Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh quận hoàn kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.48 KB, 56 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế là cơ sở của một quốc gia. Đây là một trong các yếu tố đánh
giá sự phát triển của các quốc gia hiện nay, bên cạnh các yếu tố như văn hoá,
giáo dục, y tế… một yếu tố không thể thiếu và mang tính chất quyết định tới sự
phát triển kinh tế của một quốc gia là sự hoạt động của hệ thống ngân hàng
thương mại. Thông qua hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại, vốn
được lưu chuyển từ nơi dư thừa vốn sang nơi cần vốn góp phần vào việc sử
dụng vốn xã hội một cách hiệu quả từ đó thúc đẩy sản xuất và nền kinh tế phát
triển.
Hiện nay, với cơ chế mở cửa các thành phần kinh tế hoạt động một cách
bình đẳng theo hiến pháp và pháp luật. Nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và
phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp
trong nước như ở ngoài nước đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới
công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất.
Để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá, vốn được coi là vấn đề trung
tâm, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn. Vốn trung và dài hạn là cơ sở để
các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất. Hiện nay, vốn trung và dài hạn của
các doanh nghiệp hiện nay được huy động từ nhiều nguồn khác nhau như tích
luỹ từ sản xuất, liên doanh liên kết, huy động từ xã hội. Song trong điều kiện
hiện nay của Việt Nam nguồn vốn trung và dài hạn được doanh nghiệp nghĩ đến
trước tiên là nguồn vốn trung và dài hạn đi vay từ các Ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong thời kỳ mới chuyển đổi
sang cơ chế thị trường, môi trường kinh tế chưa ổn định, môi trường pháp lý
đang dần được thực hiện nên hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
đang gặp nhiều khó khăn, nhất là chất lượng tín dụng trung – dài hạn chưa cao
mà biểu hiện là nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn. Như vậy, việc nâng cao chất lượng
tín dụng trung – dài hạn là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của ngành ngân
hàng. Vấn đề trở nên cần thiết và bức xúc với hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp
có thị trường chủ yếu là khu vực nông thôn.
Sau một thời gian thực tập tìm hiểu về thực trang hoạt động của Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hoàn Kiếm, em đã quyết


định chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn
tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Quận Hoàn
Kiếm” làm nội dung nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp, mục đích là nghiên
cứu và luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn để khẳng định việc nâng cao
chất lượng tín dụng trung và dài hạn là nhu cầu cấp thiết để đất nước từng bước
hội nhập vào nền kinh tế. Trong bài viết này em đã viết chia làm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại NHTM
Chương II: Thực trạng tín dụng trung và dài hạn tại NHNo&PTNT chi
nhánh Quận Hoàn Kiếm
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung – dài hạn tại
NHNo&PTNT chi nhánh Quận Hoàn Kiếm
Do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế và thời
gian nghiên cứu có hạn nên chuyên đề không tránh khỏi những khiếm khuyết.
Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy giáo và các anh chị trong
phòng kinh doanh để chuyên đề này hoàn thành tốt hơn.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI
NHTM
I. TÍN DỤNG VÀ CÁC HÌNH THỰC HÌNH THỰC TÍN DỤNG
1. Khái niệm về tín dụng
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay
và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất
định.
Hay nói cách khác: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan
hệ kinh tế trong đó một cá nhân hay một tổ chức nhờng quyền sử dụng một khối
lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hoặc một tổ chức khác với những
ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu
hồi.
Trong mỗi hành vi tín dụng thấy là hai bên cam kết với nhau như sau:
- Một bên thì giao ngay một số tài hoá hay tiền bạc

- Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của số tào hoá đó
trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định nào đó.
Nhà kinh tế Pháp, Ông Louis Baundin, đã định nghĩa tín dụng như là
“một sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tương lai”. ở đây thấy yếu tố
thời gian đã xen lẫn vào và cũng vi sự xen lẫn đó, cho nên có thể có sự bất trắc,
rủi ro xảy ra và cần có sự tín nhiệm của hai bên đương sự đối với nhau. Hai bên
đương sự dựa vào sự tín nhiệm, sử dụng sự tín nhiệm của nhau nên mới có danh
từ tín dụng.
Do tính đa dạng về đối tượng chuyển nhượng và các chủ thể tham gia
trong quan hệ tín dụng cũng như do sự phát triển của nền kinh tế thị trường và
các hình thức sản xuất kinh doanh đã cho ra đời nhiều hình thực tín dụng
- Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng bằng hàng hoá giữa những
doanh nghiệp hoạt động trực tiếp trong lĩnh vực sản xuất lưu thông hàng hoá, đ-
ược hình thành trên cơ sở mua bán chịu hàng hoá. Về thực chất quan hệ tín dụng
thương mại thể hiện việc kéo dài thời hạn thanh toán của người mua. Do đó,
trong quan hệ tín dụng thương mại, người cho vay chính là người bán chịu hàng
hoá, còn người vay là người mua chịu hàng hoá.
- Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng và
một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với một bên là tất cả các tổ
chức cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay
vừa là người cho vay.
- Tín dụng nhà nước: Là quan hệ tín dụng được thực hiện bằng hình thức
tiền tệ hoặc hiện vật giữa một bên là nhà nước và một bên là tất cả các tổ chức
cá nhân trong xã hội, trong đó nhà nước là người đi vay bằng cách phát hành tín
phiếu hoặc trái phiếu.
- Tín dụng hợp tác xã: Là quan hệ tín dụng tập thể hình thành trong nội bộ
các xã viên hợp tác xã.
- Tín dụng quốc tế: Là quan hệ tín dụng giữa các quốc gia, trong đó chủ
thể tham gia là nhà nước, ngân hàng, các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính
tín dụng quốc tế.

