Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

tỷ giá hối đoái và lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.53 KB, 22 trang )

Mở đầu
Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, kinh tế Việt Nam đã bước sang
một trang sử mới với sự phát triển vượt bậc về mọi mặt. Việt Nam đã được đánh
giá là một “con hổ” của nền kinh tế Châu Á. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn phải đối
mặt với rất nhiều vấn đề nan giải như: lạm phát, mất giá đồng nội tệ, nhập siêu cao
Đặc biệt trong thời gian gần đây, việc tỷ giá hối đoái giữa VND và USD tăng cao
đã có những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam theo cả hai mặt tốt và
xấu.
Tỷ giá hối đoái xuất hiện và phát triển cùng với sự ra đời, phát triển của thương
mại quốc tế, nó được giải thích bởi một hiện tượng đơn giản là hàng hoá không có
biên giới quốc gia trong khi tiền chỉ được chấp nhận trên lãnh thổ quốc gia phát
hành ra nó. Tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong chính sách tiền tệ, nó là mục
tiêu của chính sách tiền tệ mà mọi quốc gia đều hướng tới. Đồng tiền ổn định và tỷ
giá hối đoái hợp lý sẽ tạo điều kiện cho việc duy trì, mở rộng và phát triển các mối
quan hệ kinh tế trong nước và quốc tê, giúp cho nền kinh tế trong nước có điều
kiện hội nhập khu vực và thế giới ngày càng mạnh mẽ hơn.
George Soros - tác giả của cuốn sách Giả kim thuật Tài chính - cho rằng mối quan
hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ
vòng, chúng tác động qua lại lẫn nhau, không thể coi cái này là nguyên nhân và cái
kia là kết quả. Ông gọi một quan hệ vòng tự tăng cường lẫn nhau như vậy là một
vòng ác luẩn quẩn khi đồng nội tệ mất giá, lạm phát gia tăng và là vòng thiện khi
xảy ra điều ngược lại.
Cho đến nay, mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát, tác động của tỷ giá hối
đoái tới lạm phát và ngược lại, tăng tỷ giá có cứu được lạm phát là những vấn đề
lớn đang được nhiều nhà kinh tế học quan tâm nghiên cứu. Một số chuyên gia tiền
tệ đồng ý với quan điểm cũ của các học giả phương Tây về mối quan hệ giữa tỷ giá
và lạm phát. Các nhà nghiên cứu cho rằng: khi mức độ phá giá của tiền tệ lớn hơn
sự mất giá của hàng hóa, lạm phát sẽ gia tăng. Khi mức độ mất giá của tiền tệ thấp
hơn sự mất giá của hàng hóa, lạm phát sẽ được hạn chế. Bởi vậy khi lạm phát trầm
trọng, tăng tỷ giá có thể hạn chế được lạm phát.
PHẦN I:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỶ GIÁ HỐI


ĐOÁI VÀ LẠM PHÁT
I. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài:
Lạm phát và tỷ giá hối đoái là hai biến số kinh tế quan trọng của không chỉ
của một quốc gia nào. Lịch sử đã chứng minh sự ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng
đến sự phát triển kinh tế thế giới. Không những lạm phát và tỷ giá hối đoái có thể
tác động đến mọi hoạt động kinh tế mà chúng còn chịu sự tác động qua lại lẫn
nhau. Sự tác động này làm cho diễn biến của chúng ngày càng biểu hiện khó
lường, gây khó khăn cho công tác kiểm soát vĩ mô nền kinh tế của Chính Phủ.
Trước tình hình thế giới có nhiều thay đổi như hiện nay thì vấn đề ổn định
nền kinh tế luôn là mục tiêu cấp thiết hàng đầu của các quốc gia. Bởi vậy, nắm bắt
được quy luật về mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái sẽ giúp cho chính
phủ các nước có những chính sách kinh tế phù hợp, tạo nên một sự phát triển kinh
tế ổn định và tích cực hơn.
II.Các khái niệm chung
2.1. Tỷ giá hối đoái
2.1.1. Định nghĩa tỷ giá hối đoái:
Tỉ giá hối đoái là giá chuyển đổi từ một đơn vị tiền tệ nước này sang thành
những đơn vị tiền tệ nước khác.
2.1.2. Các hình thức biểu hiện:
* Biểu hiện trực tiếp: Là phương pháp biểu thị một đơn vị ngoại tệ bằng bao nhiêu
đơn vị tiền tệ của nước mình.
+ Đặc điểm: Ngoại tệ là đồng yết giá, còn tiền trong nước là đồng định giá.
→ Đây là phương pháp phổ biến trên thế giới hiện nay.
*Biểu hiện gián tiếp: Là phương pháp biểu thị một đơn vị tiền tệ trong nước bằng
bao nhiêu đơn vị ngoại tệ.
+ Đặc điểm: Tiền trong nước là đồng tiền yết giá, ngoại tệ là đồng định giá.
→ Hình thức này phổ biến ở nước Anh và một số nước thuộc liên hiệp Anh.
2.1.3. Vai trò của tỷ giá hối đoái:
Tỉ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nó tác động đến giá cả
tương đối của hàng hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài. Qua đó tác động đến

tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá và sự cạnh tranh hàng hoá giữa các nướcvới
nhau trên thị trường quốc tế.
+ Khi đồng tiền của một nước tăng giá, hàng hoá của nước đó tại nước ngoài
đắt hơn và hàng hoá nước ngoài tại nước đó rẻ hơn. Điều này dẫn đến những nhà
sản xuất trong nước đó gặp khó khăn hơn trong việc bán hàng của họ ở nước ngoài.
+ Khi đồng tiền rẻ của mỗi nước sụt giá thì hàng hoá của nước đó tại nước
ngoài rẻ hơn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó đắt hơn.
→ Những nhà sản xuất trong nước có ưu thế cạnh tranh trong việc bán hàng ở thị
trường nước ngoài, đồng thời hạn chế nhập khẩu.
2.1.4. Cơ sở xác định tỉ giá hối đoái:
* Trong lưu thông tiền đúc bằng kim loại: tỷ giá được hình thành dựa trên trọng
lượng kim loại của các đồng tiền được so sánh với nhau.
* Trong chế độ tiền giấy được tự do chuyển đổi ra vàng: Tỉ giá được hình thành
dựa trên trọng lượng vàng theo luật định của các đồng tiền được so sánh với nhau.
Ví dụ: Trước năm 1970, nội dung vàng của một đồng bảng Anh (GBP) là
2.4888281 gram vàng nguyên chất, 1USD là 0.888671 gram vàng nguyên chất.
Như vậy 1GBP = 2.8 USD (2.488281: 0.888671).
* Ngày nay, khi giấy bạc ngân hàng của các nước không được tự do chuyển đổi
ra vàng: tỉ giá được hình thành dựa trên sức mua của các đồng tiền, hay còn gọi là
ngang giá sức mua.
2.1.5 Phân loại tỷ giá.
Tùy vào mục đích sử dụng, tỉ giá được phân chia theo các tiêu thức khác nhau.
1.5.1 Căn cứ vào phương tiện chuyển hối
* Tỉ giá điện hối: Là tỉ giá mua bán ngoại tệ, cũng như các giấy tờ có giá bằng
ngoại tệ được chuyển bằng điện.
* Tỉ giá thư hối: Là tỉ giá mua bán ngoại tệ, cũng như các giấy tờ có giá bằng
ngoại tệ được chuyển bằng thư.
2.1.5.2 Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại tệ
* Tỉ giá mở cửa: Là tỉ giá áp dụng cho việc mua bán món ngoại tệ đầu tiên trong
ngày làm việc tại các trung tâm hối đoái.

