1
PHẦN MỞ ĐẦU
Với tiềm năng du lòch tự nhiên và nhân văn vô cùng phong phú hấp dẫn, những
năm qua, ngành du lòch Việt Nam đã có bước phát triển vững chắc thu hút nhiều du
khách trong và ngoài nước cũng như thu hút các nguồn vốn đầu tư ngày càng tăng,
từng bước khẳng đònh vai trò của một ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc
dân, góp phần thực hiện chiến lược phát triển ngành du lòch Việt Nam 2001 – 2010 :
“… Từng bước đưa nước ta trở thành trung tâm du lòch có tầm cở của khu vực. Phấn
đấu sau năm 2010 du lòch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lòch
phát triển trong khu vực”.
Nằm trong bối cảnh đó, nhất là sau sự kiện nhật thực toàn phần xảy ra vào ngày
24/10/1995 tại Phan Thiết, du lòch Bình Thuận bắt đầu khởi sắc và đang trở thành
một trong những trung tâm du lòch nổi tiếng trong cả nước, có sức thu hút mạnh mẽ
du khách trong nước và quốc tế. Việc phát triển du lòch đã được chính quyền đòa
phương các cấp quan tâm thúc đẩy và đã ban hành nhiều chính sách tạo môi trường
đầu tư thông thoáng. Nhiều dự án đầu tư vào ngành du lòch đã và đang được các nhà
đầu tư trong và ngoài nước đăng ký, triển khai và thực thi. Từ chỗ chỉ có khoảng 10
dự án với tổng vốn đăng ký 30 tỷ đồng năm 1996 tăng lên 356 dự án đầu tư còn hiệu
lực với tổng vốn đăng ký 7.529,4 tỷ đồng năm 2004, đã tạo nên sự phát triển nhanh
chóng các cơ sở hoạt động du lòch của tỉnh nhà.
Tuy nhiên, việc khơi thông nguồn vốn đầu tư để thực hiện các dự án còn nhiều
vướng mắc, khó khăn và nhiều bất cập, vì vậy cho đến nay còn trên 80% dự án đăng
ký chưa được triển khai. Các dự án đi vào hoạt động kinh doanh, hiệu quả vốn đầu tư
mang lại trước mắt còn hạn chế so với kết quả mong muốn của các nhà đầu tư. Từ
những vấn đề nêu trên cần tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả vốn đầu tư trong
ngành du lòch Bình Thuận để thúc đẩy các nhà đầu tư triển khai nhanh các dự án đã
đăng ký nhằm tạo thêm sự sôi động trong hoạt động của các khu du lòch đang được
hình thành và mở rộng, bảo đảm tạo điều kiện cho ngành du lòch phát triển đúng mục
tiêu, đúng đònh hướng đã đề ra, trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần
chuyển dòch cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế của tỉnh Bình Thuận.
Với mong muốn được góp phần phân tích và đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất
một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả vốn đầu tư cho phát triển du lòch Bình
Thuận trong thời gian tới, chúng tôi xin chọn đề tài:” Giải pháp nâng cao hiệu quả
vốn đầu tư của ngành du lòch Bình Thuận đến năm 2010.” Làm đề tài cho luận
văn thạc só của mình.
2
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở đánh gía, lý giải về phương diện lý luận và thực tiễn của vốn, các
nguồn vốn đầu tư và hiệu quả vốn đầu tư để nghiên cứu thực trạng việc sử dụng vốn
đầu tư, hiệu quả trong quá trình hoạt động của các dự án của ngành du lòch Bình
Thuận trong thời gian qua; xác đònh được mặt mạnh, mặt yếu; những cơ hội và thách
thức; đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế, vướng mắc, từ đó xác đònh
những giải pháp chính và kiến nghò các vấn đề cần giải quyết.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Hiệu quả sử dụng vốn của một ngành kinh tế là một vấn đề có phạm vi rất
rộng. Do điều kiện thời gian và khả năng có hạn, chúng tôi không kỳ vọng giải quyết
thấu đáo mọi vấn đề có liên quan đến đề tài và xin được giới hạn phạm vi nghiên
cứu như sau :
+ Đánh giá có tính tổng quát về sử dụng vốn đầu tư của ngành du lòch Bình Thuận.
+ Chủ yếu tập trung đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước
và vốn đầu tư của các nhà đầu tư. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả vốn đầu tư của ngành du lòch Bình Thuận đến năm 2010.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài :
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu là duy vật biện chứng và duy vật lòch
sử. Vận dụng một cách tổng hợp phương pháp so sánh, đối chiếu, dự báo; phương
pháp phân tích đònh lượng, đònh tính… Nguồn số liệu được thu thập từ niên giám thống
kê, các báo cáo của các Sở, ban ngành trong tỉnh, các chủ trương, đường lối phát triển
kinh tế của Đảng và nhà nước đối với ngành du lòch và số liệu được công bố trên
Internet .
Kết cấu của luận văn :
Kết cấu luận văn gồm có ba chương :
Chương 1 : Cơ sở lý luận về du lòch và vốn đầu tư ngành du lòch.
Chương 2 : Thực trạng việc sử dụng vốn đầu tư của ngành du lòch Bình
Thuận trong thời gian qua.
Chương 3 : Các giải pháp nâng cao hiệu quả vốn đầu tư của ngành du lòch tỉnh
Bình Thuận đến năm 2010.
Trong quá trình thực hiện luận văn, do năng lực và điều kiện nghiên cứu còn
nhiều hạn chế, chắc chắn nội dung luận văn không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong
được sự quan tâm xem xét, giúp đỡ và góp ý của Thầy Cô.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ VỐN ĐẦU TƯ NGÀNH DU LỊCH
1.1. TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH
1.1.1 Khái niệm về du lòch :
Du lòch là một khái niệm có nhiều cách tiếp cận xuất phát từ tính phong phú và
sự phát triển của hoạt động du lịch. Hiện nay du lòch đã trở thành một trong những
ngành có tốc độ tăng trưởng mạnh của kinh tế thế giới. Do đó, khái niệm về du lịch
cũng đã có những thay đổi theo sự phát triển của ngành.
Nếu xem xét du lòch như là một hiện tượng nhân văn, hiện tượng xã hội làm
phong phú thêm nhận thức và cuộc sống con người, Tổ chức du lòch thế giới (WTO:
World Tourism Organization) đã đưa ra đònh nghóa: “ Du lòch bao gồm những hoạt
động của những người đi đến một nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình
trong thời hạn không quá một năm liên tục để vui chơi, vì công việc hay vì mục đích
khác không liên quan đến những hoạt động kiếm tiền ở nơi mà họ đến”. Nếu xem du
lòch không chỉ đơn thuần là hiện tượng xã hội mà còn là hoạt động kinh tế, nó được
coi là toàn bộ các hoạt động mà mục tiêu là kết hợp các hoạt động của các đối
tượng tham gia vào quá trình, kết hợp giá trò của các tài nguyên du lòch thiên nhiên
và nhân văn với các dòch vụ, hàng hóa để tạo ra sản phẩm du lòch đáp ứng nhu cầu
của khách.
Với tư cách là đối tượng nghiên cứu của du lòch học, khái niệm du lòch phản
ảnh các mối quan hệ bản chất bên trong, làm cơ sở cho việc nghiên cứu các xu
hướng và các quy luật phát triển của nó; theo góc độ này thì du lòch là những hoạt
động và mối quan hệ phát sinh do sự tác động qua lại lẫn nhau giữa khách du lòch,
người kinh doanh du lòch, chính quyền và cộng đồng dân cư đòa phương và trong quá
trình thu hút, tiếp đón và phục vụ khách du lòch.
Theo Luật Du lòch Việt Nam : “ Du lòch là các hoạt động có liên quan đến
chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng
nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghó dưỡng trong một khoảng thời gian nhất
đònh”
1.1.2. Sản phẩm du lịch :
Có nhiều khái niệm về sản phẩm du lòch, một trong những khái niệm đó là: “
Sản phẩm du lòch là sự kết hợp những dòch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai
thác các tiềm năng du lòch nhằm cung cấp cho du khách một khoảng thời gian thú
4
vò, một kinh nghiệm du lòch trọn vẹn và sự hài lòng (Từ điển du lịch - Tiếng Đức
NXB Berlin 1984).
Như vậy, sản phẩm du lịch bao gồm những yếu tố hữu hình (hàng hóa) và những
yếu tố vô hình (dịch vụ) để cung cấp cho du khách hay nó bao gồm các hàng hoá,
các dòch vụ và tiện nghi cung ứng cho du khách.
Các đặc tính của sản phẩm du lòch là :
- Tính vô hình : Sản phẩm DL thường là một kinh nghiệm nên rất dễ dàng bò
sao chép, bắt chước và việc làm khác biệt hóa sản phẩm manh tính cạnh tranh khó
khăn hơn kinh doanh hàng hoá.
- Tính đồng thời giữa sản xuất và tiêu dùng : Vì sản phẩm du lòch nằm ở xa nơi
cư trú của khách du lòch, nên khách thường mua sản phẩm trước khi thấy sản phẩm.
