GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật NHNN Việt Nam số 01/1997 ngày 12/12/1997.
2. Luật các Tổ chức tín dụng số 20/1997 ngày 12/12/1997.
3. Tài liệu giảng dạy môn Lý thuyết tiền tệ – Ngân hàng ( tháng 8/2012).
4. Tiền tệ và thị trường tài chính. Tác giả Fredẻic S.Mishkin.
5. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2020.
6. Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng ( Học viện Ngân hàng - 2000)
7. Đổi mới và thực hiện đồng bộ các chính sách, cơ chế quản lý kinh tế.
8. Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.
9. Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
10. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm 2010, 2011, 2012 của NHNo &
PTNT Chi nhánh Ba Đình – Thanh Hoá.
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 1
1
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG CHUYÊN ĐỀ
1. NHNo&PTNT : Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
2. NHTW : Ngân hàng trung ương
3. TCTD :Tổ chức tín dụng
4. NHNN : Ngân hàng nhà nước
5. NHTM : Ngân hàng thương mại
6. NHTMCP : Ngân hàng thuơng mại cổ phần
7. NHTMNN : Ngân hàng thương mại nhà nước
8. NHNT : Ngân hàng ngoại thương
9. ICB : Ngân hàng công thuơng
10. VCB : Ngân hàng ngoại thưong
11. BIDV : Ngân hàng đầu tư và phát triển
12. ANZ : Ngân hàng quốc tế
13. VND : Đồng Việt nam
14. CNH – HĐH : Công nghiệp hoá hiện đại hoá
15. GDP : Tổng thu nhập quốc dân
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 2
2
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Kết quả huy động vốn của Chi nhánh NHNo Ba Đình qua các năm 2010,
2011 và 2012
Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn tại Chi nhánh NHNo Ba Đình qua các năm 2010,
2011 và 2012
Bảng 3: Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNo Ba Đình qua các năm
2010, 2011 và 2012
Bảng 4: Dư nợ tín dụng theo thời hạn của Chi nhánh NHNo Ba Đình qua các năm
2010, 2011 và 2012
Bảng 5: Dư nợ tín dụng theo khách hàng vay của Chi nhánh NHNo Ba Đình qua
các năm 2009, 2010 và 2011
Bảng 6: : Nguồn vốn huy động theo loại tiền của Chi nhánh NHNo Ba Đình qua
các năm 2010, 2011 và 2012
Bảng 7: Thực trạng huy động vốn tại Chi nhánh
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 3
3
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
LỜI CAM ĐOAN
- Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng Tôi.
- Số liệu và kết quả nêu trong chuyên đề là trung thực và xuất phát từ tình hình
thực tế của đơn vị.
- Các số liệu này chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào
khác.
Tác giả khoá luận
Bùi Văn Việt
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 4
4
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Thanh Hóa, ngày tháng năm 2013
Giáo viên hướng dẫn
(ký, ghi rõ họ tên)
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 5
5
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hoá về kinh tế, cùng với chính sách mở cửa hội
nhập quốc tế và khu vực, các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động
giao lưu thương mại của nước ta với các nước trênthế giới trong những năm gần
đây đã ngày càng mở rộng và phát triển.
Việc gia nhập WTO là dấu ấn quan trọng trong tiến trình đổi mới nền kinh tế của
Việt Nam, đặt các định chế tài chính như Ngân hàng thương mại (NHTM) đứng
trước một môi trường phát triển mới. Vai trò của hệ thốngNgân hàng thương
mại ngày càng trở nên hết sức quan trọng, nó trở thành môt kênh huy động
và phân phối nguồn vốn chủ yếu cho nền kinh tế. Huy động vốn đảm bảo cho nhu
cầu kinh doanh cho chính mình, đồng thời đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho nền
kinh tế luôn là mục tiêu hàng đầu trong chiến lược kinh doanh của các Ngân hàng.
Trong nền kinh tế mở, cácNgân hàng thương mại luôn đứng trước xu thế cạnh
tranh gay gắt. Vì thế, việc đảm bảo nguồn vốn hợp lý sẽ là vũ khí quan
trọng để tạo một lòng tin vững chắc nơi khách hàng, khách hàng sẽ tin tưởng và an
tâm gửi tiền vào Ngân hàng và không lo ngại một sự rủi ro nào cho khoản tiền gửi
của họ. Xong, sự diễn biến phức tạp của tình hình tài chính thế giới cùng với những
biến động mạnh mẽ của mức lãi suất trong nước làm cho việc huy động
vốn của các Ngân hàng trong nước gặp nhiều khó khăn hơn.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thanh Hóa nói chung
và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Ba Đình nói riêng
cùng hòa vào nhịp phát triển chung của hệ thống Ngân hàng trong cả nước
và đang khẳng định lại vị thế của mình. Thế mạnh củaNgân hàng là tài trợ
xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ,…Và trong
những năm gần đây, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh
Ba Đình được đánh giá làNgân hàng hoạt động có hiệu quả, luôn vượt chỉ tiêu kế
hoạch do Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thanh Hóa
đặt ra, đặc biệt là công tác huy động vốn và sử dụng vốn. Tuy nhiên, do
điều kiện kinh tế trên địa bàn thành phố Thanh Hóa chủ yếu dựa vào sản xuất
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 6
6
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ nên người dân vẫn
chưa nhận thức hết vai trò củaNgân hàng. Đây là một trong những khó khăn mà
Ngân hàng đang phải đối mặt nhất là trong việc huy động vốn. Thêm vào đó là sự
cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng trên địa bàn buộc Chi nhánh phải nỗ lực rất
lớn mới có thể hoạt động hiệu quả hơn, nhất là việc đảm bảo nguồn vốn kinh
doanh nhằm đảm bảo uy tín và độ an toàn cho khách hàng.
