Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Tạo biểu tượng về nhân vật và địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử ở trường rung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.39 KB, 79 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Dân tộc Việt Nam có lịch sử lâu đời, có truyền thống lao động sản xuất,
đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, giải phóng dân tộc và kinh nghiệm trong giáo dục lịch
sử truyền thống cho các thế hệ trẻ. Những hình thức giáo dục phong phú, đa
dạng về lịch sử đã có tác dụng to lớn trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Tổng kết kinh nghiệm của ông cha và nâng lên thành lý luận về sự cần
thiết giáo dục lịch sử cho nhân dân, Hồ Chí Minh đã khẳng định:
"Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam"
Hai câu mở đầu quyển Lịch sử nước ta (1941), được biên soạn khi Người
về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam không chỉ có ý nghĩa về mặt
phương pháp luận sự cần thiết phải học lịch sử - mà còn có giá trị về nguyên tắc
dạy học - phải biết để tường (hiểu rõ cặn kẽ). Những nguyên tắc về phương pháp
luận và phương pháp dạy học lịch sử nêu trên đã góp phần trong việc xác định
vai trò, vị trí, ý nghĩa của môn lịch sử trong chương trình giáo dục lịch sử ở
trường phổ thông và nâng cao chất lượng giáo dục môn học. Sự trưởng thành
của các thế hệ trẻ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay có sự đóng
góp của việc giáo dục lịch sử trong và ngoài nước theo quan điểm, đường lối của
Đảng.
Tuy nhiên trong khoảng hơn một thập kỉ gần đây, chất lượng giáo dục nói
chung, chất lượng dạy học lịch sử ở nhà trường nói riêng đã giảm sút đến mức
làm cho nhà trường, xã hội lo lắng, quan tâm. Để nâng cao chất lượng môn học,
khắc phục tình trạng nêu trên, việc cải tiến, đổi mới nội dung, phương pháp dạy
học bộ môn mang tính cấp bách đang được tiến hành và phải tiến hành thường
xuyên, đồng bộ. Trong quá trình thực hiện đổi mới đó phải chú trọng đến việc
hình thành tri thức lịch sử cho học sinh.
"Do đặc điểm của nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử của học sinh
không thể trực tiếp quan sát trực quan sinh động các sự kiện xảy ra trong quá
khứ’’ [18; 188]. Vì vậy, quá trình dạy học lịch sử phải tiến hành trên cơ sở tài


liệu - sự kiện khoa học để tạo biểu tượng cụ thể, có hình ảnh, từ đó hình thành
khái niệm, nêu quy luật, rút ra bài học lịch sử. Có thể nói, biểu tượng là một
khâu không thể thiếu được trong quá trình nhận thức nói chung và nhận thức
lịch sử nói riêng trong quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
2
Trong các loại biểu tượng, biểu tượng về nhân vật lịch sử và địa điểm xảy
ra sự kiện có vị trí, ý nghĩa quan trọng. Tạo biểu tượng các nhân vật lịch sử về
những tấm gương người thật việc thật có sức thuyết phục đặc biệt đối với học
sinh. Biểu tượng sinh động gây cho các em hứng thú học tập lịch sử, đồng thời
khơi dậy mạnh mẽ những xúc cảm lịch sử đúng đắn, góp phần hình thành nên
nhân cách học sinh.
Bên cạnh đó, việc tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện cũng là yêu
cầu không thể thiếu được trong dạy và học lịch sử. Không xác định được địa
điểm, không gian của sự kiện, thì sự kiện đó sẽ trở nên trừu tượng, thiếu nội
dung thực tế, không phản ánh được hiện thực khách quan trong nhận thức của
học sinh.
Tạo biểu tượng về nhân vật và địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch
sử ở các trường phổ thông hiện nay mặc dù đã có những cố gắng, song vẫn còn
nhiều hạn chế. Qua khảo sát sơ bộ, giáo viên khai thác chưa có hiệu quả nguồn
kiến thức phong phú, đa dạng này vào phục vụ dạy học lịch sử. Thực tế cho thấy
việc học sinh nhầm lẫn hoặc không hiểu về nhân vật lịch sử là phổ biến. Dạy
những sự kiện lịch sử nhưng không xác định được không gian lịch sử, địa điểm
của sự kiện lịch sử đó ở đâu; xác định không gian, địa điểm, địa danh trên bản
đồ đôi khi còn mơ hồ… Nội dung biểu tượng các em thu được còn nghèo nàn,
đơn điệu, còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của chương trình cấp
học… Đó là một trong những nguyên nhân làm cho học sinh ít ham thích học bộ
môn lịch sử. Vì vậy, chất lượng giáo dục bộ môn lịch sử ở trường phổ thông
chưa được nâng cao. Tình trạng trên là do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn
chủ quan.
Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX có rất nhiều sự kiện quan

trọng gắn liền với những nhân vật lịch sử, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử nổi
tiếng thời phong kiến của nhân dân ta. Đây là thời kì xác lập và phát triển của
chế độ phong kiến Việt Nam. Chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại cuối năm 938 do
Ngô Quyền lãnh đạo đã chấm dứt thời kì đô hộ kéo dài 10 thế kỉ của phong kiến
phương Bắc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của đất nước. Nhưng nền độc lập
dân tộc vừa giành được vẫn luôn luôn bị giặc ngoại xâm đe dọa và công cuộc
dựng nước phải gắn liền với cuộc kháng chiến bảo vệ và củng cố nền độc lập
dân tộc: cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075 – 1077), ba lần
kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên (thế kỉ XIII), khởi nghĩa
chống Minh, Thanh… Trong trang sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta khắc
3
ghi những chiến thắng huy hoàng thời kì này: chiến thắng Như Nguyệt (1077);
chiến thắng Bạch Đằng (1288); chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang (1427);
chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút (1785); chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa
(1789)… Vì vậy cần phải giáo dục cho học sinh nhận thức đúng, đầy đủ về
truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân và dân tộc.
Với tất cả những lý do trên, tôi chọn vấn đề "Tạo biểu tượng về nhân vật
và địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử ở trường rung học cơ sở "
(Vận dụng qua dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế tkỉ XIX) làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử và địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy
học lịch sử là vấn đề đã và đang được các nhà lí luận dạy học, các nhà giáo dục
lịch sử cùng nhiều giáo viên nghiên cứu và được đề cập đến trong một số công
trình:
Cuốn “Giáo dục học tập 1” do Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt chủ biên,
xuất bản năm 1987, nhà xuất bản Giáo dục. Cuốn sách đã đưa ra các nguyên tắc
của quá trình dạy học, trong đó có nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa vai
trò chủ đạo của thầy và vai trò tự giác, tích cực, độc lập của trò. Nguyên tắc này
đòi hỏi phải phát huy tính tích cực, tính tự giác, độc lập của học sinh trong quá

trình dạy học, đồng thời, tác giả cũng đưa ra khái niệm tính tích cực, tự giác và
tính độc lập nhận thức.
Cuốn “Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường
trung học cơ sở” do Phan Ngọc Liên – Trịnh Đình Tùng chủ biên, xuất bản năm
1998, nhà xuất bản Giáo dục. Các tác giả đã đưa ra cơ sở lí luận và thực tiễn của
việc phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường trung học
cơ sở và đề ra những con đường, biện pháp, hình thức để phát huy tính tích cực
của học sinh trong học tập lịch sử. Trong đó, tạo biểu tượng là một trong những
biện pháp để phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập lịch sử.
Cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học ở trường cao đẳng sư phạm” do
Trần Đức Minh chủ biên, xuất bản năm 2001, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà
Nội. Tác giả đã đưa ra các phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt
động học tập của người học như: nêu vấn đề, sử dụng đồ dùng trực quan, trao
đổi đàm thoại, qua đó nhằm lấy người học làm trung tâm, góp phần nâng cao
chất lượng dạy – học.
4
Thái Duy Tuyên trong “Giáo dục học hiện đại”, xuất bản năm 2001, nhà
xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, cũng trình bày một số vấn đề lý luận về tính
tích tực, độc lập, tự giác của học sinh trong quá trình học tập. Tác giả nhấn
mạnh tới vai trò của hứng thú đối với việc phát huy tính tích cực của học sinh
trong học tập. Từ đó tác giả đưa ra một số biện pháp để phát huy tính tích cực
nhận thức của học sinh trong giờ lên lớp.
Cuốn "Phương pháp dạy học lịch sử tập 1”, do GS.TS Phan Ngọc Liên
chủ biên, xuất bản năm 2002, nhà xuất bản Đại học sư phạm. Tác giả đã trình
bày cụ thể về chức năng, nhiệm vụ bộ môn lịch sử ở trường phổ thông, các hình
thức phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Tác giả cũng xác định
vấn đề kiến thức cơ bản là những kiến thức tối ưu, không thể thiếu, là những
kiến thức quy định nội dung cần thiết mà học sinh phải nắm vững mới đạt được
trình độ của chương trình. Kiến thức cơ bản gồm nhiều yếu tố liên kết chặt chẽ
với nhau thành một hệ thống với sự kiện lịch sử, thời điểm, không gian – địa