- Tính không đồng nhất : Khách hàng khó có thể kiểm tra chất lượng sản phẩm
trước khi mua, gây khó khăn cho việc chọn sản phẩm.
Sản phẩm du lòch do sự tổng hợp các ngành kinh doanh khác nhau. Khách mua
sản phẩm du lòch ít trung thành với công ty bán sản phẩm. Việc tiêu dùng sản phẩm
du lòch mang tính thời vụ.
Từ những thành phần cấu tạo của sản phẩm du lòch, yếu tố thiên nhiên và quan
niệm của các tác giả, có thể kết hợp các yếu tố căn bản để đưa ra các mô hình sản
phẩm du lòch chủ yếu : 4S và 3H của Mỹ và mô hình 6S của Pháp. (phụ lục 1)
1.1.3. Khách du lòch :
Cũng theo đònh nghóa của WTO, khách viếng (visistors) là những người rời khỏi
nơi cư trú của mình đến nơi khác không quá một năm và không vì mục đích kiếm
tiền ; du khách (tourists) là những khách viếng có lưu trú qua hơn một đêm tại nơi
đến ; khách viếng trong ngày (same-day visistors) không có lưu trú qua đêm tại nơi
đến.
Khách du lòch quốc tế là những khách mà nơi cư trú là một quốc gia khác với quốc
gia nơi đến du lòch ; khách du lòch nội đòa là những khách mà quốc gia nơi cư trú
cũng là quốc gia nơi đến tham quan du lòch, bao gồm cả những người nước ngoài
nhưng đang cư trú tại quốc gia đó.
1.1.4. Khu du lịch, điểm du lịch và tuyến du lịch: Theo Luật Du lòch Việt Nam :
* Khu du lòch là nơi có tài nguyên du lòch (TNDL) hấp dẫn với ưu thế về tài
nguyên du liïch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu
đa dạng của khách du lòch, đem lại hiệu quả về kinh tế – xã hội và môi trường.
Khu du lòch (KDL) gồm khu du lòch quốc gia và khu du lòch đòa phương.
5
- Khu du lòch quốc gia là khu du lòch có TNDL đặc biệt hấp dẫn với ưu thế về
cảnh quan thiên nhiên, có khả năng thu hút lượng khách DL cao; Có diện tích tối
thiểu một nghìn héc ta, trong đó có diện tích cần thiết để xây dựng các công trình,
cơ sở DVDL phù hợp với cảnh quan, môi trường của DL; Có kết cấu hạ tầng, cơ sở
vật chất – kỹ thuật DL đồng bộ, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất một triệu
lượt khách DL một năm, trong đó có cơ sở lưu trú và DVDL cần thiết phù hợp với
đặc điểm của KDL.
- Khu du lòch đòa phương là khu du lòch có TNDL hấp dẫn, có khả năng thu hút
khách du lòch; Có diện tích tối thiểu hai trăm héc ta, trong đó có diện tích cần thiết
để xây dựng các công trình, cơ sở dòch vụ du lòch, Có kết cấu hạ tầng, cơ sở vật
chất – kỹ thuật du lòch, cơ sở lưu trú và dòch vụ du lòch cần thiết phù hợp với đặc
điểm của đòa phương, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất một trăm nghìn lượt
khách du lòch một năm.
* Điểm du lòch là nơi có TNDL hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của
khách du lòch. Điểm du lòch gồm điểm du lòch quốc gia và điểm du lòch đòa
phương.
- Điểm du lòch quốc gia là điểm du lòch có TNDL đặc biệt hấp dẫn đối với nhu
cầu tham quan của khách du lòch; Có kết cấu hạ tầng và dòch vụ du lòch cần thiết,
có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất một trăm nghìn lượt khách tham quan một
năm.
- Điểm du lòch đòa phương là điểm du lòch có TNDL hấp dẫn đối với nhu cầu
tham quan của khách du lòch; Có kết cấu hạ tầng và dòch vụ du lòch cần thiết, có
khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất mười nghìn lượt khách tham quan một năm.
* Tuyến du lòch là lộ trình liên kết các KDL, điểm DL, cơ sở cung cấp DVDL,
gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không.
1.1.5. Tài nguyên và môi trường du liïch: Theo Luật Du lòch Việt Nam :
* Tài nguyên du lòch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lòch sử –
văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trò nhân văn khác
có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu DL, là yếu tố cơ bản để hình thành các
KDL, điểm DL, tuyến DL. TNDL gồm TNDL tự nhiên và TNDL nhân văn đang
được khai thác và chưa được khai thác.
- Tài nguyên du lòch tự nhiên gồm các yếu tố đòa chất, đòa hình, đòa mạo, khí
hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ
mục đích du lòch.
6
- Tài nguyên du lòch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa,
văn nghệ dân gian, di tích lòch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc và các công trình
lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có
thể được sử dụng phục vụ mục đích du lòch.
TNDL có thể thuộc sở hữu nhà nước hoặc sở hữu của các tổ chức, cá nhân.
TNDL phải được bảo vệ, tôn tạo và khai thác hợp lý để phát huy hiệu quả sử dụng
và bảo đảm phát triển du lòch bền vững.
* Môi trường du lòch là môi trường tự nhiên và xã hội nơi diễn ra các hoạt động
du lòch. Môi trường du lòch bao gồm các nhân tố tự nhiên, kinh tế xã hội và nhân
văn trong đó du lòch tồn tại và phát triển. Môi trường du lòch có liên quan mật thiết
đến TNDL, việc khai thác hợp lý, cải tạo và tái tạo các TNDL sẽ là chất lượng môi
trường du lòch tốt hơn, tăng sức hấp dẫn của các khu du lòch. Ngược lại, việc khai
thác không đồng bộ, không có biện pháp tái tạo TNDL sẽ phá vỡ sự cân bằng sinh
thái của khu vực, làm giảm chất lượng môi trường du lòch.
1.1.6. Quan điểm phát triển du lòch bền vững:
Với tốc độ phát triển của ngành du lòch hiện nay đã đem lại nhiều lợi ích kinh
tế, văn hóa, xã hội cho các quốc gia cũng như cho các đòa phương, nhưng mặt khác
làm xuất hiện những tác động xấu đối với môi trường sinh thái. Theo xu hướng
hiện nay là phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo vệ môi trường để đảm bảo
tính bền vững. Chính vì vậy, từ thập niên 90, các nhà khoa học trên thế giới đã đưa
khái niệm về phát triển du lòch bền vững. Theo WTO cho rằng: “ Phát triển du lòch
bền vững thỏa mãn những nhu cầu hiện tại của du khách và các vùng đón khách
trong khi vẫn bảo vệ và nâng cao các cơ hội cho tương lai. Phát triển du lòch bền
vững đòi hỏi phải quản lý tất cả các nguồn tài nguyên theo một cách nào đó để vừa
đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội, thẩm mỹ trong khi vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa,
các quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và các hệ thống đảm bảo sự
sống”. Đặc trưng cơ bản của phát triển du lòch (PTDL) bền vững không chỉ ở chỗ
cổ vũ phát triển các loại hình du lòch ít gây hại cho môi trường, mà là một khái
niệm mang chuyển biến về chất trong PTDL. PTDL bền vững thu hút và đòi hỏi sự
hợp tác của tất cả các đối tượng tham gia vào quá trình PTDL nhằm vào các mục
tiêu sau đây :
+ Phát triển, gia tăng sự đóng góp của du lòch vào kinh tế và môi trøng.
+ Cải thiện tính công bằng xã hội trong phát triển. Cải thiện chất lượng cuộc
sống của cộng đồng bản đòa.
7
+ Đáp ứng cao độ nhu cầu của khách.
+ Duy trì chất lượng môi trường. Việc đánh giá tính bền vững của du lòch có thể
sử dụng tiêu chuẩn về khả năng tải của các điểm, các khu du lòch hoặc sử dunïg hệ
thống chỉ thò môi trường của WTO (phụ lục 2)
Xu hướng phát triển du lòch bền vững không phải là một hiện tượng có tính nhất
thời, một hoạt động có tính phong trào mà là một đòi hỏi khách quan của thời đại,
có ý nghóa quan trọng không chỉ về mặt kinh tế mà sâu xa hơn còn có ý nghóa đặc
biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của xã hội, của quốc gia, của cộng
đồng trong quan hệ với việc khai thác tài nguyên môi trường tự nhiên và nhân văn.
1.1.7. Quá trình phát triển ngành du lòch ở Việt Nam :
Du lòch Việt Nam có từ lâu đời, nhưng ngành Du lòch Việt Nam chính thức
được thành lập vào ngày 09/07/1960, theo quyết đònh số 26/CP của Thủ tướng
Chính phủ. Lúc bấy giờ, Công ty Du lòch Việt Nam chưa tổ chưcù kinh doanh nhưng
tổ chức này đã đặt nền móng cho sự hình thành một ngành kinh tế mới mẻ của đất
nước. Chính vì vậy, ngày 9/7 được coi là ngày thành lập ngành Du lòch Việt Nam.