Với những phân tích trên cho thấy việc phân tích tình hình huy động vốn và tìm ra
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn là một vấn đề mà Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Ba Đình – Thanh hóa , rất
quan tâm. Để giúp Chi nhánh thấy rõ hơn về thực trạng huy động vốn như
thế nào, đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Ba Đình - Thanh Hóa ”được chọn làm
đề tài chuyên đề tốt nghiệp. Qua đề tài nàygiúp hiểu rõ về Ngân hàng, cơ cấu
tổ chức cũng như hiểu rõ hơn về tình hình huy động vốn của Chi nhánh trong 3 năm
qua, từ đó có thể biết được nhu cầu về vốn của Chi nhánh và đưa ra những giải pháp
giúp nghiệp vụ huy động vốn ngày càng hiệu quả hơn góp phần vào sự phát triển
của toàn hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh
Thanh Hóa
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 7
7
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
1 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.1. Mục tiêu chung
Phân tích và đánh giá từ khái quát đến cụ thể tình hình huy động vốn.Từ đó rút ra
những mặt tích cực cũng như hạn chế đểNgân hàng có những kế hoạch, giải pháp
phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn.
1.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tíchchung tình hình huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn chi nhánh Ba Đình - Thanh Hóa
- Đánh giá hiệu quả trong công tác huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn chi nhánh Ba Đình - Thanh Hóa
- Phân tích nhữngđiểm mạnh, điểm yếu của Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn chi nhánh Ba Đình Thanh Hóa trong việc huy động vốn.
- Đề ra giải pháp và kiến nghị nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả huy
động vốn cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Ba Đình -
Thanh Hóa .
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề huy động vốn vàn những điểm
mạnh cùng những tồn tại về công tác huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn chi nhánh Ba Đình - Thanh Hóa .
1.4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1. Giới hạn về không gian
Đối với hoạt động củaNgân hàng thì rất phong phú và đa dạng, tham gia trong nhiều
lĩnh vực kinh doanh. Nhưng do kiến thức cũng như thời gian nghiên cứu còn hạn
chế, đề tài chỉ nghiên cứu hoạt động huy động vốn của Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Ba Đình - Thanh Hóa chứ không phân
tích cho toàn hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh
Thanh Hóa . Đề tài không phân tích quá chi tiết từng nghiệp vụ cụ thể mà phân tích
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 8
8
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
tổng quát những khoản mục trong hoạt động huy động vốn và những nhân
tố khách quan, chủ quan tácđộng đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Ba Đình - Thanh Hóa
1.4.2. Giới hạn về thời gian:
Đề tài được tiến hành dựa trên việc phân tích số liệu của Ngân hàng 3 năm 2010,
2011, 2012.
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 9
9
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VỐN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.Khái niệm và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại
1.1. Khái niệm vốn của ngân hàng thương mại
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập hoặc
huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh
khác.
Thực chất, vốn của Ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn
rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, người chủ sở hữu của chúng
gửi vào Ngân hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay đầu tư. Nói cách khác, họ
chuyển nhượng quyền dử dụng vốn cho Ngân hàng, để Ngân hàng trả lại cho họ
một khoản thu nhập.
Như vậy, Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại vốn dưới
hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích thích mọi hoạt
động kinh tế phát triển.Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định sự tồn tại
và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
1.2.1. Vốn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành ngân hàng thương mại
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh được thì
phải có: Công nghệ - Lao động – Tiền vốn trong đó vốn là nhân tố quan trọng, nó
phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với ngân
hàng thương mại, vốn lại càng là nhân tố không thể thiếu trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Vốn là cơ sở để ngân hàng thương mại tổ chức hoạt độnh
kinh doanh, ngân hàng không thể thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh nếu không có
vốn. Như đã biết, đặc trưng của hoạt động ngân hàng: Vốn không chỉ là phương tiện
kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương
mại. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường tiền tệ
(thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán(thị trường vốn dài hạn). Hơn
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 10
10
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
nữa, vốn lớn là lợi thế đầu tiên trong việc chấp hành pháp luật trước hết là luật
NHTW, luật các TCTD, tạo thế mạnh và thuận lợi trong kinh doanh tiền tệ. Chính vì
thế, có thể nói vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng, là khâu
cốt lõi của ngân hàng. Do đó, ngoài vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo
luật định thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong
suốt quá trình hoạt động của mình
Từ đặc trưng kinh doanh của Ngân hàng, vốn vừa là phương tiện kinh doanh, vừa là
đối tượng kinh doanh.Các ngân hàng thương mại thực hiện kinh doanh loại “hàng
hoá đặc biệt” – tiền tệ trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường
chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Vì vậy, ngoài vốn ban đầu khi thành lập theo
quy định của pháp luật, các Ngân hàng phải thường xuyên tìm mọi biện pháp để
tăng trưởng vốn trong quá trình hoạt động kinh doanh.