* Tỉ giá đóng cửa: Là tỉ giá áp dụng cho mua bán món ngoại tệ cuối cùng trong
ngày làm việc tại các trung tâm hối đoái.
2.1.5.3 Căn cứ vào phương thức mua bán, giao nhận ngoại tệ
* Tỉ giá giao nhận ngay: Là tỉ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận chúng sẽ
thực hiện chậm nhất sau 2 ngày làm việc.
* Tỉ giá giao nhận có kì hạn: Là tỉ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận chúng
được thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định.
2.1.5.4 Căn cứ vào chế độ quản lí ngoại hối
* Tỉ giá hối đoái chính thức: Là tỉ giá do Nhà nước công bố thường là Ngân hàng
Trung ương.
* Tỉ giá tự do: Là tỉ giá được hình thành tự phát và diễn biến theo quan hệ cung
cầu về ngoại tệ trên thị trường. Tỷ giá tự do hay còn gọi là tỷ giá trên thị trường
chợ đen.
2.1.6 Chính sách tỉ giá hối đoái
2.1.6.1. Định nghĩa:
Là chính sách mà Ngân hàng Trung ương can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng
cách thay đổi lãi suất.
+ Khi tỉ giá lên cao, Ngân hàng Trung ương tăng cường bán ngoại hối ra thị
trường để kéo tỉ giá ngoại hối tụt xuống.
→ Ngân hàng Trung ương cần phải có dự trữ ngoại hối lớn.
+ Khi tỉ giá xuống, Ngân hàng Trung ương tiến hành thu mua ngoại hối trên thị
trường để đẩy tỉ giá ngoại hối tăng lên.
2.1.6.2. Phân loại chính sách tỷ giá.
* Chế độ tỉ giá cố định: Là chế độ tỉ giá mà Ngân hàng Trung ương buộc phải
can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì tỉ giá biến động xung quanh một mức
tỉ giá cố định (gọi là tỉ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp đã được định trước.
→ Chế độ tỷ giá này giảm bớt rủi ro trong việc chuyển đổi từ đồng tiền này sang
đồng tiền khác.
* Chế độ tỷ giá thả nổi an toàn: Là chế độ tỉ giá được xác định hoàn toàn tự do
theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có sự can thiệp của

Ngân hàng Trung ương.
→ Chế độ tỷ giá này giúp cho chính sách tiền tệ quốc gia được độc lập.
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: Là chế độ tỉ giá mà Ngân hàng Trung ương tiến
hành can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng đến tỉ giá nhưng không
cam kết duy trì một tỉ giá cố định hay biên độ dao động nào xung quanh tỷ giá
trung tâm.
2.2. Lạm phát.
Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho
chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt. Lạm phát
có những đặc trưng là:
- Hiện tượng gia tăng quá mức của lượng tiền có trong lưu thông dẫn đến đồng
tiền bị mất giá;
- Mức giá cả chung tăng lên.
2.2.1. Phân loại lạm phát
Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là sự tăng lên của giá cả hàng hóa, nên các
nhà kinh tế thường dựa vào tỷ lệ tăng giá để làm căn cứ phân loại lạm phát ra thành
3 mức độ khác nhau:
- Lạm phát vừa phải:
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở mức độ 1 con số hàng
năm ( dưới 10% một năm ). Lạm phát vừa phải còn gọi là lạm phát nước kiệu hay
lạm phát một con số. Loại lạm phát này thường được các nước duy trì như một
chất xúc tác để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Lạm phát cao:
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ hai con số hàng năm
( từ 10%-100% một năm). Lạm phát cao còn đươc gọi là lạm phát phi mã. Thật ra,
cũng có một số nhà kinh tế quan điểm cho rằng thuộc loại lạm phát phi mã bao
gồm cả lạm phát ở mức độ ba con số ( như 100%, 200% ). Lạm phát phi mã gây
ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế-xã hội.
- Siêu lạm phát:
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ ba con số hàng năm

trở lên. Siêu lạm phát còn được gọi là lạm phát siêu tốc. Không có điều gì là tốt khi
nền kinh tế rơi vào tình trạng siêu lạm phát.
2.2.2.Các nguyên nhân gây ra lạm phát
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó "lạm phát do cầu
kéo" và "lạm phát do chi phí đẩy" được coi là hai thủ phạm chính.
Cân đối thu chi là điều không thể tránh khỏi khi xảy ra lạm phát.
- Lạm phát do cầu kéo:
Khi nhu cầu của thị trường về một mặt hàng nào đó tăng lên sẽ kéo theo sự tăng
lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó leo
thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa trên thị trường. Lạm phát
do sự tăng lên về cầu (nhu cầu tiêu dùng của thị trường tăng) được gọi là “lạm phát
do cầu kéo”.
- Lạm phát do chi phí đẩy:
Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào,
máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế Khi giá cả của một hoặc vài yếu
tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên,
vì thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận và thế là
mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng sẽ tăng được gọi là “lạm phát do chi
phí đẩy”.
- Lạm phát do cơ cấu:
Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền công “danh nghĩa”
cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm ngành kinh doanh không hiệu
quả, doanh nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải tăng tiền công cho người lao
động. Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh doanh kém hiệu quả, nên khi phải
tăng tiền công cho người lao động, các doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành
sản phẩm để đảm bảo mức lợi nhuận và làm phát sinh lạm phát.
- Lạm phát do cầu thay đổi:
Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó, trong khi lượng cầu
về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và
giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm, như

giá điện ở Việt Nam), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong
khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng
lên, dẫn đến lạm phát.
- Lạm phát do xuất khẩu:
Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung (thị trường tiêu thụ
lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu
khiến lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm (hút hàng trong nước)
khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân
bằng sẽ nảy sinh lạm phát.
- Lạm phát do nhập khẩu:
Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên thế
giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá chung
bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.
- Lạm phát tiền tệ:
Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung ương
mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; hay
do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm cho lượng
tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
2.3.Mối quan hệ giữa tỷ giá với lạm phát
Khi mức độ phá giá của tiền tệ lớn hơn sự mất giá của hàng hóa, lạm phát sẽ
gia tăng. Khi mức độ mất giá của tiền tệ thấp hơn sự mất giá của hàng hóa, lạm
phát sẽ được hạn chế. Bởi vậy khi lạm phát trầm trọng, tăng tỷ giá có thể hạn chế
được lạm phát.” Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát không phải là quan hệ
một chiều mà là quan hệ vòng, tác động qua lại lẫn nhau, không thể coi cái này là
nguyên nhân và cái kia là kết quả”.
Ví dụ mức tỷ giá hối đoái năm 2010
1USD=19800VND
Đến năm 2013 là 1USD=21000VND,thì tất cả các sản phẩm nhập khẩu tính thành
tiền Việt Nam đều tăng giá, trong đó có nguyên vật liệu, máy móc cho sản xuất.
Nếu các yếu tố khác trong nền kinh tế không thay đổi , thì điều này tất yếu sẽ làm