Trải qua 45 năm xây dựng và trưởng thành, đặc biệt là trong những năm đổi
mới vừa qua, hoạt động của ngành Du lòch Việt Nam thực sự diễn ra sôi động từ
năm 1990 trở lại đây. Có thể nói việc hình thành đồng bộ cơ chế chính sách, môi
trường pháp luật như Pháp lệnh Du lòch, các Nghò đònh hướng dẫn thi hành được
đưa vào thực hiện và gần đây nhất là Luật Du lòch được Quốc Hội thông qua và sẽ
có hiệu lực từ ngày 1/1/2006 đã nâng cao nhận thức xã hội đối với du lòch.
Nhìn chung, trong nhữõng năm qua, cơ sở hạ tầng (CSHT) có bước chuyển
mạnh mẽ, với nguồn vốn ngân sách Nhà nước (NSNN) hỗ trợ phát triển CSHT lên
tới 2.146 tỷ đồng đã góp phần không nhỏ khuyến khích các đòa phương thu hút đầu
tư du lòch dựa trên lợi thế của từng vùng, miền. Thu hút nhiều vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI), đến hết năm 2000, đã có 194 dự án FDI vào ngành du lòch được
cấp phép với tổng vốn đăng ký là 5,78 tỷ USD. Cả nước hiện có hơn 5.900 cơ sở
lưu trú với 120 nghìn phòng. Phương tiện vận chuyển khách đường bộ, đường thủy,
đường sắt, đường hàng không được hiện đại hóa. Nhiều khu du lòch, sân gôn, công
viên chuyên đề và cơ sở vui chơi được đưa vào hoạt động, đủ điều kiện đón hàng
triệu du khách mỗi năm. Từ năm 1991 đến năm 2004 khách du lòch quốc tế tăng
lên 9 lần từ 300.000 lượt khách lên 2,9 triệu lượt. Khách nội đòa tăng 7,5 lần từ 1,5
triệu lượt lên 11,7 triệu lượt. Tốc độ tăng trưởng của du lòch đạt mức tăng bình quân
hơn 11%/năm cả về cơ sở hạ tầng lẫn số lượng du khách với nguồn thu hơn một tỷ
8
USD mỗi năm, tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động. Toàn ngành hiện
có 230 nghìn lao động trực tiếp có trình độ chuyên môn và gần 50 nghìn lao động
gián tiếp có trình độ đại học và trên đại học. Thời gian vừa qua, tuy phải chịu ảnh
hưởng của các biến động trên thế giới như chiến tranh, khủng bố, dịch SARS và dòch
cúm gia cầm, nhưng do có biện pháp tháo gỡ kòp thời, lượng du khách vẫn tiếp tục
tăng trưởng ở mức hai con số. Ước tính năm 2005, số lượng khách quốc tế đến nước
ta và thu nhập từ du lòch sẽ tăng gấp đôi năm 1999, đạt khoảng hơn 3,2 triệu lượt
người và doanh thu hơn hai tỷ USD. Du lòch Việt Nam hiện có quan hệ bạn hàng
với hơn 1.000 hãng du lòch, trong đó có nhiều hãng lớn của hơn 60 nước, vùng lãnh
thổ và là thành viên của WTO, các Hiệp hội du lòch châu Á - Thái Bình Dương,
Đông - Nam Á. Nước ta cũng đã ký hiệp đònh hợp tác du lòch với nhiều nước, chủ
động tham gia hợp tác du lòch tiểu vùng, khu vực và liên khu vực; từ đó tranh thủ
được các nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm để phát triển nhân lực, đẩy mạnh xúc
tiến và hội nhập du lòch quốc tế.
Theo đònh hướng chiến lược của Du lòch Việt Nam : Giai đoạn 2006 - 2010
phải được coi là thời kỳ đột phá quan trọng của du lòch để chuyển dòch cơ cấu kinh
tế, tăng thu ngoại tệ, rút ngắn khoảng cách tụt hậu và tăng cường hội nhập quốc tế.
Ngành du lòch phấn đấu đến năm 2010 đón 5,5 - 6 triệu lượt khách quốc tế, tăng ba
lần so với năm 2000 với nhòp độ tăng trưởng bình quân 11,4 % cùng 25 triệu lượt
khách nội đòa, tăng hơn hai lần so với năm 2000; thu nhập du lòch đạt khoảng 4 -
4,5 tỷ USD, đưa tổng sản phẩm du lòch đạt mức 6,5% GDP của cả nước. Mục tiêu
lâu dài là đưa nước ta trở thành một trong những nước có du lòch phát triển hàng
đầu của khu vực vào năm 2020.
1.1.8 Tình hình và xu thế phát triển du lòch ở khu vực Đông Nam Á :
Khu vực Đông Nam Á là một khu vực có hoạt động du lòch ngày càng phát
triển, lượng khách du lòch quốc tế đến khu vực Đông Nam Á tăng lên không ngừng,
năm 2004 tăng lên 23,6% so năm 2000. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, hàng
năm số lượng khách quốc tế tăng lên 2% thì lượng khách đến các nước vùng Đông
Nam Á tăng lên 4%. Sự tăng trưởng này có nhiều nguyên nhân như : Đây là thò
trường du lòch mới đem lại cho du khách nhiều hứng thú; Hàng tiêu dùng và mỹ
nghệ phong phú, đa dạng và giá cả các hàng hoá, dòch vụ du lòch rẻ hơn nhiều so
với các nước khác trên thế giới. Theo số liệu thống kê của WTO, khách du lòch đến
khu vực Đông Nam Á tăng từ 37 triệu lượt người năm 2000 lên 40,7 triệu lượt
9
người năm 2001 và đạt 45,7 triệu lượt người năm 2003. Doanh thu từ du lòch hàng
năm chiếm khoảng 4 – 6% sản lượng kinh tế của khu vực. Công suất sử dụng
phòng ngủ của các nước trong vùng so với các nước phát triển du lòch là rất cao.
Thời gian trung bình lưu trú của du khách ở các nước này là 6,8 ngày. Chi phí trung
bình cho một người khách là trên 100 USD/ ngày.
Bảng 1 : Lượng khách du lòch đến các quốc gia Đông Nam Á
(Nguồn WTO)
Năm 1995 2000 2001 2002 2003 2004
Khách du lòch đến Đông
Nam Á (triệu lượt)
29,2 37 40,7 42,2 45,7 50,3
Trong số 10 nước và vùng lãnh thổ của Khu vực Đông Á- Thái Bình dương đứng
đầu về thu hút khách du lòch quốc tế năm 2000 thì có 4 nước thuộc khu vực Đông
Nam Á là Malaysia, Thái Lan, singapore và Indonesia (Phụ Lục 3).
Trong những năm gần đây, xu thế phát triển DL ở khu vực Đông Nam Á thể
hiện như sau:
Một là : Các nước trong vùng đã và đang tích cực tìm các biện pháp giải quyết
những bất đồng bằng phương pháp hòa bình, tiến tới xây dựng khu vực trở thành
một khu vực hòa bình và ổn đònh, tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức kinh
doanh DL của các nước. Thiết lập các mối quan hệ trong kinh doanh, thúc đẩy sự
phát triển du lòch quốc tế.
Hai là : Để nâng cao sức cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu, hiện nay các nước
trong khu vực đều có chính sách hợp tác để phát triển DL bền vững. Mối quan hệ
trong kinh doanh, sự hợp tác giữa các nước trong việc phát triển DL ngày càng mở
rộng. Trong đó, hợp tác với nhau trong việc đón tiếp và phục vụ khách DL quốc tế
với nhiều hình thức khác nhau như tổ chức các chương trình DL chuyên vùng, đón
tiếp và phục vụ khách quá cảnh. Hợp tác trong lónh vực xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ khách, tổ chức các cuộc hành trình DL. Tổ chức các cuộc hội thảo,
trao đổi kinh nghiệm hoạt động kinh doanh trong đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
10
Ba là : Hầu hết các nước trong vùng đều chú trọng phát triển du lòch quốc tế
chủ động, do đó thò trường cung cấp các dòch vụ và hàng hoá trong khu vực tăng
dẫn đến khả năng cạnh tranh giữa những người bán ngày càng tăng.
1.2 VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ VỚI SỰ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ :
1.2.1 Khái niệm về vốn đầu tư :
Vốn sản xuất vật chất là một phần của tài sản quốc gia, vốn sản xuất vật chất
bao gồm công xưởng, nhà máy; các trụ sở cơ quan, trang bò văn phòng; máy móc
thiết bò, phương tiện vận tải; cơ sở hạ tầng; hàng hoá tồn kho các loại và nó được
coi như là kết quả của quá trình tích lũy và được trực tiếp sử dụng vào quá trình
sản xuất hiện tại. Các tài sản vật chất trong quá trình sử dụng hao mòn theo thời
gian và do nhu cầu sử dụng các tài sản vật chất trong quá trình phát triển của một
quốc gia ngày càng tăng lên cho nên cần phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp
hao mòn và tăng thêm khối lượng các tài sản vật chất mới. Để tạo ra tài sản mới
phải đầu tư những yếu tố cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh như công cụ,
máy móc, nguyên vật liệu, lao động, công nghệ…Quá trình này được thực hiện bởi
hoạt động đầu tư nhờ vốn đầu tư.