điểm lịch sử, nhân vật lịch sử Tác giả cũng đã lý giải thế nào là sự kiện, sự
kiện lịch sử, phân loại sự kiện lịch sử, mối quan hệ sự kiện lịch sử với không
gian lịch sử - hoàn cảnh địa lí Vấn đề biểu tượng và biện pháp tạo biểu tượng
được trình bày một phần trong chương V: Hình thành tri thức lịch sử cho học
sinh, với các nội dung: định nghĩa biểu tượng, ý nghĩa của việc tạo biểu tượng,
mục đích của việc tạo biểu tượng trong dạy học lịch sử, phân loại biểu tượng,
các biện pháp sư phạm tạo biểu tượng lịch sử, mối quan hệ giữa biểu tượng và
khái niệm, Các tác giả đã chỉ rõ, tạo biểu tượng là yêu cầu đầu tiên của việc
thực hiện chức năng đặc trưng của dạy học lịch sử.
Cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử tập 2”, do GS.TS Phan Ngọc Liên
chủ biên, xuất bản năm 2002, nhà xuất bản Đại học sư phạm. Tác giả đã trình
bày cụ thể về khái niệm và phân loại hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử,
những con đường, biện pháp sư phạm được sử dụng để thực hiện chức năng của
các phương pháp dạy học lịch sử. Đặc biệt trong chương X: Các con đường,
biện pháp sư phạm để thực hiện hệ thống phương pháp dạy học lịch sử ở trường
phổ thông, tác giả đã làm rõ sự khác nhau và mối quan hệ giữa phương pháp dạy
học với con đường, biện pháp, thao tác sư phạm trong giáo dục lịch sử ở trường
phổ thông. Tác giả cũng đã trình bày cụ thể việc vận dụng các phương pháp
trình bày miệng, sử dụng đồ dùng trực quan, sử dụng sách giáo khoa và các loại
tài liệu học tập khác nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử.
5
Trong cuốn “Một số chuyên đề về phương pháp dạy học lịch sử” do Phan
Ngọc Liên chủ biên, xuất bản năm 2002, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
có một số bài viết về tạo biểu tượng nhân vật. Trong đó, bài viết của TS Đặng
Văn Hồ - Khoa lịch sử - Đại học Huế với nhan đề “Tạo biểu tượng về nhân vật
lịch sử để giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh” đã nêu lên những lí luận cơ
bản về tạo biểu tượng nhân vật lịch sử, vai trò, ý nghĩa của việc tạo biểu tượng
các nhân vật lịch sử, các nguyên tắc và một số biện pháp cụ thể.
Cuốn “Các con đường biện pháp nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở
trường phổ thông” do Nguyễn Thị Côi chủ biên, xuất bản năm 2006, nhà xuất

bản Đại học sư phạm. Tác giả đã nêu rõ: Một trong những biện pháp để nâng
cao hiệu quả bài học là việc trình bày hình ảnh, xúc cảm lịch sử cho học sinh để
tạo nên hình ảnh về con người, sự kiện trong dạy học lịch sử. Nguồn gốc,
phương tiện tạo nên hình ảnh về sự kiện, con người quá khứ trong dạy học lịch
sử là lời nói của giáo viên và học sinh, tranh ảnh, bản đồ, các đoạn trích từ tác
phẩm văn học, nghệ thuật, Qua đó đã khẳng định vai trò quan trọng của việc
tạo biểu tượng về nhân vật và địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử.
Công trình luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Phong với đề tài “Dạy
học nhân vật trong bộ môn lịch sử Việt Nam giai đoạn 1858 – 1930 ở trường
phổ thông”, năm 2006, trường Đại học sư phạm Hà Nội. Tác giả đã nêu lên
những vấn đề lí luận, thực tiễn của việc tạo biểu tượng nhân vật trong dạy học
lịch sử ở trường phổ thông. Tác giả đã hệ thống các nguyên tắc chung khi tạo
biểu tượng nhân vật lịch sử và hệ thống các phương pháp sư phạm giảng dạy
nhân vật lịch sử ở trường phổ thông.
Trong “Giáo trình các hình thức tổ chức dạy học lịch sử ở trường trung
học cơ sở” của Nguyễn Thị Côi chủ biên, xuất bản năm 2007, nhà xuất bản Đại
học sư phạm. Cuốn sách đã đi sâu vào những kiến thức cơ bản về vấn đề bài học
lịch sử ở trường trung học cơ sở: quan niệm về bài học lịch sử, những yêu cầu
cơ bản đối với một bài học lịch sử, các công việc chuẩn bị và tiến hành bài học
lịch sử, việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập qua bài học lịch sử, các con
đường nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường trung học cơ sở. Trong đó, tác
giả đã khẳng định việc tạo biểu tượng là một khâu không thể thiếu trong việc
nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường trung học cơ sở.
Trong cuốn “Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1” do Trương Hữu Quýnh
chủ biên, xuất bản năm 2008, nhà xuất bản Giáo dục đã trình bày nội dung chủ
yếu của lịch sử Việt Nam từ thời nguyên thuỷ đến năm 1858 về hoàn cảnh lịch
6
sử, tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, của Việt Nam. Trong Phần 4:
Thời đại phong kiến dân tộc, tác giả đã nghiên cứu về lịch sử Việt Nam từ thế kỉ
X đến thế kỉ XIX trên tất cả các lĩnh vực. Cuốn sách cũng cung cấp thông tin về

các nhân vật lịch sử, các địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử quan trọng cần tạo biểu
tượng cho học sinh.
Trong cuốn “Tìm hiểu lịch sử Việt Nam qua hỏi đáp tập 2” do Nguyễn
Thị Côi chủ biên, xuất bản năm 2008, nhà xuất bản Đại học sư phạm. Qua
những câu hỏi và lời đáp (mang tính chất hướng dẫn, gợi ý), tác giả đã góp phần
phát huy tính tích cực trong nhận thức của học sinh. Cuốn sách cũng cung cấp
rất nhiều tư liệu liên quan đến các nhân vật lịch sử cùng những địa điểm xảy ra
sự kiện lịch sử nổi tiếng của lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX.
Trong cuốn "Một số vấn đề địa danh học Việt Nam" của tác giả Nguyễn
Văn Âu, xuất bản năm 2008, nhà xuất bản Giáo dục, đã đề cập đến một số quan
niệm về địa danh, về mặt không gian địa lí tự nhiên và xã hội. Cuốn sách viết
nhằm phục vụ cho nghiên cứu địa danh cho nên có thể làm nguồn tư liệu tham
khảo giúp tìm hiểu về quan niệm địa danh, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử một
cách khoa học
Cuốn “Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử trung
học cơ sở (phần lịch sử Việt Nam)” do Nguyễn Thị Côi chủ biên, xuất bản năm
2009, nhà xuất bản Giáo dục. Tác giả đã cung cấp cho chúng ta nắm được những
nội dung lịch sử và phương pháp sử dụng hệ thống kênh hình trong dạy học
phần lịch sử Việt Nam. Kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử gồm nhiều loại:
bản đồ, sơ đồ, hình vẽ, tranh ảnh lịch sử Mỗi loại có một phương pháp sử dụng
riêng. Cuốn sách đã giúp giáo viên lựa chọn các phương pháp phù hợp để tạo
biểu tượng cho học sinh. Trong đó có chân dung các nhân vật lịch sử và địa
điểm xảy ra sự kiện lịch sử thuộc giai đoạn lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế
kỉ XIX.
Trong cuốn “Danh nhân đất Việt’’ do Nguyễn Trang Phương sưu tầm
biên soạn, xuất bản năm 2010, nhà xuất bản Văn học, đã đề cập tới một số nhân
vật lịch sử tiêu biểu của lịch sử Việt Nam. Cuốn sách đi sâu vào nghiên cứu tài
liệu tiểu sử của nhân vật, bên cạnh đó là những câu chuyện liên quan đến cuộc
sống của các nhân vật. Thông qua các câu chuyện đó giúp người đọc có sự nhìn
nhận, đánh giá khách quan cũng như sự mến phục với các nhân vật lịch sử của

