Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

chính sách cai trị của tây ban nha đối với philippines trên lĩnh vực văn hóa (1565 – 1762)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.89 KB, 36 trang )

Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa Philippines là một sự kết hợp của văn hóa phương Đơng và văn
hóa phương Tây. Với một di sản Mã Lai, Philippines có những diện mạo tương
đồng với các quốc gia châu Á khác.
Nền tảng của văn hoá Philippines dựa trên các truyền thống văn hố của
nhiều nhóm dân bản địa trong vùng. Tuy nhiên, nó cũng bị ảnh hưởng lớn từ các
văn hố của người Tây Ban Nha, Trung Quốc, Hoa Kỳ và các nền văn hoá khác
tuy ở mức độ nhỏ hơn.
Người Tây Ban Nha có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với văn hoá
Philippines, đây là kết quả của hơn ba trăm năm chính quyền thuộc địa. Những
chính sách cai trị mà thực dân Tây Ban Nha áp đặt lên Philippines đã tác động
sâu sắc đến mọi mặt đời sống của người dân Philippines, đặc biệt là về tơn giáo,
văn hóa, giáo dục… Những ảnh hưởng đó hiện vẫn thấy trong các cách thức
phong tục và những nghi thức liên quan tới nhà thờ Thiên chúa giáo, đặc biệt là
trong các lễ hội tơn giáo.
Khơng dừng lại ở đó, văn hóa Philippines cịn bị ảnh hưởng bởi Tây Ban
Nha trên các khía cạnh khác như ngôn ngữ, kiến trúc, nghệ thuật, ẩm thực, lễ
hội…
Sự ảnh hưởng bởi văn hóa Tây Ban Nha đã thay đổi đất nước Philippines,
làm cho nền văn hóa Philippines trở nên đa dạng, phong phú. Do vậy, tôi quyết
định chọn đề tài “Chính sách cai trị của Tây Ban Nha đối với Philippines
trên lĩnh vực văn hóa (1565 – 1762)” nhằm tìm hiểu rõ hơn về đất nước và con
người Philippnes cũng như sự ảnh hưởng của văn hóa Tây Ban Nha ở quốc đảo
này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc nghiên cứu về văn hóa Philippines từ lâu đã thu hút sự quan tâm của


các nhà nghiên cứu cũng như những ai quan tâm đến đất nước này. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu vấn đề này rất phức tạp, địi hỏi người nghiên cứu phải tỉ mỉ,
phân tích kĩ càng và tồn diện, mỗi cơng trình nghiên cứu lại đề cập tới những
1
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

1

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

khía cạnh khác nhau của vấn đề chứ chưa tập trung chuyên sâu vào chính sách
cai trị của Tây Ban Nha đối với Philippines.
+ Cuốn “Các nước Đông Nam Á” do Nxb Sự thật xuất bản năm 1974 đã đề
cập tới lịch sử phát triển của các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Philippines.
Tuy nhiên, cuốn sách cũng chưa nói lên chính sách cai trị của Tây Ban Nha đối
với Philippines trên lĩnh vực văn hóa.
+ Cuốn sách “Tìm hiểu lịch sử - văn hóa Philippines” tập 1, Viện nghiên
cứu Đơng Nam Á, Nxb Khoa học Xã hội, xuất bản năm 1996 đã trình bày một
cách khái quát nhất về sự phát triển của lịch sử và văn hóa Philippines, trong đó
có những phần đề cập đến văn hóa Philippines thời kì Tây Ban Nha cai trị cũng
như đề cập đến Cơng giáo và ảnh hưởng của nó tới đất nước này.
+ Cuốn “Nhà nước và Giáo hội” của Nxb Tôn giáo cũng chỉ đề cập chủ
yếu đến vấn đề tôn giáo chứ chưa nói rõ các chính sách cai trị của Tây Ban Nha
đã ảnh hưởng đến Philippines như thế nào.
+ Bài viết của tác giả Nguyễn Đinh Duy Khương năm 2012 - “Yếu tố bản

địa trong văn hóa Thiên Chúa giáo ở địa phương” in trong Tạp chí Khoa học,
Đại học Huế, tập 72A, số 3 có nghiên cứu về Thiên Chúa giáo ở Philippines
nhưng chưa tập trung trung chuyên sâu vào nguồn gốc và lịch sử du nhập của
Thiên Chúa giáo đối với quốc đảo này.
Ngồi ra, cịn nhiều cơng trình nghiên cứu và các tạp chí khoa học khác đề
cập tới lịch sử, văn hóa Philippines như: Bài viết “Văn hóa biển Đơng Nam Á”
của tác giả Cao Xuân Phổ (1994) in trên tạp chí Nghiên cứu Đơng Nam Á, cuốn
“Cộng hịa Philippines” của tác giả Cao Minh Chơng (1989), cuốn “Lịch sử ba
tôn giáo thế giới” của tác giả Lương Thị Thoa (2000)... Tuy nhiên, chưa có cơng
trình nào đi sâu và tìm hiểu cụ thể về chính sách cai trị của Tây Ban Nha đối với
Philippines trên lĩnh vực văn hóa (1565 – 1762). Do vậy, tôi quyết định chọn
vấn đề này làm đề tài niên luận năm thứ ba.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, tơi muốn làm rõ q trình thiết lập thuộc địa ở
Philippines của Tây Ban Nha trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, xã hội đến
chủng tộc, tơn giáo, tín ngưỡng…
2
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

2

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

Mặt khác, mục tiêu trên hết của đề tài là phải làm rõ chính sách cai trị của

Tây Ban Nha đối với Philippines trên lĩnh vực văn hóa, đặc biệt nghiên cứu về
các chính sách cai trị mà Tây Ban Nha đã áp đặt lên Philippines trên mọi khía
cạnh từ tơn giáo, giáo dục cho đến chính sách “đồng hóa văn hóa”, qua đó nhằm
góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu về lịch sử và văn hóa Philippines.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phải hồn thành việc tìm hiểu về đất nước và con người Philippines cũng
như văn hóa của quốc gia này, đặc biệt là giai đoạn từ năm 1565 đến năm 1762.
Trong giai đoạn này, Philippines đã trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha,
trong bối cảnh đó, Tây Ban Nha đã áp đặt nền thống trị của mình lên
Philippines, từ đó, Philippines mang đậm dấu ấn của Tây Ban Nha trên tất cả các
lĩnh vực, đặc biệt là đời sống văn hóa. Vì thế, niên luận sẽ tìm hiểu các chính
sách cai trị của Tây Ban Nha đối với Philippines trên lĩnh vực văn hóa qua các
khía cạnh, từ đó rút ra kết luận.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề văn hóa.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu và hồn thành niên luận, tôi đã sử dụng hai
phương pháp chủ yếu là: phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra
cịn có các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp và đánh giá.
5. Cấu trúc của niên luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu
thành hai chương:
Chương 1. Quá trình thiết lập chế độ thuộc địa ở Philippines của Tây
Ban Nha.
Chương 2. Chính sách cai trị của Tây Ban Nha đối với Philippines trên
lĩnh vực văn hóa (1565 – 1762).

3

SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

3

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

CHƯƠNG 1
QUÁ TRÌNH THIẾT LẬP CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA Ở PHILIPPINES
CỦA TÂY BAN NHA
1.1. Tình hình Philippines trước khi bị Tây Ban Nha xâm lược
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Philippines được mọi người biết đến với những tên gọi khác nhau như bán
đảo Mã Lai, Phi Luật Tân… và đến những năm 60 của thế kỉ XVI, quần đảo này
chính thức được đặt tên là Philippines.
Philippines là một quốc gia hải đảo lớn thứ hai ở Đơng Nam Á sau
Indonesia, gồm hơn 7100 hịn đảo lớn nhỏ với tổng diện tích là 300.000 km 2
nằm ở phía trên xích đạo giữa 21 độ 25 phút 4 độ 30 phút vĩ độ Bắc và giữa 116
độ 55 phút và 127 độ kinh Đông. Chiều dài của quần đảo này từ Bắc xuống Nam
là 1800km và chỗ rộng nhất từ Đông sang Tây là 1100km. Tuy có nhiều đảo
nhưng 95% diện tích đất đai tập trung vào 11 đảo lớn là: Mindanao, Luzon,
Lamar, Negros, Panay, Palawais, Mindoro, Leyter, Cebu, Bohol và Masbat,
trong đó có hai đảo lớn nhất là Luzon và Mindanao.
Đảo Luzon là đảo lớn nhất có diện tích 104750 km 2, chiếm khoảng 35%
diện tích của Philippines. Phần lớn diện tích trên đảo là đồi núi với đỉnh núi cao
nhất là đỉnh Pulog (2.928m). Núi trên đảo thấp dần về phía Bắc và phía Đơng.

