ngân hàng
và nền kinh tế như một tổng thể. Chúng ta có thể khái quát về hậu quả của rủi ro
trong hoạt động kinh doanh của các NHTM như sau:
1.2.3.1 Hậu quả của rủi ro đối với ngân hàng
Hậu quả đối với ngân hàng ở mức độ thấp nhất là làm giảm thu nhập của
ngân hàng. Mỗi hoạt động kinh doanh của ngân hàng góp phần mang lại thu nhập
cho ngân hàng nhưng khi xuất hiện một loại rủi ro ở hoạt động nào đó, ngân hàng
không những không có thu nhập từ hoạt động tương ứng mà còn làm giảm thu
nhập từ các hoạt động khác. Ví dụ, nếu khách không trả nợ đúng hạn, sẽ dẫn đến
tình trạng tồn đọng vốn, ngân hàng không thể tiếp tục cho vay hoặc đầu tư, bên
cạnh đó ngân hàng còn phải bỏ ra một khoản chi phí đáng kể để phục vụ cho thu
hồi vốn, trích lập dự phòng rủi ro, và bù đắp v.v. … khi thu nhập chung của ngân
hàng giảm sút thì thu nhập của mỗi cán bộ công nhân viên cũng theo đó giảm
xuống, làm giảm động lực làm việc và quy cơ “ chảy máu chất xám” và rủi ro tác
nghiệp sẽ càng cao.
Ở mức độ tiếp theo sự giảm sút về thu nhập, hậu quả của rủi ro sẽ là sự hạn
chế khả năng tăng trưởng vốn, tác động xấu đến việc mở rộng quy mô hoạt động

9
và khả năng áp dụng công nghệ và giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Giống như tất cả các doanh nghiệp khác, tăng trưởng vốn được thực hiện thông

qua phân phối lợi nhuận. Khi rủi ro xảy ra lợi nhuận giảm thấp đến mức độ nhất
định thì tăng trưởng vốn của ngân hàng sẽ phải giảm, thậm chí có thể không có
tích luỹ.
Rủi ro cũng làm “tổn thương” đến uy tín và hình ảnh của ngân hàng. Các
ngân hàng với mức độ rủi ro cao sẽ mất dần lòng tin của các đối tượng khách
hàng, sự lo lắng bắt đầu xuất hiện và như hệ quả tất yếu, khách hàng sẽ rút tiền và
chuyển sang sử dụng dịch vụ của các ngân hàng khác có uy tín tốt hơn. Trong
hoàn cảnh đó, mặc dù rất nhiều những cố gắng như trả lãi suất cao và cung cấp
thêm các khoản khuyến mại, v.v…, cũng không thể giữ chân khách hàng, hoạt
động của ngân hàng sẽ ngày càng trở nên khó khăn hơn và tiếp tục đi xuống nếu
không có những cải cách mạnh mẽ, đột biến và chấp nhận những giá phải trả rất
đắt. Mức độ nghiêm trọng hơn, rủi ro đe doạ khả năng thanh toán của ngân hàng
và có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản. Các loại rủi ro xảy ra ở mức độ nhất định sẽ
làm giảm và đe doạ trực tiếp đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Rất nhiều
các ngân hàng của các nước trên thế giới kể cả Mỹ ngay trong năm 2008 đã cho
vay đầu tư vào chứng khoán, bất động sản, v.v… và khi những khoản vay này trở
nên khó được thu hồi, các ngân hàng này rơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán tiền gửi cho khách hàng, dẫn tới thua lỗ và bị phá sản.
Như vậy có thể nói rằng đối với các NHTM, rủi ro làm phát sinh rủi ro
không chỉ dẫn đến giảm thu nhập, sự thua lỗ mà còn có thể gây ra những thiệt hại
nghiêm trọng thậm chí có thể làm phá sản các NHTM. Song không dứng lại ở đó,
các đối tượng khách hàng của ngân hàng (dù có liên quan hay không đến việc xảy
ra rủi ro trong hoạt động ngân hàng) và toàn bộ nền kinh tế cũng phải gánh chịu
những hậu quả nhất định. Trong thời gian gần đây, rủi ro xảy ra đối với các ngân
hàng ở một số nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản và Châu Âu, đã có phạm vi tác
động đến hệ thống tài chính và nền kinh tế của các nước khác và toàn cầu.
1.2.3.2 Hậu quả của rủi ro đối với khách hàng
Đối với tất cả khách hàng, cá nhân hay các doanh nghiệp, kể cả bản thân
các doanh nghiệp đang trì hoãn trả nợ cho ngân hàng đều phải chịu những tổn thất
từ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trước hết, các cá nhân và