Vậy vốn đầu tư là số tiền bỏ ra nhằm tăng cường tài sản cố đònh của tất cả các
ngành sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất thuộc nền kinh tế quốc dân.
Vốn đầu tư hiểu theo nghiã rộng là toàn bộ nguồn lực đưa vào hoạt động của
nền kinh tế – xã hội, gồm máy móc thiết bò, nhà xưởng, lao động, tài nguyên, đất
đai, khoa học công nghệ…
Vốn đầu tư hiểu theo nghiã hẹp là nguồn lực được thể hiện bằng tiền của mỗi
cá nhân, doanh nghiệp và của quốc gia.
Hoạt động đầu tư là việc sử dụng vốn để phục hồi và tạo ra năng lực sản xuất
kinh doanh mới. Đó là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố phục vụ cho
quá trình sản xuất ra hàng hoá và dòch vụ để làm tăng tài sản quốc gia.
1.2.2. Nhu cầu về vốn đầu tư:
Theo chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam thì nhu cầu vốn cho
đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 2001 – 2010 là khoảng 160 tỷ USD, trong đó
đảm bảo huy động từ nguồn vốn trong nước khoảng 100 tỷ USD (chiếm khoảng
11
20% GDP) và nguồn vốn từ nước ngoài khoảng 60 tỷ USD (chiếm khoảng 10%
GDP). Trong đó đầu tư từ NSNN đạt từ 6 -7% GDP; tín dụng nhà nước khoảng 6%
GDP; các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) khoảng 5% GDP; các thành phần kinh
tế khác trong nước khoảng 9% GDP; FDI khoảng 7% GDP và ODA khoảng 3%
GDP.
Như vậy, đối với nước ta hiện nay để thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng của nền
kinh tế cần phải tập trung phát triển CSHT, nâng cao trình độ khoa học công nghệ,
đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới trang thiết bò và công nghệ của các DN đòi hỏi
phải có vốn đầu tư lớn và nhu cầu về vốn đầu tư lại càng bức thiết hơn trong quá
trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đầu tư vốn vào CSHT sẽ tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế một cách vững
chắc. Việc kiến tạo CSHT luôn phải đi trước một bước để mở đường cho nền kinh
tế phát triển. Ngân hàng Thế giới đã nhận đònh rằng sự gia tăng tổng sản phẩm
quốc gia thường tương ứng với sự gia tăng vốn đầu tư vào CSHT. Còn đầu tư cho
khoa học công nghệ sẽ tạo ra CS vật chất kỹ thuật cho sự phát triển nhanh và bền
vững.
Để đạt được các mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế, các nước rất coi
trọng việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho các DN. Vốn đầu tư dùng để
thành lập mới, đầu tư đổi mới công nghệ, đầu tư mở rộng và cải tạo nhà xưởng,
trang thiết bò. Đầu tư cho các DN sẽ góp phần quan trọng vào việc tạo ra công ăn
việc làm, cung cấp hàng hoá và dòch vụ cho xã hội, tạo nguồn thu cho ngân sách.
1.1.3 Nguồn vốn đầu tư:
Các nguồn vốn đầu tư được hình thành từ quỹ bù đắp và quỹ tích lũy. Quỹ bù
đắp về bản chất chỉ nhằm bù đắp lại những tài sản đã hao mòn, gắn với quá trình
đổi mới công nghệ. Quỹ tích lũy là nguồn cơ bản để đầu tư cho tăng trưởng và phát
triển kinh tế và là bộ phận quan trọng nhất của nguồn vốn đầu tư. Toàn bộ quỹ tích
lũy được hình thành từ các khoản tiết kiệm bao gồm tiết kiệm của chính phủ và tiết
kiệm của khu vực tư nhân. Nền kinh tế càng phát triển thì tỉ lệ tích luỹ càng cao.
Đối với các nước đang phát triển, do thu nhập còn thấp nên quy mô và tỉ lệ tích lũy
đều thấp, trong khi nhu cầu về vốn đầu tư rất cao, do đó rất cần đến nguồn vốn đầu
tư từ nước ngoài. Như vậy vốn đầu tư có được của mỗi nước hình thành từ tiết
kiệm trong nước và tiết kiệm của nước ngoài.
12
1.2.3.1 Nguồn hình thành vốn đầu tư trong nước:
a/
Tiết kiệm của chính phủ: Tiết kiệm của chính phủ bao gồm tiết kiệm của
NSNN và tiết kiệm của các DNNN.
- Tiết kiệm của NSNN hay là nguồn vốn NSNN chi cho đầu tư phát triển là số
chênh lệch giữa tổng số thu so với tổng số chi thường xuyên của NSNN.
Như vậy, vốn đầu tư của Nhà nước là một phần tiết kiệm của ngân sách để
chi cho đầu tư phát triển. Sự thay đổi tiết kiệm của NSNN phụ thuộc vào những
nhân tố như : Sự tăng giảm tổng số thuế của nhà nước; sự tăng hay giảm chi tiêu
thường xuyên của NSNN; phụ thuộc vào việc bán tài nguyên hay cho thuê tài sản
do chính phủ quản lý. Đây là nguồn vốn đầu tư quan trọng, ổn đònh và có tính đònh
hướng cao đối với các nguồn vốn đầu tư khác.
- Tiết kiệm của các DNNN là một nguồn hình thành vốn đầu tư trong nước.
Tiết kiệm của các DNNN được hình thành từ lợi nhuận đạt được trong kinh doanh
để lại cho DN để đầu tư ( không chia) và quỹ khấu hao tài sản cố đònh của công ty.
Tiết kiệm của công ty là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư nhằm mở rộng
quy mô kinh doanh, đổi mới trang thiết bò, đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực
cạnh tranh của DN, góp phần phát triển kinh tế. Ngoài ra, tuỳ theo chính sách của
nhà nước đối với các DN mà một bộ phận tiết kiệm của DN cũng hình thành nên
tiết kiệm của chính phủ.
b/
Tiết kiệm của khu vực tư nhân:
Tiết kiệm của khu vực tư nhân bao gồm tiết kiệm của dân cư và tiết kiệm của
các doanh nghiệp tư nhân (DNTN), các công ty, các hợp tác xã.
Tiết kiệm của dân cư là phần tiết kiệm của các hộ gia đình và các cá nhân, tổ
chức đoàn thể xã hội. Đây là phần còn lại của thu nhập sau khi đã đóng thuế và sử
dụng cho mục đích tiêu dùng. Mức độ tiết kiệm của dân cư phụ thuộc vào thu nhập
và chi tiêu của các hộ gia đình. Qui mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: Trình độ phát triển của đất nước ảnh hưởng đến mức thu nhập
bình quân đầu người; tập quán tiêu dùng của dân cư và xu hướng biến đổi của nó;
chính sách lãi suất; chính sách thuế và sự ổn đònh kinh tế vó mô.
Tiết kiệm của dân cư giữ vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính, do khả
năng chuyển hoá nhanh chóng thành nguồn vốn cho đầu tư thông qua các hình
thức gởi tiết kiệm, mua chứng khoán, trực tiếp đầu tư...Tiết kiệm dân cư cũng dễ
dàng chuyển thành nguồn vốn đầu tư của Nhà nước bằng cách mua trái phiếu chính
13
phủ, hoặc chuyển thành nguồn vốn đầu tư của DN qua việc mua trái phiếu, cổ
phiếu của các công ty phát hành.
- Tiết kiệm của DNTN là phần tiết kiệm được hình thành từ phần lợi nhuận
và quỹ khấu hao tài sản cố đònh của công ty được để lại làm tăng vốn công ty.
Trong những năm gần đây các DNTN, công ty TNHH, công ty cổ phần trong cả
nước có tốc độ tăng trưởng nhanh. Với chính sách kinh tế nhiều thành phần, khu
vực kinh tế này chứa đựng khả năng không nhỏ trong việc huy động các khoản tiết
kiệm từ hoạt động kinh doanh cho phát triển.
1.1.3.2 Nguồn hình thành vốn đầu tư nước ngoài:
Các nguồn vốn bên ngoài cho nhu cầu phát triển bao gồm: Các khoản viện
trợ phát triển, các khoản đầu tư gián tiếp và các khoản đầu tư trực tiếp của tư nhân
nước ngoài.
a/ Vốn viện trợ phát triển : là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay
ưu đãi chủ yếu dưới hình thức hổ trợ phát triển chính thức (ODA) và viện trợ của
các tổ chức phi chính phủ (NGO).