Rìa phía Đơng và phía Nam của đảo là một dải đồng bằng hẹp chạy men theo bờ
biển. Đồng bằng lớn nhất là đồng bằng Malina nằm ở phần trung tâm của đảo.
Đồng bằng này có chiều dài tới 190 km và kéo dài từ vịnh Lugain ở phía Bắc tới
vịnh Malina ở phái Nam. Chiều rộng trung bình của đồng bằng chừng 110 km.
Đồng bằng này được cung cấp nước bởi hai hệ thống sơng: sơng Pampauga ở
phía Nam và sơng Agno ở phía Bắc. Đây là vựa lúa chính của Philippines. Đảo
Luzon được coi là đại diện và là trung tâm của đất nước Philippines [9; tr. 4].
Midanao là đảo lớn thứ hai của Philippines có diện tích 95.000 km 2. Ở phía
Tây Nam của đảo có đồng bằng Katobato rộng lớn được cung cấp nước bởi hệ
thống sông Cagaian. Trên mặt đồng bằng mọc nhiều loại cây sú, vẹt, mangro. Ở
4
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

4

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

đây trồng rất nhiều dừa và tạo nên những rừng dừa lớn của Philippines. Ở phía
Nam đồng bằng có hồ Buluau cũng là một nguồn cung cấp nước quan trọng.
Đỉnh núi cao nhất của đảo và cũng là đỉnh núi cao nhất của Philippines là đỉnh
núi Apo với độ cao tuyệt đối là 2.965m.
Tuy là một quốc gia hải đảo, nhưng Philippines có bờ biển dài 23.184 km
bằng toàn bộ chiều dài bờ biển của nước Mỹ. Phía Đơng Philippines là Thái
Bình Dương có độ sâu sâu nhất thế giới. Vùng biển Philippines có chỗ sâu nhất
là 10789 km cách đảo Luzon khoảng 100 km. Phía Bắc và Tây Philippines là

biển Nam Trung Hoa giáp với Đài Loan và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Phía Nam là đảo Lavesi giáp với Malaysia và Indonesia.
Philippines là một xứ sở của núi, núi và cao nguyên chiếm tới ba phần tư
tổng diện tích, phần lớn các núi cao tập trung ở Luzon.
Do địa hình quần đảo có nhiều núi cao nên sơng ngịi của Philippines
thường ngắn, hẹp và có dịng chảy xiết, có nhiều sơng nhưng xuất hiện chủ yếu
vào mùa mưa. Tính chất của sơng ngịi như vậy nên đã tạo ra tiềm năng lớn về
thủy điện nhưng khai thác tốn kém và không thuận lợi cho nông nghiệp và giao
thông đường thủy. Các con sơng chính ở Mindanao là Catabato dài 550 km,
Aguyxan dài 300 km, cịn ở Luzon cũng có các con sông như Cagayan dài 300
km, Agno dài 270 km, Pampanga dài 260 km [9. Tr. 6]
Khí hậu của Philippines mang tính chất nhiệt đới gió mùa, nhiệt ẩm cao và
ít có sự chênh lệch nhiệt độ giữa các mùa trong năm. Đặc điểm này rất tốt cho
sự phát triển của thảm thực vật và các loại cây trồng. Trên quần đảo có đến
10.000 lồi thực vật khác nhau. Do đó hàng năm có thể trồng cấy ba vụ. Rừng,
cây cỏ xanh quanh năm. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 5, tiếp đến là
mùa mưa cũng như ở Việt Nam, ở Philippines không phải lúc nào cũng mưa
thuận gió hịa. Hàng năm Philippines phải chống chọi với hàng chục cơn bão và
nhiều trận lụt làm phá hủy mùa màng, nhà cửa, gây nhiều khó khăn cho đời sống
và sản xuất của cư dân.
Ngồi bão lụt cịn nạn động đất đã từng xảy ra và đang tiềm ẩn dưới lòng
đất, dưới đáy biển, cả những ngọn núi có thể phun lửa vào bất cứ lúc nào.
Philippines có thể coi là một tiểu khu vực sinh thái vùng Malay –
Inđonezieng vì ở đây trời phú cho hầu như tất cả từ sông hồ núi non, cây lấy hạt,
5
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

5

Lớp: DPH K35



Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

cây họ dầu, cây lấy củ, cây ăn quả, các loại rau… Các lồi chim, thú, vật ni,
hơn nữa dưới biển có khoảng 2000 loài cá khác nhau.
Ngoài rừng vàng biển bạc, đất nước này cịn đặc biệt giàu về khống sản
lớn như: đồng, crom, sắt, niken. Ngồi ra cịn có thủy ngân, than đá và nhiều
loại khác nữa.
Như vậy, với điều kiện tự nhiên, địa hình và khí hậu, đặc biệt là tài nguyên
thiên nhiên với rừng vàng, biển bạc và trữ lượng khoáng sản lớn, Philippines đã
trở thành miếng mồi ngon cho các nước tư bản phương Tây xâm lược, trong đó
có Tây Ban Nha.
1.1.2. Chính trị - kinh tế - xã hội
Ngay trước khi bị thực dân Tây Ban Nha xâm lược, xét về trình độ phát
triển kinh tế-xã hội, quần đảo Philippines có thể được chia thành ba vùng rõ rệt:
vùng nội địa bị cô lập, nơi chế độ công xã nguyên thủy vẫn chiếm địa vị thống
trị; vùng bình nguyên ven biển vốn là nơi cư ngụ phần lớn dân cư thì chế độ
cơng xã ngun thủy đang tan rã ở mức độ khác nhau; những trung tâm lớn, nơi
hội tụ những điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của lực lượng sản xuất,
như Nam và trung tâm đảo Luzon, đảo Cebu, quần đảo Sulu và Tây Nam
Mindanao, thì đã xuất hiện xã hội có giai cấp.
Khi bị người Tây Ban Nha xâm chiếm, trên các đảo Luzon và Visayas đã
xuất hiện xã hội có giai cấp nhưng chưa hình thành những nhà nước tập quyền.
Tổ chức lãnh thổ chính trị và xã hội cơ bản là các Barangay – các công xã thị tộc
– do các Dato,Rajah cầm đầu. Đa số là các Barangay nhỏ (có từ 80 đến 100 gia
đình). Chỉ ở trung tâm kinh tế phát triển nhất mới có những cơng xã lớn hay các
liên hiệp Barangay với số dân từ 1500 đến 2000 (vùng Manila, đảo Panay, đảo

Cebu). Đây không phải là nhữnghình thức nhà nước bền vững mà chỉ là những
liên minh qn sự tạm thời trong thời kì có xung đột quân sự.
Trình độ phát triển về xã hội giữa các Barangay thuộc các dân tộc khác
nhaucũng không đồng đều. Ở các dân tộc đông đúc như Tagala, Visayas và
Iloka đã hìnhthành các mối quan hệ phong kiến sơ kỳ.
Xã hội lúc này đã phân hóa thành ba hạng người rõ rệt: “người hạnh phúc”
(giới quý tộc maharlika mà đứng đầu là Dato), “người tự do” (Timagua) và
6
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

6

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

“người phụ thuộc” (Aliping). Và cũng do đó đã xuất hiện quan hệbóc lột phụ
thuộc giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới.
Tuy hình thức sở hữu cơng xã đất đai vẫn chiếm vị trí ưu thế, những
“người phụ thuộc” vẫn được canh tác đất đai củacông xã nhưng phải giao nộp
phần lớn sản phẩm thu hoạch cho Dato và những “người hạnh phúc”. Tại một
vài trung tâm phát triển ở Visayas và Luzon đã xuất hiện hìnhthức sở hữu tư
nhân đất đai, đã hình thành các hình thức bóc lột phong kiến, đặt trên cơ sở cấy
rẽ và lao động của nông dân phụ thuộc.
Cần nhấn mạnh ở đây rằng người ta chưa thể coi lớp “người phụ thuộc” là
nô lệ của Dato và của “người hạnh phúc”. Mối quan hệ kinh tế giữa những vùng
khác nhau và giữa các Barangay rất yếu ớt. Cư dân sống ở vùng bờ biển buôn

bán với các nước lân bang, trước hết là với Trung Quốc. Trung tâm ngoại
thương đã ra đời ở vùng Manila từ lâu trước khi người Tây Ban Nha đến. Tại
đây, đã tồn tại hai liên bang Barangay lớn là Manila và Tondo mang những nét
của một trú điểm thành thị đã phát triển. Trình độ văn hóa nói chung của nhân
dân các đảo Luzon và Visayas thấp hơn nhiều so với nhân dân các nước Đơng
Nam Á lân bang. Tình trạng phân tán chính trị và kinh tế đã đưa đến tình trạng
khơng thống nhất về văn hóa và tơn giáo, dù họ có theo đạo bái vật linh.
Một cơ hội để người dân sinh sống trên quần đảo được thống nhất về mặt
tôn giáo là việc truyền bá đạo Hồi từ miền Nam lên, nhưng quá trình này đã sớm
bị chặn đứng khi thực dân Tây Ban Nha xâm lược và Cơ Đốc hóa Philippines.
Khơng thống nhất về chính trị, khác biệt về văn hóa, rời rạc về kinh tế... là
những ngun nhân chính giải thích lý do vì sao phần lãnh thổ miền Bắc và
miền Trung Philippines bị thực dân Tây Ban Nha chinh phục dễ dàng.
Sự gần gũi về mặt địa lý, lịch sử và dân tộc với Indonesia, các quan hệ kinh
tế và văn hóa chặt chẽ với các nước đã đạt đến trình độ văn minh cao ở bán đảo
Đông Ấn, bán đảo Malaya và quần đảo Indonesia là điều kiện thuận lợi cho
phép vùng miền Nam quần đảo (quần đảo Sulu và Tây Nam Mindanao) trở
thành vùng tiến triển nhất, xét về tốc độ và mức độ phát triển về kinh tế xã hội
và chính trị.
7
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