1.2.2. Vốn quyết định khả năng thanh toán và năng lực cạch tranh của Ngân
hàng:
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động đòi
hỏi các ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường là điều trọng yếu. Uy tín đó
phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán, chi trả cho khách hàng
của ngân hàng. Chúng ta đã biết, đại bộ phận vốn của ngân hàng là vốn tiền gửi và
đi vay, do vậy ngân hàng phải trả cho khách hàng khi họ có yêu cầu rút tiền. Với
một ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, khi nhu cầu vay vốn trên thị trường là rất lớn,
một mặt ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu vay, mặt khác với quy mô nhỏ, ngân
hàng nếu cho vay tối đa nguồn vốn huy động đuợc, dự trữ ít sẽ dẫn đến mất khả
năng thanh toán. Trong khi đó, với một ngân hàng có nhiều vốn, họ thực hiện dự trữ
đủ khả năng thanh toán đồng thời vẫn thỏa mãn được nhu cầu vay vốn của nền kinh
tế, do đó sẽ tạo được uy tín ngày càng cao cho khách hàng.
Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng
lớn. Vì vậy nếu loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ
thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với vốn khả dụng của ngân hàng nói
riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 11
11
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả nhằm giữ chữ
tín, vừa nâng cao vị thế của ngân hàng.
1.2.3. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động kinh doanh
khác của Ngân hàng:
Vốn của Ngân hàng quyết định việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng.
Thông thường, các Ngân hàng nhỏ phạm vi hoạt động kinh doanh, khoản mục đầu
tư, khối lượng cho vay ít và kém đa dạng hơn. Do đó, ảnh hưởng đến khả năng thu
hút vốn của các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư, thậm chí không đáp ứng được
nhu cầu vốn vay của doanh nghiệp. Họ sẽ mất khách hàng và không tận dụng được
cơ hội kinh doanh. Nếu là Ngân hàng lớn, nguồn vốn dồi dào chắc chắn họ sẽ đáp
ứng được nhu cầu về vốn, có điều kiện để mở rộng quan hệ tín dụng với nhiều
doanh nghiệp và thị trường tín dụng.
Nguồn vốn lớn còn giúp Ngân hàng hoạt động kinh doanh với nhiều loại hình khác
nhau như: Liên doanh liên kết, dịch vụ thuê mua tài chính, kinh doanh chứng
khoán… các hình thức kinh doanh này nhằm phân tán rủi ro và tạo thêm vốn cho
Ngân hàng. đồng thời, nâng cao uy tín và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Vì
vậy, vốn có vai trò quyết định trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.2.4 Nguồn vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng:
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật của ngân
hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả năng vốn lớn là điều
kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành
phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn
cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu
hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên
nhanh chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng là
điều kiện để bổ xung thêm vốn tự có của ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ
thuật và quy mô hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực.
Đồng thời vốn của ngân hàng lớn sẽ tạo ra thuận lợi cho việc sử dụng tổng hòa các
nguồn vốn khác. Trên cơ sở đó sẽ giúp ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh
doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng các
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 12
12
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua (leasing), mua bán nợ
(phactoring), kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Chính các hình thức kinh
doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo
thêm vốn cho ngân hàng đồng thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị
trường.
Ngoài ra vốn của ngân hàng dồi dào sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng nhà nước đảm
bảo khả năng thực thi chính sách tiền tệ, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, đảm
bảo cân đối tiền – hàng trong nền kinh tế.
Xuất phát từ vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng và
của nền kinh tế nên nguồn vốn nói chung và vốn huy động nói riêng phải thường
xuyên được bảo toàn và không ngừng mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả của vốn
là tiền đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của hoạt động kinh doanh
ngân hàng, đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, nâng cao hiệu quả huy động vốn là
sự cần thiết trong quá trình hoạt động của ngân hàng thương mại ở tất cả các quốc
gia.
1.3. Nội dung và tính chất của các loại vốn trong ngân hàng thương mại
1.3.1. Vốn tự có:
Vốn tự có của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập
được thuộc về sở hữu của ngân hàng. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu
dài để hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng.Vốn này chiếm tỷ lệ
nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi
thành lập một ngân hàng.
Do tính chất ổn định của nó, Ngân hàng có thể sử dụng vào các mục đích khác nhau
như trang bị cơ sở vật chất, mua tài sản cố định, dùng để đầu tư hay góp vốn liên
doanh. vốn tự có là căn cứ quyết định khả năng thanh toán khi Ngân hàng gặp rủi
ro. Sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định năng lực và sự phát triển của ngân
hàng thương mại. Vốn tự có của Ngân hàng được hình thành căn cứ vào hình thức
tổ chức của ngân hàng thương mại là: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân
hàng thương mại cổ phần hay ngân hàng thương mại liên doanh.
Vốn tự có gồm các thành phần: vốn tự có cơ bản và vốn tự có bổ sung.
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 13
13
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
+ Vốn tự có cơ bản: Là vốn điều lệ – vốn pháp định
- Vốn điều lệ: do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của
Ngân hàng, theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định.
- Vốn pháp định: Là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp
luật quy định.
+ Vốn tự có bổ sung là vốn được bổ sung trong quá trình hoạt động của ngân hang,
gia tăng vốn chủ của ngân hàng theo nhiều phưong thức khác nhau tùy thuộc vào
điều kiện cụ thể và của các quỹ như: Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự trữ đặc
biệt và quỹ khác.