mặt bằng giá cả trong nước tăng lên.
Đồng USD mất giá, VND được neo vào USD cũng mất giá theo (thậm chí cả so
với USD), lạm phát tăng cao. Rõ ràng chúng ta đang ở trong một vòng ác luẩn
quẩn theo nghĩa của Soros. Cần phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này.
Việc nới lỏng biên độ tỷ giá chỉ có tác động nhất thời. Theo các chuyên gia của
Dragon Capital Ngân hàng Nhà nước đã dùng các công cụ chính sách thắt chặt tiền
tệ (thắt chặt cung tiền, thắt chặt tín dụng), áp đặt trần lãi suất vừa qua mang tính
hành chính và đã không có hiệu quả và không thể trì hoãn việc cải tổ chính sách tỷ
giá.Do thắt chặt tiền tệ đã xảy ra vấn đề thiếu thanh khoản, do bị áp trần lãi suất
nên ngân hàng khó thu hút được tiền trong dân cư, kích thích người dân đầu tư và
giữ vàng và/hay ngoại tệ. Các sàn giao dịch vàng đang đua nhau mở cửa là một
dấu hiệu không mấy lành mạnh. Hơn nữa nhập siêu quá lớn khiến nhu cầu ngoại tệ
càng cao.Nền kinh tế bị càng bị đô la hóa (và vàng hóa) hơn. Và USD khan hiếm là
không khó hiểu. Các ngân hàng phải tăng lãi suất tiền gửi USD, khiến chênh lệch
lãi suất USD ở trong nước và ngoài nước ngày càng doãng ra, điều này lại khuyến
khích các dòng vốn ngắn hạn (đầu cơ hay cho ngân hàng trong nước vay ngắn hạn)
chảy vào gây áp lực hơn nữa lên lạm phát.
Không thể dùng các biện pháp hành chính, không thể áp trần lãi suất vì làm như
vậy chỉ khiến cho tình hình khó khăn thêm và là lợi bất cập hại. Nên để cho lãi suất
phát huy tác dụng sàng lọc, lựa chọn của nó. Và cũng rất nên xem xét lại chế độ tỷ
giá hối đoái.
Lạm phát ảnh hưỏng như thế nào đến tỷ giá hối đoái?
Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái không
đổi, hàng hoá dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nứơc ngoài trong khi hàng
hoá dịch vụ nước ngoài rẻ hơn trên thị trường trong nứơc. Theo quy luật cung cầu,
cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ hơn, nhập
khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân
nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút, cung
ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái tăng. Như vậy lạm phát ảnh hưởng
đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm

cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị trưòng tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền
mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu
ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Trong trường hợp các quốc gia đều có
lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa
các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ
mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối đoái tăng.
PHẦN II.THỰC TRẠNG LẠM PHÁT ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ
HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2008-2013
1. Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay.
Tình hình lạm phát ở Việt Nam đang dần đi vào ổn định. Chỉ số giá tiêu
dùng CPI trong tháng 9 đã giảm xuống chỉ còn 0,18% - mức thấp nhất kể tử đầu
năm. Tuy nhiên, nước ta vẫn đang ở trong tình trạng lạm phát phi mã. Vì vậy,kiểm
soát lạm phát hiện nay vẫn là một trong những mục tiêu được ưu tiên hàng đầu của
Chính phủ. Trong thời gian qua, Chính phủ cũng đã sử dụng chính sách tỷ giá hối
đoái như 1 công cụ đề kiềm chế lạm phát. Mặc dù vậy, cũng phải nhận thấy rằng
việc điều chỉnh tỷ giá trong còn có lúc chậm, bị động và chưa đủ mức. Trong điều
kiện nền kinh tế mới mở cửa từng phần, những hạn chế này phần nào đã không
được bộc lộ và chưa gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Nhưng nếu tiếp tục để
xảy ra như vậy trong tương lai, khi Việt Nam đã mở cửa và hội nhập mạnh hơn thì
hậu quả của một chính sách tỷ giá kém linh hoạt sẽ có nguy cơ lấn át những tác
động tích cực mà một chính sách tỷ giá cố định tương đối tạo ra. Dưới góc nhìn
của các chuyên gia kinh tế, Việt Nam cần kiềm chế lạm phát bằng cách tăng cường
hơn nữa các biện pháp trong chính sách tỷ giá hối đoái.
Tăng cường linh họat tỷ giá hối đoái. Hiện tại, biên độ dao động tỷ giá mới ở Việt
Nam chỉ là ±2% . Theo ý kiến của các chuyên gia, mức biên độ này vẫn còn tương
đối hẹp và chưa thật sự hiệu quả. Với tình hình ở lạm phát cao Việt Nam hiện nay,
NHTW nên nới rộng biên độ dao động của VNĐ, chiều rộng khung này có thể ở
mức 10%. Tuy nhiên, do tình hình lạm phát tăng cao nên biện pháp này chủ yếu
nhằm mục đích nâng giá VNĐ trong ngắn hạn. Giảm việc phát hành VNĐ làm cho
cơ chế thị trường tác động nhiều hơn nữa vào tỷ giá. Giảm sức ép lên lạm phát