dân tộc. Cuốn sách là nguồn tư liệu tham khảo để tạo biểu tượng về nhân vật
lịch sử một cách khoa học.
7
Luận án tiến sĩ giáo dục học của Nguyễn Đức Cương, “Tạo biểu tượng về
địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông
(Vận dụng qua dạy học lịch sử Việt Nam từ 1946 đến 1954, Chương trình
chuẩn)”, năm 2012, trường Đại học sư phạm Hà Nội. Tác giả đã nêu lên những
vấn đề lí luận, thực tiễn của việc tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong
dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Công trình đã đề cập đến các hình thức,
biện pháp sư phạm tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch
sử Việt Nam từ 1946 đến 1954 ở trường trung học phổ thông.
Như vậy, các công trình nói trên đã gợi ý cho tôi một số định hướng về
nguyên tắc, các biện pháp sư phạm để giải quyết vấn đề: Tạo biểu tượng về nhân
vật và địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử ở trường Trung học cơ sở
(Vận dụng qua dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX)
Thực hiện đề tài, tôi mong muốn sẽ đóng góp một phần trong việc hình
thành hệ thống cơ sở lý luận phù hợp và đề xuất các biện pháp sư phạm có tính
khả thi để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử ở trường phổ
thông hiện nay.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định mức độ kiến thức cần tạo biểu tượng về nhân vật, địa điểm xảy
ra sự kiện lịch sử; con đường, biện pháp sư phạm để tạo biểu tượng về nhân vật
và địa điểm xảy ra sự kiện trong lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX.
Trên cơ sở đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử Việt Nam ở trường
THCS trên tất cả các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tài liệu để làm rõ những vấn đề lí luận của việc tạo biểu tượng
về nhân vật và địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Kết hợp lí luận và thực tiễn, đưa ra một số biện pháp sư phạm để tạo biểu

tượng về nhân vật và địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử Việt Nam từ
thế kỉ X đến thế kỉ XIX ở trường THCS.
Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng các biện pháp sư phạm, trên cơ sở
đó rút ra kết luận về tính khả thi của các biện pháp sư phạm được tiến hành.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được xác định là: Quá trình tạo biểu tượng về nhân
vật và địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử ở trường THCS.
8
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu việc tạo biểu tượng về nhân vật và địa điểm xảy ra sự kiện
trong dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX ở trường THCS, khảo
sát thực nghiệm trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp chuyên ngành
Phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc là hai phương pháp quan trọng
hàng đầu và không thể tách rời nhau trong nghiên cứu lịch sử.
Trong đó, phương pháp lịch sử là phương pháp diễn tại tiến trình phát
triển của các hiện tượng và các sự kiện với mọi tính chất cụ thể của chúng.
Phương pháp lôgíc là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng trong hình thức
tổng quát nhằm vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận
động của chúng.
5.2. Phương pháp liên ngành
5.2.1. Phương pháp quan sát, phương pháp thu thập, tổng hợp và xử lí thông tin
Sử dụng phương pháp quan sát để quan sát thực trạng dạy và học tại
trường THCS.
Sử dụng phương pháp thu thập, tổng hợp để thu thập, tổng hợp các thông
tin thu được qua quá trình khảo sát, nghiên cứu thực trạng dạy và học, sau đó để
xử lí các thông tin.
Từ đó vận dụng biện pháp tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử và địa điểm

xảy ra sự kiện lịch sử vào bài giảng một cách linh hoạt, hiệu quả.
5.2.2. Phương pháp thực nghiệm
Đây là phương pháp được coi trọng nhất, một phương pháp chủ công
trong nghiên cứu khoa học hiện đại. Dùng phương pháp thực nghiệm để điều tra
nhận thức của giáo viên và học sinh trước khi dạy và học lịch sử. Sử dụng các
phương pháp này còn nhằm kiểm chứng các kết quả nghiên cứu lí thuyết của
khóa luận. Phân tích các kết quả thực nghiệm để từ đó đối chứng với giả thuyết
đã đưa ra.
9
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
TẠO BIỂU TƯỢNG VỀ NHÂN VẬT VÀ ĐỊA ĐIỂM XẢY RA SỰ KIỆN
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THCS
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái niệm biểu tượng, biểu tượng lịch sử
Biểu tượng:
Theo từ điển Tiếng Việt (GS Hoàng Phê chủ biên): "Biểu tượng là hình
ảnh tượng trưng, là hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh
của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã
chấm dứt" [24; 10].
Như vậy, biểu tượng là những hình ảnh của những sự vật, hiện tượng của
thế giới xung quanh, được hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri giác đã xảy
ra trước đó, được giữ lại trong ý thức hay là những hình ảnh mới được hình
thành trên cơ sở những hình ảnh đã có từ trước. Biểu tượng không phải hoàn
toàn là thực tế, bởi vì nó là sự xây dựng lại thực tế sau khi đã được tri giác. Tuy
nhiên, những hình ảnh đó cũng không hoàn toàn là kết quả chủ quan xuất phát từ
những hoạt động tâm trí của chủ thể.
Biểu tượng là một trong những hình thức quan trọng của sự phản ánh chủ
quan về thế giới khách quan. Không có biểu tượng thì không thể có ý thức. Do

gắn với các yếu tố tổng hợp nên biểu tượng là bậc thang chuyển hóa từ hình ảnh
cụ thể đến khái niệm trừu tượng, từ cảm giác và tri giác đến tư duy. Ngoài ra, do
biểu tượng mang tính chất biến đổi rộng rãi, rõ nét, cho phép xây dựng hình ảnh
mới, nên chúng đóng vai trò quan trọng và cần thiết cho hoạt động sáng tạo của
con người.
Biểu tượng lịch sử:
Do đặc điểm của bộ môn, khi học tập lịch sử, học sinh không thể trực tiếp
tri giác các sự kiện lịch sử đã xảy ra trong quá khứ, không thể tái hiện lịch sử
trong phòng thí nghiệm. Cho nên, không có biểu tượng nảy sinh từ những trực
giác đối với sự kiện, hiện tượng có thật mà chỉ trên cơ sở những mảnh quá khứ
còn lưu lại để làm chỗ dựa cho việc tái tạo lại quá khứ lịch sử. Vì vậy, đôi khi
biểu tượng của lịch sử là biểu tượng của trí tưởng tượng.
10
Do đó, biểu tượng lịch sử là hình ảnh về sự kiện, nhân vật và bối cảnh tự
nhiên, xã hội (liên quan trực tiếp đến sự kiện, nhân vật) được phản ánh trong óc
người với những nét chung nhất, điển hình nhất. Biểu tượng lịch sử là một dạng
đặc biệt của nhận thức thế giới khách quan. Tính đặc biệt của biểu tượng lịch sử
được quy định bởi đặc trưng của lịch sử: Sự kiện là hiện thực khách quan, chỉ
diễn ra một lần và để lại dấu vết riêng rẽ. Để có được biểu tượng lịch sử, con
người không thể trực tiếp tri giác sự kiện có sẵn, mà phải trên cơ sở phương
pháp khoa học (sưu tầm tài liệu, xử lí phán đoán, mô phỏng sự kiện) để tái tạo
lại sự kiện lịch sử, phản ánh lịch sử gần giống với hiện thực khách quan. Như
vậy, biểu tượng lịch sử chính là hình ảnh của tri giác gián tiếp từ các hình ảnh
riêng rẽ về một sự kiện, nhân vật cụ thể.
Thông qua hoạt động học tập (có sự tổ chức của người thầy, có sự hỗ trợ
của bạn bè), học sinh sẽ có được biểu tượng cụ thể về các sự vật, hiện tượng có
trong bài học. Như vậy, việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh cũng có những
điểm riêng: Biểu tượng chỉ có được nhờ sự tổ chức của thầy, sự nỗ lực của bản
thân, sự hỗ trợ của bè bạn và các phương tiện dạy học.
Từ những quan niệm chung về biểu tượng, tính đến đặc trưng của việc