10
doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội tiếp cận với nguồn vốn cũng như các dịch vụ tiện
ích khác của ngân hàng. Trong trường hợp đó, khách hàng sẽ phải đi tìm kiếm
những nguồn vốn khác có thể làm tăng chi phí và giảm tính ổn định của quá trình
sản xuất kinh doanh. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng ở mức phải
xoá nợ, giãn nợ hay đảo nợ có thể tạo ra những tiền tệ xấu trong quan hệ với ngân
hàng. Kế hoạch và nguồn tài chính của khách hàng bị đột ngột thay đổi, khách
hàng mất chủ động về trong việc thực hiện các hợp đồng kinh tế và các nghĩa vụ
tài chính với đối tác bạn hàng, uy tín và hình ảnh của những doanh nghiệp cũng bị
giảm sút. Còn trong trường hợp ngân hàng phá sản, các doanh nghiệp sẽ mất vốn
tiền gửi và thậm chí có thể chịu chung số phận, phá sản theo.
1.2.3.3 Hậu quả của rủi ro đối với nền kinh tế
Biểu hiện đầu tiên về hậu quả của rủi ro là sự tổn thất chung của toàn bộ
nền kinh tế do tốc độ chu chuyển hàng hóa và tiền tệ giảm. Như đã phân tích trên
đây, khi rủi ro xảy ra, cả ngân hàng và khách hàng – các cá nhân, doanh nghiệp và
toàn bộ nền kinh tế đều bị thiệt hại về nhiều mặt. Trên giác độ lý thuyết có thể
thấy rằng rủi ro trong hoạt động ngân hàng không chỉ làm tăng chi phí sản xuất và
lưu thông hàng hoá mà còn gây ra những hiệu ứng tiêu cực đối với quá trình sản
xuất kinh doanh, cung – cầu hàng hóa và cuối cùng là làm mất đi sự ốn định và
khả năng tăng trưởng của nền kinh tế. Trên thực tế ở rất nhiều nước trên thế giới,
khi các ngân hàng gặp phải rủi ro thì hàng loạt các vấn đề kinh tế - xã hội đã nảy
sinh và những giải pháp nhằm ổn định tình hình bao giờ cũng rất tốn kém và hậu
quả có thể còn để lại những di chứng trong thời gian dài, đặc biệt về mặt tâm lý
và lòng tin của công chúng. Ngoài ra, hậu quả của rủi ro còn gây ra làm giảm thấp
uy tín quốc gia, khả năng thu hút vốn nước ngoài và các quan hệ kinh tế đối ngoại
khác đều phải chịu những điều kiện khó khăn hơn.
Tóm lại, rủi ro tất yếu trong hoạt động kinh doanh ngân hàng trong khi đó
hậu quả rủi ro thực sự rất nguy hiểm nghiêm trọng đối với tất cả các chủ thể,
không chỉ trên giác độ tài chính mà còn tác động đến tất cả các mặt kinh tế –

chính trị – xã hội của nền kinh tế. Tùy theo mức độ phát triển, mở cửa và hội nhập
của nền kinh tế, hậu quả của rủi ro trong hoạt động ngân hàng còn có thể nghiêm
trọng hơn về mức độ và hành vi ảnh hưởng có thể không phải chỉ dừng lại ở một
quốc gia. Những phân tích trên đây cho thấy lý do tại sao các NHTM thành công