Viện trợ phát triển chính thức (ODA: Official Development Assistance) là
nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền Nhà nước hay đòa phương)
của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội của các nước đang phát triển. Nội dung của ODA gồm:
+ Cho vay ưu đãi: bao gồm cho vay không lãi suất và cho vay với lãi suất thấp,
tuỳ thuộc mục tiêu vay và mức vay; thời hạn trả vốn dài (từ 25 năm đến 40 năm)
để giảm gánh nặng trả nợ; có thời gian ân hạn để nước tiếp nhận có thời gian phát
huy hiệu quả vốn vay tạo điều kiện trả nợ.
+ Viện trợ không hoàn lại ( thường chiếm 25% tổng vốn ODA).
Nguồn ODA được thực hiện trên cơ sở song phương hoặc đa phương. Trong đó viện
trợ song phương chiếm đến 80%. Viện trợ đa phương được thực hiện qua các tổ
chức Liên hiệp quốc (UNDP, UNICEF…) và các tổ chức kinh tế tài chính quốc tế (
IMF, WB, ADB, OPEC…). Viện trợ có hai dạng là viên trợ kỹ thuật và viện trợ vốn:
Viện trợ kỹ thuật thường được thực hiện dưới dạng cung cấp chuyên gia, còn viện
trơ vốnï là cung cấp hàng hóa hoặc tiền vốn nhằm thực hiện các mục tiêu khác
nhau.
Nguồn vốn ODA thường được thực hiện với nhiều điều kiện ưu đãi, các nước
tiếp nhận dùng nguồn vốn này để đầu tư vào CSHT, vào các lónh vực y tế, giáo
dục … Tuy nhiên, việc tiếp nhận ODA phụ thuộc vào nhiều nhân tố. Đó là những
14
điều kiện xuất phát từ mục tiêu kinh tế, chính trò hay nhân đạo của các nước hay
các tổ chức cấp viện trợ và khả năng thích ứng, chấp nhận của nước được viện trợ.
Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO:Non – Government Organization)
là các khoản viện trợ không hoàn lại. Trước đây loại viện trợ này chủ yếu là vật
chất, phục vụ cho mục đích nhân đạo như cung cấp thuốc men cho các trung tâm y
tế, chổ ở và lương thực cho các nạn nhân thiên tai… Hiện nay loại viện trợ này bao
gồm cả các chương trình viện trợ phát triển với mục tiêu dài hạn, có sự hỗ trợ của
các chuyên gia như huấn luyện những người làm công tác bảo vệ sức khỏe, thiết
lập các dự án tín dụng, cung cấp nước sạch ở nông thôn…
Nguồn ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ có tác dụng thúc đẩy, khuyến khích
và tạo điều kiện thu hút đầu tư trực tiếp. Đối với các nước đang phát triển, nguồn
ODA là nguồn vốn rất quý giá, cần phải tận dụng và khai thác có hiệu quả, tạo
thành đòn bẩy kích thích tăng trưởng kinh tế. Các khoản ODA của nước ngoài dành
cho Việt Nam là một trong khoản thu quan trọng của NSNN được chính phủ thống
nhất quản lý và sử dụng cho những mục tiêu ưu tiên về xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội.
b/ Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (Foreign Direct Investment FDI): là
nguồn vốn do các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào để thực hiện các dự án sản xuất,
kinh doanh, góp vốn vào các công ty, xí nghiệp liên doanh hoặc thành lập các kinh
nghiệp liên doanh hoặc thành lập các kinh doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Vốn FDI hình thành từ tiết kiệm của tư nhân và các công ty nước ngoài đầu tư
vốn vào một nước khác nhằm khai thác lợi thế so sánh, tận dụng các yếu tố lao
động, tài nguyên của đòa phương, tiết kiệm chi phí vận chuyển để tăng lợi nhuận
cho việc đầu tư .
Đối với các nước đang phát triển, vốn FDI mang ý nghiã quan trọng vì đó là
hình thức huy động vốn để tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, nhận chuyển
giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, thu ngoại tệ thông qua các khoản
thu thuế, các khoản cho thuê, bán các hàng hoá và dòch vụ, tăng thu nhập cho
người lao động trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài và khả năng tiếp cận thò
trường thế giới. Vì vậy, thu hút FDI đang trở thành hình thức huy động vốn phổ
biến , tạo nên sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước đang phát triển.
c/ Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài:
Vốn đầu tư gián tiếp là những khoản đầu tư do người nước ngoài thực hiện
thông qua việc mua cổ phiếu hay trái phiếu của các nước sở tại và không làm công
15
việc quản lý. Hiện nay, đầu tư gián tiếp nước ngoài chủ yếu là cấp tín dụng thông
qua các ngân hàng thương mại mà các nhà xuất khẩu dành cho nhà nhập khẩu. Với
hình thức huy động vốn này người đi vay chủ động hơn trong việc sử dụng. Tuy
nhiên, việc phải trả cả gốc và lãi, lãi suất tương đối cao, nhất là khi không tiếp
nhận được các nguồn vốn ở thò trường vốn chính thức, phải thông qua xuất khẩu để
tạo nguồn ngoại tệ trả nợ là những vấn đề mà các nhà đầu tư nước đi vay cần phải
cân nhắc.
1.2.3.3 Các nguồn vốn khác:
a/ Tín dụng: Là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trò nhất đònh
dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời hạn nhất đònh từ người sở hữu
sang người sử dụng và phải hoàn trả lại. Tín dụng huy động các nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi từ các cá nhân, các tổ chức kinh tế để bổ sung kòp thời cho những DN, cá
nhân kể cả ngân sách đang gặp thiếu hụt về vốn trên nguyên tắc có hoàn trả.
Tín dụng bao gồm tín dụng nhà nước (TDNN) và tín dụng ngân hàng (TDNH).
Tín dụng nhà nước là hoạt động đi vay do nhà nước tiến hành nhằm cân đối
ngân sách khi mà nguồn thu thuế và các nguồn khác không đáp ứng đầy đủ các nhu
cầu chi tiêu của ngân sách. Mục tiêu của TDNN là thực hiện chức năng điều tiết vó
mô nền kinh tế. TDNN được thực hiện nhằm vay nợ trong nước thông qua các công
cụ như công trái, tín phiếu ngắn hạn, trái phiếu dài hạn phát hành trong nước.
Ngoài ra, TDNN cũng được thực hiện nhằm vay nợ nước ngoài bằng việc vay từ
nguồn viện trợ ODA, phát hành trái phiếu của nhà nước trên thò trường quốc tế.
TDNN được dùng để đầu tư đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế,
các cơ sở sản xuất tạo việc làm, các dự án đầu tư trọng điểm của nhà nước trong
từng thời kỳ và một số dự án khác có khả năng thu hồi vốn đã được xác đònh trong
kế hoạch đầu tư của nhà nước.
Tín dụng ngân hàng: là công cụ thu hút vốn nhàn rỗi của các DN và dân cư để
cho vay. Trong nền kinh tế thò trường, TDNH hoạt động rất đa dạng và phong phú.
- Căn cứ vào thời hạn, TDNH được chia làm ba loại :
+ Tín dụng ngắn hạn : có thời hạn dưới một năm, thường được sử dụng để
cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của DN và cho vay phục vụ
nhu cầu đời sống của nhân dân.
+ Tín dụng trung hạn : có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Loại này được dùng
để cho vay vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố đònh, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
16
+ Tín dụng dài hạn : có thời hạn trên 5 năm. Loại này được dùng để cấp
vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có qui mô lớn. Tín dụng
trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố đònh và một phần tối thiểu cho
hoạt động sản xuất.
- Căn cứ vào mức độ tín nhiệm với khách hàng, tín dụng được chia làm 2 loại :
+Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản
+Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản ( tín chấp).
b/ Thò trường vốn: Thò trường vốn là nơi huy động và cung cấp vốn trung và dài
hạn cho nền kinh tế. Thông qua công cụ chủ yếu là các loại chứng khoán, các chủ
thể thò trường thực hiện việc giao lưu vốn. Đối với người cần vốn, chứng khoán là
công cụ tài chính để huy động vốn, còn đối với người thừa vốn thì chứng khoán là
công cụ đầu tư để mang lại thu nhập.
Trên thò trường vốn, các loại chứng khoán có những tính chất chung là tính
thanh khoản, tính rủi ro và tính sinh lợi. Với những tính chất này, chứng khoán trở
thành công cụ rất có hiệu quả để thu hút các khoản vốn nhàn rỗi trong dân cư, tập
trung thành một khối lượng vốn lớn phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế. Vì vậy,
phát triển thò trường vốn là một yêu cầu cấp bách nhằm khai thác nguồn tiết kiệm
để tăng khả năng đầu tư.
Do tính hiệu quả trong việc huy động vốn, thò trường vốn được nhà nước và các
DN sử dụng để bù đắp phần vốn thiếu hụt trong đầu tư khi cần phải tập trung một
lượng vốn lớn để xây dựng CSHT hoặc đầu tư các dự án lớn vượt quá khả năng của
nhà đầu tư.
1.2.4 Vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế :
Vốn là nhân tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia. Vai trò quan trọng của vốn thể hiện ở chỗ, muốn khai thác tốt các nguồn lực tự
nhiên như đất đai, tài nguyên… thì đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư cần thiết.