nhận thức lịch sử, chúng ta hiểu rằng: “Biểu tượng lịch sử là hình ảnh về những
sự kiện, nhân vật lịch sử, điều kiện địa lí được phản ánh trong óc học sinh
những nét chung nhất, điển hình nhất” [18; 54].
Biểu tượng về nhân vật lịch sử:
Biểu tượng nhân vật lịch sử là một bộ phận không thể thiếu trong hệ
thống các biểu tượng lịch sử nói chung. Bởi vì lịch sử không thể tách rời yếu tố
con người, trong đó có những cá nhân làm nên lịch sử. Trong cuốn Từ điển
thuật ngữ lịch sử phổ thông do GS Phan Ngọc Liên chủ biên định nghĩa: "Nhân
vật lịch sử là người có một vai trò nhất định trong một sự kiện lịch sử, một thời
kì lịch sử” [16; 26]. Biểu tượng nhân vật lịch sử là biểu tượng về hành động cụ
thể của một cá nhân trong mối quan hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân, trong
bối cảnh lịch sử cụ thể, tại một địa điểm, thời điểm cụ thể, góp phần không nhỏ
vào sự phát triển lịch sử. Biểu tượng nhân vật lịch sử là những hình ảnh chung
nhất, khái quát nhất về nhân vật với những nét tính cách điển hình được phản
ánh trong óc học sinh.
11
Biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện
Địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử là nơi chốn cụ thể diễn ra các sự kiện hiện
tượng lịch sử, mà ở đó có những điều kiện tự nhiên, xã hội nhất định con người
đã lựa chọn (nhận thức) để thực hiện mục đích của mình.
Không gian xảy ra sự kiện lịch sử là khoảng không gian gồm có mọi vật,
con người… mà có liên quan ít nhiều đến sự kiện lịch sử đã xảy ra được xác
định trên bề mặt trái đất (ở một nơi chốn nhất định - địa điểm).
Như vậy, trong nghiên cứu lịch sử quan niệm về không gian lịch sử và địa
điểm lịch sử về cơ bản là một, sự khác nhau chỉ ở tên gọi và mức độ phản ánh
nơi xảy ra sự kiện lịch sử. Khi dùng khái niệm địa điểm xảy ra sự kiện người ta
muốn nhấn mạnh đến vị trí địa lý của sự kiện đó. Khi dùng khái niệm không
gian lịch sử người ta lại nhấn mạnh đến nhiều yếu tố liên quan đến nơi xảy ra sự
kiện như điều kiện tự nhiên, phạm vi của sự kiện. Trong nghiên cứu và dạy học
lịch sử, hầu hết được sử dụng khái niệm địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử.

Địa danh lịch sử là tên gọi một địa điểm hay các vùng miền, địa phương
xảy ra một sự kiện hiện tượng lịch sử nào đó được lưu lại (người đời nhớ tới),
mà ở đó có những điều kiện tự nhiên, xã hội,… nhất định con người nhận thức
được để thực hiện ý đồ, mục đích của mình [1; 46].
Như vậy, địa điểm lịch sử, không gian lịch sử và địa danh lịch sử đều là
nơi xảy ra sự kiện lịch sử. Nhưng địa điểm xảy sự kiện lịch sử bao hàm cả
không gian lịch sử và địa danh lịch sử. Do vậy, theo quan điểm của tác giả,
trong dạy học lịch sử thống nhất sử dụng khái niệm địa điểm xảy ra sự kiện lịch
sử là hợp lý hơn cả.
Bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đều diễn ra ở một địa điểm,
không gian xác định. Biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử chính là biểu
tượng lịch sử được cụ thể hóa ở địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử đó với những
hình ảnh điển hình nhất về nơi xảy ra sự kiện lịch sử.
Vậy, biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử là hình ảnh về địa
điểm, không gian lịch sử nơi xảy ra sự kiện có mối liên hệ với những sự kiện,
nhân vật lịch sử, điều kiện địa lí, những yếu tố kinh tế - xã hội, được phản ánh
trong óc học sinh những nét chung nhất, khái quát nhất.
12
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc tạo biểu tượng về nhân vật trong dạy học lịch
sử.
Về kiến thức:
Tạo biểu tượng lịch sử nói chung, biểu tượng nhân vật lịch sử nói riêng
chân thực, sống động giúp học sinh khôi phục các bức tranh của quá khứ sinh
động đúng như nó tồn tại. Mỗi nhân vật lịch sử đều đại diện cho một giai cấp
nhất định. Nhiều đặc điểm cá nhân tiêu biểu sẽ là đặc trưng chung cho giai cấp
mà họ phục vụ. Điều này giúp học sinh hiểu được một cách tương đối và đầy đủ
bản chất của từng giai cấp hay tầng lớp xã hội nhất định. Từ đó lí giải các mối
quan hệ xã hội của cá nhân, hình thành cho học sinh các khái niệm về giai cấp
và đấu tranh cách mạng. Mặt khác, hoạt động của một nhân vật lịch sử, nhất là
nhân vật đại diện cho quyền lợi dân tộc, đều phản ánh lịch sử của dân tộc, của

quần chúng dân nhân ở một mức độ nhất định. Vì vậy, tạo biểu tượng về các
nhân vật lịch sử có tác dụng cụ thể hoá một số sự kiện lịch sử, làm sáng tỏ
những vấn đề cơ bản của lịch sử.
Mặt khác, tạo biểu tượng về nhân vật còn giúp cho học sinh tránh được
những sai lầm về “hiện đại hóa” lịch sử, những nhận thức thiếu chủ quan, phiến
diện và đánh giá, nhận định tình hình thiếu cơ sở khoa học. Bởi vì những tư liệu
phong phú về nhân vật lịch sử sẽ giúp cho học sinh có sự nhận thức khách quan
và độ tin tưởng chính xác cao đối với các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Bên cạnh đó, việc tạo biểu tượng các nhân vật lịch sử chân thật và sinh
động còn giúp cho học sinh đánh giá đúng vai trò của cá nhân trong lịch sử và
mối quan hệ giữa cá nhân với quần chúng nhân dân.
Về thái độ:
Trong dạy học phổ thông, bộ môn lịch sử có vai trò giáo dục tư tưởng,
đạo đức, tình cảm cho học sinh rất lớn. Đặc biệt việc tạo biểu tượng sinh động,
hấp dẫn về các sự kiện, hiện tượng; nhất là về các nhân vật lịch sử sẽ có tác
động sâu sắc đến tư tưởng tình cảm các em. Bởi vì đó là những biểu tượng về
con người thực trong quá khứ. Trong một hoàn cảnh cụ thể, hành động của họ
có tác động mạnh đến tư tưởng, tình cảm ở các em. Các em không chỉ tri giác
mà còn có những rung động, xúc cảm và sự nhập thân vào lịch sử. Biểu tượng
các nhân vật lịch sử thường biểu thị tình cảm đạo đức và là yếu tố kích thích
những cảm xúc đạo đức, hành vi đạo đức. Và “khi biểu tượng tham gia vào hoạt
động tư duy thì tư duy trở nên sinh động, gợi cảm, say sưa, hồi hộp và khẩn
13
trương” [29; 76]. Biểu tượng nhân vật lịch sử tác động không những lên trí tuệ
mà cả về tâm hồn và tình cảm, là yếu tố hình thành nên nhân cách của học sinh.
Thông qua các bài học lịch sử, những hành động đấu tranh, hi sinh anh
dũng quên mình Tổ quốc, vì sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động có sức hấp
dẫn lôi cuốn cực kỳ đối với học sinh phổ thông. Vì ở độ tuổi các em tình cảm dễ
rung động và có những xúc cảm lịch sử sâu sắc. Từ đó hình thành ở các em lòng
khâm phục, biết ơn đối với các anh hùng, vĩ nhân trong lịch sử. Đồng thời có ý

thức tự giác về trách nhiệm của mình trong cuộc sống hôm nay. Ngược lại, các
hành động xấu xa, tàn bạo sẽ hình thành ở các em thái độ căm ghét. Biểu tượng
về nhân vật lịch sử phong phú sẽ giúp các em nhận thức được cái đẹp, cái xấu để
chọn lọc học tập.
Về kỹ năng:
Tạo biểu tượng nhân vật lịch sử là một trong những biện pháp quan trọng
làm cho hoạt động trí tuệ của học sinh không ngừng phát triển. Vì thông qua
việc giáo viên sử dụng kết hợp các đồ dùng trực quan, tư liệu lịch sử, học sinh
phải huy động trí óc quan sát, tư duy và tưởng tượng để có được biểu tượng lịch
sử đúng đắn nhất.
Việc tạo biểu tượng nhân vật lịch sử là cơ sở để tiến tới sự nhận thức lý
tính của hiện thực lịch sử, là điều kiện để cho học sinh nhận thức lịch sử đúng
đắn, tiến tới hình thành khái niệm.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện
trong dạy học lịch sử.
Về kiến thức:
Về mặt nhận thức lịch sử, nhiều nhà nghiên cứu đã nêu rõ ý nghĩa của
biểu tượng lịch sử trong quá trình học tập lịch sử của học sinh trên các mặt tư
duy, cảm xúc, khát vọng, ý chí, hành động. Không tạo biểu tượng thì hình ảnh
lịch sử mà học sinh thu nhận sẽ nghèo nàn, hiểu biết lịch sử không sâu sắc,
không phát triển tư duy, không có cơ sở hình thành khái niệm - giai đoạn nhận
thức lí tính của việc học tập lịch sử.
Về tư tưởng, thái độ:
Về mặt tình cảm, đạo đức, biểu tượng có tác dụng không nhỏ đối với học
sinh. Biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử có nhiều ưu thế trong việc
giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Vì nó tác động không những lên trí
tuệ mà vào cả tâm hồn và tình cảm. Các em sẽ yêu quê hương, đất nước, con
người, từ đó có thái độ và hành động đúng đắn.
14
Vì vậy, việc tạo biểu tượng lịch sử nói chung, biểu tượng về địa điểm xảy