11
luôn phải giành sự ưu tiên thỏa đáng cho vấn đề quản trị rủi ro song song với việc
nghiên cứu phát triển hoạt động kinh doanh.
1.3 Năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.3.1. Quản lý rủi ro và quản trị rủi ro
Về mặt thuật ngữ, “quản lý rủi ro” và “quản trị rủi ro” đôi khi vẫn được sử
dụng thay thế cho nhau, không có phân biệt một cách rõ ràng, thậm chí một số
người cho rằng quản lý và quản trị rủi ro thực chất là một. Trên thực tế, trong hoạt
động kinh doanh của NHTM, mặc dù có cùng mục tiêu là tối thiểu hóa tổn thất,
đảm bảo an toàn và hiệu quả song quản lý rủi ro và quản trị rủi ro vẫn có sự khác
biệt về cách tiếp cận và về cấp độ quản lý.
Quản lý rủi ro là việc sử dụng các công cụ, biện pháp, quy trình cần thiết
trong các hoạt động kinh doanh cụ thể nhằm hạn chế tối đa khả năng xảy ra tổn
thất cho NHTM. Như vậy, xét ở giác độ ngân hàng, để đạt được mục tiêu quản lý
rủi ro, các ngân hàng chỉ cần né tránh rủi ro thông qua lựa chọn khách hàng giao
dịch với những điều kiện và yêu cầu cao hơn hoặc chỉ lựa chọn những danh mục
đầu tư an toàn hơn. Nghiên cứu trên giác độ quản lý nhà nước, quản lý rủi ro có
thể được thực hiện thông qua các quy định chặt chẽ về hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng, khống chế giới hạn hoạt động ngân hàng trong vùng được cho là
an toàn và hiệu quả.
Quản trị rủi ro mạnh mẽ và hiệu quả hơn quản lý rủi ro thông qua việc chủ
động chấp nhận và kiểm sóat rủi ro ở mức độ nhất định trong mối quan hệ với thu
nhập quản trị rủi ro là việc sử dụng hệ thống các biện pháp xác định và đo lường
rủi ro, lựa chọn và chấp nhận rủi ro, quản lý và kiểm soát rủi ro để thực hiện các
quyết định kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu về hiệu quả và an toàn. Như

vậy nội dung và quy trình quản trị rủi ro bao gồm các bước có thể được phác họa
theo sơ đồ sau:

12
Sơ đồ 1.1 : Quy trình quản trị rủi ro















Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn đi kèm với rủi ro vì vậy cách tiếp
cận của quản lý rủi ro theo định hướng không chấp nhận những tài sản rủi ro, chỉ
lựa chọn những hoạt động kinh doanh của ngân hàng ở trạng thái rủi ro không thể
xảy ra là không phù hợp, không tiếp cận với tất cả các đối tượng khách hàng.
Quản lý rủi ro trên cả giác độ ngân hàng hay quản lý Nhà nước như trên đều rất
phức tạp và đòi hỏi trình độ rất cao. Quản lý rủi ro rõ ràng là chưa đủ đối với hoạt
động kinh doanh ngân hàng trong điều kịên và sự phát triển của nền kinh tế thị
trường hiện đại, mở cửa các nước nói chung hiện nay.
Quản trị rủi ro cho phép hoạt động của NHTM hoàn tòan chủ động và mang
tính tích cực, dựa trên nguyên tắc đánh đổi giữa rủi ro và thu nhập, ngân hàng sẽ

lựa chọn một cách khoa học tập hợp các hoạt động kinh doanh với khả năng xảy ra
rủi ro ở mức độ và phạm vi nhất định kèm theo những biện pháp quản lý và kiểm
sóat mức tổn thất khi rủi ro xảy ra nhằm đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng,
Cấp độ quản trị rủi ro cũng ở mức cao hơn: không chỉ là những công cụ,
biện pháp quản lý nhằm hạn chế rủi ro mà còn bao gồm cả những hoạt động góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro như: Nhận biết trước về các loại rủi ro có
Nhận biết và
xác định rủi ro
Phân tích đo
lường rủi ro
Lựa chọn về mức độ
và phạm vi tác động
của rủi ro
Kiểm soát và
quản lý rủi ro
Báo cáo đánh
giá về quản trị
rủi ro