bằng việc nâng giá VNĐ tương đối so với USD sẽ làm giảm giá nguyên vật liệu
nhập khẩu . Một điều băn khoăn lớn nhất hiện nay là tại sao chúng ta làm ra lương
thực, thực phẩm mà giá lại tăng cao như vậy. Nguyên nhân chính là do giá đầu vào
như: xăng dầu, giống, phân bón, thuốc trừ sâu tăng và phần lớn những nguyên
liệu đầu vào này đều nhập khẩu. Vậy làm thế nào để chúng ta giảm giá lương thực,
thực phẩm? Có 2 cách để giải quyết vấn đề này : Một là, tiến hành điều chỉnh tỷ
giá tức là nâng giá VNĐ trên thị trường ngoại hối. Hai là, phải tự sản xuất trong
nước. Tuy nhiên, nền kinh tế của nước ta hiện nay còn phụ thuộc vào nước ngoài
quá nhiều. Vì vậy, chúng ta chỉ có thể chọn giải pháp nâng giá VNĐ so với USD
để giảm giá nguyên vật liệu nhập khẩu, từ đó giảm được chi phí sản xuất, 1 trong 2
nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát trong thời gian vừa qua. VND tăng giá sẽ
tăng cung hàng nội địa, góp phần giảm khan hiếm hàng hóa trong nước hiện nay
.Khi lượng cung hàng tăng, lạm phát cũng sẽ giảm dẫn đến việc thay đổi tỷ giá có
khả năng hạn chế xuất khẩu nhằm bảo vệ sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh
của nước ngoài. Đồng thời việc thay đổi tỷ giá theo hướng ngăn chặn việc nhập
khẩu tràn lan những hàng hoá, dịch vụ mà trong nước có khả năng sản xuất được,
góp phần giảm bớt căng thẳng về cầu ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu trên thị
trường ngoại hối. Việc linh hoạt chính sách tỉ giá sẽ giúp NHNN hạn chế được
lượng cung tiền vào thị trường . Tỷ giá tăng tạo điều kiện thuận lợi cho để thu hút
lượng USD trong dân chúng, giảm bớt nhu cầu VND, điều này sẽ làm giảm bớt áp
lực lạm phát và tính bất ổn cho nền kinh tế. Mặt khác, lượng USD mà các ngân
hàng mua vào cũng sẽ có được đầu ra do nhu cầu USD của các doanh nghiệp để
nhập khẩu hàng hóa, nguyên, vật liệu. Lượng USD trong lưu thông sẽ giảm, Ngân
Hàng Trung Ương sẽ không lo lắng vì phải bỏ VND ra để mua USD nữa. Giúp
chọn lọc vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có một số triệu
chứng tiền khủng hoảng như: yếu kém về hệ thống tài chính, bong bóng bất động
sản, tỷ giá neo Ở Việt Nam nay, VND bị neo cứng nhắc với đồng USD đang mất
giá toàn diện trên thế giới là một trong những nguyên nhân chính gây ra nhập khẩu
chi phí đầu vào cao. Dẫn đến lạm phát cũng tăng theo mà NHNN sẽ không kiểm
soát được. Chính vì vậy NHNN cần phải nâng tỷ giá ngoại hối lên để kịp thời kiểm

soát lạm phát.Những nhà đầu tư nước ngoài đang giữ vốn bằng VND lên giá sẽ
không có ý định rút vốn ra khỏi VN. Bên cạnh đó, trong điều kiện nền kinh tế VN
chưa hấp thu hiệu quả dòng vốn đầu tư nước ngoài, nếu VND lên giá sẽ có thể
giảm lượng ngoại tệ chảy vào VN. Nó có tác dụng chọn lọc những nguồn đầu tư
lâu dài thực sự có hiệu quả cao, hạn chế được những nguồn ngắn hạn mang tính
đầu cơ rủi ro lớn. Tất nhiên về dài hạn, VN sẽ có chính sách phù hợp để có thể thu
hút vốn nước ngoài khi kinh tế vĩ mô ổn định mà điều kiện cần là lạm phát trong
tầm kiểm soát. Linh hoạt tỷ giá để VNĐ tăng giúp giải quyết cả 2 nguyên nhân gây
lạm phát là chi phí sản xuất tăng và lượng cung tiền lớn. Nó vừa có tác dụng ngắn
hạn vừa có tác động dài hạn do vậy chính là sự lựa chọn đúng đắn và cần thiết cho
Việt Nam trong việc chống lạm phát hiện nay.
2. Thực trạng lạm phát ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong các giai
đoạn.
2.1. Giai đoạn 2008-2010.
Năm 2008 được giới phân tích tài chính coi là "năm bất ổn của tỷ giá" với
những biến động tỷ giá rất phức tạp với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô,
cung cầu ngoại tệ và thậm chí cả tin đồn. Chỉ trong năm 2008, biên độ tỷ giá đã
được điều chỉnh 5 lần, một mật độ chưa từng có trong lịch sử. Tỷ giá liên tục tăng
giảm,cụ thể ở từng giai đoạn sau:
Giai đoạn từ tháng 01/01-25/03/2008: Trong khoảng thời gian này, Chính phủ
và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt
chặt, tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng 12/2007) lên 8,75%/năm (tháng
2/2008). NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền
ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày
10/03/2008.Tỷ giá liên tục giảm,dưới mức sàn.
Tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức
16.112 đồng xuống 15.960 đồng. mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD). Trên thị
trường tự do, USD dao động từ mức 15.700 – 16.000 đồng/USD
Giai đoạn 2 (từ 26/03 – 16/07/2008): Tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt
USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.Trong giai đoạn này, tỷ

giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến 19.400
đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần, còn trên TTTD
cao hơn khoảng 100-150 đồng, sau đó dịu lại khi NHNN nới biên độ từ 1% lên +/-
2%(27/6) và kiểm soát chặt các bàn thu đổi.
Nguyên nhân USD tăng mạnh trong giai đoạn này chủ yếu do tâm lý bất ổn
của doanh nghiệp và người dân khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến trạng thái găm
ngoại tệ của giới đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả DN xuất và
nhập khẩu đến hạn cao; Tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng
trong nước và quốc tế.
Giai đoạn 3 (từ 17/07 – 15/10/2008): Giảm mạnh và dần đi vào bình ổn.
Tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao
dịch bình ổn quanh mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 – tháng 11.
Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng.
Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử,
NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông
tin trên thị trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm.
Đồng thời lúc này, NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình
ổn thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán
ngoại tệ trên thị trường tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD
thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất
khẩu vàng; bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn.
Giai đoạn 4 (từ 16/10 đến hết năm 2008): tỷ giá USD tăng trở lại.
Tỷ giá USDVND tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là
16.998 sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên cung hạn
chế, cầu ngoại tệ vẫn lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong
ngày 7/11/2008, tăng tới mức 1 7.440 đồng/USD.
Sang năm 2009 tỷ giá USD/VNĐ lại tiếp tục tăng đà tăng trong 4 tháng đầu
năm, đặc biệt sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5% khiến cho
tỷ giá ngoại tệ liên NH đã có đợt tăng đột biến và giao dịch trên TTTD tiến sát mức
18000đồng/USD. Trong bối cảnh nguồn ngoại tệ ròng vào VN là + trong 4 tháng