2. Tín dụng Ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân
hàng –một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả
các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi
vay vừa là người cho vay.
Với tư cách là người đi vay: Ngân hàng huy động mọi nguồn tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ
chức cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn
trong xã hội.
Với tư cách là người cho vay: Ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt
động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Đây là hình thức tín dụng chủ yếu
trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế
một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
3. Các hình thức tín dụng ngân hàng.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau mà chúng ta tiến hành phân loại các hình
thức tín dụng ngân hàng.
+ Căn cứ vào mục đích sử dụng
- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản nhà ở đất đai, bất động sản trong lĩnh vực thương mại
dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ
xung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất:
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động…
- Cho vay tiêu dùng cá nhân: Là loại vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu
dùng như mua sắm các vật dụng đặt tiền. Ngày này ngân hàng còn thực hiện
cho vay để trang trải chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ
tín dụng.

+ Căn cứ vào tài sản thế chấp
- Cho vay có tài sản thế chấp: Ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách
hàng để đảm bảo việc trả nợ của khách hàng.
Cho vay cầm cố: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản khách hàng
mang đến cầm cố tại ngân hàng. Tài sản của khách hàng do ngân hàng bảo quản.
Trong suốt thời gian cầm cố, khách hàng không được sử dụng nhượng bán, cho
thuê…
Cho vay thế chấp: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách
hàng để đảm bảo cho khả năng trả nợ của khách hàng. Tài sản không cần mang
đến ngân hàng, khách hàng có quyền sử dụng nhưng không có quyền bán và cho
thuê.
- Cho vay không có tài sản thế chấp (Tín dụng) : Ngân hàng cho vay trên
cơ sở tin tưởng khách hàng, tài sản thế chấp là uy tín, danh dự của khách hàng.
Ngoài ra còn có hình thức cho vay thông qua việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ
chức đoàn thể chính trị – xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.
+ Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
- Cho vay bằng tiền: Là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng
được cung cấp bằng tiền: thấu chi, tín dụng thời vụ. tín dụng trả góp…
- Cho vay bằng tài sản: Phổ biến là tài trợ thuê mua.
+ Căn cứ vào xuất xứ tín dụng
- Cho vay trực tiếp: Trước khi cấp tiền ra, ngân hàng có mối liên hệ trực
tiếp đối với người vay để thẩm định khách xem xét tình hình người vay…
- Cho vay gián tiếp: Ngân hàng bỏ tiền ra cho vay nhưng không có liên hệ
gì với người vay. Vì dụ: cho vay hợp vốn đối với ngân hàng khác.
+ Căn cứ vào thời hạn cho vay
Tín dụng có ký hạn: Là khoản tín dụng có thời gian xác định về ngày trả nợ.
Tín dụng có kí hạn bảo gồm: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Mặc
dù hầu hết các nước điều thống nhất về điều này nhưng thời hạn cụ thể được quy
định theo từng loại lại không hoàn toàn đồng nhất. ở Việt nam hiện nay, theo
quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng cùng với quyết định

1627/2001/QĐ-NNNN ngày 31/12/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt nam.
- Cho vay ngắn hạn: tối đa đến 12 tháng. được xác định phù hợp với chu
kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
- Cho vay trung –dài hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với
thời hạn thu hồi của vốn đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất
nguồn vốn vay của tổ chức tín dụng.
Thời hạn cho vay trung hạn: từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
Thời hạn cho vay dài hạn: từ 60 tháng trở lên nhưng không qua thời
hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với
pháp nhân và không quá 15 năm đối với dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Tín dụng không kỳ hạn: Là khoản tín dụng được ứng dụng đối với khoản vay
không xác định rõ thời hạn trả nợ.
4. Phân loại tín dụng
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách
hàng và mục tiêu quản lý của Ngân hàng. Tín dụng Ngân hàng thương mại được
chia làm một số loại như sau:
4.1. Phân loại theo thời gian (thời gian tín dụng)
Việc phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với Ngân
hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng
cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân
thành:
Tín dụng ngắn hạn: là tín dụng có thời gian từ 12 tháng trở xuống.
Tín dụng trung hạn: là tín dụng có thời gian từ 12 tháng đến 60 tháng.
Tín dụng dài hạn: là tín dụng có thời gian từ 60 tháng trở lên.
Tài sản lưu động thường có vòng quay trên một lần trong một năm. Do
vậy, Ngân hàng cấp tín dụng ngắn hạn với thời gian từ 1 năm trở xuống.
Các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi,
trang thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu, có yêu cầu tài trợ
trên 5 năm, thậm chí có thể tới 10 năm.