13
thể xảy ra, đo lường, phân tích rủi ro và thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro.
Nói một cách ngắn gọn, quản trị rủi ro bao hàm cả quản lý rủi ro, nâng cao hiệu
quả hoạt động cho ngân hàng, từ đó giúp ngân hàng đạt được lợi nhuận cao trong
kinh doanh.
Thực tế cho thấy những ngân hàng nào có khả năng chủ động chấp nhận
rủi ro, đo lường và phân tích chính xác mức độ rủi ro thì có thể chủ động trong
việc đưa ra các biện pháp quản lý và kiểm sóat rủi ro phù hợp, tăng cường khả
năng tiếp cận và dịch vụ với khách hàng, tăng khả năng và hiệu quả sử dụng vốn
cho nên có thể tồn tại và luôn phát triển bền vững. Những NHTM như vậy luôn
được đánh giá là có năng lực quản trị rủi ro tốt.

1.3.2 Năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng thương mại.
Về năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM và
những khái niệm khác nhau về vấn đề này còn vẫn chưa thống nhất. Phần lớn các
nhà quản trị cho rằng năng lực quản trị rủi ro được thể hiện thông qua hiệu quả
của việc kiểm soát rủi ro hay là hiệu quả của các biện pháp quản lý cụ thể trong
chiến lược của các nhà quản trị rủi ro. Quan niệm như vậy chưa thật sự rõ ràng và
thích hợp, đặc biệt trong liên hệ với nghiên cứu nhằm nâng cao năng lực quản trị
rủi ro.
Dựa trên những yếu tố phân tích trên đây về quản trị rủi ro chúng ta sẽ cố
gắng xây dựng một quan niệm có thể dễ dàng được chấp nhận hơn về năng lực
quản trị rủi ro của NHTM theo quy trình và nội dung của quản trị rủi ro đã được
khái quát trên đây như sau:
Bước thứ nhất của quy trình quản trị rủi ro là “nhận biết và xác định”
được các loại rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải trong mỗi hoạt động kinh
doanh. Mặc dù là bước khởi đầu và không quá phức tạp song bước thứ nhất này
lại là điều kiện có nghĩa đối với mục tiêu và nội dung quản trị rủi ro. Ngân hàng
có khả năng nhận biết và xác định chính xác thì việc phân tích, đo lường, v.v…. ở
các bước tiếp theo mới thực sự có ý nghĩa và hiệu quả. Nhận biết và xác định rủi
ro đòi hỏi cán bộ không những phải có trình độ chuyên môn, tinh thầy trách
nhiệm mà còn cần có kinh nghiệm và sự thận trọng cần thiết để tập hợp được tất
cả các loại rủi ro có thể xảy ra và phân biệt chúng theo các tiêu thức khác nhau.

14
Như vậy năng lực quản trị rủi ro trước hết phải bao hàm Năng lực nhận biết và
xác định rủi ro.
Bước thứ hai Trong quy trình quản trị rủi ro là “phân tích và đo lường rủi
ro”. Phân tích và đo lường rủi ro là điều mà tất cả các nhà quản trị ngân hàng đều
rất quan tâm, vì đo lường chính xác chính là cơ sở cho các quyết định lựa chọn
danh mục tài sản cùng các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát và chấp nhận rủi ro
một cách chủ động và hiệu quả. Đo lường và phân tích rủi ro trong hoạt động của