Hàm sản xuất đơn giản và nổi tiếng của Harrod (Anh) và Domar (Mỹ) đã chỉ ra
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với hệ số gia tăng tư bản – đầu ra (ICOR) như
sau :
Mức tăng GDP = Mức tăng vốn đầu tư / ICOR
Trong đó ICOR ( Incremental Capital Output Ratio) là Hệ số tăng trưởng vốn -
đầu ra, biểu thò hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư.
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư . Ở
các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5-7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được
17
sử dụng nhiều để thay thế cho lao động vì ở các nước này thường sử dụng công
nghệ hiện đại. Còn ở các nước chậm phát triển, ICOR thấp, từ 2 – 3 do thiếu vốn,
do sử dụng công nghệ lạc hậu, trong khi đó lao động lại dư thừa nên có thể và cần
phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn. Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc
vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách
trong nước. Như vậy, theo phương trình cơ bản trên thì : về lâu dài nền kinh tế cần
phải giữ vững và gia tăng tỷ lệ đầu tư và khống chế ở mức chấp nhận được đối với
hệ số gia tăng tư bản – đầu ra. Bởi vì, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tỷ lệ
thuận với tỷ lệ tích lũy của nền kinh tế và tỷ lệ nghòch với hệ số ICOR . Điều đó có
nghóa là để duy trì được tốc độ tăng trưởng hàng năm của nền kinh tế là 8% với
ICOR = 3 thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được ở mức 24% so với GDP. Sai lầm trong chiến
lược phát triển kinh tế dẫn đến sai lầm trong cơ cấu đầu tư cùng với việc sử dụng
vốn lãng phí, kém hiệu quả làm tăng nhanh hệ số ICOR kéo theo việc giảm sút tỷ
lệ đầu tư sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng và khả năng tích lũy của nền kinh tế.
Vai trò của vốn đối với phát triển kinh tế còn thể hiện qua quá trình sử dụng
vốn. Quá trình sử dụng vốn gồm hai giai đoạn và tác động của nó ở từng giai đoạn
cũng khác nhau.
Ở giai đoạn đầu, sự tăng lên về đầu tư làm cho nhu cầu chi tiêu tăng lên tác
động đến tổng cầu : tăng sản lượng, tạo nhiều công ăn việc làm và kèm theo sự
biến động giá cả (chủ yếu biến động tăng). Tuy nhiên, nhu cầu của quá trình đầu tư
tạo ra chủ yếu ở giai đoạn này là tư liệu sản xuất, là cái mà ở các nước đang phát
triển rất thiếu. Do đó, nhu cầu xuất khẩu các hàng hóa trong nước sản xuất ra để
nhập khẩu tư liệu sản xuất là yêu cầu tất yếu của quá trình phát triển. Mặt khác,
khi mà tích lũy trong nước còn thấp việc thu hút đầu tư từ nguồn vốn bên ngoài là
cần thiết và tạo ra tăng trưởng rõ rệt trong quá trình thực hiện đầu tư.
Ở giai đoạn thứ hai, đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn vật chất bao gồm tài sản cố
đònh (máy móc, thiết bò, nhà xưởng…) và hàng hoá tồn kho cho sản xuất và các tài
sản vật chất phi sản xuất. Vốn sản xuất tăng lên làm tăng khả năng sản xuất của
đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng tác động đến tổng cung bằng
tăng sản lượng và công việc làm kéo theo mức giá giảm. Ở giai đoạn này, sự gia
tăng về vốn làm tăng năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy gia tăng sản lượng,
năng suất lao động, chất lượng hàng hóa sản xuất ra, tạo khả năng thu hút và sử
dụng có hiệu quả các nhân tố tài nguyên và lao động.
18
Mặt khác, để đạt được mục đích phát triển kinh tế nhanh và bền vững, cần phải
tạo ra sự chuyển dòch cơ cấu kinh tế một cách hợp lý, phù hợp với đặc điểm tình
hình của mỗi nước. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất
yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9 đến 10%) là tăng cường
đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở các khu vực công nghiệp và dòch vụ. Đối
với ngành nông, lâm nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học,
để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5 –6% là rất khó khăn. Như vậy, chính đầu tư
quyết đònh quá trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt tốc độ
tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát
triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng
đói nghèo, phát huy tối đa những hệ số so sánh về tài nguyên, đòa thế, kinh tế,
chính trò… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy
những vùng khác cùng phát triển.
1.2.5.
Vai trò của vốn đầu tư đối với phát triển du lòch:
Để khai thác các tiềm năng thiên nhiên, nhân văn cũng như để xây dựng các
KDL quốc gia, KDL đòa phương nhằm phục vụ cho khách DL thì vốn đầu tư có vai
trò rất quan trọng. Trước hết cần có một lượng vốn lớn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng như hệ thống giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc, phương tiện vận
chuyển... Muốn gia tăng nguồn thu từ khách DL phải đầu tư vốn để tạo ra các sản
phẩm DL đa dạng, phong phú và hấp dẫn... Ngoài ra, vốn đầu tư vào DL còn làm
chuyển dòch cơ cấu kinh tế, nâng dần tỷ trọng của các ngành dòch vụ trong thu nhập
quốc dân và giảm dần tỷ trọng của các ngành nông lâm nghiệp. Việc xác đònh quy
mô và đònh hướng đầu tư vốn đúng đắn sẽ tạo điều kiện cho DL phát triển bền
vững, khai thác tốt các tiềm năng và bảo vệ cảnh quan môi trường. Mặt khác, sự
tăng trưởng của ngành DL cũng có quan hệ chặt chẽ với mức độ gia tăng vốn đầu
tư và tính hiệu quả trong việc sử dụng vốn đầu tư.
1.3 HIỆU QUẢ CỦA VỐN ĐẦU TƯ :
Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để phát triển
nền kinh tế, vừa là cơ sở bảo đảm cho việc gia tăng khả năng huy động vốn. Do đó,
việc đánh giá hiệu quả vốn đầu tư rất rộng, việc lượng hoá nó để phân tích trong
thực tiễn là một vấn đề khó khăn, dễ dẫn đến chủ quan và không thống nhất. Tuy
nhiên, có thể đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư theo hai chỉ tiêu cơ bản, đó là chỉ
tiêu về mặt kinh tế -xã hội & cộng đồng và chỉ tiêu kinh tế tài chính.
19
1.3.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả vốn đầu tư :
1.3.1.1 Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế – xã hội & cộng đồng :
Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế – xã hội & cộng đồng của vốn đầu tư được đánh giá
tổng quát như : chỉ tiêu tạo việc làm mới, giảm thất nghiệp; chỉ tiêu gia tăng thu
nhập dân cư, nâng cao mức sống cộng đồng; đào tạo tay nghề mới, nâng cao học
vấn dân trí, cải thiện sinh thái – môi trường, v..v…Ngoài ra còn có chỉ tiêu tổng hợp
là tính theo hệ số ICOR. Hệ số này được tính toán :
ICOR =
01
1
GG
V
−
Trong đó :
V
1
: Tổng vốn đầu tư phát triển năm báo cáo.
G
1
: GDP tính theo giá thực tế năm báo cáo.
G
0
: GDP tính theo giá thực tế năm gốc (năm trước).
Thực chất của phương pháp này là so sánh lượng vốn đầu tư phát triển tăng
thêm trong năm với GDP tăng thêm năm trước. Để tính giá trò vốn đầu tư tăng thêm
trong năm, ta lấy chênh lệch vốn đầu tư phát triển cuối năm so với vốn đầu tư phát
triển đầu năm, phần chênh lệch này chính là lượng vốn đầu tư phát triển trong
năm. Vì vậy, theo phương pháp này: để tăng thêm một đồng GDP (theo giá thực tế)
cần phải tăng thêm bao nhiêu đồng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
1.3.1.2 Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế – tài chính :
Đối với các doanh nghiệp, để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của các dự án,
các chỉ tiêu thường được sử dụng là:
1.3.1.2.1.
Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn không chiết khấu (PP – Payback Period)
“ Thời gian hoàn vốn không chiết khấu của dự án là thời gian cần thiết để thu
hồi lại số vốn đầu tư đã bỏ ra bằng các khoản tích lũy hoàn vốn hàng năm”
Công thức :
Trong đó :
I : Tổng vốn đầu tư cho dự án.
I = ∑
n
( NP
t
+ D
t
)
t=i
NP
t
: Lợi nhuận sau thuế ( Thu nhập doanh nghiệp ) hàng năm của dự án.
D
t
: Giá trò khấu hao hàng năm của dự án.
t = 1,2,3……n : Số thứ tự năm thực hiện dự án.
Ý nghóa : Chỉ tiêu này nói lên một dự án đầu tư, trước hết cần thu hồi được đủ
số vốn đã bỏ ra để sử dụng cho các mục đích sinh lời và mục tiêu phát triển tiếp
20
theo. Trong điều kiện một nước đang phát triển, còn thiếu vốn, chỉ tiêu thời gian
hoàn vốn được xác đònh là quan trọng hàng đầu, nhất thiết phải được xem xét, đánh
giá trong khi thực hiện dự án .