4.2. Phân loại theo hình thức tín dụng: Gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và
cho thuê.
Chiết khấu thương phiếu là việc Ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để
sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ).
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải trả cả gốc và lãi trong thời gian xác định.
Bảo lãnh là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay
cho khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã
cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để khách hàng thuê theo
những thoả thuận nhất định. Sau thời gian đó, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi
cho ngân hàng.
4.3. Phân loại theo tài sản đảm bảo.
Tín dụng có thể được phân chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín
của chính khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cấm cố tài sản.
Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản
mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để
trả nợ cho Ngân hàng.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng
phải ký hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng
của tài sản đảm bảo như quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả
năng tài chính của người thứ 3, … có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có
khả năng bảo quản tài sản đảm bảo.
4.4. Phân loại tín dụng theo rủi ro.
Hình thức phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lãi tình an
toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm. Khách hàng

gặp thiên tai, khách hàng chậm nộp báo cáo tài chính…
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn….
Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản
thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
II. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ.
1. Tín dụng trung –dài hạn:
Là những khoản tín dụng có thời hạn trên 12 tháng với mục đích là sửa
chữa khôi phục, thay thế tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật hợp lí hoá sản xuất,
đổi mới công nghệ và xây dựng những công trình mới.
2. Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn
2.1. Tính rủi ro lớn.
Bản chất của tín dụng trung –dài hạn khác so với tín dụng ngắn hạn là
thời hạn cho vay dài hơn. Tín dụng ngắn hạn đáp ứng nhu cầu thanh toán ngắn
hạn do đó có tính nâng cao, có thể xem như là một bộ phận đảm bảo khả năng
thanh toán của ngân hàng. Trái lại, tín dụng dài hạn thương được đầu tư vào mở
rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị khoa học công
nghệ, dây chuyền sản xuất hiện đại, tức là các dự án chưa có khả năng sinh lời
trong thời gian ngắn nên thời hạn của các khoản tín dụng này thường dài và chỉ
được hoản trả khi xuất hiện nguồn thu từ dự án, mà thời hạn cho vay càng dài thì
tính rủi to càng cao.
2.2. Lãi suất cao.
Đặc điểm này thực chất là hậu quả của đặc điểm trên. Một khoản vay
chứa đựng nhiều rủi ro hơn chắc chắn phải trả lãi suất cao hơn để có thể bù đắp
cho những rủi ro có thể xảy ra. Tuy vậy, đã có thời kỳ (năm 1996) chúng ta duy
trì lãi suất cho vay trung và dài hạn nhỏ hơn lãi suất cho vay ngắn hạn đây là
một sự bất hợp lý mà sau này chúng ta đã chấn chỉnh được.
2.3. Mục đích của vay trung và dài hạn.
Là để đầu tư mở rộng sản xuất, mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ

tầng, đổi mới dây chuyển sản xuất…. Tức là những dự án chưa thể sinh lời trong
thời gian ngắn, trong khi mục đích của cho vay ngắn hạn là để phục vụ chỉ tiêu,
mua nguyên vật liệu, trả tiền lương, bổ sung vốn lưu động… tức là để đáp ứng
nhu cầu thanh toán ngắn hạn. Chính việc sử dụng vốn vào các mục đích khác
nhau, các khoản tín dụng đầu tư chiều rộng cũng như chiều sâu phải có thời hạn
dài hơn để đợi cho đến khi có nguồn thu xuất hiện từ Dự án.
3. Các vấn đề cơ bản của tín dụng trung và dài hạn
3.1. Nguồn cho vay trung –dài hạn
- Vốn tự có và các quỹ của ngân hàng
- Vốn được từ phát hành kỳ phiếu hoặc huy động tiền gửi định kỳ dài hạn.
- Một phần vốn huy động trong nước có thời hạn dưới 1 năm : trên cơ sở
quy định của Thống đốc ngân hàng nhà nước, mức độ chính phụ thuộc vào tình
hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ
- Vốn uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu
tư của nhà nước, của các tổ chức kinh tế xã hội trong và ngoài nước.
3.2. Đối tượng cho vay trung và dài hạn
Đó là các chi phí cầu thành trong tổng mức đầu tư của dự án đầu tư xây
dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học
công nghệ bao gồm : giá trị vật tư, máy móc thiết bị, công nghệ chuyển giao,
sáng chế và phát minh, chi phí nhân công, giá thuê và chuyển nhượng đất đài,
giá thuê mua các tài sản khác trong khuôn khổ luật định, chi phí mua bảo hiểm
tài sản thuộc dự án đầu tư và các chi phí khác.
Mức cho vay đối với một dự án đầu tư bằng tổng mức vốn đầu tư của dự
án trừ đi vốn tự đầu tư cho dự án của bên vay, nhưng tối đa bằng 70% giá trị tài
sản thế chấp, cầm cố.
3.3. Thời hạn cho vay trung –dài hạn
Thời hạn cho vay là thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận
tiền vay cho đến khi bắt đầu trả nợ gốc và lãi tiền vay đã được thoả thuận trong
hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Quy định về thời hạn tín dụng
trung và dài hạn có sự khác nhau giữa các nước, và ở Việt Nam quy định:

- Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng tới 60 tháng
- Thời hạn cho vay dài hạn trên 60 tháng nhưng không quá thời hạn hoạt động
còn lại theo quyết định thành lập của giấy phép kinh doanh đối với pháp nhân
không quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống.
3.4. Điều kiện vay vốn
(Theo điều của quy chế cho vay đối với tổ chức tín dụng)
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự quy định của pháp luật.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, dịch vụ khả thi và có hiệu quả,
hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy
định của pháp luật
- Thực hiện các quy định về bảo bảm tiền vay quy định của chính phủ và
hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước Việt nam.
3.5. Lãi suất cho vay.
Lãi suất cho vay biểu hiện giá cả của khoản tiền mà người cho vay đòi hỏi
khi tạm thời trao quyền sử dụng khoản tiền cuả mình cho người khác.
Do đặc điểm của khoản vay trung và dài hạn là thời gian vay vốn lâu nên
nó chứa đựng nhiều rủi ro hơn những khoản vay ngắn hạn. vì thế, lãi suất của
những khoản vay dài hạn thường cao hơn khoản vay ngắn hạn. Để giảm rủi ro
về thay đổi lãi suất cho cả Ngân hàng và khách hàng, đối với món dài hạn
thường áp dụng lãi suất thả nổi.
Ở Việt Nam, mức lãi suất còn phụ thuộc vào mức lãi suất trần do Ngân
hàng nhà nước qui định. Lãi suất trần được ấn định thời kỳ 03 tháng và các
Ngân hàng thương mại sẽ căn cứ vào đó để điều chỉnh lãi suất cho vay.
4. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn
Tín dụng trung –dài hạn có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự phát triển
kinh tế đất nước và đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều sâu, thúc đẩy sự dịch
chuyển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đây là vai

trò to lớn của tín dụng trung và dài hạn.
4.1. Tín dụng trung & dài hạn giúp các doanh nghiệp có khả năng đổi mới
công nghệ, mở rộng sản xuất
Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định sự tồn tại, phát triển bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế: Doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty
liên doanh, công ty tư nhân, hợp tác xã… Trong cơ chế thị trường, với sự cạnh
tranh gay gắt, quyết liệt, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp luôn phải đặt mình trước sự
đổi mới về sản phẩm, dịch vụ cung ứng cho thị trường. Điều này đồng nghĩa với
doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới đầu tư trang thiết bị hiện đại, mở rộng
dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm thì mới thắng được trong
cạnh tranh và chiếm lĩnh được thị trường. Do đó, vấn đề đầu tư cho phát triển,
sản xuất được đưa ra như một yêu cầu bức thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Đối
với các doanh nghiệp nhà nước, ngoài nguồn vốn ngân sách hạn hẹp, họ phải
chủ động tìm kiếm các nguồn vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đổi
mới, phát triển và mở rộng sản xuất đảm bảo giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế. Còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nguồn vốn tự có ban đầu
phải được hỗ trợ bằng nguồn vốn bên ngoài.
Mục đích của tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp là đầu tư
vào mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị công nghệ
hiện đại, tức là đầu tư theo chiều sâu nên ta có thể thấy tác động trực tiếp của tín
dụng trung và dài hạn đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản cố
định hình thành từ vốn vay dài hạn sẽ cải tạo, nâng cấp hiện đại hoá cơ sở sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính nhờ công nghệ hiện đại mà doanh
nghiệp có thể nâng cao được năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, dẫn
đến sản phẩm sản xuất ra có tính hấp dẫn thu hút khách hàng, sẽ thúc đẩy chiếm
lĩnh thị trường. Kết quả là tăng khả năng sinh lời, tăng thu nhập cho người lao
động đồng thời các khoản thực hiện nghĩa vụ với nhà nước như thuế thu nhập,
VAT cũng tăng.
4.2. Có tác động trực tiếp tới chính bản thân Ngân hàng.
Tín dụng trung và dài hạn là một bộ phận của tín dụng ngân hàng, đóng