7

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi


Về phần mình, các hoạt động kinh tế của nhân dân Sulu và các vùng ven
biển Tây Nam Mindanao mà nền tảng là thương nghiệp hàng hải, khai thác ngọc
trai, đánh bắt cá biển đã tăng cường các quan hệ trên.
Trong các thế kỉ XIII – XIV ở Sulu và Mindanao đã tồn tại những hình
thức nhà nước tương đối bền vững (cơng quốc trên đảo Jolo thuộc quần đảo
Sulu, công quốc Magindanao và Buayan dọc theo triền sông Pulangi thuộc Tây
Nam Mindanao) [3; tr 2-5].
1.1.3 Các chủng tộc và ngôn ngữ
Philippines là một quốc gia đa dân tộc, trên quần đảo này có hơn 100 dân
tộc sinh sống, nói hơn 100 thứ tiếng và thổ ngữ khác nhau thuộc ngữ hệ Nam Á.
Đa số họ là người Mongoloit phương Nam. Các dân tộc phát triển không đồng
đều và trong mọi mặt đời sống xã hội dẫn tới những khác biệt trong thành phần
cơ cấu xã hội và văn hóa giữa các nhóm và trong từng nhóm riêng biệt. Các dân
tộc này có thể chia thành hai nhóm lớn: các dân tộc đồng bằng và các dân tộc
thiểu số miền núi.
Lớn nhất trong các dân tộc đồng bằng là người Visaya (41%), Tagan
(21%), Liocano (10,3%), Bicon (5,6%), Pampango (2,8%), Pangasinan (1,8%),
Icanago, Sampan…[10; tr.46]. Tất cả các dân tộc này cư trú tại miền ven biển
tương đối phẳng. Họ là những thổ dân đầu tiên của quần đảo bị thực dân phương
Tây chinh phục và dày xéo hàng trăm năm. Phong tục, ngôn ngữ, bản sắc dân
tộc và văn hóa của họ chịu ảnh hưởng sâu sắc của nước ngoài như Tây Ban Nha
và Mỹ.
Góp phần vào bức tranh dân tộc của Philippines có các dân tộc thiểu số
miền núi, khoảng 12%. Đó là các dân tộc và nhóm dân tộc Iphugao, Bontec,
Tingian, Caling, Gadan, Ivatan, Bukitnon, Bilaan, Moro (ở Midanao, Xulu và
Palavan)… Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa riêng, nó góp phần làm phong
phú thêm bức tranh dân tộc Philippines.
Ngồi ra, các dân tộc khác nhập vào cộng đồng dân tộc Philippines cịn có
nhiều người Hoa, một số là người châu Âu hay châu Mỹ.

Ngôn ngữ hầu hết đều thuộc nhánh phía Tây của nhóm ngơn ngữ Malaya –
Polynesian trong hệ ngôn ngữ Nam Đảo. Dựa vào ý nghĩa ngôn ngữ, người ta
8
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

8

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

phân ngôn ngữ Philippines ra làm ba nhóm theo cấp độ họ hàng, đó là: các ngơn
ngữ Bắc Philippines, gồm các thứ tiếng Ilocano, Pagabina. Các ngôn ngữ Trung
Philippines, gồm các thứ tiếng Tagalog, Xamac, Layte, các ngơn ngữ thuộc tiểu
nhóm Bisai ở nhóm này với tư cách tiểu nhóm cơ bản. Các ngôn ngữ Nam
Philippines, gồm các thứ tiếng Madanao, Maghindanao.
Như vậy, ngay trước khi bị thực dân Tây Ban Nha xâm lược, Philippines
đã là một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ mang nhiều sắc thái khác nhau với
những nét văn hóa riêng biệt.
1.1.4. Tín ngưỡng và tơn giáo
Tín ngưỡng và tơn giáo Philippines có nhiều nét đặc sắc. Trước thế kỉ XIII,
dân cư trên quần đảo này theo các tín ngưỡng cổ truyền.
Đạo hồi là tơn giáo đầu tiên tác động vào cơ sở tín ngưỡng dân gian của
người dân Philippines ở các đảo nhỏ phía nam, nơi tiếp giáp gân với vương quốc
hồi giáo Brunei được hình thành từ thế kỷ XV. Từ Brunei, đạo Hồi lan truyền
lên đảo Sulu và hình thành nên Nhà nước Hồi giáo Sulu ở thế kỷ XV, từ đây đạo
hồi từng bước lan lên các đảo Mindanao thậm chí đến cả đảo Luzon. Việc Islam

hóa Sulu và Mindanao đã ảnh hưởng sâu đậm đến tiến trình phát triển của miền
Nam Philippines.Tuy nhiên sự đặt chân của người Tây Ban Nha ở cuối thế kỷ
15, đã ngăn chặn ảnh hưởng của Hồi giáo lan khắp các đảo.
Phật giáo xâm nhập vào Philippines từ rất sớm thơng qua q trình Ấn Độ
hóa Indonesia. Nhưng ảnh hưởng của Phật giáo và Ấn Độ giáo bị chặn lại từ khi
Hồi giáo và Công giáo xâm nhập vào vùng đất này.
Philippines là một quốc gia hải đảo lớn ở Đông Nam Á, với điều kiện tự
nhiên thuận lợi và với một vị trí chiến lược quan trọng ở châu Á – Thái Bình
Dương nên Philippines đã sớm trở thành miếng mồi ngon cho các nước tư bản
phương Tây nhịm ngó. Hơn nữa, trong thời gian này, Philippines vẫn là một
nước nông nghiệp lạc hậu, các điều kiện chính trị, văn hóa, xã hội đều ở trình độ
thấp so với thế giới lúc bấy giờ nên Philippines cũng không tránh khỏi sự xâm
lược của chủ nghĩa phương Tây vào lúc đó. Tây Ban Nha là một trong những
nước tư bản phát triển, lại luôn muốn mở rộng thị trường và phạm vi ảnh hưởng
trên thế giới. Do vậy, Tây Ban Nha đã tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược
9
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

9

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

vào khu vực Đơng Nam Á, trong đó có Philippines. Cùng với các hoạt động xâm
chiếm thuộc địa và với hoàn cảnh của Philippines lúc đó là điều kiện thuận lợi
để Cơng giáo truyền bá mạnh mẽ vào quốc gia hải đảo này.

1.2. Q trình xâm nhập và thơn tính Philippines của Tây Ban Nha
Việc Tây Ban Nha xâm chiếm quần đảo diễn ra vào đầu thời điểm người
Âu bắt đầu có mặt ở Viễn Đơng. Đây cũng là thời kì của những phát kiến địa lí
vĩ đại.
Nhằm tìm kiếm con đường về phía Tây dẫn đến Ấn Độ và quần đảo
Maluku giàu hương liệu vì con đường đi về phía đơng đã bị người Bồ Đào Nha
– đối thủ chính về hàng hải và thương mại của Tây Ban Nha – kiểm sốt, ngày
10 tháng 5 năm 1519, một đồn tàu thám hiểm của Tây Ban Nha gồm 5 chiếc do
Magellan chỉ huy đã rời bến Seville. Tháng 3 năm 1521, đoàn tàu đã cập bến tại
đảo Cebu. Tại đây, Magellan đã bị giết chếttrong một cuộc đụng độ với người
bản xứ. Bẵng đi một thời gian dài, do bận rộn với các thuộc địa ở châu Mỹ
Latinh, vương triều Tây Ban Nha chưa thể tính đến chuyện xâm chiếm quần đảo
Philippines, mà chỉ giới hạn ở việc phái đến đó một vài đoàn tàu thám hiểm.
Năm 1542, một trong những đoàn tàu đó đã đặt cho quần đảo tên gọi mà sau đó
đã trở thành quen thuộc: Philippines nhằm tỏ lịng tơn kính vị vua tương lai của
Tây Ban Nha là Felipe II.
Cơng cuộc chinh phục và thuộc địa hóa Philippines bắt đầu từ tháng 2 năm
1565, khi đoàn tàu viễn chinh phát xuất từ thuộc địa Mexico, dưới quyền chỉ
huy của Don MiguelLopez de Legaspi, gồm 5 tàu, 500 lính và 5 tu sĩ Cơng giáo
(trong đó có một ngườiđóng vai trò cố vấn cho Legaspi tên là Andres de
Urdaneta, vốn đã từng tham gian hiều cuộc chinh phạt ở Mỹ Latinh, là nhà đồ
học và hàng hải tài ba) đổ bộ lên đảo Cebu. Lợi dụng tình trạng chia rẽ và thù
địch, phân tán về chính trị giữa các bộ lạc, và dựa vào ưu thế về kỹ thuật quân
sự, quân xâm lược Tây Ban Nha đã phối hợp các biện pháp bạo lực với các biện
pháp lôi kéo, mua chuộc để trấn áp những bộ phận dân cư nào tích cực chống lại
họ. Đến đầu những năm 70 của thế kỉ XIV, người Tây Ban Nha coi như đã
chinh phục được quần đảo Visayas và bắc đảo Mindanao.
10
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa


10

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

Ngày 20 tháng 5 năm 1570, người Tây Ban Nha bắt đầu đánh chiếm
Manila. Lúc đó,Manila là nơi thương nhân từ Ấn Độ, Java, Trung Quốc, Nhật,
Trung Đơng đến trao đổi hàng hóa: vàng, ngọc trai, sợi mòn, gỗ quý, tổ yến, xà
cừ, vây cá mập, dầu thơm, quả cau, lá trầu... lấy nhựa sơn, đồ dao kéo của Nhật,
đồ lụa và đồ gốm của Trung Quốc, ngà voi, nữ trang, thảm của Ấn Độ... Phải
mất đến một năm, vào tháng 4 năm 1571, họ mới chiếm được thị trấn này, mà
sau đó Legaspi đã chọn làm bản doanh. Thành phố – pháo đài Manila được xây
dựng để trở thành thủ phủ của thuộc địa. Nhưng cũng phải mất thêm một thời
gian dài nữa, bằng những phương pháp rất tàn bạo, thực dân TâyBan Nha mới
chinh phục được toàn thể đảo Luzon (mà phần trung tâm là vựa lúa của đảo và
là vùng phát triển nhất về kinh tế và đông dân nhất của quần đảo), vì họ vấp phải
sức kháng cự mạnh mẽ của người địa phương, đặc biệt là cuộc kháng chiến của
người dân sống ở phía bắc đảo kéo dài đến năm 1590.
Đầu những năm 80 của thế kỉ XV, q trình chinh phục quần đảo coi như
đã hồn thành. Biên giới thuộc địa Tây Ban Nha đã bao gồm miền Bắc và trung
tâm đảo Luzon, quần đảo Visayas, bắc Mindanao và đảo Palawan. Nằm ngồi
vịng kiểm sốt của người TâyBan Nha là các cư dân vùng nội địa khó xâm nhập
trên đảo Luzon. Hoạt động bành trướng của thực dân Tây Ban Nha xuống miền
Nam quần đảo bị cư dân theo đạo Hồi ở đây chặn đứng.
Kéo dài suốt từ cuối thế kỉ XVI đến nửa sau thế kỉ XIX, cuộc chiến đấu
của người dân theo đạo Hồi ở miền Nam Philippines đã bước vào lịch sử với tên

gọi “cuộc chiến đấu của người Moro”. Ngọn cờ tư tưởng của cuộc chiến đấu này
là khẩu hiệu “bảo vệ tín ngưỡng chân chính”, tức đạo Hồi. Trong những năm từ
1580 đến 1590, thực dânTây Ban Nha đã nhiều lần tấn công xâm chiếm lãnh thổ
trung tâm Mindanao và quần đảo Sulu, nhưng đều không thể đè bẹp nổi sức đề
kháng của các Sultanat ở đây. Đến đây, giai đoạn một của cuộc “chiến tranh
Moro” coi như kết thúc bằng sự thất bại của thực dân Tây Ban Nha. Chẳng bao
lâu sau đó, người Moro Hồi giáo lại tiếp tục cuộc chiến đấu nhằm mở rộng
phạm vi ảnh hưởng của họ.
Sự tồn tại của chế độ thực dân ở Philippines phụ thuộc một phần vào ảnh
hưởng của Giáo hội Công giáo. Không một thuộc địa nào ở Đông Nam Á mà
11
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

11

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

Giáo hội lại giành được vị trí và ảnh hưởng lớn lao như ở Philippines. Là một
tầng lớp đông đảo nhất và ổn định nhất, giáo sĩ chiếm đến 2/3 số người Tây Ban
Nha sinh sống ở quần đảo. Họ có mặt trong mọi ngõ ngách, trong lúc các viên
chức Tây Ban Nha sống tậptrung ở Manila và các trung tâm tỉnh lỵ. Tình hình
này đã khiến giáo sĩ trở thành - dưới mắt người dân bản xứ - kẻ đại diện vừa cho
Chúa, vừa cho bộ máy chính quyền thực dân. Giáo hội cũng chiếm vị trí hàng
đầu trong đời sống kinh tế do nắm giữ nhiều ruộng đất trong nước và ngoài
nước, Giáo hội đã đẩy lùi các viên chức và các thương nhân Tây Ban Nha xuống

hàng thứ yếu. Giành được ảnh hưởng kinh tế và chính trị to lớn như trên, Giáo
hội ln có xu hướng chèn lấn quyền lực của chính quyền thực dân. Giữa hai
bên đã nhiều lần xảy ra xung đột tranh giành quyền lực rất gay gắt. Xung đột lớn
nhất diễn ra hồi cuối những năm 60 của thế kỉ XV, khi viên toàn quyền Diego
Salsedo bị ủy viên toà án giáo sĩ José Samanego tố cáo thông đồng với đạo Tin
Lành để bắt và giam ông này cho đến khi bị bệnh sắp chết và tịch thu tài sản của
ông ta.

12
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

12

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

CHƯƠNG 2
CHÍNH SÁCH CAI TRỊ CỦA TÂY BAN NHA ĐỐI VỚI
PHILIPPINES TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA (1565 – 1762)
Sau khi xâm lược Philippines, Tây Ban Nha đã thực hiện chính sách cai
trị trên tất cả mọi mặt như kinh tế, chính trị và đặc biệt là lĩnh vực văn hóa.
Đối với văn hóa, bằng việc thực hiện các chính sách từ mềm dẻo đến
áp bức, Tây Ban Nha đã thành công trong việc biến Philippines hồn tồn
thành thuộc địa của mình. Khơng những thế, Tây Ban Nha đã “đồng hóa”
Philippines, làm cho dấu ấn của Tây Ban Nha in đậm ở Philippines trên
mọi mặt

2.1. Chính sách truyền giáo
Trong suốt thời gian cai trị của mình, Tây Ban Nha đã để lại rất nhiều dấu
ấn đậm nét và sâu sắc đối với Philippines, trong đó khơng thể khơng kể đến tơn
giáo, đặc biệt là Thiên Chúa giáo. Tây Ban Nha đã sử dụng Thiên Chúa giáo
như quân cờ chủ chốt của mình, để từ đó thực hiện chính sách cai trị, áp đặt nền
thống trị lên Philippines trong suốt hơn 300 năm.
Khi tiến hành thực dân hóa Philippines, Tây Ban Nha đã đặt cho mình ba
mục tiêu là: Thứ nhất, giành phần bn bán hương liệu; Thứ hai, liên hệ với
Trung Quốc và Nhật Bản để mở đường cho sự cải giáo của họ; Thứ ba, làm cho
dân Philippines theo Công giáo. Kết quả, Tây Ban Nha chỉ thành cơng ở mục
đích thứ ba. Ngày nay có khoảng hơn 90% dân số Philippines là người theo
Cơng giáo và họ thường tự hào mình là quốc gia theo Công giáo lớn nhất ở châu
Á. Song, một điều phổ biến đó là “người Philippines theo Cơng giáo qua trung
gian là nền thống trị Tây Ban Nha” [9; tr.27].
Philippines là một quốc gia thế tục, hiến pháp tách biệt nhà thờ và nhà
nước. Do ảnh hưởng của văn hóa Tây Ban Nha, Philippines là một trong hai
quốc gia mà Công giáo La Mã chi phối tại châu Á.
Thiên Chúa giáo đã có nhiều tác động to lớn đến đời sống xã hội của đất
nước này, trong khi đó, những yếu tố bản địa vẫn được gìn giữ. Với sự có mặt
của hai yếu tố bản địa và ngoại lai, văn hóa Philippines là một sự pha trộn hoàn
13
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