ngân hàng cần phải đạt được 2 yếu tố cơ bản và quan trọng nhất bao gồm: (1) khả
năng hay xác suất gặp phải rủi ro; và (2) mức độ tổn thất khi rủi ro xảy ra. Bất kỳ
sai lệch (cao hơn hay thấp hơn) trong việc xác định khả năng và mức độ tổn thất
cũng đều làm mất đi tính chủ động và khả năng chấp nhận của ngân hàng gây
lãng phí và nghiêm trọng hơn khi tổn thất xảy ra trên thực tế lớn hơn mức đo
lường dự kiến. Do vậy, năng lực quản trị rủi ro của NHTM nhất thiết phải bao
gồm năng lực phân tích và đo lường rủi ro.
Bước thứ ba là “ quản lý và kiểm sóat rủi ro” sao cho tổn thất xảy ra nằm
trong khả năng chấp nhận để đảm bảo rằng việc thực hiện các hoạt động kinh
doanh sẽ luôn mang lại hiệu quả và thu nhập cho ngân hàng. Có hai vấn đề chính
phải cân nhắc để ra quyết định ở bước này là khả năng quản lý và kiểm soát rủi ro
trong quan hệ với khả năng chịu đựng tổn thất khi rủi ro xảy ra (mức dự phòng
hoặc thu nhập vượt trội kỳ vọng). Nếu không có khả năng quản lý và kiểm soát
tốt, tổn thất xảy ra có thể vượt quá khả năng chấp nhận thì ngân hàng vẫn có thể
gặp nguy hiểm. Cho nên, năng lực quản trị rủi ro là khả năng quản lý và kiểm
sóat của NHTM trên cơ sở đảm bảo thu nhập của ngân hàng.
Bước cuối cùng trong quy trình là “báo cáo và đánh giá về quản trị rủi ro
trên thực tế” thực sự là bước mang tính chất tổng kết và rút ra những bài học kinh
nghiệm sau mỗi giai đoạn hoạt động kinh doanh của NHTM. Trên cơ sở xác định
tổn thất xảy ra thực tế, đối chiếu với khả năng chấp nhận của một ngân hàng có
thể đưa ra nhận xét và kết luận về hoạt động quản trị rủi ro ngân hàng đó. Do vậy,
năng lực quản trị rủi ro còn bao gồm cả khả năng chấp nhận rủi ro của NHTM.
Báo cáo đánh giá một cách trung thực quy trình quản trị rủi ro góp phần hoàn
thiện và điều chỉnh các bước phân tích đo lường và các biện pháp quản lý, kiểm
sóat rủi ro ở giai đoạn tiếp theo.

15
Tổng hợp lại, năng lực quản trị rủi ro của NHTM có thể được quan niệm là
khả năng của ngân hàng trong việc xác định và nhận biết, phân tích và đo
lường để chủ động chấp nhận và kiểm soát rủi ro nhằm đảm bảo lợi nhuận

trong hoạt động kinh doanh. Diễn đạt theo cách khác, nếu thừa nhận rằng rủi ro
gắn liền với hoạt động kinh doanh của NHTM thì năng lực quản trị rủi ro đồng
nghĩa với khả năng ngân hàng chủ động chấp nhận và xử lý hậu quả rủi ro một
cách có hiệu quả. Năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của một
NHTM phải được đánh giá đồng thời qua tất cả các bước có liên quan chặt chẽ
trong toàn bộ quy trình quản trị rủi ro và được phản ánh thông qua các chỉ tiêu
định tính và định lượng ở nội dung tiếp sau đây.
1.3.3 Các chỉ tiêu phản ánh năng lực quản trị rủi ro của NHTM.
1.3.3.1 Các chỉ tiêu định lượng
Thứ nhất, nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận
Tỷ số mức sinh lời trên doanh thu = tổng lợi tức sau thuế / doanh thu thuần
(Chỉ tiêu này nói lên 1$ doanh thu tại ra bao nhiêu $ lợi nhuận)
Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) = Lợi nhuận ròng *100/ tổng tài sản
(
ROA đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của ngân hàng
)
Tỷ suất sinh lợi trên vốn thuần (ROE)= Lợi nhuận ròng*100 / vốn cổ phần
(ROE là tỷ số quan trọng nhất đối với các cổ đông, tỷ số này đo lường khả
năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông thường.)
Các NHTM hiện đại và được đánh giá cao về khả năng quản trị rủi ro (10
ngân hàng đứng đầu trong các NHTM Mỹ năm 2002) luôn có tỷ suất lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu từ 15-18% (New Basel II, 2004).
Thứ hai, Nhóm chỉ tiêu đo lường khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán ngay = Tài sản có thể thanh toán ngay / tài sản nợ đến
hạn thanh toán ngay. Đối với 01 số ngân hàng thời gian tính khả năng thanh toán
ngay là 01 ngày (ACB, STB .v.v.)
Khả năng thanh toán chung = Tổng tài sản có có thể thanh toán/ Tổng nợ
phải thanh toán.
Vốn hữu dụng = Vốn huy động - DTBB - DT Sơ cấp (TMặt, TG NHNN)
Hệ số khả năng trả lãi = lợi tức trước thuế và lãi / chi phí trả lãi