góp một phần quan trọng của tín dụng ngân hàng. Khi ngân hàng có khả năng
cung ứng vốn cho phương án lớn, chương trình kinh tế hoặc dự án tầm cỡ thì
càng cao vị thế của ngân hàng và đa dạng các mối quan hệ đối ngoại.
4.3. Tác động của tín dụng trung và dài hạn đối với nền kinh tế.
Trong điều kiện thị trường vốn của ta chưa phát triển hoàn thiện thì hiện
tại và thời gian tới tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng vẫn đóng vai trò
quyết định cho tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Vì vậy,
nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là điều kiện cần thiết góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nứơc.
III. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Chất lượng tín dụng trung & dài hạn
Chất lượng tín dụng trung & dài hạn là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu
cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng trung & dài hạn, đảm bảo an toàn
hay hạn chế rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận cho Ngân hàng, phù hợp và phục vụ sự
phát triển kinh tế xã hội.
Để có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu
quả và quản hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong
hoạt động. Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích, đánh giá đúng
chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân của
những tồn tài về chất lượng tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng tìm được các biện
pháp quản lý thích hợp để có thể đững vững trong nền kinh tế thị trường hoạt
động sôi động và có sự cạnh tranh gay gắt.
2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung & dài hạn
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn biểu hiện qua hai nhóm chỉ tiêu định
tính và định lượng.
2.1. Nhóm chỉ tiêu định tính
- Nhóm chỉ tiêu định tính được thể hiện qua các quy chế, chế độ thể hệ tín
dụng
- Cho vay phải tuân chủ các nguyên tắc căn bản và chung nhất, đó là:

* Sử đụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng.
* Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong
hợp đồng tín dụng
Những nguyên tắc này được trải qua các thời đại khác nhau, tồn tại dưới
nhiều phương thức sản xuất và được đúc kết thành chuẩn tắc. Chúng hình thành
như một quy luật phát triển nội tại của tín dụng, là điều luật bất khả vi phạm,
tước bỏ, tách rời trong quan hệ tín dụng. Các nguyên tắc ấy tạo nên sự vững
chắc cho tín dụng. Vì vậy, một trong những nguyên tắc bị coi nhẹ hoặc nhấn
mạnh sẽ gây sự mất thăng bằng đó. Và kết quả tất yếu là sự phá vỡ trong quan
hệ tín dụng, làm tiêu tan dần vai trò tác dụng của nó, trở thành vật cản kìm hãm
hoặc đẩy lùi sự phát triển của nền kinh tế.
2.2. Nhóm chỉ tiêu định lượng
- Chỉ tiêu lợi nhuận
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung và dài hạn. Lợi
nhuận ở đây phải hiểu là chênh lệch giữa chi phí đầu vào (tức là lãi suất huy
động) và thu nhập từ lãi suất cho vay của tín dụng trung – dài hạn. xét cho cùng
thì khoản tín dụng dù không có nợ quá hạn, nợ quá hạn khó dòi thì cũng chỉ
nhằm mục đích tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng
với các Ngân hàng chưa phát triển các dịch vụ Ngân hàng thu từ hoạt động tín
dụng là chủ yếu.
Tuy nhiên đối với một số dự án trung – dài hạn theo kế hoạch nhà nước
thì chỉ tiêu này đôi khi tỏ ra không đầy đủ để phản ánh chất lượng tín dụng trung
– dài hạn. Vì mục tiêu kinh tế xã hội hay chiến lược phát triển các ngành công
nghiệp mũi nhọn, những ngành công nghiệp non trẻ thì đôi khi mục tiêu lợi
nhuận phải là hàng đầu. Lúc này lợi nhuận không phản ánh thực chất của khoản
tín dụng.
- Chỉ tiêu vòng quay vốn
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thu nợ của Ngân hàng theo kế hoạch trong
hợp đồng tín dụng ở mức nào. Nếu vong quay vốn lớn chứng tỏ Ngân hàng thu