Nguồn nội bộ (nguồn từ lợi nhuận): Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không,
ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng
thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích
lũy từ lợi nhuận và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm có thu nhập ròng lớn,
nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao hơn với vốn của chủ hình thành ban đầu.
Nguồn bên ngoài: Là nguồn bổ xung từ phát hành thêm cổ phiếu để mở rộng quy
mô hoạt động hoặc để đổi mới trang thiết bị hay để đáp ứng yêu cầu vốn của chủ do
ngân hàng nhà nước quy định.
Nếu phát hành cổ phiếu thường phải chia sẻ quyền lực và lợi nhuận
Nếu phát hành cổ phiếu ưu đãi thì không chia sẻ quyền lực và lợi tức là cố định
Nếu phát hành trái phiếu chuyển đổi thì không mất quyền sở hữu và lợi nhuận có
thể chuyển đổi ra tiền tiết kiệm nhưng trái phiếu vẫn là một khoản nợ và ngân hàng
phải để một khoản quỹ để trả nợ.
Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên song giúp ngân hàng
có được lượng vốn sở hữu vào lúc cần thiết.
Các quỹ:
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ:
Là quỹ được dùng với mục đích tăng cường vốn tự có ban đầu. Lợi nhuận hàng năm
bổ sung vào quỹ này cho đến khi đạt 50% vốn tự có thì sẽ chuyển thành vốn tự có.
- Quỹ dự trữ đặc biệt:
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 14
14
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
Là quỹ dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình kinh doanh nhằm bảo toàn
vốn.
- Các quỹ khác:
Gồm có lợi nhuận chưa phân phối, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ khấu hao tài
sản cố định.
Các quỹ trên thuộc sở hữu của ngân hàng. Nguồn hình thành là từ thu nhập của
ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được
coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng (vốn bổ sung) do nguồn này có một
số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không
phải hoàn trả khi đến hạn.
1.3.2. Vốn huy động:
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức
kinh tế và cá nhân trong xã hội, thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ tín dụng,
thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Nguồn vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, Ngân hàng chỉ có
quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng thời
hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút.Vốn huy động đóng vai trò
rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên, tỷ lệ thuận với mọi thành phần kinh tế
trong xã hội. Do đó, các ngân hàng thương mại luôn quan tâm khai thác để mở rộng
tín dụng. Nhưng nguồn vốn này chỉ được sử dụng một phần để kinh doanh, còn phải
dự trữ một tỷ lệ hợp lí để đảm bảo khả năng thanh toán.
Vốn huy động gồm có: Vốn tiền gửi và phát hành những giấy tờ có giá.
Vốn tiền gửi:
+ Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng
nhưng có thể rút ra bất cứ lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu này (gửi
tiền để sử dụng séc, sử dụng thẻ rút tiền hoặc để thực hiện dịch vụ chuyển tiền, dịch
vụ LC hay dịch vụ nhờ thu).
Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi, gồm tiền gửi thanh
toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý.
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 15
15
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân
để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Ngân hàng thực hiện các nhu cầu chi trả
của doanh nghiệp và cá nhân trong phạm vi số dư cho phép. Các khoản thu bằng
tiền của doanh nghiệp và cá nhân có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu
cầu, với loại tiền gửi này lãi suất là rất nhỏ (hoặc bằng 0)
Tiền gửi không kỳ hạn chỉ không ổn định với cá nhân còn đối với doanh nghiệp rất
ổn định.
Tài khoản tiền gửi thanh toán:Là tài khoản mà việc rút và nộp tiền được thực hiện
bằng séc hoặc chuyển khoản.
Tài khoản vãng lai: Là tài khoản lúc dư nợ, lúc dư có.
Tuy nhiên, ở Ngân hàng luôn có sự chênh lệch giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản
tiền gửi thanh toán, thường nhập lớn hơn xuất.Từ đó, tạo nên một khoản tiền tạm
thời nhàn rỗi và Ngân hàng có thể sử dụng một phần để kinh doanh.
Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là khoản tiền kí gửi với mục đích an toàn tài sản,
không phải để thanh toán, khi cần khách hàng có thể rút ra để chi tiêu và Ngân hàng
phải thoả mãn yêu cầu của họ. Ngân hàng có thể sử dụng phần dư thừa nếu đảm bảo
được khả năng chi trả.
+ Tiền gửi có kỳ hạn:
Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận giữa khách hàng và Ngân hàng về thời gian rút
tiền.Về nguyên tắc khách hàng không được rút tiền trước thời hạn.Tiền gửi có kỳ
hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm.Đây là nguồn
tiền tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng phần lớn khoản tiền này vào kinh
doanh. Chính vì vậy các ngân hàng thương mại luôn tìm cách đa dạng hóa loại tiền
gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng
nhu cầu của khách hàng. Các khoản tiền gửi có kỳ hạn không được dùng để thanh
toán, thường có lãi xuất cao và thời hạn dài hơn.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Là một phần thu nhập của người lao động chưa sử dụng đến,
tạm thời nhàn rỗi. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách an
toàn và hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm có hai loại: tiết kiệm không kỳ hạn và tiết kiệm
có kỳ hạn.
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 16
16
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền có thể rút ra bất kỳ lúc nào nhưng
không được dùng các phương tiện thanh toán để chi trả cho khách hàng.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận của khách hàng và
Ngân hàng về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn.