đầu năm thì dường như yếu tố chính khiến cho tỷ giá USD/VNĐ tăng mạnh lại là
do sự găm giữ ngoại tệ.
Một mặt lạm phát ảnh hưởng đến cuộc sống của bộ phận dân cư nói chung
và nền kinh tế nói riêng khiến các doanh nghiệp phải ngừng sản xuất – thậm chí bị
phá sản ra khỏi thị trường, lao động thì sa thải hàng loạt, các công ty – doanh
nghiệp đành phải rút bớt khoản chi phí đó là chi phí nhân công và các khoản chi
phí khác để làm sao cho doanh nghiệp không bị nợ nần năm 2009. Đặc biệt, mối
quan hệ kinh tế quốc tế - trao đổi hàng hóa với nhau cũng ảnh hưởng không kém,
trong đó lạm phát tác động mạnh đến các đồng tiền mạnh trên thế giới, đây chính
là mối lo ngại nhất trên nền kinh tế, một đồng tiền được coi nhẹ so với các đồng
tiền khác thì chứng tỏ giao thương kinh tế với nhau rất khó khăn và sản xuất cũng
trở nên kém hiệu quả hơn. Vì vậy làm phát đã làm cho đồng tiền của chúng ta
(VND/USD) thấp cho với đồng USD chúng ta đành phải phá giá đồng tiền của
mình để tăng sản xuất trong năm 2009, chúng ta hai lần bị phá giá đồng tiền của
chính mình, ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá bình quân trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng áp dụng cho ngày 25/12/2008 lên mức 16.989đ/USD và
hiện nay 17/04/2009 là 18.544đ/USD nhằm tạo mặt bằng tỷ giá mới sẽ góp phần
hỗ trợ xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu và đảm bảo sự bền vững của cán cân thanh
toán quốc tế, đồng thờ hạn chế tâm lý kỳ vọng tỷ giá sẽ tăng cao, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp xây dựng phương án sản xuất kinh doanh ổn định. NHNN sẽ áp dụng
các biện pháp cần thiết để giữ ổn định mức tỷ giá này. Từ ngày 07/11/2008, biên
độ tỷ giá giao dịch USD/VND được mở rộng từ mức 2% lên 3% so với tỷ giá bình
quân liên ngân hàng do NHNN Việt Nam công bố (quyết định 2635/QĐ-NHNN
ngày 06/11/2008).
Trong bối cảnh kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới,
mức dộ tự do hóa các giao dịch vốn tương đối cao, biến động của các luồng vốn
đầu tư, đặc biệt là luồng vốn gián tiếp đã ảnh hưởng mạnh tới cung cầu ngoại tệ và
tỷ giá. Trong năm 2009, luồng vốn đầu tư gián tiếp đã liên tục biến động, khiến
cho cung cầu ngoại tệ mất cân đối. Luồng vốn này gia tăng đáng kể trong 3 thàng
đầu năm, gây áp lực tăng giá VND, sau đó có dấu hiệu đảo chiều làm tăng cầu

ngoại tệ khi tình hình kinh tế thế giới tiếp tục khó khăn, kinh tế trong nước đối mặt
với lạm phát, nhập siêu tăng cao. Sau khi có dấu hiệu tăng nhẹ trở lại do kinh tế vĩ
mô Việt Nam diễn biến khả quan, trong các tháng cuối năm tình trạng khủng
hoảng thị trường tài chính quốc tế lại khiến cho các nhà đầu tư có xu hướng rút vốn
về nước để bảo đảm thanh toán của các tổ chức ở chính quốc.
Lạm phát là sự giảm sức mua của đồng tiền so với hàng hóa và dịch vụ trong
nước, và là sự giảm giá đồng nội tệ so với ngoại tệ chuẩn (là phương tiện thanh
toán, tích trữ quốc tế). Lạm phát ở Việt Nam chịu tác động từ 5 nguyên nhân
chính sau: Kỳ vọng lạm phát (ví dụ do tỷ giá tăng, vàng lên giá, lãi suất trái
phiếu chính phủ ở mức cao…); Tiền tệ (do tăng cung tiền trong lưu thông…);
Cầu kéo (do tổng cầu cao hơn tổng cung…); Chi phí đẩy (do tăng giá nhập khẩu
nguyên vật liệu …); Đình đốn sản xuất (do chi phí vốn cao trong một thời gian
dài…)
Việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) không công bố một cách rõ ràng về định
hướng chính sách tiền tệ (nới lỏng hay thắt chặt) và tỷ giá đã tạo cơ hội cho việc dự
đoán chính sách một cách chủ quan, thiếu cơ sở, tạo tâm lý không ổn định cho
cộng đồng doanh nghiệp và dân cư. Điều này thường bị lợi dụng để đẩy giá hàng
hóa (bao gồm cả USD và vàng) lên cao hơn và kỳ vọng lạm phát theo đó cũng gia
tăng. Một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng ở Việt Nam là
đầu tư. Do hiệu quả đầu tư còn thấp nên việc gia tăng đầu tư được gắn với tăng
cung tiền. Năm 2009, mức cung tiền M2 tăng 28,7%; tín dụng tăng 37,7%, trong
khi GDP chỉ tăng 5,32%. Cung tiền năm 2010 đã bị hạn chế hơn, chỉ còn tăng
21,7%, nhưng vẫn cao hơn kế hoạch (20%), và dẫn đến đồng tiền bị mất giá mạnh
trong năm.
Năm 2010, tổng cầu tăng đột biến đối với một số mặt hàng do Việt Nam có sự kiện
đại lễ 1000 năm Thăng Long, lại phải chịu nhiều đợt thiên tai bão lũ lịch sử. Trong
khi sản xuất hàng hóa trong nước khó được đẩy mạnh do chi phí vốn cao, việc
nhập khẩu hàng hóa cũng bị tác động tiêu cực bởi tỷ giá, tổng cầu cao hơn tổng
cung khiến lạm phát tiếp tục gia tăng.
Sau thời kỳ suy thoái, kinh tế thế giới đang dần ổn định trở lại. Hầu hết các quốc

gia đều có tăng trưởng GDP dương trong năm nay. Cùng với kỳ vọng hồi phục của
nền kinh tế thế giới, giá hàng hóa tiếp tục gia tăng. Do Việt Nam phải nhập khẩu
nhiều loại nguyên vật liệu, phụ liệu cho sản xuất nên việc giá cả hàng hóa thế giới
tăng đã góp phần gia tăng chi phí đẩy.
Sự tắc nghẽn dòng vốn hiện nay cũng là nguyên nhân quan trọng làm gia tăng lạm
phát. Để tăng hiệu quả hoạt động, ngân hàng (khi không thể giảm được lãi suất đầu
vào) phải tìm cách tăng lãi suất đầu ra thông qua nhiều hình thức như thu thêm phí,
lệ phí…Nguy hiểm hơn, ngân hàng buộc phải chấp nhận cấp tín dụng cho các
khoản vay có rủi ro cao (cùng với kỳ vọng sẽ có lợi nhuận cao) như bất động sản,
chứng khoán. Nguồn vốn - vốn đã ít - lại không đi vào hoạt động sản xuất kinh
doanh mà chuyển vào kênh đầu cơ không sinh ra giá trị gia tăng cho xã hội. Sự
lãng phí nguồn vốn này khiến cho chi phí đầu vào của doanh nghiệp bị đội cao,
gây đình đốn sản xuất.
Để có thể tính toán được mức tỷ giá hợp lý cần phải có thông tin về tình
hình cung cầu (VND/USD) thực tế và dự đoán chính xác về diễn biến cung - cầu
trong tương lai. Do còn tồn tại đồng thời 3 thị trường tỷ giá: tỷ giá chính thức do
NHNN công bố, tỷ giá liên ngân hàng do các ngân hàng tự giao dịch với nhau; và
tỷ giá chợ đen, nên việc xác định tổng cung - tổng cầu tại mỗi thời điểm là không
thể thực hiện được. Dự đoán cung cầu trong tương lai cũng không thực hiện được
do Việt Nam chưa có thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai, cả về hàng hóa
lẫn tiền tệ. Ngoài ra, do đồng VND chưa tự do chuyển đổi nên các hợp đồng kỳ
hạn tiền gửi không giao dịch (NDF - non deliverable forward) hầu như không thể
dùng để dự đoán tỷ giá trong tương lai. Mặc dù vậy, có thể xác định sơ bộ tỷ giá
hối đoái thông qua chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và một quốc gia chuẩn, do
về thực chất tỷ giá hối đoái thể hiện tương quan sức mua giữa hai đồng tiền. Tuy
nhiên, tỷ giá hối đoái ở Việt Nam không được thả nổi theo tín hiệu thị trường mà
được điều chỉnh linh hoạt theo “định hướng” của NHNN. Vì vậy, NHNN có thể
can thiệp thị trường dựa trên kho dự trữ ngoại hối của mình - độ lớn của kho này
lại là một con số không được công bố. Do vậy, không thể định lượng tỷ giá hối
đoái, nhưng có thể định tính rằng đồng VND sẽ còn được điều chỉnh giảm do các