hồi được vốn, hoạt động tín dụng có hiệu quả. Trong trường hợp ngược lại, chỉ
tiêu đó báo động cho ngân hàng về những bất ổn có thể xảy ra trong quá trình
thu hồi vốn. Từ đó, Ngân hàng sớm có biện pháp đôn đốc khách hàng, kịp thời
ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra. Đồng thời, đây cũng là cơ sở quyết định cho vay
trong những quan hệ tín dụng tiếp theo.
Lợi nhuận từ tín dụng trung –dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung –dài hạn
Thu nợ trung – dài hạn
Tổng dư nợ trung – dài hạn
- Chỉ tiêu nợ quá hạn
Đến kỳ hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên vay không đủ tiền để trả và
không được gia hạn thì ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ quá hạn. Nợ quá
hạn là chỉ tiêu phản ánh mặt trái của chất lượng tín dụng trung – dài hạn. Nợ quá
hạn rõ ràng là điều không mong muốn của các Ngân hàng nhưng Ngân hàng
nông nghiệp cũng không căn cứ vào chỉ tiêu này làm thước đo chuẩn để đánh
giá chất lượng tín dụng của món vay. Không phải cứ nợ quá hạn cao thì đánh giá
chất lượng tín dụng không tốt, không có khả năng thu hồi nợ và ngược lại. Trên
thực tế, các ngân hàng luôn cố gắng hạ thấp nhất tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá
hạn dưới 3% được coi là có thể chấp nhận được.
- Chỉ tiêu nợ quá hạn khó dòi
Nếu tỷ lệ cao thì khoản tín dụng có chất lượng thấp, không những thế nếu
tỷ lệ này bao hàm toàn bộ gốc và lãi của hợp đồng tín dụng thì vốn đầu tư của
Ngân hàng đã bị lãng phí một cách vô ích. Có rất nhiều nguyên nhân chủ quan
và khách quan dẫn đến tính trạng này. Yêu cầu đối với cán bộ tín dụng là phải
kiểm soát, kiềm chế tỷ lệ này ở mức thấp nhất.
- Chỉ tiêu sử dụng vốn
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá hiệu quả Ngân hàng, thể hiện quy mô tín
dụng. Nếu tỷ lệ tổng dư nợ so với số dư tiền gửi lớn, chứng tỏ ngân hàng đã cải
thiện được phần nào mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn, tạo được
tính cân đối giữa hai hoạt động cơ bản ấy.

Nợ quá hạn tín dụng trung – dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung – dài hạn
Nợ quá hạn khó dòi trung – dài hạn
Tổng dư nợ trung – dài hạn
Tổng dư nợ cho vay
Vốn huy động
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung – dài hạn
Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn chính
là những nhân tố gây ra sự biến động tốt hoặc xấu của chỉ tiêu đánh giá chất
lượng. Có nhiều nhân tố, chủ quan và khách quan, nhân tố bên trong và bên
ngoài nhưng tựu chung lại có thể phân thành 4 nhóm nhân tố chính:
- Môi trường kinh tế
- Môi trường pháp lý
- Nhân tố phía ngân hàng
- Nhân tố từ phía khách hàng
3.1. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế
Nghiên cứu sự ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động kinh
doanh tiền tệ của ngân hàng sẽ thấy được ảnh hưởng cuả nó tới chất lượng tín
dụng. Bất kì một ngân hàng cũng chịu sự chi phối của những chu kỳ kinh tế.
Trong giải đoạn nền kinh tế hưng thịnh thì các doanh nghiệp làm ăn phát đạt,
xuất hiện nhiều nhu cầu mở rộng sản xuất, nên nhu cầu tín dụng cũng tăng, hoạt
động tín dụng của ngân hàng sẽ phát triển. Trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái
thì tất yếu nhu cầu tín dụng giảm vì hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình trệ do
sản phẩm không tiêu thụ được, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế cũng giảm
sút. Lúc này Ngân hàng sẽ dư thừa, ứ đọng một lượng vốn lớn, nguồn vốn huy
động được sử dụng không hiệu quả có nghĩa là chất lượng tín dụng giảm.
3.2. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường pháp luật
Môi trường pháp luật được hiểu là một hệ thống luật và văn bản pháp lý
liên quan đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói
riêng. Những hoạt động này muốn có hiệu quả thì phải có một hệ thống pháp

luật đồng bộ, thống thất đầy đủ đi kèm hỗ trợ. Pháp luật đã trở thành một bộ
phận không thể thiếu trong cơ chế thị trường có sự quản tý của nhà nước. Không
có pháp luật hoặc hệ thống pháp luật không đầy đủ, không phù hợp với những
yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế sẽ trở nên
hỗn độn, không thể tiến hành trôi chảy. Pháp luật đã tạo lập tinh lang pháp lý
giúp cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và đạt kết quả
cao. Chỉ trong trưòng hợp các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng, chấp hành luật
pháp một cách nghiêm minh thì quan hệ tín dụng mới đạt kết quả mong muốn
đem lại chất lượng cho hoạt động tín dụng ngân hàng.
Hiện nay hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ đã gây khó khăn cho
ngân hàng khi ký kết, thực hiện các hợp đồng tín dụng. Thực tế cho thấy rằng,
luật ngân hàng còn nhiều sơ hở, chưa đồng bộ với các quy định, văn bản dưới
luật. Điều này ảnh hưởng đến việc quản lý chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Sự thay đổi chủ trương, chính sách của nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến
khả năng trả nợ của doanh nghiệp nhất là về cơ cấu kinh tế, chính sách xuất
nhập khẩu, do thay đổi một cách đột ngột, gây xáo trộn sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm hay chưa có phương
án kinh doanh mới dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó dòi.
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp còn nhiều sơ hở, nhà nước
cho phép nhiều doanh ngiệp được sản xuất kinh doanh với nhiều chức năng,
nhiệm vụ vượt quá trình độ, năng lực quản lý dẫn đến rủi ro thua lỗ làm giảm sút
chất lượng tín dụng.
3.3. Nhóm nhân tố thuộc về phía Ngân hàng
* Thẩm định dự án
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan
toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi của dự án để
ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
Mục đích của việc thẩm định dự án là nhằm giúp các ngân hàng có các kết
luận chính xác về tính khả thi, tính hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những
khả năng rủi ro có thể xảy ra của dự án để ra quyết định cho vay hay từ chối đầu