Tiền gửi của các ngân hàng khác là nguồn tiền của các ngân hàng thường mài gửi
vào nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ hay một số mục đích khác.
Đây là nguồn vốn chính để ngân hàng kinh doanh tiền tệ, nó là một trong những
nguồn vốn ổn định nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên tiền gửi có kỳ hạn
của doanh nghiệp chủ yếu là ngắn hạn vì doanh nghiệp hoạt động có chu kỳ, khi
nào tạm thời thừa vốn thì mới gửi ngân hàng. Mặt khác:
Lãi suất huy động nhỏ hơn lãi suất vay nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền
kinh tế.
Nếu lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động: Ngân hàng có lãi
Nếu tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế < lãi suất cho vay
< lãi suất huy động thì mọi người gửi hết tiền vào ngân hàng và không kinh doanh
nữa như vậy ngân hàng không cho ai vay được điều này không thể xảy ra do đó
không bao giờ gửi vốn vào ngân hàng trung dài hạn vì mục đích họ hướng tới là tỷ
suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
+ Phát hành giấy tờ có giá:
Bên cạch các phương thức trên, các NHTM còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái
phiếu và kỳ phiếu.Thực chất là việc huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ
có giá.
+ Kỳ phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ của ngân hàng có kỳ hạn nhỏ hơn 12 tháng
- Đặc trưng của nó là quản lý được chính sách lãi suất trong ngắn hạn
- Tính lỏng cao
- Ngân hàng phát hành chủ động hơn về mặt quy mô hoạt động (chỉ thông qua
tổng giám đốc)
+ Trái phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ của ngân hàng có thời hạn lớn hơn 12 tháng
- Đặc trưng: Quản lý được chính cách lãi suất trong dài hạn
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 17
17
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
- Tính lỏng cao, có thể mua bán được trên thị trường chứng khoán
- Phát hành thông qua thống đốc ngân hàng
+ Chứng chỉ tiền gửi
Các giấy tờ có giá được Ngân hàng phát hành từng đợt, tuỳ theo mục đích với sự
chấp thuận của ngân hàng nhà nước, hình thức huy động vốn này các ngân hàng
thương mại phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi thông thường.
Qua trình bày trên, vốn huy động là nguồn vốn giữ vị trí quan trọng và chủ yếu
trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng nguồn vốn (khoảng 80%). Các ngân hàng thương mại phải tôn trọng về
mức vốn huy động theo quy định của pháp luật.
1.3.3. Vốn đi vay
Vốn đi vay:Là khoản tiền vay muợn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng
huy động vốn bị hạn chế. Đây là nguồn chủ yếu để chống rủi ro thanh khoản của
các ngân hàng.
- Vay từ NHTW là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
ngân hàng thương mại. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (tái
cấp vốn). Các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu (tái chiết
khấu) trở thành tài sản của họ.Khi cần tiền ngân hàng mang những thương phiếu
này lên tái chiết khấu tại NHNN.Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những
thương phiếu có chất lượng như thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao và phù
hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương
phiếu NHNN cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn
mức tín dụng nhất định. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong ngân hàng, nó chủ
yếu là vốn ngắn hạn, chi phí cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của
NHTW:
+ Nếu ngân hàng trung ương thắt chặt tiền tệ với lãi suất cao
+ Nếu mở rộng tiện tệ thì lãi suất thấp
Ngân hàng trung ương cho vay nhằm mục đích để bảo vệ an toàn cho toàn hệ
thống ngân hàng và thực hiện chính sách tiền tệ. Vay từ ngân hàng thương mại khác
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 18
18
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác
trên thị trường liên ngân hàng.
Với các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết quả dư gia tăng bất ngờ
về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng khác
vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn.
Với các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ lại có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm
bảo thanh khoản
+ Vay qua đêm là hợp đồng vay mượn bất thành văn giữa hai ngân hàng chủ yếu
thông qua điện thoại và điện tín chỉ có thời hạn không quá một ngày
+ Vay kỳ hạn là hợp đồng vay mượn thành văn có thời hạn cụ thể (vài tuần, vài
tháng, hoặc vài năm). Thường các ngân hàng đi vay phải có giấy tờ có giá để cầm
cố đưa cho ngân hàng cho vay.
- Đây là nguồn vốn chủ yếu là ngắn hạn
- Tỷ trọng tương đối lớn đặc biệt là ngân hàng bán buôn
- Chi phí cao hay thấp phụ thuộc vào cung cầu trên thị truờng tiền tệ
Vay trên thị trường vốn: Các ngân hàng vay mựơn bằng cách phát hành các giấy nợ
(kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Các khoản vay trung và dài hạn
nhằm bổ xung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầucho vay và đầu tư trung dài
hạn.Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo.
Ngân hàng nào có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn nhiều hơn.
Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp họ phải thông qua các ngân
hàng đại lý hoặc đựoc bảo lãnh của các ngân hàng đầu tư.
Khả năng vay mượn còn được phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài
chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng.
1.3.4. Vốn khác
Vốn khác là toàn bộ giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được thông qua việc
cung cấp các phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ ủy thác đầu tư. Bao
gồm nguồn ủy thác, nguồn thanh toán và các nguồn khác
Nguồn ủy thác là nguồn vốn mà ngân hàng có được nhờ thực hiện tốt các dịch vụ
của khách hàng đặc biệt là dịch vụ cho vay và dịch vụ thanh toán.