ra sự kiện nói riêng, ngoài khả năng tái tạo lịch sử quá khứ còn có chức năng
điều chỉnh hành động. Đó là ý nghĩa to lớn của việc tạo biểu tượng về địa điểm
xảy ra sự kiện lịch sử.
Về kĩ năng:
Về tác dụng phát triển tư duy, biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện lịch
sử là một trong những phương tiện quan trọng làm cho hoạt động trí tuệ của học
sinh không ngừng phát triển.
Trong mỗi khóa trình lịch sử, không chỉ có một vài địa điểm xảy ra sự
kiện, mà có rất nhiều địa điểm lịch sử trở thành địa danh nổi tiếng tiêu biểu cho
thời đại. Cho nên khi học tập, học sinh có biểu tượng đầy đủ về địa điểm xảy ra
sự kiện và các yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội - con
người có liên quan, nhờ đó mà khả năng tưởng tượng của các em phát triển. Như
vậy, biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử là phương tiện kích thích sự
phát triển trí tưởng tượng ở học sinh.
Biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện không chỉ khôi phục lại diện mạo
lịch sử dưới dạng cảm tính, mà còn được dùng để phân tích, khái quát, giải thích
các hiện tượng lịch sử. Ở một mức độ nào đó, biểu tượng tiến gần đến các khái
niệm sơ đẳng, là cơ sở vững chắc để học sinh lĩnh hội các tri thức lí luận khái
quát, hiểu sâu sắc bản chất sự kiện, nêu quy luật và rút bài học lịch sử. Từ đó
góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức cách mạng, hoàn thiện nhân
cách và phát triển năng lực tư duy lịch sử cho học sinh.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Để có cơ sở đánh giá việc tạo biểu tượng nói chung, biểu tượng về nhân
vật và địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử nói riêng, tôi tiến hành điều
tra GV và HS ở các trường THCS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Mục đích của công tác điều tra:
Nhằm đánh giá tình hình dạy học lịch sử nói chung, hình thức, biện pháp
tạo biểu tượng về nhân vật và địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử ở
trường THCS đối với GV và HS.
Kết quả điều tra sẽ là cơ sở quan trọng để tác giả khóa luận đối chiếu với

lý luận, đề xuất các biện pháp tạo biểu tượng về nhân vật và địa điểm xảy ra sự
kiện, góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường THCS.
15
Nguyên tắc điều tra:
Đảm bảo tính nghiêm túc và khoa học trong thực hiện các điều kiện và
tiêu chuẩn của thống kê học trong quá trình điều tra và xử lí số liệu.
Đảm bảo tính trung thực, chính xác.
Để tìm hiểu thực trạng việc dạy học ở trường phổ thông, trong đó chú ý
đến tạo biểu tượng về nhân vật và địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử
của giáo viên, việc khảo sát được tiến hành ở cả GV và HS.
Tổ chức điều tra
Thời gian: tháng 03 năm 2014
Địa điểm: Điều tra các trường THCS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Trường THCS Tiên Du, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ
Trường THCS Thái Ninh, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ
Trường THCS Yên Kỳ, huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ
Nội dung điều tra:
Nhận thức của GV lịch sử và HS về môn lịch sử và sự hứng thú trong dạy
học lịch sử ở trường THCS hiện nay. Nhận thức của GV lịch sử về ý nghĩa, tầm
quan trọng của việc tạo biểu tượng lịch sử trong dạy học lịch sử ở trường THCS.
Những nhân vật và địa điểm xảy ra sự kiện trong lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X
đến thế kỉ XIX cần được tạo biểu tượng. Những hình thức, biện pháp tạo biểu
tượng. Những thuận lợi và khó khăn trong việc tạo biểu tượng về nhân vật, địa
điểm xảy ra sự kiện - nguyên nhân.
Hình thức và phương pháp điều tra
Gặp gỡ các thầy cô giáo bộ môn và các em học sinh, trao đổi, lấy ý kiến,
tiến hành dự giờ chuyên môn, quan sát tình hình học tập, tiến hành kiểm tra chất
lượng của các em thông qua các câu hỏi, phiếu điều tra (Phụ lục).
Tổng hợp tất cả các nguồn thông tin thu thập được, tiến hành xử lí số liệu,
tác giả đã thu thập được kết quả phản ánh thực trạng dạy học nói chung, việc tạo

biểu tượng về nhân vật và địa điểm xảy ra sự kiện nói riêng là cơ sở để người
nghiên cứu đề ra những biện pháp khắc phục để góp phần nâng cao hiệu quả bài
dạy lịch sử ở trường THCS. Cụ thể:
1.2.1. Đối với giáo viên
Trong thực tế, giáo viên lịch sử ở các trường THCS là những người yêu
nghề, say sưa với công tác giảng dạy, lo lắng đầu tư cho chuyên môn, tìm mọi
biện pháp để có được những giờ dạy tốt, học tốt. Nhiều giáo viên đã cố gắng
vượt qua khó khăn về cơ sở vật chất, sáng tạo các hình thức tổ chức dạy học, đồ
16
dùng trực quan, tìm cách truyền cho học sinh những cảm hứng trong mỗi giờ
học. Đó là những đóng góp tích cực không thể phủ nhận. Mặt khác, công cuộc
đổi mới giáo dục những năm qua cũng có những bước tiến đáng kể theo hướng
ngày càng tích cực, giáo viên lịch sử ở trường phổ thông đã được thường xuyên
bồi dưỡng cả về chuyên môn và nghiệp vụ.
Đa số giáo viên đều nhận thức rõ sự cần thiết phải tạo biểu tượng nói
chung, biểu tượng về nhân vật và địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử ở
trường THCS và đã vận dụng lý luận về tạo biểu tượng ở những mức độ khác
nhau. Một số giáo viên đã áp dụng phương pháp dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình dạy học. Trong dạy học lịch
sử, giáo viên không chỉ dừng lại ở mức độ cung cấp sự kiện cho học sinh, mà
trên cơ sở đó kết hợp với những hình thức, biện pháp khác nhau để tạo được
những biểu tượng lịch sử sinh động. Trên cơ sở đó dẫn dắt học sinh đi sâu
nghiên cứu bản chất của các sự vật, hiện tượng lịch sử góp phần nâng cao hiệu
quả những giờ học lịch sử hiện nay ở trường THCS.
Tuy nhiên, sự phản ánh trên chỉ mới nhìn nhận ở mặt tích cực. Trong dạy
học lịch sử, giáo viên thường sử dụng địa danh lịch sử, thực chất là gọi tên địa
danh nơi xảy ra sự kiện lịch sử, chứ không phải tạo biểu tượng về địa điểm xảy
ra sự kiện lịch sử. Về nhân vật lịch sử, giáo viên cũng chưa đi vào khai thác,
phân tích để học sinh có cái nhìn đầy đủ, khách quan về nhân vật lịch sử. Chính
vì thế, học sinh không thể nhận thức sâu sắc về nhân vật lịch sử, địa điểm của sự