tư, xác định số tiền vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý phù hợp với năng
lực của doanh nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả cao.
* Chất lượng nhân sự
Con người ở đâu và bao giờ cũng vậy luôn là yếu tố quyết định đến sự
thành bại của công việc. Với ngành ngân hàng, khi các nghiệp vụ ngân hàng
ngày càng phát triển mở rộng thì đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có
thế sử dụng các phương tiện hiện đại, nắm bắt kịp thời các thông tin về kinh tế,
thị trường phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
* Lãi suất tín dụng trung – dài hạn: NHTM là tổ chức kinh doanh nhằm mục
tiêu lợi nhuận, các doanh nghiệp khác nhau, các chủ đầu tư khác nhau, bản thân
từng dự án có mức lợi nhuận khác, lãi có mức rủi ro, khối lượng vay vốn thời
hạn vay vốn khác nhau. Việc đáp ứng lãi suất khác nhau ở từng dự án là có hiệu
quả nhằm khuyên khích cả doanh nghiệp và ngân hàng vay vốn trung và dài hạn.
* Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng có một ý nghĩa to lớn quyết định đến sự thành công
hay thiết bị của cả hệ thống ngân hàng. Do vậy, khi xây dựng chính sách tín
dụng cần phải đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của người gửi tiền, của
ngân hàng và của người sử dụng vốn vay. Đồng thời chính sách tín dụng phải
phù hợp với đường lối phát triển nền kinh tế của Đảng, Nhà nước và cần được
dựa trên những cơ sở thực tiễn và khoa học nhất định.
Đối với các ngân hàng thương mại một chính sách tín dụng đúng đắn phải
đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro,
tuân thủ pháp luật và đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước đảm bảo công
bằng xã hội.
* Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng
Trang thiết bị góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín
dụng của Ngân hàng. Nó là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức quản lý ngân
hàng, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay và thực hiện nghiệp vụ giao dịch với
khách hàng. Đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện

nay, các trang thiết bị tin học đã góp cho ngân hàng cập nhật được thông tin
nhanh chống, kịp thời, chính xác. Trên cơ sở đó đưa ra quyết định tín dụng đúng
đắn, không bỏ lỡ thời cơ trong kinh doanh, giúp cho quá trình quản lý tiền vay
và thanh toánh được thuận tiện nhanh chóng và chính xác.
3.4. Nhóm nhân tố thuộc về phía khách hàng
Để đảm bảo khoản tín dụng được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả,
mang lại lợi ích cho ngân hàng, góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế xã hội thì khách hàng có vai trò hết sức quan trọng. Một khách hàng có tư
cách đạo đức tốt, có tình hình tài chính vững vàng, có thu nhập sẽ sẵn sàng hoàn
trả đầy đủ những khoản vay vốn của ngân hàng khi đến hạn.
Năng lực của khách hàng được hiểu là khả năng của doanh nghiệp trong
việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn đòi hỏi của tín dụng trung – dài hạn. Điều
kiện tín dụng được đưa ra nhằm tiêu chuẩn hoá khả năng của doanh nghiệp
trong quá trình vay vốn đồng thời đảm bảo cho khả năng thu hồi vốn của ngân
hàng. Khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng thể hiện ở các mặt sau:
+Năng lực thị trường của doanh nghiệp
Năng lực thị trường của doanh nghiệp được lượng hoá theo các mặt: Khối
lượng sản phẩm tiêu thụ, chất lượng sản phẩm như thế nào? Có phù hợp với thị
hiếu của người tiêu dùng hay không? Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường?
Quá khứ, hiện tại và tương lai phát triển của doanh nghiệp? Hệ thống tiêu thụ
sản phẩm của doanh nghiệp, mối quan hệ với các bạn hàng, với các đối tác?
Nghiên cứu năng lực thị trường của doanh nghiệp cho biết khả năng mở
rộng đầu tư của doanh nghiệp cũng như định hướng đầu tư của doanh nghiệp
nhằm kiểm tra sự phù hợp của dự án hoạt động với khả năng của doanh nghiệp.
+ Năng lực sản xuất của doanh nghiệp
Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu hiện giá trị công cụ lao động mà
chủ yếu là tài sản cố định, biểu hiện cụ thể là quá trình sản xuất sản phẩm, công
nghệ sản xuất, các nhu cầu đầu tư trước đây.
Nghiên cứu năng lực sản xuất của doanh nghiệp cho biết quy mô, sản xuất
của doanh nghiệp, sự phù hợp của quy mô đó với thị trường, cơ cấu và khả năng