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 19
19
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
- Nguồn vốn này thường có chi phí rất thấp
- Tỷ trọng nguồn vốn này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng dịch vụ và uy tín
của khách hàng.
Nguồn trong thanh toán: Nguồn này được hình thành từ các hoạt động thanh toán
không dùng tiền mặt như: Séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C.
Những ngân hàng này là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền
của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.
Nguồn khác: Là các khoản nợ như thuế chưa nộp, lưong chưa trả .v.v…
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại tạo được một
khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán, gồm: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài
khoản tiền gửi séc bảo chi… Các khoản tiền mặt tạm thời được trích khỏi tài khoản
này để nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên được gọi là tiền nhàn rỗi.
Qua nghiệp vụ đại lý, các NHTM thu hút được một lương vốn trong quá trình thu -
chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín dụng, nhận và chuyển vốn cho khách
hàng hay một dự án đầu tư…
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng và nội dung biện pháp tạo vốn của ngân hàng
thương mại
1.4.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng thương mại
Mọi hoạt động kinh doanh diễn ra đều chịu sự tác động nhất định của môi trường
xung quanh. Công tác huy động vốn – một nghiệp vụ quan trọng hàng đầu của ngân
hàng thương mại cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong cơ chế thị trường, các
ngân hàng thương mại buộc phải cạch tranh để có thể thu hút được nguồn vốn lớn
với chi phí thấp để tồn tại và phát triển. Do đó, nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng,
tìm giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn là rất cần thiết. Các nhân tố ảnh
hưởng đến công tác huy động vốn có nhiều và rất đa dạng, nhưng tập trung lại có
hai nhóm nhân tố là: Khách quan và chủ quan.
1.4.2. Nhóm nhân tố khách quan (PEST):
Bao gồm: Chính trị - pháp luật, kinh tế, môi trường xã hội và công nghệ
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 20
20
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
- Hành lang pháp lý: Có ảnh hưởng lớn đến nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng
thương mại như luật các tổ chức tín dụng, luật ngân hàng nhà nước… Những luật
này quy định tỷ lệ huy động vốn của ngân hàng thương mạiso với vốn tự có, quy
định việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu và quy định cả mức cho vay của ngân hàng
thương mại đối với khách hàng…
Sự can thiệp của ngân hàng nhà nước khi thực hiện mục tiêu của chính sách tiền
tệ cũng ảnh hưởng tới việc huy động vốn, vì khi thực hiện chính sách tiền tệ nới
lỏng sẽ mang lại thuận lợi cho NHTM trong việc huy động vốn vay từ NHNN.
Đồng thời, nó còn có tác dụng làm giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ.Ngược lại,
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ khó khăn hơn trong việc huy động vốn vay
từ NHNN.
Chính sách đầu tư của Nhà nước hợp lý hay không hợp lý cũng ảnh hưởng đến
chính sách huy động vốn của Ngân hàng. Để khuyến khích sản xuất, đầu tư, Nhà
nước có chính sách bảo hộ cho hàng hoá sản xuất, chính sách trợ giá… tạo điều
kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển và có lãi. Các doanh nghiệp và người lao
động có tích luỹ là nền tảng để Ngân hàng huy động vốn được nhiều hơn.
- Sự tăng trưởng của nền kinh tế: Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng, doanh nghiệp
và cá nhân có thu nhập khá, tích luỹ được nhiều nên các khoản tiền ký thác thường
tăng nhanh để đáp ứng các giao dịch kinh tế. Mặt khác, nền kinh tế phát triển sẽ có
tác động ngược lại, nhiều doanh nghiệp mới được thành lập, giao dịch kinh tế tăng
hơn, hình thành một bộ phận tích luỹ, tạo môi trường tiềm tàng để NHTM thu hút
vốn.
Chu kỳ kinh tế (phục hồi – Tăng trưởng – Bão hòa – Suy thoái).
Ngân hàng thương mại phải tìm biện pháp huy động sao cho có hiệu quả, vừa thúc
đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, vừa đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Ngược
lại, khi nền kinh tế suy thoái, sản xuất bị đình trệ, môi trường đầu tư của Ngân hàng
sẽ bị thu hẹp, lợi nhuận của Ngân hàng giảm, quá trình huy động vốn sẽ gặp nhiều
khó khăn. Hơn thế nữa, lạm phát làm cho đồng tiền mất giá, người dân sẽ không gửi
tiền vào Ngân hàng, mà dùng tiền để mua hàng hoá có giá trị để cất trữ cũng ảnh
hưởng đến việc huy động vốn của Ngân hàng.
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 21
21
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
Bên cạnh đó chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa quốc gia cũng ảnh hưởng tới
việc tạo vốn của ngân hàng.Nếu mở rộng tiền tệ thì sẽ huy động vốn dễ, nếu thắt
chặt tiền tệ sẽ huy động vốn khó. Khi chính sách tài khóa thu hẹp cũng như tăng
thuế, giảm chi tiêu chính phủ cũng dẫn tới tăng thất nghiệp nên khó huy động vốn.
Mặt khác lãi suất giảm sẽ không hấp dẫn được nguồn tiết kiệm vì người có tiền sẽ
chỉ quan tâm tới lãi suất dương, vậy nên không ai muốn gửi tiền tiết kiệm.