kiện, mối quan hệ tác động qua lại giữa địa điểm với sự kiện lịch sử. Học sinh
nhận thức lịch sử còn hời hợt, không thể đi đến những khái quát đúng đắn, ảnh
hưởng đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của các em đối với lịch sử nói chung
và đối với những vùng đất, con người nơi diễn ra sự kiện lịch sử nói riêng.
1.2.2. Đối với học sinh
Phải đánh giá khách quan rằng có một bộ phận học sinh rất có ý thức học
tập bộ môn, mong muốn khám phá tri thức lịch sử dân tộc, lịch sử loài người,
lịch sử văn minh thế giới và văn minh của quốc gia trong khu vực. Thực tế qua
các kì thi học sinh giỏi cấp trường, cấp huyện đã phần nào phản ánh được
bước chuyển biến nhất định về chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Nhưng rõ ràng có một bộ phận lớn học sinh chưa thực sự quan tâm tới bộ
môn lịch sử, chưa có động cơ, ý thức học tập đúng đắn với bộ môn. Điều này
cũng không tránh khỏi trong bối cảnh hiện nay do tác động của nền kinh tế thị
trường, tính thực dụng ngày càng rõ nét trong việc lựa chọn môn học. Học lịch
17
sử để mà yêu quê hương, đất nước, quý trọng những truyền thống giá trị của
nhân loại và dân tộc còn quá xa đối với các em. Qua khảo sát các em học sinh ở
các trường THCS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, chúng tôi phân tích thống kê và rút
ra những kết luận như sau:
Các em chưa có phương pháp học tập phù hợp. Cách học chủ yếu của học
sinh ở trên lớp hiện nay là nghe, ghi chép bài giảng của thầy cô. Học sinh gặp
khó khăn trong việc ghi nhớ các sự kiện, nội dung lịch sử. Với các em thì lịch sử
là một môn khó học với những kiến thức khô khan, trừu tượng, với quá nhiều sự
kiện và thật khó để có thể vận dụng yêu cầu của bài học lịch sử vào thực tiễn
cuộc sống. Thêm vào đó, việc thiếu tài liệu học tập và trang thiết bị dạy học môn
lịch sử; nhận thức chưa đúng của các em về vị trí, vai trò của môn lịch sử cũng
là những nguyên nhân tác động không nhỏ đến thái độ học tập và hứng thú học
tập lịch sử của học sinh. Học sinh không tập trung trong giờ học, lơ là, mong hết
giờ, các em thường học tập trong tâm lý gượng ép, buồn chán thậm chí có một
số học sinh mang bài tập của các môn học khác ra học thay cho việc học và chép

bài của môn lịch sử.
Hệ quả tất yếu của thái độ, động cơ học tập như đã nói ở trên dẫn đến hiện
tượng nhầm lẫn các nhân vật lịch sử, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử địa phương
này với địa phương khác, giữa địa danh lịch sử dân tộc với lịch sử thế giới cũng
thường xuyên xảy ra. Học sinh chỉ nhớ tên nhân vật nhưng không hiểu các nhân
vật đó có vai trò gì trong lịch sử. Cũng như vậy, học sinh chỉ nhớ địa danh lịch
sử mà không nắm bắt được hoàn cảnh địa lí, điều kiện tự nhiên, xã hội tác
động đến sự kiện diễn tại địa điểm đó. Học sinh không hiểu được lịch sử, lại
càng không có thái độ đúng đắn với lịch sử, với cuộc sống hiện tại và tương lai.
Như vậy, mục đích, yêu cầu của bộ môn trên cả ba mặt kiến thức, thái độ, kĩ
năng đều không đạt được.
1.2.3. Nguyên nhân của thực trạng trên
Nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò, tác dụng của môn học chưa được
xác định đúng đắn, xã hội chưa thấy rõ tác dụng của lịch sử trong việc giáo
dưỡng, giáo dục, đặc biệt là giáo dục truyền thống và giáo dục nhân cách cho
học sinh.
Chất lượng đội ngũ giáo viên không đồng đều, có giáo viên phải dạy
nhiều khối lớp nên việc tìm hiểu kĩ trình độ nhận thức, tâm lí học sinh gặp nhiều
khó khăn.
18
Đồ dùng dạy học của bộ môn nghèo nàn, tranh ảnh không nhiều, màu sắc
của đồ dùng trực quan thiếu hấp dẫn. Nhiều tranh, ảnh đen trắng bị nhòe, mờ,
tối, rất khó khăn cho giáo viên trong mô tả trực quan, khiến cho giáo viên kém
nhiệt tình trong sử dụng. Nhiều thầy cô rất ngại sử dụng đồ dùng trực quan, dạy
chay khi không có người dự giờ, vì trường thiếu đồ dùng hoặc việc mượn trả đồ
dùng còn nhiều bất cập, khiến cho giờ học lịch sử trở nên nhàm chán, khô
cứng, buồn tẻ, thiếu sức thuyết phục.
Nội dung kiến thức lịch sử ở trường phổ thông quá nhiều sự kiện, gắn với
sự kiện đó cũng có rất nhiều nhân vật, địa điểm mà chỉ diễn ra một lần, không
được củng cố, do vậy, học sinh không thể nhớ hết nhân vật và địa điểm xảy ra

sự kiện (vượt quá khả năng của các em).
Địa điểm xảy ra sự kiện không thay đổi, những tên gọi của địa điểm đã
thay đổi theo sự phát triển kinh tế, xã hội. Sự thay đổi của đơn vị hành chính
chưa được bổ sung vào sách giáo khoa, giáo viên và học sinh chưa cập nhật.
Động lực dạy học có phần suy giảm trong một bộ phận giáo viên do đời
sống giáo viên, tuy đã được cải thiện nhiều nhưng vẫn còn khó khăn; vị trí người
giáo viên trong xã hội có nhiều biến động; động cơ thái độ học tập của học sinh
chưa thật đúng đắn, thiếu sự định hướng, hoặc định hướng sai lệch của gia đình,
cùng với sự tác động của nền kinh tế thị trường, lấy kinh tế làm trọng,
Tiểu kết chương 1
Từ việc nghiên cứu lí luận và thực tiễn cho thấy, việc tạo biểu tượng lịch
sử nói chung, biểu tượng về nhân vật và địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử nói riêng
có vai trò, ý nghĩa to lớn đối với hiệu quả hoạt động nhận thức lịch sử của học
sinh. Nếu không tạo được biểu tượng lịch sử thì hoạt động học tập lịch sử của
các em sẽ không có hiệu quả. Vì vậy, trong dạy học lịch sử ở trường THCS, giáo
viên cần phải đa dạng hóa các hình thức và biện pháp tạo biểu tượng lịch sử nói
chung, biểu tượng về nhân vật lịch sử và địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử nói
riêng, theo quan điểm đổi mới, tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS nhằm
thực hiện có hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học lịch sử.
Từ việc khảo sát, điều tra, nghiên cứu thực trạng, cho phép tác giả có cơ
sở để khẳng định ý nghĩa cấp thiết của việc tạo biểu tượng về nhân vật và địa
điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử (vận dụng qua dạy học lịch sử Việt
Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX) ở trường THCS.
19
Chương 2
NỘI DUNG VÀ MỨC ĐỘ KIẾN THỨC PHẢN ÁNH
BIỂU TƯỢNG VỀ NHÂN VẬT VÀ ĐỊA ĐIỂM XẢY RA SỰ KIỆN
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THCS
(VẬN DỤNG QUA LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ TK X ĐẾN TK XIX)
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của phần Lịch sử Việt Nam từ TK X –

XIX ở trường THCS
2.1.1. Vị trí
Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX là nội dung chủ yếu của
chương trình lịch sử lớp 6, 7, phần lịch sử Việt Nam. Trước khi học phần lịch sử
này, học sinh đã được tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển của quốc
gia Đại Việt từ buổi đầu độc lập Ngô - Đinh - Tiền Lê. Trên cơ sở đó, học sinh
tiếp tục tìm hiểu một giai đoạn lịch sử mới, Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ
XIX với nhiều biến động lớn lao. Đây là phần kiến thức hết sức quan trọng, bởi
chính nó bối cảnh xã hội Việt Nam từ thời kì đầu giành độc lập tự chủ cho đến
trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Những sự kiện kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội sẽ giúp học sinh nhận thức được thời đại phong kiến độc lập của dân
tộc ta, nhà nước quân chủ được thành lập và từng bước phát triển đến đỉnh cao ở
thế kỉ XV trên một lãnh thổ thống nhất, có những bước phát triển về kinh tế, văn
hóa, xã hội nhất định. Qua đó, giúp học sinh hiểu được bản chất của chế độ
phong kiến Việt Nam.
2.1.2. Mục tiêu
Giáo dưỡng:
Thông qua những bài học cụ thể với những sự kiện, hiện tượng lịch sử cụ
thể giúp học sinh thấy được bức tranh toàn cảnh xã hội Việt Nam từ thế kỉ X đến
thế kỉ XIX trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Thế kỉ X mở đầu thời đại phong kiến độc lập của dân tộc Việt Nam. Nhà
nước quân chủ được thành lập và từng bước phát triển đến đỉnh cao ở thế kỉ XV
trên lãnh thổ thống nhất.
Từ thế kỉ X cho đến thế kỉ XV, nhân dân ta đã cần cù lao động, xây dựng
phát triển một nền kinh tế tự chủ, toàn diện. Ruộng đất ngày càng mở rộng, thủ
công nghiệp ngày càng phát triển, tạo điều kiện cho sự phát triển của thương
nghiệp trong nước cũng như giao lưu với nước ngoài. Tuy nhiên do sự chi phối
của những quan hệ sản xuất phong kiến, xã hội ngày càng phân hoá.
20
Trong những thế kỉ xây dựng đất nước, nhân dân ta vẫn phải liên tục tiến