1.3.1.2.2
Chỉ tiêu số vòng quay vốn lưu động (WCT
t
–Working Capital Turnover)
: “ Số vòng quay vốn lưu động là tỷ số giữa tổng doanh thu (trước thuế giá trò gia
tăng hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt) và vốn lưu động hàng năm của dự án”.
Công thức :
t
t
t
WC
S
WCT =
Trong đó : WCT
t
: Số vòng quay vốn lưu động tính toán hàng năm.
S
t
: Tổng doanh thu hàng năm.
WC
t
: Vốn lưu động hàng năm.
Ý nghóa : Chỉ tiêu số vòng quay vốn lưu động cho biết một đồng vốn bỏ ra, cho
khả năng thu được mấy đồng tổng doanh thu. Mặt khác, chỉ tiêu này cũng biểu hiện
hiệu quả sử dụng vốn lưu động, cũng như hiệu quả hoạt động của dự án.
1.3.1.2.3 Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư ( ROI
t
– Return on Investment)
“ Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư là tỷ số giữa lợi nhuận sau thuế (thu nhập doanh
nghiệp) hàng năm và tổng vốn đầu tư để thực hiện dự án”.
Công thức :
100x
I
NP
ROI
t
t
=
Trong đó : ROI
t
: Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư hàng năm, %.
NP
t
: Lợi nhuận sau thuế ( thu nhập doanh nghiệp) hàng năm.
I : Tổng vốn đầu tư để thực hiện dự án.
Ý nghóa : Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư cho biết một đồng vốn đầu tư
cho dự án cho khả năng thu có được mấy đồng lợi nhuận sau thuế (thu nhập doanh
nghiệp). Là chỉ tiêu biểu hiện khả năng sinh lời của vốn đầu tư .
1.3.1.2.4 Tổng hiện giá thu nhập thuần (NPV - Net Present Value): Hiện giá
thu nhập thuần (hiện giá thuần) của vốn đầu tư là hiệu số giưã hiện giá lợi ích và
hiện giá chi phí trong toàn bộ thời gian thực hiện dự án”.
Công thức : NPV =
∑
=
n
t
B
1
(
t
– C
t
) x a
t
21
Trong đó : NPV : Hiện giá thu nhập thuần của dự án.
B
t
: Lợi ích hàng năm của dự án.
C
t
: Chi phí hàng năm của dự án.
a
t
=
1
)1(
1
−
+
t
r
: Hệ số chiết khấu tài chính của dự án.
Trong đó : r : Tỷ suất chiết khấu tài chính của dự án, % năm.
t : Thứ tự năm trong thời gian thực hiện dự án.
Ý nghóa:
+ Hiện giá thu nhập thuần NPV cho biết, với một chi phí cơ hội mong muốn
nhất đònh của nhà đầu tư, hiện giá lợi ích có lớn hơn hiện giá chi phí hay không?
Với yêu cầu hiện giá lợi ích phải lớn hơn hiện giá chi phí để thu được lợi nhuận.
+ Hiện giá thu nhập thuần NPV biểu hiện mối quan hệ so sánh giá trò tuyệt đối
giữa hiện giá lợi ích và hiện giá chi phí.
1.3.1.2.5
Chỉ tiêu hiện giá tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư cho dự án ( NPVR –
Net Present Value Ratio) “ Hiện giá tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư là tỷ số giữa
hiện giá thu nhập thuần và hiện giá vốn đầu tư trong toàn bộ thời gian thực hiện dự
án”.
Công thức :
NPVR =
PVI
NPV
Trong đó :
NPVR : Hiện giá tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư cho dự án.
NPV : Hiện giá thu nhập thuần của của dự án.
PVI : Hiện giá vốn đầu tư cho dự án.
Ý nghóa :
+ Chỉ tiêu hiện giá tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư cho biết hiện giá một đồng
vốn đầu tư cho dự án có đïc mấy đồng hiện giá thu nhập thuần.
+ Là chỉ tiêu biểu hiện khả năng sinh lời của vốn đầu tư cho dự án.
Biểu hiện tính tiết kiệm và hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư cho dự án.
Trong điều kiện một nước đang phát triển, cần sử dụng tiết kiệm và hiệu quả đồng
vốn đầu tư; việc đánh giá dự án theo chỉ tiêu NPVR là cần thiết; đặc biệt trong
trường hợp lựa chọn nhiều dự án đạt chỉ tiêu NPV giống nhau, nhưng vốn đầu tư
cho dự án khác nhau.
22
1.3.2 Tầm quan trọng của việc đánh giá hiệu quả vốn đầu tư :
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất quyết đònh tốc độ tăng trưởng và nâng cao sức
cạnh tranh của một nền kinh tế. Nhưng tăng trưởng kinh tế và khả năng cạnh tranh
của một quốc gia không chỉ dựa vào lượng vốn đầu tư nhiều hay ít mà quan trọng
hơn là hiệu quả sử dụng lượng vốn này như thế nào. Vì vậy, việc đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư rất quan trọng, thể hiện ở chỗ:
- Đánh giá hiệu quả vốn đầu tư để phối hợp một cách hợp lý giữa các nguồn vốn
trong nước và nguồn vốn nước ngoài, giữa các nguồn vốn của khu vực dân cư với
nguồn vốn thuộc khu vực kinh tế nhà nước, giữa các nguồn vốn viện trợ với các
nguồn vốn đi vay và các nguồn vốn FDI. Nếu như nguồn vốn của khu vực dân cư
và nguồn vốn FDI được điều chỉnh bởi động cơ lợi nhuận thì điều chỉnh của khu
vực nhà nước đối với khu vực này chủ yếu thông qua những tác động đến môi
trường đầu tư để đònh hướng phát triển. Như vậy, thực chất của sự kết hợp trên chủ
yếu thể hiện quan điểm và phương hướng sử dụng các nguồn vốn đầu tư của
NSNN, nguồn vốn ODA và vốn của các DNNN nhằm phối hợp có hiệu quả với các
luồng đầu tư của dân cư và nguồn FDI. Đối với nước ta, điều này đặc biệt quan
trọng trong giai đoạn hiện nay để giải quyết mâu thuẫn giữa sự hạn chế của nguồn
vốn khu vực nhà nước với mục tiêu và yêu cầu to lớn mà nhà nước mong muốn
trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, những lónh vực nhà nước cần
nắm giữ cũng như những yêu cầu giải quyết các vấn đề xã hội khác.
- Đánh giá hiệu quả vốn đầu tư còn nhằm đònh hướng việc thu hút vốn FDI và
khuyến khích vốn đó vào những mục tiêu nào, sử dụng và quản lý sao cho có hiệu
quả, đều cần phải được tính toán cân nhắc xuất phát từ yêu cầu, khả năng của nền
kinh tế. Những điều kiện của việc thu hút từng loại nguồn vốn và hiệu quả sử dụng
các nguồn vốn đó đối với quá trình phát triển, khả năng trả nợ (bao gồm cả khả
năng xuất khẩu) để không tạo ra gánh nặng nợ nần cho những năm sau mà nền
kinh tế không đủ sức trang trải (không chỉ nguồn vốn của Chính phủ đi vay hay bảo
lãnh mà cả các khoản vay nợ khác của các doanh nghiệp).
Là một trong những khu du lòch trọng điểm của quốc gia, nằm trong đòa bàn
tăng trưởng du lòch của Á vùng du lòch Nam Trung bộ, du lòch tỉnh Bình Thuận được
khẳng đònh sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn sau năm 2010, góp phần quan
trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội trên phạm vi toàn tỉnh, thúc
đẩy chuyển dòch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
23
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ CỦA
NGÀNH DU LỊCH BÌNH THUẬN TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ CỦA NGÀNH DU LỊCH BÌNH THUẬN:
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, xã hội – nhân văn để phát triển du lòch Bình Thuận:
Bình Thuận là một tỉnh ven biển duyên hải Nam Trung Bộ với vò trí nằm trong
vùng ảnh hưởng của khu kinh tế động lực phía Nam và là cửa ngõ giao lưu của các
trung tâm du lòch lớn trong vùng là Thành Phố Hồ Chí Minh – Đà lạt – Vũng Tàu.
Đây là khu vực có hệ thống giao thông thuận lợi nối liền với nhau, đồng thời là khu
vực có GDP bình quân đầu người khá cao, nhu cầu du lòch lớn với nhiều loại hình khá
đa dạng. Phía Đông Bắc và Bắc giáp tỉnh Ninh Thuận, Phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh
Lâm Đồng, phía Tây Nam giáp Bà Ròa – Vũng Tàu, phía Tây giáp Đồng Nai, Đông
và Đông Nam giáp Biển Đông. Tỉnh có tổng diện tích tự nhiên là 7.855km2 với 09
đơn vò hành chính là thành phố Phan Thiết và các huyện: Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm
Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân, Đức Linh, Tánh Linh, và huyện đảo Phú
Quý cách thành phố Phan Thiết 120 km.