13

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3


GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

hảo để rồi tạo nên tính đa dạng cho cư dân quần đảo. Chính điều này đã làm cho
Philippines trở nên khác biệt so với các quốc gia Đơng Nam Á cịn lại nhưng
vẫn mang tính thống nhất của nền văn hóa khu vực.
Năm 1521, theo lệnh của nhà vua Tây Ban Nha, nhà thám hiểm Ferdinand
Magellan, trong hành trình vịng quanh thế giới, đã cập bến đảo Cebu ở miền
Trung Philippines. Khi ở đảo Cebu, Magellan cùng hành đồn của ơng đã thực
hiện nghi lễ rửa tội đầu tiên trong lịch sử Thiên Chúa giáo ở Philippines cho
quần chúng nơi đây. Điều này báo hiệu cho một sự kiện đặc biệt sắp diễn ra trên
quần đảo vùng Đông Ấn này - sự xâm nhập của Thiên Chúa giáo cùng với sự cai
trị của thực dân Tây Ban Nha. Sau gần một thế kỷ kể từ khi người Tây Ban Nha
mang Thiên Chúa giáo vào quần đảo, hầu hết các vùng đồng bằng, trung du ở
Philippines đã bị Thiên Chúa giáo hóa sau các cuộc nổi loạn với quy mô nhỏ tại
nhiều nơi khác nhau. Trong thời gian đó, người Tây Ban Nha đã sử dụng nhiều
chính sách cai trị để hướng người bản địa theo tơn giáo của mình [9; tr.28].
Các tu sỹ đã thực hiện thánh lễ rửa tội cho một lượng lớn người dân cùng
một lúc để dễ dàng hướng tất cả theo Thiên Chúa giáo. Điều này sẽ không dễ
dàng thực hiện được nếu người dân nơi đây phân biệt được những nét tương
đồng giữa thánh lễ rửa tội với nghi lễ chữa bệnh bằng nước thánh của mình một biểu tượng rất đặc trưng của cư dân trong khu vực.
Đến năm 1595, Manila trở thành Tòa tổng giám mục, điều này cho thấy sự
thâm nhập nhanh chóng của Công giáo vào đất nước này cũng như sự cố kết và
hậu thuẫn giữa hai thế lực: thực dân và giáo hội. Thực dân Tây Ban Nha muốn
thực hiện sự cai trị của mình ở đây và giúp đỡ giáo hội về mọi mặt để phát triển
tín đồ và ngược lại, giáo hội giúp chính quyền buộc các con chiên phải phục
tùng chính quốc.
Một chính sách quan trọng nữa mà các linh mục truyền giáo thực hiện để
hướng người dân bản địa theo tôn giáo của họ là tạo ra sự thích ứng và hịa hợp
giữa Thiên Chúa giáo với hồn cảnh địa phương.
Thuộc khơng gian xã hội Đơng Nam Á, người dân Philippines đã rất quen

thuộc với nền nông nghiệp lúa nước, song song với nó là những hoạt động tín
ngưỡng liên quan đến nơng nghiệp. Những phong tục, tập quán, quy tắc ứng xử,
cách sống định cư theo lối phương Đông đã ăn sâu vào tâm thức của người dân
14
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

14

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

nơi đây. Vì vậy, họ mặc nhiên hồn tồn xa lạ và khó thích nghi với nền văn hóa
mà thực dân Tây Ban Nha mang vào, nền văn hóa ruộng khơ du mục. Nhằm thu
hút sự tham gia của người dân Philippines, làm cho họ tin và nghe theo Thiên
Chúa giáo, trong quá trình truyền đạo, các giáo sỹ đã giới thiệu những nét văn
hóa Thiên Chúa giáo ở phương Tây kết hợp hài hịa với văn hóa bản địa, pha
trộn những nghi thức thực hành tơn giáo Thiên Chúa với tín ngưỡng bản địa.
Sự du nhập một tôn giáo độc thần như Thiên Chúa giáo đã làm xáo trộn tín
ngưỡng linh vật giáo lâu đời của người dân bản xứ nơi đây và do đó, trong thời
gian đầu, người Philippines đã phản kháng rất mạnh mẽ nhằm loại trừ một thứ
xấu xa, tội đồ đang phá vỡ những quy tắc thần thánh từ xưa đến nay họ vẫn thực
hiện. Bên cạnh đó, sự tồn tại của Thiên Chúa giáo và chính sách truyền giáo của
thực dân Tây Ban Nha khiến người dân cảm thấy có tội với thần linh khi họ
khơng thể thực hiện những nghĩa vụ nông nghiệp thường niên đối với những
thần linh của họ và cũng không thể gắn kết với mảnh đất, cây trồng, con vật mà
thần linh đã ban tặng. Người dân nơi đây nhận thấy thần linh của họ bị xúc

phạm nghiêm trọng bởi lẽ cách thức thực hành tơn giáo của họ khác hồn tồn
so với những gì mà những giáo sỹ phương Tây truyền bá trên lãnh thổ của họ.
Chính vì vậy, họ đã chống trả quyết liệt quá trình truyền giáo của những
giáo sỹ Tây Ban Nha. Họ từ chối tiếp nhận những lối hành xử tôn giáo mới,
cũng như xua đuổi thậm chí giết chết những nhà truyền giáo, trong đó việc
Magellan và nhiều tuỳ tùng của ông bị giết trên đảo Mactan vào tháng 7 năm
1521 là một sự kiện điển hình.
Mặc dù đã thực hiện nhiều chính sách khơn ngoan và đầy bạo lực, thực dân
Tây Ban Nha phải mất rất nhiều thời gian để làm cho người dân địa phương nắm
bắt được những khái niệm cơ bản của Thiên Chúa giáo. Qua thời gian, người
dân Philippines đã quen với sự có mặt của những giáo sỹ phương Tây và tôn
giáo mới mà họ mang lại.
Với chiêu bài xoa dịu và hòa trộn phong tục của những giáo sỹ, người dân
đã bị lầm tưởng về mục đích của những nghi lễ sùng bái mới nhưng chính sách
đó hồn tồn khơng thể thay đổi lối sống bản địa của người dân như những nhà
truyền giáo mong muốn.
15
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

15

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

Bí tích rửa tội của Thiên Chúa giáo thu hút nhiều người tham gia vì họ tin
rằng nó sẽ chữa khỏi bệnh tật, mang lại sức khoẻ cho bản thân và gần gũi với

thần nước. Giải tội là bí tích xưng tội mà mỗi người phải tiến hành mỗi năm một
lần. Điều này đã đánh vào tâm lý của người dân nơi đây về những tội lỗi đối với
những thần linh mà họ nghĩ là đã mắc phải, nên họ dễ dàng tuân thủ những hình
thức sám hối từ các tu sỹ Thiên Chúa giáo mang lại.
Đầu tiên, họ cảm thấy sợ hãi về những nội dung mà các giáo sỹ truyền
dạy, nhưng sau đó họ làm quen chúng và sử dụng chúng khá trôi chảy khi
thực hiện nghi thức sám hối đối với thần linh về những việc họ đã sai trái
trong suốt năm qua.
Các tu sỹ phương Tây đã tìm cách loại dần những hoạt động mang tính tà
giáo ra khỏi tư tưởng của người dân bản xứ, đồng thời hướng họ đi theo con
đường đúng đắn của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, khi Thiên Chúa giáo đã đi sâu hơn vào đời sống người dân, khi
các nghi lễ Thiên Chúa giáo khá phổ biến trong hoạt động thờ cúng, sùng bái thì
những hình thức thực hành tín ngưỡng truyền thống vẫn cịn tồn tại bằng cách
hòa trộn vào những nghi lễ mới nhằm mục đích vừa giữ được bản sắc của mình
vừa tiếp thu văn hóa mới cũng như chống lại sự đàn áp của thực dân Tây Ban
Nha.
Mặt khác, các nhà truyền giáo Tây Ban Nha cũng đã “chế biến” để “lễ hội”
- xuất hiện trước khi Thiên Chúa giáo xâm nhập vào Philippines hơn hai thế kỷ trở thành một món ăn tinh thần trong văn hóa lễ hội Thiên Chúa giáo. Họ đã
thay thế các thần linh trong tự nhiên bằng Đức Chúa Hài đồng nhưng ý nghĩa
của lễ hội thì vẫn khơng có gì thay đổi, đó là lòng biết ơn của con người đến đối
tượng mà họ sùng bái vì đã bảo trợ và mang hạnh phúc đến cho họ.
Khác với thuộc địa ở châu Mỹ, vốn do nhà vua trực tiếp cai trị, Philippines
hoàn toàn bị phó mặc cho một số ít viên chức thuộc địa đứng đầu là toàn quyền,
giáo hội, hội đồng (Audiencia) và uỷ viên tài chính. Vai trị của Giáo hội Cơng
giáo được xác lập ở Philippines ngay từ buổi đầu thuộc địa hóa. Các nhà truyền
giáo đã hồn thành nhiệm vụ quan trọng của họ là chuẩn bị cho người dân quy
phục chế độ mới. Cơ Đốc hóa dân bản địa được tiến hành song song với bành
trướng quân sự. Việc cư dân trênđảo Luzon và quần đảo Visayas không theo
16

SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

16

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

một tôn giáo thống nhất đã cho phép Cơng giáo mau chóng được truyền bá rộng
rãi. Vào những năm 20 của thế kỉ XVIII, hầu hết nhân dân thuộc địa – khoảng
50 vạn – đã theo Công giáo. Để tưởng thưởng công lao này của Giáo hội, nhà
vua đã phân chia nhiều vùng đất bao la cho các tăng đoàn. Giáo sĩ được trao
quyền trực tiếp quản lý xứ đạo, bao gồm cả thu thuế vốn là nguồn lợi tức chính
của Giáo hội. Lúc đầu, khi chế độ thuộc địa còn chưa vững vàng, Giáo hội đã
khơn ngoan thi hành chính sách mềm dẻo với người bản xứ. Nhưng đầu thế kỉ
XVIII, cùng với việc vị trí của Tây Ban Nha ở quần đảo đã được củng cố và
nhất là với việc chế độ “Encomienda” bị bãi bỏ, Giáo hội đã thực sự trở thành kẻ
bóc lột thuộc địa chủ yếu.
Như vậy, như chúng ta đã biết, trước khi Công giáo được truyền bá vào
Philippines, quần đảo này đang ở trình độ phát triển thấp nhất về mọi mặt. Các
yếu tố quốc gia, dân tộc mới hình thành, chưa bền vững, dân cư phần lớn cịn
theo tơn giáo ngun thủy. Do đó, mục đích truyền giáo của Tây Ban Nha đi
theo xu hướng cải tạo và đồng hóa tồn bộ dân tộc đó. Lúc này, ở Philippines
cũng chưa có một chính quyền trung ương tập quyền thống nhất toàn bộ quần
đảo, cũng như chưa có một tơn giáo chủ đạo làm nền tảng - tư tưởng - chính trị đạo đức cho xã hội nên Công giáo đã không vấp phải sự kháng cự quyết liệt nào
từ phía chính quyền đại diện cho nhân dân để bảo vệ nền tảng của xã hội và văn
hóa dân tộc.

Các giáo sĩ Tây Ban Nha đã rất thành công trong việc truyền đạo và thực
hiện các chính sách truyền giáo ở Philippines, do vậy, số tín đồ theo đạo ngày
càng tăng lên.
Qua đây, ta có thể thấy rằng, Công giáo mặc dù được truyền bá vào
Philippines qua con đường cưỡng bức nhưng càng về sau, nó càng được người
dân Philippines tiếp nhận và tin theo mạnh mẽ, trở thành quốc giáo có sức ảnh
hưởng to lớn ở quốc đảo này.
2.2. Chính sách giáo dục
Trong suốt thời gian cai trị của mình ở Philippines, Tây Ban Nha cũng rất
chú trọng đến giáo dục, vì thế, nền giáo dục Philippines giai đoạn này (1565 –
1762) cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ Tây Ban Nha. Đặc biệt, thực dân Tây Ban
17
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

17

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

Nha đã khéo léo lồng ghép tôn giáo vào nền giáo dục, để từ đó nhà trường và
nhà thờ ở Philippines là hai thực thể thống nhất, không tách rời.
Ở Philippin, những người Tây Ban Nha đã mở mang các trường tiểu học và
cải tiến nội dung giáo dục cho phù hợp với mục tiêu tôn giáo. Hàng trăm giáo sĩ
Tây Ban Nha đã được huy động đến đây để cài vào các trường giảng đạo. Trong
suốt thời kỳ Tây Ban Nha thống trị, giáo dục chính là lĩnh vực độc quyền của
các giáo sĩ. Các trường học được thành lập nhiều hơn, việc giáo dục không liên

quan nhiều lắm với các môn văn hóa và thay vào đó các mơn học liên quan tới
Công giáo chiếm một tỉ lệ đáng kể trong số các môn học bắt buộc của học sinh
như: học thuyết tôn giáo, ý niệm về đạo đức, ý niệm về lịch sử thần thánh.
Đối với các công việc hàng ngày trong các xứ đạo Jesu, mối quan hệ của
“con Chiên” với nhà thờ là vơ cùng gắn bó. Hàng ngày, các trẻ em nhỏ đến 14
tuổi phải nghe giảng đạo ở nhà thờ và hát cầu kinh. Sau đó các e tới trường, sau
đó lại quay về nhà thờ vào giờ nghỉ.
Thời gian đầu khi người Tây Ban Nha tới, trường học chưa được xây dựng
nhiều và còn rất tồi tàn. Trường học là nơi các học sinh từ nhà thờ trở về, là một
nơi trơng thật đau lịng. Nó thường là một túp lều nhỏ, cũ nát với mái nhà đỡ
bằng một cột tre, nhưng khơng có tường bao quanh, hoặc nó như một cái chuồng
nhốt súc vật hay một nơi hẻo lánh nào đó trong tồ thị chính hay của trụ sở xứ
đạo, chúng khơng được cung cấp gì, ít nhất cho tới 1869. Các trẻ em tập viết
bằng que hoặc bằng ngón tay trên những tàu lá chuối hoặc trên cát đựng trong
hộp. Hệ thống dạy học trong những trường học này do một giáo viên, một nhân
vật của thầy tu chủ trì là giữ nguyên những bộ óc đơn giản và để in sâu vào
trong đó mần mống của những sự nhu mì, dễ bảo và tuân thủ.
Những người Tây Ban Nha luôn muốn thống trị người dân Philippin về cả
quyền lực chính trị lẫn tư tưởng tơn giáo. Trên tinh thần đó nhằm nhào nặn đầu
óc những người cần quan tâm như trẻ em và thanh niên.
Các giáo viên là những người trông coi và dạy dỗ trẻ em về mọi mặt từ
những thứ nhỏ nhặt nhất như vệ sinh cá nhân cho đến việc học và thực hành
giáo lí. Đối với các hành vi vi phạm, các giáo viên sẵn sàng dùng roi để sửa dạy.
Những việc mà người dân Philippin thường làm được lặp đi lặp lại mỗi
ngày. Nhờ những công việc đó và sự kiên trì của các “Cha phó” mà Công giáo
18
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

18


Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

đã từng bước ngấm dần vào nhanh chóng trở thành món ăn tinh thần của người
dân Philippin và nó ảnh hưởng tới tất cả mọi mặt đời sống xã hội.
Từ thế kỷ XVI cho đến năm 1863 hệ thống giáo dục, trong công việc hành
chính và trong nội dung của cơng việc này chủ yếu vẫn không thay đổi. Trong
năm ấy, với việc một chính phủ “tự do” mới lên cầm quyền ở Tây Ban Nha,
người ta đã thông qua một đạo luật cải cách giáo dục mà trong số các mục tiêu
khác, người ta đã tìm cách thiết lập một hệ thống trường học hoàn chỉnh cho
hàng trăm năm. Những ý thức tôn giáo của Tây Ban Nha cả ở những người phi
tôn giáo đến những người theo tôn giáo quá mạnh, vì trong một đoạn của đạo
luật có nói: “theo chương trình này thì phải reo rắc những sự giáo dục về tín
ngưỡng Cơng giáo thiêng liêng càng rộng càng tốt, bằng tiếng mẹ đẻ và trong
các mặt cơ bản của kiến thức sinh hoạt, việc thiếu nó là nguyên nhân chính của
tình hình hiện nay ( tình trạng dốt nát ở thuộc địa)...” [11; tr.64].
Công việc cai quản về hành chính ở các trường học được định ra như sau:
Việc thống đốc dân sự tối cao của các đảo sẽ giám sát việc giáo dục sơ đẳng, với
sự giúp đỡ của một ban do thủ đô thành lập nên với các danh nghĩa “Hội đồng
giáo dục sơ đẳng tối cao” gồm có chủ tịch là viên thống đốc cao, Đức Tổng
giám mục của Manila và 7 thành viên có năng lực nổi tiếng do viên chủ tịch Hội
đồng chỉ định. Người đứng đầu các tỉnh sẽ là những giám sát viên hàng tỉnh và
sẽ thừa hành các chức năng của mình với sự giúp đỡ của một ban gồm có người
đứng đầu tỉnh, vị giám mục hoặc vị cha cố xứ đạo của thủ đô thay thế khi ông ta
vắng mặt, và tỉnh trưởng hay người thu thuế. Nhưng ở thị trấn các cha cố xứ đạo
sẽ là những giám sát viên và sẽ hướng dẫn việc giáo dục học thuyết Cơng giáo

và đạo đức dưới sự kiểm sốt của các giám mục.
Có thể nói rằng, ở trong một trường đạo phương điển hình, lúc đầu các em
đọc sách vở lịng về tơn giáo bằng tiếng bản xứ, và sau đó người ta dạy một
cuốn sách về học thuyết Cơng giáo. Các sách giáo khoa tìm thấy trong nhà
trường rất thô sơ và phần lớn gồm những giáo huấn về tơn giáo. Các học sinh
buộc phải học thuộc lịng từng chữ trong sách giáo khoa. Đối với khách tham
quan trường, việc giáo dục cho các giáo viên bản xứ đảm nhiệm có vẻ máy móc
một cách tẻ nhạt, kém hiệu quả thực thế.