(Hệ số này đo lường mức độ an toàn của thu nhập có thể trả lãi cho các chủ nợ)

16
Thứ ba, nhóm chỉ tiêu về mức dự phòng rủi ro và tổn thất rủi ro thực tế.
Công thức tính số tiền dự phòng như sau:
R = max {0, (A-C)} x r
trong đó, R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị khoản nợ
C: giá trị tài sản bảo đảm (nhân với tỷ lệ phần trăm do Quyết Định 493 quy
định đối với từng loại tài sản bảo đảm)
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Số tiền dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào giá trị khoản nợ và tỷ lệ
trích lập dự phòng, mà còn phụ thuộc vào giá trị tài sản bảo đảm. Nếu giá trị tài
sản bảo đảm sau khi được tính theo tỷ lệ phần trăm lớn hơn giá trị khoản nợ, thì
số tiền dự phòng cũng bằng không có nghĩa là tổ chức tín dụng trên thực tế không
phải lập dự phòng cho khoản nợ đó (Theo Quyết định 493 và quyết định số
18/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung các quy định về quản trị rủi ro trong hoạt động tín
dụng).
Tỷ lệ nợ xấu = Nợ quá hạn >90 ngày + nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ/ Tổng
dư nợ. (tỷ lệ này càng thấp phản ảnh chất lượng tín dụng của ngân hàng tốt )
Rủi ro đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng theo xác suất nhất định
có nghĩa là một biến cố không chắc chắn, để đảm bảo khả năng chấp nhận rủi ro
các ngân hàng phải trích lập quỹ dự phòng rủi ro căn cứ vào sự xác định và đo
lường mức độ rủi ro và thường được so sánh với dư nợ cho vay hay tổng sử dụng
vốn. Quy mô và tỷ trọng của quỹ dự phòng càng lớn khả năng chịu chấp nhận rủi
ro của ngân hàng được đánh giá là cao, song nếu dự phòng quá lớn sẽ ảnh hưởng
tới hiệu quả sử dụng vốn và phản ánh chiến lượng kinh doanh “chạy theo rủi ro
của ngân hàng”. Các NHTM trên thế giới xác định quỹ dự phòng trên cơ sở xác
suất xảy ra rủi ro của mỗi khoản mục tài sản cụ thể trong tổng tài sản có nguy cơ
rủi ro.

- Cơ cấu thời hạn và cơ cấu danh mục tài sản: Với một NHTM, cơ cấu
sử dụng vốn phần lớn sẽ là ngắn hạn, tỷ lệ sử dụng vốn trung và dài hạn không
nên vượt quá mức 30 -35% và việc duy trì tỷ lệ này cần căn cứ vào cơ cấu nguồn
vốn theo thời hạn.