Tỷ giá hối đoái cũng ảnh hưởng tới việc tạo vốn của ngân hàng. Khi đồng Việt Nam
mất giá dân chúng không muốn giữ đồng nội tệ mà chuyển sang cất giữ đồng ngoại
tệ và vàng, vì vậy huy động vốn nội tệ trong dâc cư sẽ giảm.
- Môi trường – xã hội: Đời sống, thu nhập của người dân là yếu tố trực tiếp quyết
định đến lượng tiền gửi vào Ngân hàng. Thật vậy, thu nhập của người lao động càng
cao thì nguồn vốn huyđộng được vào Ngân hàng càng lớn. Bởi vì, người dân có thu
nhập cao ngoài việc thoả mãn được yêu cầu của đời sống, họ còn giành một phần để
tích luỹ. Số tiền tích luỹ này sẽ dùng để thoả mãn nhu cầu cao hơn trong tương lai.
Tâm lý và thói quen tiêu dùng của người dân cũng ảnh hưởng đến việc huy động
vốn của Ngân hàng.Ở các nước phát triển, nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt
qua Ngân hàng rất phát triển.Các nước chậm phát triển, tâm lý ưa dùng tiền mặt và
tích luỹ tiền không gửi vào Ngân hàng là khá phổ biến.Tâm lý và thói quen tiêu
dùng còn rất khác nhau giữa các dân tộc và các vùng, miền ở nước ta.Vì vậy, phát
triển nhanh các hình thức không dùng tiền mặt có ý nghĩa quan trọng trong việc huy
động vốn của Ngân hàng.
- Công nghệ: Các ngân hàng ứng dụng công nghệ cao thì càng tăng được khả năng
huy động vốn vì càng tăng khả năng tiếp cận với khách hàng, giảm được thời
gian .v.v…Hiện nay các NHTM ở nước ta đã đưa máy rút tiền tự động ATM vào thị
trường để khách hàng sử dụng, khách hàng có thể rút tiền ở mọi lúc, mọi nơi.
1.4.3. Nhân tố chủ quan
- Chính sách lãi suất:
Là một nhân tố quan trọng, có tác động mạnh đến việc huy động vốn của NHTM,
đặc biệt là đối với các khoản vốn mà người gửi hoặc người dân đầu tư vào Ngân
hàng với mục đích hưởng lãi. Các Ngân hàng cạnh tranh không chỉ về lãi suất huy
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 22
22
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
động với các Ngân hàng khác mà cả với thị trường tiền tệ. Do đó, chỉ một sự khác
biệt nhỏ về lãi suất có thể đẩy dòng vốn nhàn rỗi trong xã hội đầu tư theo những
chiều hướng khác nhau. Đó cũng là lý do, động lực để các nhà đầu tư hoặc người
gửi tiền chuyển vốn từ Ngân hàng này sang Ngân hàng khác.
Vì vậy, xác định một lãi suất hợp lý, có tính cạch tranh là một vấn đề vô cùng quan
trọng, phải được nghiên cứu, cân nhắc, tính toán tỷ mỉ và toàn diện. Tuy nhiên,
Ngân hàng phải tính toán sao cho lãi suất vừa có tính cạnh tranh, vừa phải đảm bảo
được chi phí đầu vào thấp nhất và kinh doanh có lãi.
- Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng:
Cũng ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến công tác huy động vốn.Một Ngân hàng
có hệ thống chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ đạt được các mục tiêu đề ra về chi
phí cũng như về lợi nhuận.Đó là chiến lược về sản phẩm dịch vụ.Chiến lược giá, lãi
suất, chiến lược phân phối, chiến lược phát triển nhân sự, chiến lược khuyếch
trương giao tiếp… có tác động mạnh đến việc huy động vốn.Hệ thống chiến lược
kinh doanh của Ngân hàng là thực tiễn sinh động để đánh giá năng lực và trình độ
quản lý hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, tạo được niềm tin đối với khách
hàng. Do đó, thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với Ngân hàng.
- Uy tín và vị thế của Ngân hàng:
Thông thường, khách hàng lựa chọn những Ngân hàng có uy tín và vị thế trên thị
trường để giao dịch, vay mượn, thanh toán và bảo lãnh… Uy tín và vị thế của Ngân
hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn của khách hàng, thể hiện cụ thể ở
năng lực tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh, quá trình lịch sử, chất lượng
marketing… Vì vậy, các Ngân hàng thông qua hoạt động của mình, bằng chất lượng
dịch vụ, công nghệ hiện đại và phong cách làm việc văn minh, lịch sự … thoả mãn
tốt nhất mọi yêu cầu của khách hàng, là thiết thực nâng cao uy tín và vị thế của
ngân hàng trên thị trường.
- Các hình thức huy động và dịch vụ kèm theo:Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay,
việc đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu
của khách hàng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Với
nhiều loại sản phẩm khác nhau, khách hàng có thể lựa chọn một sản phẩm phù hợp
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 23
23
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
với điều kiện khả năng của mình. Có như vậy, NHTM mới thu hút được ngày càng
nhiều khách hàng đến với mình. Không những thế, Ngân hàng còn phải đưa ra được
các dịch vụ kèm theo tốt và đa dạng để tăng lợi thế cạnh tranh. Với nhiều tiện ích
kèm theo, sẽ giúp Ngân hàng thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn của mọi
thành phần kinh tế và dân cư trong xã hội. Qua đó, tạo thêm nhều mối quan hệ gắn
bó chặt chẽ hơn giữa các Ngân hàng và khách hàng.