nguyên nhân: Thâm hụt thương mại kéo dài; Thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể
năm nay lớn, có thể lên đến 4 tỷ USD; Dự trữ ngoại hối của Việt Nam ở mức thấp;
Kỳ vọng tỷ giá còn tăng (dù chênh lệch lãi suất tiền gửi VND và USD lên đến 7 -
8% nhưng các tổ chức, cá nhân vẫn hạn chế bán ngoại tệ cho ngân hàng); Bội chi
ngân sách lớn, nợ công cao.
2.2. Giai đoạn 2010-2012.
Trong năm 2010 Ngân hàng Nhà nước đã 2 lần điều chỉnh tỷ giá giao dịch bình
quân liên ngân hàng, tổng cộng hơn 5,5% so với USD. Tỷ giá chợ đen đạt đỉnh
21.400 VND/USD, vượt giá trần chính thức hơn 10%. Việc tỷ giá trên thị trường tự
do tăng liên tục trong năm qua không chỉ là một hoạt động đầu cơ thuần túy, mà
cho thấy một thực trạng rằng đồng VND hiện nay vẫn chưa phản ảnh chính xác (dù
là chỉ là tương đối) giá trị của nó. Để tỷ giá có thể diễn biến ổn định, có định
hướng, còn cần nhiều thời gian (để tạo ổn định tâm lý) cũng như công cụ (để có thể
đủ sức tác động, can thiệp thị trường).
Để giữ ổn định tỷ giá NHNN phải đối mặt với thách thức lớn là lạm phát cao.
Tính theo năm 2011 , lạm phát hiện nay của Việt Nam đã ở mức trên 22% và thuộc
vào nhóm các nước có mức lạm phát cao nhất thế giới. Lạm phát tuy không tác
động ngay tới tỷ giá nhưng nó sẽ làm cho hàng hoá Việt Nam trở nên kém cạnh
tranh hơn so với hàng hoá thế giới.
Xuất khẩu của các doanh nghiệp sẽ trở nên khó khăn trong khi nhập khẩu lại
được ưa thích. Kinh nghiệm của các năm vừa qua cho thấy mặc dù NHNN có thể
duy trì tỷ giá ổn định trong một thời gian khi lạm phát tăng nhưng sau đó sẽ buộc
phải phá giá đồng nội tệ để kiềm chế nhập siêu.
Khởi đầu năm 2011, kinh tế vĩ mô trong nước phải đương đầu với những bất ổn
lạm phát, tỷ giá… vốn đã khởi phát từ giai đoạn trước đó.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước trong hai tháng 1 và 2 đều duy trì mức tăng kỷ
lục lần lượt là 1.74% và 2.09%, khá cao so với kỳ vọng. Điều này đã phần nào hé
lộ bức tranh kém tươi sáng về tình hình lạm phát trong năm 2011. Nói cách khác,
lạm phát sẽ tiếp tục là thách thức đáng kể nếu không có những biện pháp hữu hiệu
để kiềm chế.

Bất ổn tỷ giá cũng là vấn đề nhức nhối mà cơ quan quản lý phải đối mặt.
Tình trạng tỷ giá USD/VND giao dịch trên thị trường tự do luôn lớn hơn tỷ giá
niêm yết khoảng 8% đã kéo dài trong khoảng 4 tháng trước đó.
Ngày 11/2/2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành văn bản số 74/TB-
NHNN, nâng tỷ giá liên ngân hàng USD/VND thêm 9.3%, từ 18,932 lên 20,693
VND/USD và thu hẹp biên độ dao động từ 3% xuống còn 1%. Đây là lần nâng tỷ
giá USD/VND đầu tiên kể từ ngày 18/8/2010.
Sau quyết định điều chỉnh tỷ giá, vào ngày 18/2, NHNN tiếp tục nâng lãi
suất tái cấp vốn thêm 2% lên 11%, mức cao nhât trong 2 năm. Thêm vào đó, các
lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp
thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN cũng được điều chỉnh tăng.
Việc tăng lãi suất này là một thông điệp rõ ràng cho thấy NHNN đang thực hiện
chính sách tiền tệ thắt chặt, và sau đó đã tác động đến lãi suất trên thị trường tiền
tệ. Ngoài ra, động thái này cũng nhắm đến một mục tiêu khác là ổn định tỷ giá.
Từ tháng 2.2011 tới nay tỷ giá bình quân liên ngân hàng thay đổi trong phạm vi
rất hẹp, trong khi chỉ số CPI đã tăng thêm hơn 10%. Đây sẽ là một sức ép rất lớn
lên tỷ giá vào cuối năm nay và đầu năm 2012.
Trong năm 2012, lượng dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước tăng thêm 15
tỷ USD, yếu tố giảm tổng cầu đã giúp cho tỷ giá Việt Nam năm 2012 ổn định. Kim
ngạch xuất khẩu đạt 114,6 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu sấp sĩ ở mức 114,3 tỷ
USD, lượng kiều hối ước khoảng 10,5 tỷ USD là liều thuốc tiếp sức quý báu cho
tình trạng sức khỏe kinh tế khá nhạy cảm năm 2012. Lần đầu tiên kể từ năm 2007,
cán cân thanh toán tổng thể trong năm 2012 đã thặng dư 10 tỷ USD. Tình trạng
xuất siêu xảy ra trong năm qua là hệ quả biểu hiện của một nền kinh tế suy giảm,
hơn là dấu hiệu tích cực của tăng trưởng xuất khẩu. Bởi nền kinh tế Việt Nam phát
triển là nhờ vào xuất khẩu, nhưng cơ cấu xuất khẩu lại chủ yếu phụ thuộc vào
nguyên vật liệu nhập khẩu. Cả năm 2012, biên độ điều chỉnh tỷ giá tối đa được ghi
nhận là +1%, tỷ giá bình quân liên ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước giữ
nguyên ở mức 20.828 VND/USD.
2.3. Năm 2013.