17
Về cơ cấu danh mục tài sản của ngân hàng cũng cần phải đảm bảo mức độ
đa dạng hóa nhất định. Tỷ trọng cho vay của các ngân hàng không quá 30% trên
tổng tài sản sinh lời vì cho vay là hoạt động rất rủi ro và sự tập trung quá mức sẽ
rất nguy hiểm cho hoạt động của ngân hàng. Sử dụng vốn của NHTM cần phải
phân bổ cả cho các hoạt động đầu tư (20 -25%), các hoạt động kinh doanh tiền tệ
(20 -25%) và cung cấp dịch vụ tiện ích và chăm sóc khách hàng. Những hoạt
động này không chỉ phản ánh sự đa dạng hóa, giảm thiểu rủi ro mà còn giúp ngân
hàng thâm nhập, tiếp cận sâu rộng với khách hàng và nền kinh tế.
- Cơ cấu thời hạn và cơ cấu khoản mục nguồn vốn: Cơ cấu thời hạn
nguồn vốn là nhân tố cơ bản quyết định cơ cấu thời hạn sử dụng vốn, đồng thời
cho biết về tính ổn định của nguồn vốn. Kết hợp nghiên cứu cơ cấu thời hạn, lập
bảng kê theo dõi thời hạn của các khoản mục nguồn vốn với khả năng tham gia
vào các hoạt động trên thị trường tiền tệ cho phép đánh giá năng lực quản trị rủi
ro thanh khoản một ngân hàng.
Tương tự như cơ cấu tài sản, sự đa dạng các khoản mục nguồn vốn phản
ánh khả năng và hiệu quả huy động vốn, đặc biệt là các hình thức huy động vốn
qua thị trường; vừa chủ động kịp thời mà chi phí vốn lại thấp.
- Cơ cấu của hoạt động ngân hàng bán buôn: Hoạt động ngân hàng bán
buôn giao dịch giữa các NHTM, các tổ chức tài chính khác kể cả ngân hàng
Trung ương với nhau. Hoạt động ngân hàng bán buôn phản ánh khả năng hoán
đổi tài sản cho nhau giữa các NHTM không chỉ đảm bảo thu nhập mà còn đảm
bảo khả năng kiểm soát về phạm vi và mức độ rủi ro của mọi ngân hàng qua đó
góp phần đảm bảo sự an toàn hiệu quả của cả hệ thống.
Các ngân hàng không bao giờ huy động sẵn một lượng tiền đủ lớn để chờ

đợi khách hàng đến vay, ngược lại sau khi cho vay cũng sẽ không cho thụ động
trông chờ khả năng thu nợ duy nhất từ khách hàng, kể cả việc phong tỏa tài sản
bảo đảm hay khởi kiện khách hàng. Trái lại, tham gia các hoạt động buôn bán và
kết hợp giữa các hoạt động buôn bán và bán lẻ, các ngân hàng sẽ luôn giao dịch
mua bán hay hoán đổi tài sản, nguồn vốn với nhau thông qua thị trường liên ngân
hàng để vừa có chi phí thấp, tổn thất rủi ro thấp tức là khả năng quản trị rủi ro
cao.

18
1.3.3.2. Các chỉ tiêu định tính
Thứ nhất: Bộ phận chức năng quản trị rủi ro độc lập

Bộ phận quản trị rủi ro độc lập là điều kiện cần để thực hiện các nội dung
và quy trình quản trị rủi ro như đã trình bày trên đây một cách khách quan và hiệu
quả. Hơn nữa, ngoài khả năng hoạt động độc lập, bộ phận này còn phải bao gồm
những cán bộ được đào tạo cơ bản vừa có chuyên môn và kinh nghiệm về rủi ro
vừa có khả năng ứng dụng các công cụ toán học, tin học và công nghệ kinh doanh
ngân hàng hiện tại vào việc nhận biết và xác định một cách chính xác, đầy đủ kịp
thời các lọai rủi ro có thể phát sinh, xây dựng các mô hình phân tích và đánh giá
chính xác mức độ rủi ro. Trên cơ sở đó mới có thể khuyến cáo ban lãnh đạo ngân
hàng và các bộ phận chức năng khác lựa chọn và thực hiện các nghiệp vụ kinh
doanh cũng như các biện pháp kiểm soát phù hợp. Nhiều NHTM, hoạt động quản
trị rủi ro đã được thiết lập song lại do chính những cán bộ tín dụng thực hiện hoặc
đặt ở vị trí trực thuộc phòng tín dụng, cho nên, tình trạng “vừa thổi còi, vừa đá
bóng” là khó tránh khỏi. Để đạt doanh số cho vay cao trong hoạt động, đặc biệt
trong trường hợp khoán lương, một số loại rủi ro tiềm ẩn có thể bị xem nhẹ hoặc
dễ dàng bỏ qua một cách rất chủ quan để đạt mức khoán và lương cao. Hơn nữa,
rủi ro xảy ra trong tất cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng cho nên quản trị
rủi ro là hoạt động cần thiết đối với tất cả các hoạt động đó, không chỉ là đối với
riêng hoạt động tín dụng. Điều này cho thấy không thể đánh giá một ngân hàng có

năng lực quản trị cao khi vắng thiếu bộ phận chức năng quản trị rủi ro độc lập.
Biện pháp đánh giá năng lực quản trị rủi ro theo chỉ tiêu này thông thường là xây
dựng thang chấm điểm cho các yếu tố cấu thành của bộ phận chức năng quản trị
rủi ro và mức độ khách quan, độc lập.
Thứ hai, chiến lược kinh doanh và chọn lựa rủi ro của ngân hàng