Về điều kiện tự nhiên của Bình Thuận khá thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt
động du lòch, nhất là về tài nguyên du lòch biển. Với 192 km chiều dài bờ biển, ven
biển Bình Thuận có nhiều đảo, cù lao, vũng, vònh và bãi biển có cảnh quan đẹp, môi
trường hoang dã và trong sạch như : Cà Ná, Cù Lao Câu, Bình Thạnh (huyện Tuy
Phong), bãi biển Đồi Dương - Thương Chánh, Rạng, Mũi Né - Hòn Rơm (TP Phan
Thiết), Mũi Điện Khe Gà (huyện Hàm Thuận Nam), Đồi Dương, Hòn Bà, Ngảnh Tam
Tân (huyện Hàm Tân)... trong đó có số cảnh quan thu hút nhiều du khách như: Động
Cát bay, Hòn Rơm ( Mũi Né ), Suối tiên ( Hàm Tiến ), Bãi đá con (Tuy Phong),v.v...
thuận lợi cho việc phát triển du lòch cuối tuần, du lòch nghỉ dưỡng và du lòch sinh thái.
Bình Thuận còn có tài nguyên rừng nhiệt đới với nhiều hệ sinh thái động thực vật
phong phú về chủng loại, có giá trò cao. Các hồ thiên nhiên và nhân tạo cùng núi rừng
tạo nên những quan cảnh đẹp như hồ Biển Lạc (rộng 280 ha), núi Ông (cao 1.302 m),
Thác Bà, Thác Reo ở Đức Linh-Tánh Linh, hồ sông Quao, hồ Hàm Thuận- Đa Mi, hồ
Bàu Trắng (Bắc Bình),…có thể phát triển các loại hình du lòch dã ngoại, du lòch sinh
thái kết hợp với tham quan nghiên cứu tự nhiên. Bên cạnh đó, còn có nhiều mỏ nước
khoáng như Vónh Hảo, Đa Kai, có giá trò phục vụ tiêu dùng và chữa bệnh, trong đó
đặc biệt là nguồn nước nóng với trữ lượng lớn tại chân núi Tà Kóu thuộc huyện Hàm
24
Thuận Nam chưa được khai thác, có thể sử dụng để phát triển các loại hình du lòch có
sử dụng bùn khoáng để điều dưỡng và chữa bệnh.
Về điều kiện xã hội và nhân văn, dân số trung bình toàn tỉnh theo thống kê năm
2004 có 1.140.429 người, là nơi cư trú của 37 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Kinh
chiếm 93%, dân tộc Chăm 2,84%, còn lại là các dân tộc khác như Rắc lây, K’Ho,
Hoa, Nùng… Do chòu ảnh hưởng văn hoá, phong tục của nhiều dân tộc sống trên đòa
bàn đã tạo cho Bình Thuận có nhiều lễ hội văn hoá dân gian đặc sắc, mang tính chất
vùng và đặc thù của đòa phương như: Lễ hội Ka-tê của đồng bào Chăm, Lễ hội
Nghinh Ông của người Hoa, Lễ Nghinh Ông Nam Hải của cư dân các vạn chài ven
biển, Lễ hội dinh Thầy Thím … diễn ra hàng năm thu hút rất đông khách tham dự.
Ngoài ra Bình Thuận còn có nhiều di tích văn hoá lòch sử, đến nay đã có 23 di tích
được Nhà nước xếp hạng. Nhiều di tích có giá trò văn hoá cao thu hút khách tham
quan như khu di tích Dục Thanh, Đình Làng Đức Nghóa, Đình Vạn Thủy Tú, Tháp
Chàm Pôsanư,…(phụ lục 4)
Tất cả tạo nên những điều kiện thuận lợi để tổ chức các hoạt động du lòch phong
phú, đa dạng, đồng thời là yếu tố quan trọng tác động đến hoạt động và hiệu quả vốn
đầu tư của du lòch Bình Thuận.
2.1.2 Quá trình phát triển của du lòch Bình Thuận trong thời gian qua :
Từ năm 1995 trở lại đây, ngành du lòch tỉnh Bình Thuận đã có bước phát triển khá
nhanh thể hiện trên các mặt sau:
2.1.2.1 Đầu tư cơ sở hạ tầng :
Thực hiện Nghò quyết 07/TV ngày 03/07/1995 của Tỉnh ủy Bình Thuận về phát
triển du lòch. Những năm qua, tỉnh đã tập trung cho công tác quy hoạch các KDL
trọng điểm; đầu tư, nâng cấp và xây dựng CSHT chủ yếu về đường giao thông, điện,
nước, bưu điện đến các KDL đã được quy hoạch.
2.1.2.1.1 Về công tác quy hoạch phát triển du lòch :
Đến cuối năm 2004, về cơ bản tỉnh Bình Thuận đã tiến hành nghiên cứu, xây dựng
và hoàn thành quy hoạch đối với các khu vực trọng điểm ven biển và trên đòa bàn
toàn tỉnh, cụ thể : Đã tiến hành quy hoạch tổng thể phát triển du lòch Bình Thuận đến
năm 2000; điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển du lòch Bình Thuận đến
năm 2010 và đònh hướng phát triển đến năm 2020; Quy hoạch tổng thể phát triển
KDL các huyện từ năm 2001 đến năm 2004 : Tuy Phong, Hàm Tân, Tiến Thành –
Hàm Thuận Nam, Bắc Bình, KDL Hàm Thuận- Đa Mi. Ngoài ra, tỉnh cũng tiến hành
quy hoạch chi tiết các khu dòch vụ du lòch công cộng Mũi Điện- Khe Gà, KDL Đồi
25
Dương- Tân Hải, KDL Bình Thạnh, KDL cộng đồng Hoà Thắng và Tiến Thành.
Nguồn vốn cho công tác này được đầu tư bằng nguồn vốn NSNN với số tiền 543 triệu.
2.1.2.1.2 Về giao thông:
Tỉnh có 3 tuyến quốc lộ chính là quốc lộ 1A, quốc lộ 55 nối với Bà Ròa- Vũng
Tàu, quốc lộ 28 nối với Lâm Đồng đã được duy tu, nâng cấp khá tốt. Các tuyến tỉnh
lộ gồm 7 tuyến với chiều dài 238 km nối trung tâm các huyện với tỉnh. Từ năm 2000
đến 2004 ngân sách tỉnh đã đầu tư cho các tuyến giao thông ven biển có vai trò quan
trọng trong việc phát triển du lòch như: tuyến Phan Thiết – Mũi Né, PhanThiết – Tiến
Thành – Thuận Quý – Kê Gà – Hàm Tân, Mũi Né – Hoà Thắng, Phan Rí Cửa – Chí
Công – Bình Thạnh – Liên Hương là 147.940,13 triệu đồng.
Đường sắt ngang qua tỉnh có chiều dài 190 km với 11 ga, nhưng chưa có ga chính
thuận tiện trong việc đưa đón du khách. Toàn tỉnh có 4 cảng biển là Phan Thiết, Lagi,
Phan Rí, Phú Quý chủ yếu là cảng cá và cảng hàng hoá quy mô nhỏ, không tiếp nhận
được tàu du lòch. Tỉnh có 2 sân bay ở Phan Thiết và Hàm Tân nhưng đã hư hỏng do
không sử dụng, không khai thác từ năm 1975 đến nay.
2.1.2.1.3 Về thông tin liên lạc :
Trong những năm qua, tỉnh đã chú trọng đầu tư nâng cấp mạng bưu chính viễn
thông đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc của nhân dân và du khách. Giai đoạn từ 2001
– 2005, ngành Bưu điện đã tiến hành lập kế hoạch đầu tư xây dựng một số công trình
phục vụ du lòch với tổng kinh phí 12,2 tỷ đồng, gồm các hạng mục công trình: Xây
dựng 8 cột ăng ten phục vụ cho thông tin di động và truyền dẫn vi ba cho một số vùng
thuộc các huyện : Hàm Thuận Nam, Thuận Quý, Hàm Kiệm, Tuy Phong… Xây dựng
mới 5 tổng đài và cáp mạng ở Thuận Quý, Tân Thành, Tiến Thành, Long Sơn và mở
rộng dung lượng cho các đài Thuận Quý, Mũi Né, Hàm Tiến; Xây dựng mới một số
tuyến truyền dẫn bằng vi ba và cáp quang ở Hòa Thắng – Long Sơn, Phan Thiết –
Thuận Quý, Phan Thiết – Phú Hải…Hiện nay, toàn tỉnh có 51 tổng đài điện thoại, các
khu vực thành phố và trung tâm các huyện, các khu du lòch đang hoạt động đều đã
phủ sóng điện thoại di động.
Tuy nhiên, mạng lưới viễn thông ở các khu vực mới quy hoạch phát triển du lòch
chưa được xây dựng kòp thời.
2.1.2.1.4 Về mạng lưới điện :
Mạng lưới điện trong tỉnh đã được xây dựng khá hoàn chỉnh ở các khu dân cư. Từ
năm 2000 đến nay ngành Điện lực đã tiến hành đầu tư nâng cấp trên 20 hạng mục