hành cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Với lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần
chiến đấu kiên cường, anh dũng, nhân dân Đại Việt đã làm nên những chiến
thắng huy hoàng, giữ vững nền độc lập dân tộc.
Trong các thế kỉ X – thế kỉ XV, cùng với sự nghiệp quân sự, chính trị và
phát triển kinh tế, nhân dân Việt Nam đã từng bước xây dựng cho mình một nền
văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Những thành tựu văn hóa đạt được, vừa là
sản phẩm của sự nghiệp nói trên, vừa đặt nền móng vững chắc lâu dài cho dân
tộc.
Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, tình hình chính trị có nhiều biến động.
Nhà nước phong kiến tập quyền Lê Sơ suy sụp và nhà Mạc thành lập. Từ đó giải
thích nguyên nhân của cuộc chiến tranh phong kiến: chiến tranh Nam - Bắc
triều, chiến tranh Trịnh - Nguyễn và tình trạng đất nước bị chia cắt.
Mặc dù tình hình chính trị đất nước có nhiều biến động nhưng tình hình
kinh tế vẫn có bước phát triển mạnh trong thế kỉ XVI – thế kỉ XVIII. Đặc biệt, là
sự phát triển của kinh tế hàng hóa, sự hưng khởi của các đô thị.
Vào cuối thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến Đàng Ngoài cũng như Đàng
Trong bước vào giai đoạn khủng hoảng suy tàn.
Trong chương trình Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X – thế kỉ XIX cho học
sinh cái nhìn khái quát về tiến trình lịch sử dân tộc với sự hưng thịnh và suy
vong của chế độ phong kiến Việt Nam.
Giáo dục:
Thông qua phần Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX giáo dục
cho học sinh lòng căm ghét áp bức, cường quyền, lòng căm thù quân xâm lược,
đồng cảm với nỗi cực khổ của nhân dân, họ phải đứng lên đấu tranh.
Làm cho học sinh nhận thức sâu sắc về tinh thần lao động cần cù, sáng tạo
của nhân dân ta phát triển kinh tế - văn hoá của đất nước, tinh thần bất khuất
kiên cường của nhân dân ta trong đấu tranh chống áp bức, bóc lột của thế lực
phong kiến, chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập tự chủ.
Phát triển:
Rèn luyện cho học sinh khả năng làm việc với sách giáo khoa, tri giác tài

liệu, nghiên cứu tài liệu. Đặc biệt kĩ năng làm việc với đồ dùng trực quan, xác
định vị trí địa danh và trình bày các sự kiện trên biểu đồ, lược đồ.
Góp phần rèn luyện các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, so sánh,…
21
2.1.3. Nội dung kiến thức cơ bản của chương trình Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ
X đến thế kỉ XIX
Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, cuộc đấu tranh chống ách đô hộ của các
triều đại phong kiến Trung Quốc để giành độc lập của nhân dân ta đã đưa tới
thắng lợi hoàn toàn.
Vào đầu thế kỉ X, họ Khúc dấy nghiệp, xác lập nền tự chủ, mở đầu trang
sử độc lập của đất nước. Tuy nhiên bọn thống trị phong kiến không dễ dàng gì
dời bỏ vùng đất chiếm đóng ở phương Nam để tiếp tục bành trước thế lực. Vì
vậy, chúng dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, đe dọa, đem quân xâm lược hòng
khôi phục và củng cố sự đô hộ của chúng.
Truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân, được
hun đúc trong hơn 10 thế kỉ đấu tranh giải phóng dân tộc thể hiện ở chiến công
của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng năm 938. Chiến thắng này đã giữ vững
nền tự chủ mà Khúc Hạo đã xây đắp và khẳng định việc hoàn thành sự nghiệp
đấu tranh giành độc lập, mở ra kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỉ nguyên
độc lập dân tộc dưới chế độ phong kiến.
Sau 70 năm, kể từ khi Ngô Quyền xưng vương (939) đến lúc Lý Công
Uẩn lên ngôi (1009), trải qua các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, đất nước đã trải qua
cơn tao loạn, vì sự tranh quyền của 12 sứ quân và âm mưu xâm lược của nhà
Tống. Đinh Bộ Lĩnh đã có công thống nhất đất nước. Lê Hoàn đánh bại quân
xâm lược ở ải Chi Lăng và trên sông Bạch Đằng lần thứ hai (981).
Lý Thái Tổ dời đô về Đại La, đổi tên Thăng Long (1010), mở đầu thời kì
Đại Việt rực rỡ trong lịch sử dân tộc. Công cuộc xây dựng đất nước về nông
nghiệp, đặc biệt là văn hóa, giáo dục, sự nghiệp đánh Tống, bảo vệ Tổ quốc là
những trang sử huy hoàng ở buổi đầu Đại Việt.
Nhà Trần lên ngôi (1226), tiếp tục phát triển mọi mặt trong sự nghiệp xây

dựng đất nước về kinh tế, văn hóa, giáo dục, pháp luật, đặc biệt lẫy lừng với ba
lần thắng quân Mông - Nguyên (1258, 1285, 1288).
Hồ Quý Ly lên ngôi năm 1400, với những đề nghị cải cách của mình đã
để lại một số bài học cho việc canh tân và phát triển đất nước.
Sau 10 năm (1418 - 1427), cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trở thành cuộc
kháng chiến chống Minh, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, Nguyễn Trãi
đã giành thắng lợi. Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (1428) mở đầu triều đại Lê Sơ, đưa
chế độ phong kiến dân tộc phát triển đến đỉnh cao, đặc biệt dưới thời vua Lê
22
Thánh Tông. Các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, quân sự,
luật pháp, đều có bước tiến lớn.
Tiếp đó, thời kì đất nước bị chia cắt với chiến tranh Nam, Bắc triều (1530
- 1583), rồi sự phân chia Đàng Trong – Đàng Ngoài (1620 – 1788) làm cho chế
độ phong kiến Việt Nam suy yếu. Nhân dân cơ khổ, liên tiếp nổi dậy chống
phong kiến, địa chủ. Phong trào Tây Sơn phát triển mạnh mẽ. Phong trào đấu
tranh lật đổ các tập đoàn phong kiến thống trị trong nước Lê – Trịnh, Nguyễn,
đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của phong kiến Xiêm với chiến thắng Rạch
Gầm – Xoài Mút (1785), và quân Mãn Thanh với đại thắng vang dội Ngọc Hồi –
Đống Đa (1789), đặt cơ sở cho sự thống nhất đất nước.
Triều đại Quang Trung được thành lập, tuy có những cải cách đất nước về
kinh tế, giáo dục song cuối cùng sụp đổ.
Nguyễn Ánh sau khi đánh bại phong trào nông dân Tây Sơn và triều đình
Tây Sơn đã thực hiện sự thống nhất đất nước mà Nguyễn Huệ - Quang Trung đã
đặt cơ sở, có những công việc mở mang xây dựng nước nhà; song chế độ phong
kiến thời Nguyễn đã suy yếu. Các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra trong
cả nước. Trong tình hình chế độ phong kiến Việt Nam thời Nguyễn lâm vào sự
khủng hoảng trầm trọng, thực dân Pháp thực hiện âm mưu xâm lược nước ta.
Như vậy, có thể thấy rằng lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX là
một bức tranh đa dạng, đa sắc với những sự kiện lịch sử cụ thể, chân thực, sinh
động. Giáo viên cần khai thác được sự hấp dẫn của những tri thức lịch sử khi tổ