Chiến lược kinh doanh được cụ thể hóa bằng các chính sách, kế hoạch,
mục tiêu, định hướng và các văn bản khác có liên quan của ngân hàng . Thông
qua văn bản này, chúng ta có thể đánh giá về tính tính cực chủ động trong việc
thực hiện hoạt động kinh doanh của ngân hàng và “thái độ” của ngân hàng đối với
rủi ro. Một NHTM với khả năng quản trị rủi ro yếu kém sẽ luôn tập trung vào
những hoạt động kinh doanh thông qua các nghiệp vụ và khách hàng “truyền
thống an toàn”. Việc lựa chọn hoạt động kinh doanh và khách hàng sẽ theo những

19
nguyên tắc nhất định thường là an toàn hàng đầu, do vậy quy mô sẽ hạn chế, mức
dự phòng và dự trữ rất cao để mong được an toàn nhưng lại lãng phí và kém hiệu
quả do vậy kết cục thực tế lại là không an toàn. Trái lại, ngân hàng có năng lực
quản trị rủi ro cao sẽ luôn hướng tới những hoạt động kinh doanh đa dạng, sáng
tạo, sẵn sàng đáp ứng mọi đối tượng và cung cấp “trọn gói” các dịch vụ theo yêu
cầu của khách hàng, cho nên rủi ro lại là thấp.
Để đánh giá năng lực quản trị rủi ro theo tiêu thức này, chúng ta cần xem
xét đến nội dung và tính đa dạng của chiến lược kinh doanh và quan điểm của
ngân hàng đối với rủi ro như: “Sợ hãi né tránh”, “chủ động chấp nhận”, hay quan
điểm khác.v.v. Ngoài ra, một chiến lược kinh doanh và quản trị rủi ro tốt không
chỉ dừng lại ở nội dung mà còn khả năng thực hiện, điều có nghĩa là tất cả cán bộ
công nhân viên của ngân hàng cần phải thấm nhuần về quan điểm và cùng chung
ý chí đối với quản trị rủi ro. Cách tốt nhất để đánh giá năng lực quản trị rủi ro
theo chi tiêu này cũng là thiết lập bảng hỏi và chấm điểm.
Thứ ba, khả năng thực hiện các biện pháp kiểm sóat rủi ro


Kiểm soát rủi ro để hạn chế tổn thất ở một mức độ nhất định nhỏ hơn thu
nhập kỳ vọng hay khả năng chịu đựng của ngân hàng. Điều có thể thấy rõ ràng là
việc nhận biết và xác định, phân tích và đánh giá chính xác về phạm vi và mức độ
rủi ro của bộ phận quản trị rủi ro nói trên chỉ thực sự có ý nghĩa khi NHTM có đủ
khả năng tiến hành những biện pháp để quản lý và kiểm soát rủi ro. Mỗi loại rủi
ro cần có những biện pháp và nghiệp vụ kiểm sóat riêng, do vậy để đánh giá năng
lực quản trị rủi ro theo chỉ tiêu này cần phải thông qua các biện pháp nghiệp vụ
mà ngân hàng đã áp dụng để kiểm soát rủi ro trên từng mặt hoạt động kinh doanh
tức là phải bao gồm: các biện pháp kiểm sóat rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản,
rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp. Cụ thể, khả năng thực hiện các biện pháp
kiểm soát rủi ro được thể hiện thông qua các chỉ tiêu bao gồm:
- Khả năng thực hiện các nghiệp vụ phái sinh để triệt tiêu rủi ro thị trường,
hóan đổi các hợp đồng tín dụng.
- Khả năng kiểm soát và thực hiện chuyển đổi kỳ hạn của các khoản mục
nguồn vốn và tài sản, trên cơ sở đó xác định chính xác cầu thanh khoản của khách
hàng và khả năng thanh tóan của ngân hàng.

×