- Mạng lưới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng:
Tổ chức mạng lưới hoạt động rộng, hợp lý trên địa bàn dân cư giúp Ngân hàng có
nhiều cơ hội để thu hút vốn hơn, giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí để
thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, việc mở chi nhánh cần phù hợp với điều kiện năng
lực của Ngân hàng. Yếu tố địa điểm cũng tác động đến tâm lý của khách hàng, một
Ngân hàng nằm ở vị trí thuận lợi như khu vực trung tâm, khu đông dân cư, đi lại
thuân tiện… giúp Ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng hơn.
- Cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ nhân viên:
Có thể nói, tất cả mọi khách hàng đều muốn giao dịch với Ngân hàng có địa điểm
đẹp, cơ sở vật chất hiện đại, cán bộ nhân viên phục vụ tận tình và lịch thiệp. Một
Ngân hàng được trang bị công nghệ hiện đại nhất định sẽ rút ngắn được rất nhiều
thời gian xử lý công việc, đảm bảo được độ chính xác cao trong các giao dịch kinh
tế. Hơn nữa, cơ sở vật chất, trình độ công nghệ hiện đại, đội ngũ cán bộ nhân viên
có trình độ chuyên môn cao là điều kiện cần thiết để họ giải quyết công việc nhanh
chóng, khoa học… Từ đó, nâng cao hơn chất lượng dịch vụ mà Ngân hàng cung
ứng ra thị trường, là điều khách hàng rất quan tâm.
1.5.Nội dung các biện pháp tạo vốn của NHTM
1.5.1. Biện pháp kinh tế
Khi sử dụng các biện pháp kinh tế để huy động vốn tức là việc ngân hàng sử dụng
đòn bẩy kinh tế để thu hút khách hàng, được thể hiện bằng lãi suất hay phí dịch vụ.
áp dụng lãi suất cạnh tranh là việc ngân hàng nâng cao lãi suất huy động hạ phí
dịch vụ so với bình quân thị trường (việc này không có lợi cho ngân hàng vì làm
tăng chi phí nhưng ngân hàng vẵn phải sử dụng trong thị trường nhất định ). Phải sử
dụng việc thâm nhập thị trường hoặc tìm được đầu ra có thu nhập cao.
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 24
24
GVHD: Th.S . Nguyễn Thị Phương
* Chính sách lãi suất huy động phù hợp:
Muốn xác định chính sách lãi suất huy động phù hợp phải dựa trên những nguyên
tắc chung của ngân hàng. Với ngân hàng thì qua nghiên cứu nghị định 166/1999,
doanh thu chính là thu nhập. Lãi suất của ngân hàng cần được xác định trên cơ sở
xem xét các yếu tố thu nhập và chi phí nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Như vậy lãi suất
được xác định ở mức tại đó thu nhập biên bằng chi phí biên.
* Chính sách lãi suất cụ thể:
- Chính sách lãi suất phù hợp với từng nguồn tiền huy động theo nguyên tắc thời
hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
- Chính sách lãi suất thâm nhập thị trường ( lãi suất cạnh tranh).
Với mức lãi suất này ngân hàng trả mức lãi suất tiền gửi cao hơn huặc thu phí dịch
vụ thấp hơn so với các ngân hàng khác
Chính sách lãi suất này thường được các ngân hàng đang ở giai đoạn thâm nhập thị
trường áp dụng.Những ngân hàng này thuờng là những ngân hàng còn non trẻ, mới
thành lập, nguồn vốn còn thiếu. Vì thế nên việc họ áp dụng chính sách lãi suất này
nhằm tăng nhu cầu vốn lưu động để có thể đứng trên thị trường ngân hàng cạnh
tranh ngày càng khốc liệt.
Khi các ngân hàng muốn tăng nhu cầu vốn, mở rộng thị trường, đặc biệt là cần tiền
cho một dự án thì họ cũng áp dụng chính sách này.Ví dụ như khi NHNT muốn huy
động ngoại tệ cho một số dự án của họ ở giai đoạn 2001 – 2010, họ đã huy động trái
phiếu thời hạn 5 năm, với lãi suất năm đầu tiên là 4,2%, trong khi lãi suất năm tại
thời điểm đó ở NHNT là 2,25%/năm.
Tuy nhiên chúng ta không thể thường xuyên áp dụng chính sách này vì sẽ làm tăng
chi phí, giảm thu nhập. Các ngân hàng cũng chỉ nên áp dụng chính sách này trong
từng thời kỳ cụ thể, đặc biệt là các NHTMCP. Trên thực tế ta thấy rất rõ, NHTMCP
luốn có lãi suất cao hơn các NHTM của nhà nước như ICB, VCB, BIDV. Nhưng
khách hàng thường không thay đổi ngay lập tức ngân hàng.Vì chi phí và sự rủi ro
cho sự thay đổi này là không nhỏ. Hơn nữa là khách hàng đã quen với các hoạt
động giao dịch của ngân hàng mình đã chọn, cách chăm sóc khách hàng, các dịch
vụ ưu đãi vv…Theo nghiên cứu của một số chuyên gia Mỹ: Các công ty lẫn cá nhân
SVTH: Bùi văn Việt Lớp : DHTN6TH 25
25