chức hoạt động nhận thức cho học sinh. Trong đó có kiến thức về nhân vật lịch
sử và địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử; giúp cho quá trình nhận thức lịch sử của
các em thực sự trở thành một quá trình nhận thức tích cực, chủ động với niềm
hăng say, đầy hứng thú để nhận thức đúng bản chất của lịch sử.
2.2. Mức độ kiến thức để tạo biểu tượng về nhân vật trong dạy học lịch sử
Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX.
Với nội dung phong phú của lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX,
hệ thống các nhân vật cần tạo biểu tượng cho học sinh cũng rất đa dạng, thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, dân tộc ta đã sản sinh
ra cả một hệ anh hùng với biết bao tấm gương hi sinh dũng cảm trên khắp các
mặt trận quân sự, chính trị, văn hoá, Tuỳ vào nội dung từng bài học có các
nhân vật lịch sử và vai trò của họ đối với lịch sử, chúng ta có các phương pháp
tạo biểu tượng khác nhau cho học sinh về các nhân vật đó. Có nhân vật cần tạo
23
biểu tượng tỉ mỉ, toàn diện nhưng có nhân vật chỉ cần nêu những nét cơ bản,
điển hình nhất về họ.
Các nhân vật phong phú hoạt động trên các lĩnh vực, mặt trận còn hết sức
đa dạng và phong phú. Vì vậy chúng ta phải tạo biểu tượng dựa trên vai trò quan
trọng của họ đối với lịch sử. Nhờ đó phân chia các nhân vật thành những nhóm
hoạt động khác nhau. Dựa trên cơ sở nội dung lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến
thế kỉ XIX, chúng ta có thể chia ra các nhóm nhân vật như sau:
Nhóm nhân vật hoạt động trên mặt trận quân sự: đây là nhóm nhân vật
đông đảo nhất do đặc điểm của giai đoạn lịch sử này chi phối bao gồm: Lí
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Nhóm nhân vật hoạt động trên lĩnh vực văn hoá – nghệ thuật, bao gồm:
Lê Văn Hưu, Nguyễn Trãi,
Việc phân chia các nhóm nhân vật như trên cũng chỉ mang tính chất
tương đối dựa vào vai trò chủ yếu của họ trong lĩnh vực mà họ đóng góp lớn
nhất. Tuy nhiên, cũng có những nhân vật mà việc phân nhóm không thực hiện
được rõ ràng, ví như Nguyễn Trãi, ông không chỉ đóng góp trên lĩnh vực quân

sự mà ông còn là một nhà văn, một nhà thơ, một danh nhân văn hoá thế giới và
dân tộc.
Với một hệ thống nhân vật phong phú thời kì lịch sử này, giáo viên phải
lựa chọn những nhân vật tiêu biểu, căn cứ vào vai trò của họ đối với lịch sử.
Nhằm tạo biểu tượng nhân vật sâu sắc, phong phú và phù hợp với thời gian quy
định của mỗi nội dung bài học. Tùy theo mục đích yêu cầu của từng bài, ý nghĩa
của nhân vật và khả năng nhận thức của học sinh để xác định kiến thức cần để
tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử theo hai mức độ sau:
Nhân vật lịch sử cần biết
Nhân vật lịch sử cần biết là những nhân vật có tần số xuất hiện ít trong
chương trình hay những nhân vật chỉ xuất hiện trong những thời điểm cụ thể của
lịch sử. Vai trò lịch sử của những nhân vật này cũng chỉ ở một thời điểm lịch sử
nhất định và ảnh hưởng của họ cũng không sâu rộng
Trong giai đoạn lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, có một số
nhân vật lịch sử mà học sinh cần biết như: Đinh Bộ Lĩnh, Lí Thường Kiệt,….
Ví dụ dạy Bài 8: Nước ta buổi đầu độc lập (Lịch sử 7), khi tạo biểu tượng
về nhân vật Đinh Bộ Lĩnh, giáo viên chỉ cần cung cấp cho học sinh những kiến
thức cơ bản nhất về ông:
24
Đinh Bộ Lĩnh quê ở Đại Hữu, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, là con trai
thứ sử Đinh Công Trứ - một tướng tài thời Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền.
Nhờ có tài chỉ huy và chí lớn, năm 20 tuổi Đinh Bộ Lĩnh đã trở thành người cầm
đầu cả vùng đất Hoa Lư. Ông đã có công lớn trong việc dẹp “Loạn 12 sứ quân”.
Với tài cầm quân và sự ủng hộ của dân chúng nên đến cuối năm 967, đất nước
trở lại bình yên, thống nhất. Sau đó, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, niên hiệu
Thái Bình, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư (Ninh Bình).
Nhân vật lịch sử cần hiểu
Nhân vật lịch sử cần hiểu là những nhân vật có vai trò to lớn đối với tiến
trình lịch sử của dân tộc. Những nhân vật lịch sử này có ảnh hưởng không chỉ
tới lịch sử Việt Nam ở một thời điểm mà còn ảnh hưởng sâu rộng trong một thời

gian dài. Vì vậy, học sinh cần phải hiểu rõ về vai trò cụ thể của họ đối với lịch
sử.
Trong giai đoạn lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, học sinh cần
phải hiểu rõ về nhân vật Trần Quốc Tuấn với vai trò đánh tan quân xâm lược
Mông – Nguyên Ngoài ra, còn rất nhiều những nhân vật lịch sử trong giai
đoạn lịch sử này cần tạo biểu tượng cho học sinh hiểu như: Lê Lợi, Quang
Trung,
Ví dụ dạy Bài 25: Phong trào Tây Sơn (Lịch sử 7), khi tạo biểu tượng về
Quang Trung, giáo viên phải phân tích để học sinh hiểu được Quang Trung là
một anh hùng dân tộc, một nhân vật tiểu biểu của lịch sử Việt Nam.
Quang Trung Nguyễn Huệ (1753 – 1792) là vị anh hùng dân tộc vĩ đại
của Việt Nam thế kỉ XVIII, người đã mở đầu công cuộc thống nhất đất nước,
bảo vệ độc lập dân tộc, mở ra một triều đại mới. Với thiên tài quân sự và chính
trị của mình, ông đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, lần lượt tiêu diệt hai tập
đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn, đánh tan 5 vạn quân Xiêm và 20 vạn quân
Mãn Thanh xâm lược. Triều đình Tây Sơn do ông lập ra tuy ngắn ngủi, song đã
để lại dấu ấn sâu đậm về văn hoá, xã hội trong lịch sử dân tộc.
Theo miêu tả trong Quang Trung anh hùng dân tộc của Hoa Bằng thì
Nguyễn Huệ tóc quăn, da sần, mắt như chớp sang, tiếng nói sang sảng như tiếng
chuông, nhanh nhẹn, khoẻ mạnh, can đảm. Sách Tây Sơn thuật lược còn miêu tả
đôi mắt Quang Trung “ban đêm khi ngồi không có đèn thì ánh sáng từ mắt soi
sáng cả chiếu”.
Dưới quyền của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc, ông được phong làm Long
Nhương tướng quân khi mới 26 tuổi. Là một tay thiện chiến, hành quân chớp
25
nhoáng, đánh đâu được đấy, Nguyễn Huệ nhanh chóng trở thành vị tướng trụ cột
của vương triều Tây Sơn. Khi mà vua Thái Đức đang phải lo củng cố xây dựng
triều đình, thì Nguyễn Huệ là người được trao cầm quân đánh Đông dẹp Bắc.
Tất cả những chiến thắng vang dội của quân Tây Sơn đều gắn liền với tên tuổi
của vị tướng trẻ tài ba này.

Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) vào khoảng 11 giờ khuya, Quang
Trung từ trần, ở ngôi 5 năm, thọ 40 tuổi, miếu hiệu là Thái tổ Vũ Hoàng đế. Thi
hài ông được an tang ngay trong thành, tại phủ Dương Xuân [9; 183-184].
Trong dạy học lịch sử, việc xác định được nhân vật lịch sử và mức độ yêu
cầu nhận thức về nhân vật đó là một yêu cầu mang tính tất yếu. Nhân vật mà tác
giả sử dụng trong khoá luận là những nhân vật lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến
thế kỉ XIX đã được khoa học lịch sử xác định, được ghi chép trong sách giáo
khoa lịch sử 6, 7.
Bảng 2.1. Bảng thống kê các nhân vật lịch sử Việt Nam
từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX
Lớp Bài trong SGK
Nhân vật lịch sử
cần tạo biểu tượng
Yêu cầu xác
nhận kiến
thức cần đạt
6
Bài 27: Ngô Quyền và chiến thắng
Bạch Đằng năm 938
- Ngô Quyền Biết
7 Bài 8: Nước ta buổi đầu độc lập - Đinh Bộ Lĩnh Biết
7
Bài 9: Nước Đại Cồ Việt thời Đinh
- Tiền Lê
- Lê Hoàn Biết
7
Bài 10: Nhà Lý đẩy mạnh công
cuộc xây dựng đất nước
- Lý Công Uẩn Biết
7

Bài 11: Cuộc kháng chiến chống
quân xâm lược Tống (1075 – 1077)
- Lý Thường Kiệt

Biết
7
Bài 14: Ba lần kháng chiến chống
quân xâm lược Mông – Nguyên
(TK XIII)
- Trần Thủ Độ
- Trần Quốc Tuấn
- Trần Quốc Toản
- Hiểu
- Hiểu
- Biết
7
Bài 15: Sự phát triển kinh tế văn
hoá thời Trần
- Lê Văn Hưu - Biết
7
Bài 16: Sự suy sụp của nhà Trần
cuối TK XIV)
- Hồ Quý Ly - Biết

×