“Hướng điều hành tỷ giá năm 2013 sẽ giống như năm 2012. Lạm phát là một nỗi
ám ảnh kinh hoàng đối với nền kinh tế èo uột như Việt Nam, do đó các đề nghị phá
giá đồng nội tệ so với USD sẽ nhanh chóng bị bác bỏ vì mục tiêu kiềm chế lạm
phát ”
Xu hướng diễn biến của lạm phát trong năm 2013 vẫn còn mịt mù nhiều ẩn số. Tuy
nhiên, có lẽ không quá sớm khi đưa ra những tiên liệu về hướng đi của chính sách
điều hành tỷ giá hối đoái năm nay.
Tình trạng lạm phát năm 2013 sẽ thể hiện nhiều qua CPI (chỉ số giá tiêu
dùng) trong 2 tháng đầu năm. Tháng 1/2013, CPI đã tăng 1,25%; CPI của tháng 2
chỉ tăng 1,32%. Tính trong vòng 10 năm qua, CPI tháng 2/2013 đứng thứ hai về
mức tăng thấp, khi chỉ cao hơn tháng 2/2009 (1,2%). Cần phải thấy rằng, nguyên
nhân chỉ số giá tiêu dùng tháng 2/2013 tăng thấp là do sức mua thấp, người tiêu
dùng không thể mạnh tay chi tiêu; đây là hệ lụy từ việc 52.000 doanh nghiệp thuộc
khu vực tư nhân đã giải thể hoặc phá sản. Các doanh nghiệp còn hoạt động thì chỉ
sản xuất được từ 30% đến 40% công suất, thu nhập của người lao động giảm trong
năm qua.
Giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát có tác động cộng hưởng. Chẳng hạn, căn cứ
theo mô hình định lượng mà giới nghiên cứu tài chính Việt Nam thường sử dụng,
nếu phá giá đồng nội tệ 1% sẽ tác động làm tăng CPI trong ngắn hạn khoảng
0,65% với độ trễ khoảng 3 tháng (trong điều kiện các nhân tố khác không đổi).
Nếu điều chỉnh tỷ giá USD/VND ở mức tăng 3 - 4% sẽ gián tiếp làm tăng CPI ở
mức 1,95 - 2,60% với độ trễ khoảng 3 tháng. Ngoài ra, mức độ lạm phát của Việt
Nam liên quan với nhiều biến số khác nhau, chẳng hạn như tình hình kinh tế thế
giới. Dự báo về tương lai kinh tế thế giới không giống nhau. Có ý kiến cho rằng,
hiện đã có những dấu hiệu cho thấy sự cải thiện của nền kinh tế thế giới, riêng khu
vực Á châu đã có những bước đi vững vàng hơn. Tuy nhiên, cũng có ý kiến như
Ngân hàng Trung ương Hàn quốc (BOK) thì nhận định trong năm 2013, tình trạng
kinh tế yếu kém sẽ kéo dài ở khu vực sử dụng đồng euro và kinh tế Mỹ chậm phục
hồi. Một nền kinh tế còn lệ thuộc nhiều vào xuất khẩu như Việt Nam sẽ bị ảnh
hưởng trực tiếp từ mức độ hồi phục của kinh tế thế giới.

Tự bản thân tỷ giá không quyết định được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, vì
nếu xem kim ngạch xuất khẩu là một hàm nhiều biến, thì tỷ giá hối đoái chỉ là một
biến số. Và cần phải nhận định rằng, các tuyên bố giữ ổn định tỷ giá ngoại tệ cũng
không hẳn chỉ có mặt tích cực, mặt trái của chủ trương này là sẽ kích hoạt luồng
tiền nóng từ bên ngoài vào Việt Nam để hưởng chênh lệch lãi suất và tận dụng bảo
hiểm tỷ giá “miễn phí”.
Năm 2012, Ngân hàng Nhà nước đã mua ròng 15 tỷ USD và tiếp tục mua
ròng 5 tỷ USD trong khoảng thời gian từ đầu năm 2013 đến trước Tết Nguyên đán,
nâng dự trữ ngoại hối quốc gia lên mức cao nhất từ trước tới nay. Tự số liệu lượng
dự trữ ngoại hối năm 2012 tăng gấp đối so với năm 2011 và tiếp tục mua trong hai
tháng đầu năm 2013 đã phản ánh VND đã và đang chịu sức ép tăng giá so với
USD, động thái Ngân hàng Nhà nước liên tục phải mua USD cần nhận định đã là
một phương cách giữ cho VND không tăng giá gây bất lợi cho xuất khẩu.
Tuy nhiên, nguyên nhân dẫn đến phá giá đồng nội tệ không hẳn lúc nào cũng
xuất phát từ nhu cầu mua ngoại hối hoặc các bức bách về thanh khoản ngoại tệ
trong hệ thống ngân hàng. Mặt khác, lượng dự trữ ngoại hối khoảng 20,9 tỷ USD
(tính đến cuối tháng 12/2012) của Việt Nam chỉ là con số khiêm tốn so với các
nước trong khu vực. Theo số liệu đăng công khai của CIA (Cơ quan Tình báo
Trung ương Hoa Kỳ), ở cùng thời điểm, dự trữ ngoại hối của Malaysia là 140,4 tỷ
USD (với dân số 29 triệu người); Singapore có 253,3 tỷ USD (với dân số hơn 5
triệu người); Thái Lan có 172,8 tỷ USD (với 67 triệu người); Philippin có 80,58 tỷ
USD (với 103,7 triệu người). Nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế trong hoàn cảnh
không ổn định, giải pháp định giá thấp đồng nội tệ hay được các chính phủ đem ra
sử dụng. Phá giá đồng nội tệ là một hình thức áp thuế tinh vi lên người làm công
ăn lương.
Trước mắt, việc đưa VND ra mua USD để giữ ổn định giá nội tệ mà vẫn
kiểm soát được lạm phát là cực kỳ khó. Quan điểm kiên trì kiềm chế lạm phát thể
hiện rõ trong năm 2012 đã thắng thế. Có lẽ biên độ điều chỉnh tỷ giá hối đoái năm
2013 chỉ ở mức +/- 3%. Trong cuộc phỏng vấn ngày 22/2 vừa qua ở Cổng Thông
tin điện tử Chính phủ, ngay Thông đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình

cũng xem lạm phát là một nguy cơ có nhiều yếu tố sẽ xuất hiện trong năm 2013.
Kiềm chế lạm phát thấp hơn là một trong những mục tiêu kinh tế của chính phủ
Việt Nam trong năm 2013. Sau hết mọi vấn nạn, vào thời điểm đầu năm hiện nay
đã xuất hiện hoàn cảnh thuận lợi cho lĩnh vực tài chính của Việt Nam. Với lượng
dự trữ ngoại tệ khả dĩ, lãnh đạo Ngân hàng nhà nước có thể chủ động điều chỉnh tỷ
giá theo nhiều hướng: giảm, giữ ổn định, hay để VND tăng giá so với USD.
PHẦN III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC VÀ KIẾN NGHỊ .
3.1. Một số giải pháp
Thường xuyên phân tích tình hình kinh tế thế giới, khu vực và trong nước để
đề ra được chính sách TGHĐ phù hợp cho từng giai đoạn.
Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam.
- Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ: xây dựng chính sách phát
triển xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập những hàng
hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước chưa
sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị trường phải có hiệu
qủa. Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời gian
trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của mình
nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị mất
giá.
- Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, hoạt động này bao gồm việc
giảm dần , tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước trong
việc xác định tỷ giá, xóa bỏ các qui định mang tính hành chính trong kiểm soát
ngoại hối, thiết lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam, sử dụng linh hoạt và
hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá, nâng cao tính chủ động trong kinh doanh tiền
tệ của các ngân hàng thương mại
Ngân hàng trung ương phải có những biện pháp đảm bảo cho khả năng có
thể cứu được tỷ giá khi có biến động trên thị trường. NHTW cũng có thể mua bán
ngoại tệ trên thị trường mở một cách liên tục để làm cho cầu không tăng lên một
cách đột ngột ảnh hưởng đến tỷ giá.
Khống chế mức lạm phát trong nước: Lạm phát cao dẫn đến sự giảm giá của