làm chủ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
+ Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở số vốn tự có của doanh
nghiệp và tỷ trọng vốn tự có trên tổng nguồn vốn huy động. Ngoài ra, năng lực
tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh toán của doanh nghiệp
đối với các khoản nợ. Năng lực tài chính của doanh nghiệp trong tín dụng trung
– dài hạn còn đòi hỏi doanh nghiệp có số vốn lưu động tối thiểu cho việc duy trì
hoạt động thường xuyên của tài sản cố định. Vì vậy, năng lực tài chính của
doanh nghiệp càng cao thì càng thuận lợi cho Ngân hàng trong việc nâng cao
chất lượng tín dụng.
+ Năng lực quản lý doanh nghiệp
Việc xem xét khả năng thích nghi của bộ máy quản lý doanh nghiệp vói
biến động của cơ chế thị trường là điều cần thiết trước khi Ngân hàng quyết định
cho vay. Ngoài ra, việc xem xét việc phù hợp của hệ thống hạch toán kế toán và
quản lý tài chính của doanh nghiệp với quy định của pháp luật sẽ cho kết quả
đánh giá về năng lực quản lý của doanh nghiệp một cách chính xác hơn.
3.5. Các yếu tố tự nhiên
Đây là những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, dịch
bệnh… khi xảy ra thường gây ra hiệu quả lớn tác động đến cả ngân hàng và
khách hàng, ngân hàng không có khả năng thu hồi đựoc vốn. Điều đó ảnh hưởng
đến chất lượng tín dụng. Trước sự tác động của các yếu tố này, Ngân hàng khi
tiến hành đầu tư cần phải cân nhắc, báo cáo một cách cụ thể, chủ động phòng
ngừa nhằm giảm thiểu rủi ro.
Như vậy, việc nắm vững các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng
ngân hàng nói chung cũng như chất lượng tín dụng trung – dài hạn nói riêng và
biết tận dụng các nhân tố này trong hoàn cảnh thực tế của Ngân hàng mình sẽ
tạo ra một chất lượng tín dụng tốt, góp phần vào sự phát triển vững mạnh của
ngân hàng và của nền kinh tế quốc dân.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NHNN & PTNT CHI

NHÁNH QUẬN HOÀN KIẾM
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH QUẬN HOÀN KIẾM (NHNo&PTNT)
1. Lịch sử ra đời cuả NHNo&PTNT chi nhánh Quận Hoàn Kiếm:
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn được thành lập năm 1995
đã quyết định thành lập Ngân hàng chi nhánh khu vực Đồng xuân vào thàng 07
năm 1995. Lúc đầu Ngân hàng chỉ hoạt động nhỏ bé chủ yếu hoạt động nguồn
vốn và cho vay cho các hộ sản xuất nhỏ, năm 1995 Ngân hàng có dự án 4,5 tỷ
đồng nguồn vốn có 5 tỷ đồng thuộc Ngân hàng cấp IV.
Cho đến năm 1999 thì chi nhánh Ngân hàng khu vực chợ Đồng xuân đã
chuyển thành Ngân hàng No& PTNT quận Hoàn Kiếm thuộc Ngân hàng cấp III.
2. Chức năng và nhiệm vụ của NHNo&PTNT chi nhánh Quận Hoàn Kiếm
và của các phòng.
2.1. Chức năng và nhiệm vụ của NHNo&PTNT chi nhánh Quận Hoàn
Kiếm.
2.1.1. Chức năng
- Trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ theo lệnh của Giám đốc NHNo
- Đầu mối thực hiện các nhiệm vụ theo uỷ quyền của NHNo
- Trực tiếp kinh doanh đa năng trên địa bàn trong khu vực
2.1.2. Nhiệm vụ
- Đầu mối thực hiện thanh toán trong nước, quản lý tài khoản tiền gửi nội tệ của
các đơn vị thành viên tại chi nhánh và của các đơn vị khác.
- Quản lý vốn nội, ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi của NHNo. Cân đối điều hoà vốn
ngoại tệ trong hệ thống Ngân hàng. Chấp hành quy chế về dự trữ bắt buộc, trạng
thái ngoại tệ của chi nhánh.
- Huy động vốn
+ Khai thác và nhận tiền gửi không kỳ hạn, có ký hạn, tiền gửi thanh toán
của các tổ chức, và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và ngoài
nước bằng đồng tiền Viêt nam và ngoại tệ.
+ Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu Ngân hàng và thực

hiện các hình thức huy động vốn khác theo quy định của chi nhánh NHNo.
+ Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác của chính phủ, các tổ chức
kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước.
+ Vay vốn ngắn hạn, trung và dài hạn theo quy định của NHNo.
- Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng đồng tiền Việt nam và ngoại tệ đối
với khách hàng.
- Đầu tư dưới các hình thức như: hùn vốn, liền doanh, và các hình thức đầu tư
khác đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác khi được NHNo cho phép.

×