19
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

19

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

Do vậy, với hệ thống giáo dục mới của Tây Ban Nha đã khơng mang lại
kết quả gì đáng kể cho những người dân Philippin, mà đó chỉ là sự áp đặt, bắt
buộc phải tuân theo một cách thụ động.
Hàng trăm giáo sĩ thuộc đủ các dòng đã được huy động đến Philippin và
được đưa vào trong các trường học để giảng dạy. Sau hơn hai thế kỉ truyền giáo,
những cố gắng và nỗ lực bề bỉ của các giáo sĩ Tây Ban Nha đã được đền đáp
một cách xứng đáng.
Trải qua mấy thế kỉ giáo dục như vậy, công giáo đã rất thành công trong
việc đưa hệ ý thức Công giáo vào người dân Philippin. Đồng thời với trường học

là hệ thống nhà thờ mọc lên nhan nhản ở khắp mọi nơi, mỗi làng xã của
Philippin điều có nhà thờ. Mọi hoạt động của người dân trong làng điều được tổ
chức bên cạnh nhà thờ. Chính quyền thực dân khơng những biến nhà thờ thành
trung tâm quyền lực tinh thần và phương tiện để bóc lột nhân dân Philippin mà
cịn biến nó thành trung tâm sinh hoạt văn hóa của cộng đồng. Tại đây các nghi
lễ tôn giáo diễn ra không phải một cách công thức cứng chắc, buồn tẻ mà luôn
luôn được kết hợp chắt chẽ, nhuần nhuyễn với các hoạt động văn hóa văn nghệ
kể cả các trị chơi giải trí, thể thao, do đó có sức lơi cuốn đặc biệt. Nhà thờ trở
thành chỗ dựa tinh thần của người dân và các cha cố trở thành hình tượng cao cả
của họ. Các tín đồ tin tưởng, phục tùng và trung thành với cha cố của mình một
cách tuyệt đối, với đúng nghĩa là “niềm tin tôn giáo”.
Như vậy, bằng cách thực hiện các chính sách trên, Tây Ban Nha đã thành
công trong việc cải tiến trường học, cải tiến hệ thống giáo dục cho phù hợp với
mục tiêu tôn giáo. Và như vậy, Công giáo đã tạo nên sự thay đổi lớn lao trong tư
tưởng của cư dân nơi đây, nó đã làm phong phú thêm đời sống tinh thần của cư
dân trên quần đảo, song nó cũng để lại những hệ quả hết sức to lớn và lâu dài
trên tất cả các mặt của đời sống xã hội.
2.3. Chính sách “đồng hóa” văn hóa
2.3.1. Ngơn ngữ
Tây Ban Nha đã trở thành một trong những quốc gia hùng mạnh hàng đầu
châu Âu trong thế kỷ XVI và nửa đầu của thế kỷ XVII, vị thế đó được tạo nên
bởi thương mại phát triển và sự chiếm hữu thuộc địa. Trong một khoảng thời
20
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

20

Lớp: DPH K35



Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

gian, đế chế Tây Ban Nha thống trị các đại dương nhờ hạm đội tàu giàu kinh
nghiệm, với một sức mạnh bậc nhất toàn cầu.
Hệ thống thuộc địa ở đế chế Tây Ban Nha trải rộng khắp Trung Mỹ
và Nam Mỹ, Mexico, một phần lớn miền nam Hoa Kỳ, Philippines ở Đông Á,
bán đảo Iberia (trong đó có cả Bồ Đào Nha), miền nam Ý, đảo Sicilia và một số
nơi ngày nay thuộc các nước Đức, Bỉ, Luxembourg và Hà Lan. Tây Ban Nha là
đế quốc đầu tiên được gọi là đất mặt trời không bao giờ lặn. Thời kỳ vàng son
này được gọi là Kỉ nguyên Khai phá. Cùng với nguồn kim loại, hương liệu, các
mặt hàng xa xỉ phẩm mang về từ thuộc địa, các nhà thám hiểm Tây Ban Nha đã
mang về rất nhiều kiến thức, làm thay đổi cách nhìn của người châu Âu về thế
giới. Hệ thống thuộc địa trải rộng đã khiến Tây Ban Nha trở thành ngơn ngữ
của hàng trăm triệu người trên tồn thế giới cho đến tận ngày nay.
Cũng vậy, ngôn ngữ của người Philippines cũng đã bị ảnh hưởng bởi nhiều
nhóm ngơn ngữ khác nhau trong suốt chiều dài lịch sử.
Cách đây hơn 500 năm, người Tây Ban Nha đã đến Philippines, và trong
thời gian cai trị ở đây, họ đã có ý định Tây Ban Nha hóa ngơn ngữ trên tồn đất
nước Phillipines.
Ý định đó khơng chỉ xuất phát từ những kẻ thực dân cướp nước, mà còn cả
những nhà truyền giáo, họ muốn người khác phục tùng mình bằng cách phải
nghe, phải hiểu mình và họ cịn muốn khi người Philipines muốn mình hiểu họ
thì phải nói tiếng Tây Ban Nha. Đặc biệt là các giáo sĩ, nhiều tu sĩ và linh mục
được gửi đến để dạy dỗ giáo lý cho người Philiipine, lúc đầu, các tu sĩ được
khuyến khích học tiếng địa phương để dễ dàng trong việc truyền bá Cơng giáo
và dạy dỗ giáo lý.
Chính phủ Tây Ban Nha cần các linh mục để thực hiện tất cả các việc trao
đổi, bn bán, cai trị ở Philippines, vì những người Philippines thì khơng thể nói

tiếng Tây Ban Nha, và cách duy nhất để có thể giao tiếp với họ là thông qua các
giáo sĩ, linh mục – những người trực tiếp nói ngơn ngữ của họ. Trong thời gian
đó, các linh mục đã được hưởng rất nhiều quyền lợi do vị trí của họ trong lịng
Tây Ban Nha cũng như người dân Philippines, người dân Philiipines hoàn toàn
phụ thuộc vào các hướng dẫn của họ từ tôn giáo cho đến các pháp lệnh và luật lệ
đến từ Tây Ban Nha.
21
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

21

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

Ban đầu, các giáo sĩ cũng không hề muốn người bản địa học tiếng Tây Ban
Nha, vì họ tự cho mình là đẳng cấp cao, là tầng lớp trên so với người dân
Philippines. Họ muốn duy trì sự tách biệt này và thấy rằng việc ngăn chặn người
dân Philippines có thể duy trì được sự tách biệt đó. Ngồi ra, họ cịn lo sợ nếu
người dân Philippines học được tiếng Tây Ban Nha thì sẽ nổi loạn chống chính
phủ. Vì những ngun nhân khác nhau, các giáo sĩ đã do dự, ngay cả khi nhận
được yêu cầu trực tiếp từ Tây Ban Nha.
Nhưng sau này, họ đã thay đổi suy nghĩ và cho rằng tôn giáo phải được
thực hiện bằng tiếng Tây Ban Nha. Nhưng các giáo sĩ cũng quên một việc chính
đáng tương đương, đó là nghe tiếng ngoại quốc, người bản địa Philippines sẽ
khơng thể hiểu giáo lý rõ ràng. Khó khăn này hai bên ngang nhau. Nhưng các họ
chọn cách giữ ngơn ngữ của mình và bắt dân theo, tức là các họ muốn mình ổn

định, khơng thay đổi, mà đòi buộc dân phải thay đổi. Và họ bắt đầu thực hiện
chương trình dạy tiếng Tây Ban Nha trong các trường học ở Philippines. Đa số
dân đã đón nhận để tin Chúa. Do đó, ngơn ngữ của Philippines là ngơn ngữ của
những người Nam Đảo pha tạp tiếng Tây Ban Nha đến trên 30%.
2.3.2. Kiến trúc
Hầu hết các di tích và cơng trình lịch sử của đảo quốc này đều ghi dấu ấn
từ thời thuộc địa, khi người Tây Ban Nha đến đây nửa thế kỷ trước, mang theo
nhiều ảnh hưởng về văn hóa và kiến trúc của nơi này. Trong suốt thời gian cai
trị của mình trên thuộc địa Philippines, thực dân Tây Ban Nha đã xây dựng rất
nhiều cơng trình mang đậm kiến trúc Tây Ban Nha nhằm phục vụ các nhu cầu
khác nhau.
Các nhà truyền giáo Thiên Chúa giáo theo chân binh lính từ hịn đảo này
sang hịn đảo khác, để tìm kiếm những con chiên thổ dân. Các thuỷ thủ Tây Ban
Nha nhanh chóng lập ra các nhà thờ và pháo đài, trong khi vẫn tìm kiếm vàng và
các loại gia vị.
Đặc biệt nhất phải kể đến Intramuros ở Manila. Đây là khu vực thành cổ
được người Tây Ban Nha xây dựng để phục vụ cho mục đích thống trị của mình
tại quốc đảo này.