đồng nội tệ. Nếu không khống chế được lạm phát một cách hợp lý thì diễn biến
trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái là khó có thể kiểm soát được dẫn đến
những biến động.
Hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam để tạo điều kiện cho việc thực
hiện chính sách ngoại hối có hiệu qủa bằng cách mở rộng thị trường ngoại hối để
các doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường ngày
một nhiều, tạo thị trường hoàn hảo hơn, nhất là thị trường kỳ hạn và thị trường
hoán chuyển để các đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tự bảo vệ
mình.
Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, điều kiện cần thiết để qua đó
nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng thời qua đó
thực hiện biện pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết nhằm khống chế lạm phát
tăng cao Trước mắt cần có những biện pháp thúc đẩy các ngân hàng có kinh
doanh ngoại tệ tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng , song song đó phải
củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ
hoạt động của nó, tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị
trường ngoại tệ và thị trường nội tệmột cách thông thoáng.
Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh TGHĐ Việt Nam. Để đảm bảo cho tỷ giá
phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nên từng bước loại bỏ dần
việc qui định khung tỷ giá với biên độ quá chặt của Ngân hàng nhà nước đối với
các giao dịch của các NHTM và các giao dịch quốc tế (Hiện nay biên độ này là +/-
0.25%). Ngân hàng Nhà nước chỉ điều chỉnh tỷ giá trên các phiên giao dịch ngoại
tệ liên ngân hàng và theo hướng có tăng có giảm để kích thích thị trường luôn sôi
động và tránh hiện tượng găm giữ đô la.
Thực hiện chính sách đa ngoại tệ. Hiện nay trên thị trường ngoại tệ, mặc
dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá
chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm cho tỷ giá ràng buộc vào ngoại
tệđó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động vềgiá cả USD trên thế giới, lập tức sẽ ảnh
hưởng đến quan hệ tỷ giá của USD đến VND mà thông thường là những ảnh
hưởng rất bất lợi.

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế tỷ giá hối đoái ở Việt Nam.
Một trong những điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng một cách bền vững là
sự ổn định sức mua của đồng tiền, hay nói cách khác là cần sự ổn định tỷ giá và
lạm phát vừa phải, thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Muốn vậy, phải cung cấp đủ
vốn và đúng địa chỉ cho nền kinh tế. Hiện tại, các doanh nghiệp phải chấp nhận
tiếp cận vốn với chi phí quá cao, khiến cho việc đẩy mạnh sản xuất, đầu tư đổi mới
công nghệ trở nên khó khăn. Kết quả là giá thành sản phẩm luôn ở mức cao, dẫn
đến lạm phát cao. Trong điều kiện huy động vốn từ dân cư khó khăn như hiện nay,
Chính phủ cần phải chấp nhận (tạm thời) cung thêm tiền ra.
Người Việt Nam vẫn có thói quen tích trữ vàng và USD; và những thói quen
này đã tác động rất lớn tới sự biến động của tỷ giá. Theo thống kê chưa đầy đủ hiện
có hàng tỷ USD, hàng trăm tấn vàng trong dân. Dòng vốn này một mặt bị lãng phí
(do không tham gia vào việc thúc đẩy kinh tế), lại tiềm ẩn rủi ro cho nền kinh tế
khi nó tham gia thị trường một cách tự phát, không được kiểm soát. Để có thể điều
hành chính sách tỷ giá một cách chính xác, điều kiện cần là NHNN phải nắm được
đầy đủ thông tin và đủ sức kiểm soát toàn bộ thị trường ngoại hối. Muốn vậy, phải
hạn chế tối đa phần ngoại tệ và vàng tích trữ trong dân thông qua việc gia tăng
niềm tin cho đồng nội tệ. Một mặt cần khống chế trần lãi suất huy động vàng và
ngoại tệ. Mặt khác, nên minh bạch hóa tình trạng ngoại hối của Việt Nam để người
dân yên tâm rằng Chính phủ đủ sức giữ giá đồng VND. Điều này sẽ khiến người
dân yên tâm khi bán vàng và ngoại tệ cho ngân hàng để lấy VND. Cuối cùng
Chính phủ phải triển khai bằng được chính sách “chỉ được mua hàng hóa và dịch
vụ trên đất nước Việt Nam bằng VND” và ngăn chặn hiệu quả việc buôn lậu qua
biên giới, qua đó giảm được phần cầu ngoại tệ trong dân.
Để giữ ổn định tỷ giá NHNN phải đối mặt với thách thức lớn là lạm phát
cao. Tính theo năm 2011 , lạm phát hiện nay của Việt Nam đã ở mức trên 22% và
thuộc vào nhóm các nước có mức lạm phát cao nhất thế giới. Lạm phát tuy không
tác động ngay tới tỷ giá nhưng nó sẽ làm cho hàng hoá Việt Nam trở nên kém cạnh
tranh hơn so với hàng hoá thế giới.
Xuất khẩu của các doanh nghiệp sẽ trở nên khó khăn trong khi nhập khẩu lại

được ưa thích. Kinh nghiệm của các năm vừa qua cho thấy mặc dù NHNN có thể
duy trì tỷ giá ổn định trong một thời gian khi lạm phát tăng nhưng sau đó sẽ buộc
phải phá giá đồng nội tệ để kiềm chế nhập siêu.
Từ tháng 2.2011 tới nay tỷ giá bình quân liên ngân hàng thay đổi trong phạm
vi rất hẹp, trong khi chỉ số CPI đã tăng thêm hơn 10%. Đây sẽ là một sức ép rất lớn
lên tỷ giá vào cuối năm nay và đầu năm 2012.
Lạm phát ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Khi một nước có lạm phát, sức mua
đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái không đổi, hàng hoá dịch vụ trong nước đắt
hơn trên thị trường nứơc ngoài trong khi hàng hoá dịch vụ nước ngoài rẻ hơn trên
thị trường trong nứơc. Theo quy luật cung cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang
dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá
hối đoái tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu
hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút, cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối
đoái tăng. Như vậy lạm phát ảnh hưởng đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng
tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên
thị trưòng tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm
giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng.
Trong trường hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ
thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm
phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối
đoái tăng.

×