22
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

22

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi


Manila, đặc biệt là nơi dịng sơng Pasig đổ ra vịnh Manila trước khi hồ
mình vào biển từ thế kỷ XIV trở về trước từng là vùng đất lý tưởng cho các bộ
tộc Tagalog và Kapampangan bản địa và các vương quốc trong vùng giao
thương với Trung Quốc, Ấn Độ, Borneo và Indonesia. Sau này, Manila càng
được đánh giá là một vị trí chiến lược khơng chỉ dành cho qn sự mà cịn dành
cho giao thương buôn bán của quần đảo Luzon, một trong ba quần đảo chính tạo
nên Philippines. Ở nơi này, dấu ấn văn hoá Tây Ban Nha là đậm nét nhất. Nơi
thì được quy hoạch xây các tồ nhà chính quyền, nơi xây trường học, nhà thờ,
bệnh viện. Một pháo đài kiên cố cũng được dựng lên ngay trong thành. Tất cả
chỉ nhằm mục đích thống trị và chống lại sự phản kháng của người dân
Philippines [17].
Nằm ngay cửa ngõ của dịng sơng Pasig, vùng đất đắc địa được người Tây
Ban Nha chọn đóng đơ làm khu hành chính và xây dựng một thành trì vững chắc
rộng 67ha mang tên Intramuros. Nơi đây chứng kiến hàng loạt sự kiện quan
trọng khơng chỉ của Philippines mà cịn của cả khu vực và thế giới từ năm 1521
– 1946.
Nơi thành Intramuros được xây dựng lên từng là một phần của đế chế
Majapahit, trước khi bị Sultan Bolkiah chiếm giữ năm 1485 và trở thành một
phần của vương quốc Brunei và một phần của quốc gia Hồi giáo Manila. Khi
người Tây Ban Nha đến Philippines, họ cũng nhận ra tầm quan trọng và chọn
xây hệ thống thành luỹ bao bọc nhằm thiết lập hệ thống hành chính cai trị thuộc
địa và vừa để phòng thủ lấy cái tên mang ý nghĩa “bên trong tường thành”. Bên
trong khu tường thành được người Tây Ban Nha xây dựng nhiều cơng trình khác
như biệt thự, lâu đài, nhà thờ, trường học và đặc biệt là khu toàn nhà dành riêng
cho bộ máy cai trị Tây Ban Nha.
Thời gian xây dựng hệ thống Intramuros kéo dài hàng trăm năm, qua nhiều
lãnh đạo cai trị thuộc địa. Khu tường ban đầu dựng bằng gỗ, nhưng đến năm
1590, vị tổng đốc đầu tiên của Manila người Tây Ban Nha là Santiago cho phá
bỏ khu tường gỗ và xây tường thành bằng đá dày kiên cố (cao tới 6m, dài

4,5km) và hệ thống hào sâu bao quanh, đồng thời cho xây thêm tháp canh và
pháo đài, lấy tên là pháo đài Ford Santiago. Ban đầu, có tám cổng vào thành, tất
23
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

23

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

cả đều có cầu rút, có lính canh gác. Cư dân trong thành chỉ là người Tây Ban
Nha, dân bản địa không được phép vào trong thành. Nếu muốn trao đổi mua
bán, người ở phía trong thành sẽ ra ngồi cổng thành mua bán với người dân bản
địa. Cầu nối bị rút lên và cổng thành thường được đóng từ 11 giờ đêm đến 4 giờ
sáng. Nhưng sau trận động đất năm 1852, cầu khơng cịn bị rút lên và cửa thành
cũng khơng cịn bị đóng lại nữa.
Năm 1574, pháo đài Santiago bị phá hủy trong cuộc tấn công của hải tặc
Limahong. Rồi nó được xây lại bằng đá năm 1589 – 1592. Pháo đài một lần nữa
bị phá hủy bởi trận động đất năm 1645. Sau khi được sửa chữa, nó trở thành sở
chỉ huy của quân đội Anh từ năm 1762 – 1764. Tiếp đó là nơi đóng quân của
người Philippines và quân đội Mỹ. Pháo đài quân sự Ford Santiago nơi mà hàng
ngàn anh hùng chiến đấu cho độc lập Philipines bị cầm tù trong thời kỳ thuộc
địa và thế chiến thứ hai [17].
Khơng chỉ các cơng trình kiến trúc phục vụ cho mục đích quân sự, Tây
Ban Nha cũng đã xây dựng rất nhiều cơng trình kiến trúc phục vụ cho tôn giáo
nhằm thúc đẩy phát triển Công giáo ở đất nước này.

Trong đó phải kể đến nhà thờ thánh Augustin trong bức tường thành
Intramuros. Được xây dựng từ năm 1587 đến năm 1606 mới hoàn thành. Đây là
một cơng trình vĩ đại bởi nơi ấy chứa đựng những tinh hoa của phong cách kiến
trúc Gothique. Có nhiều phịng trưng bày hiện vật của đạo Thiên Chúa, những
hoa văn trên trần của giáo đường được vẽ bằng tay, bên trong có phịng cầu, nhà
gỗ và 26 bức tranh sơn dầu cùng với rất nhiều các tác phẩm nghệ thuật tôn giáo
khác trên nền nhà thờ cũ bằng gỗ, bị cháy rụi do lửa bén từ một ngọn nến trong
đám tang Thống đốc người Tây Ban Nha Gonzalo Ronquillo de Peñalosa.
Tiếp đến phải kể đến là nhà thờ Basilica del Santo Nino được phát hiện
vào ngày 28 tháng 4 năm 1565 bên trong một ngơi nhà cháy của người lính Tây
Ban Nha Juan Camus. Nhà thờ và tu viện đã đi qua nhiều năm tháng đổi thay và
lần trùng tu bổ gần nhất là năm 1753
Nhà thờ Quiapo cũng là cơng trình kiến trúc được Tây Ban Nha xây dựng
vào cuối những năm 1580, với hình dáng ban đầu là một chiếc lều làm từ tre và

24
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa

24

Lớp: DPH K35


Niên luận năm 3

GVHD: Th.S Trần Thị Hợi

lá cọ. Cấu trúc ban đầu bị thiêu rụi vào năm 1603 và được thay thế bằng một tòa
nhà lớn bằng đá.
Để phục vụ cho q trình bóc lột vào thực hiện các chính sách cai trị của

mình, thực dân Tây Ban Nha cũng xây dựng trường học, các cơng trình cơ sở
vật chất khác nhằm đồng hóa Philippines và làm cho Philippines hồn tồn phụ
thuộc vào mình.
2.3.3. Nghệ thuật
Là thuộc địa của Tây Ban Nha trong suốt hơn ba thế kỷ, Philippines chịu
ảnh hưởng màu sắc văn hóa của đất nước phương Tây này khá sâu sắc. Bất cứ
một người đàn ông nào cũng biết chơi đàn ghi ta, và bất cứ một cơ gái nào cũng
có thể hát những bài hát tiếng nước ngoài hay tuyệt
Khi đến Philippines, người Tây Ban Nha đã đem theo đàn guitar truyền
thống của họ và ngay lập tức chinh phục cư dân bản địa. Ở Cebu, dấu ấn rõ nét
của nhạc cụ này được thấy trong các lễ hội ở Philippines. Đặc biệt, những bản
nhạc bất hủ như Romance de amor được người dân Philippines độc tấu một cách
thường xuyên và thành thục.
“Romance de amor - đơi khi cịn mang tên gọi “Ca khúc nghệ thuật” là một
thể loại âm nhạc hịa tấu thính phịng dành cho giọng ca và bè đệm đàn. Thuật
ngữ này xuất hiện ở Tây Ban Nha thoạt đầu mang ý nghĩa “Bài hát thế tục” được
sáng tác bằng tiếng Tây Ban Nha để phân biệt với các ca khúc Tôn giáo bằng
tiếng Latinh. Dần dần, ngôn từ Romance được phổ biến, phát triển rộng rãi ra
ngoài biên giới Tây Ban Nha và trở thành tên gọi cho một thể loại thơ ca trữ tình
và một thể loại âm nhạc dành cho giọng ca.” [18].
Trong nghệ thuật, không thể không nhắc đến các loại hình múa hát. Điệu nhảy
Tinikling là điệu nhảy truyền thống của Philippines bắt nguồn Tây Ban Nha.
Như vậy, trong suốt thời gian cai trị của mình, đời sống sinh hoạt, nghệ
thuật của thực dân Tây Ban Nha đã ăn sâu và in đậm, rõ nét trong người dân
Philippines .
2.3.4. Ẩm thực

25
SVTH: Nguyễn Ngọc Kiều Hoa


25

Lớp: DPH K35


×