Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Thủ pháp nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.82 KB, 83 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Mỗi dân tộc tồn tại trên thế giới đều có những đặc sắc riêng về văn hoá và
yếu tố tạo nên sắc diện văn hoá chính là các biểu tượng.
Văn học là một bộ phận của văn hoá, chịu sự chi phối và ảnh hưởng trực
tiếp từ môi trường văn hoá thời đại và truyền thống văn hoá của dân tộc, đồng
thời cũng là nơi thể hiện văn hoá của mỗi cộng đồng, mỗi thời đại. Nghiên cứu
biểu tượng trong văn học là cách thức tìm về cội nguồn văn hoá, tìm kiếm những
giá trị chân – thiện – mĩ của dân tộc.
Biểu tượng là một thủ pháp nghệ thuật nhằm xây dựng thế giới hình tượng
của tác phẩm văn học. Với tài năng và bản lĩnh sáng tạo, các nhà văn đã xây dựng
những biểu tượng, tạo những tín hiệu thẩm mĩ đa nghĩa, mới mẻ cho tác phẩm
văn học. Việc nghiên cứu các biểu tượng góp phần triển khai hướng nghiên cứu
thi pháp hình tượng, đem lại những khám phá mới mẻ và lý giải quá trình sáng
tạo nghệ thuật.
1.2. Trong văn học Việt Nam, đã có nhiều tác giả thành công trong việc sử dụng
biểu tượng biểu đạt tư tưởng nghệ thuật, trong đó có Nguyễn Minh Châu – ngòi
bút tiêu biểu của thời kỳ văn học đổi mới – người mở đường đầy tài hoa và tinh
anh (Nguyên Ngọc) của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Với một sự nghiệp văn học
có bề dày đáng kể và kết tinh về chất lượng nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu đã
khẳng định sự thành công trên cả hai chặng đường sáng tác trước năm 1975 và
sau năm 1975. Bằng tâm huyết với nghề, nhà văn đã luôn trăn trở, khát khao về
việc đổi mới tư duy nghệ thuật và không ngừng tìm kiếm những hướng đi mới,
những phương thức thể hiện mới mẻ. Với sự nghiệp văn học khá đầy đặn,
Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một vị trí không thể thay thế trong nền văn học
nước nhà.
Để tìm hiểu thế giới nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, người nghiên cứu
có thể tiếp cận từ rất nhiều góc độ, theo nhiều cách khác nhau. Chọn hướng đi rất
ngẫu nhiên từ các thủ pháp nghệ thuật mà Nguyễn Minh Châu đã sử dụng nhằm
biểu đạt tư tưởng cũng như quan niệm về con người và hiện thực, chúng tôi thực
sự bị hấp dẫn bởi hệ thống biểu tượng khá đặc trưng trong truyện ngắn của ông.


Dùng biểu tượng để biểu đạt tư tưởng, sử dụng biểu tượng như một thủ pháp nghệ
thuật – đó là một trong những yếu tố làm nên thành công trong nghệ thuật của nhà
văn. Đi vào nghiên cứu hệ thống biểu tượng trong truyện ngắn của Nguyễn Minh
1
Châu, chính là để hiểu rõ hơn phong cách nghệ thuật của một nhà văn lớn cũng
như những đóng góp mới mẻ của ông cho nền văn học Việt Nam.
1.3. Nguyễn Minh Châu là một tác giả giữ một vai trò quan trọng và nổi bật trong
chương trình giáo dục thuộc các cấp Do đó, việc nghiên cứu về những biểu
tượng trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là một hướng đi hữu ích, bổ
sung một nguồn tài liệu về tác giả, tác phẩm, đồng thời giúp học sinh, sinh viên đi
vào khám phá, tìm hiểu về những nét mới mẻ, độc đáo trong tác phẩm của ông.
Với những lí do trên, vấn đề “Thủ pháp nghệ thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu” có tính cấp thiết cả về mặt lí luận và thực tiễn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Những nghiên cứu chung về sáng tác của Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học thời
kỳ đổi mới. Tác phẩm của ông thu hút sự chú ý của đông đảo giới phê bình,
nghiên cứu. Chúng tôi khái quát những nội dung nổi bật nhất trên hai chặng sáng
tác của nhà văn này: Giai đoạn trước 1975 và sau 1975.
2.1.1 Những nghiên cứu chung về sáng tác của Nguyễn Minh Châu giai đoạn
trước 1975
Trong giai đoạn này, giới nghiên cứu thường tập trung phân tích, đánh giá
về các cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Minh Châu, từ Cửa sông (1967) đến Dấu
chân người lính (1972). Có thể kể đến các công trình:
- Hướng đi và triển vọng của Nguyễn Minh Châu của Nguyễn Đăng Mạnh
và Trần Hữu Tá (Báo văn nghệ, số 364 – 1970).
- Đọc dấu chân người lính của Trung Dũng (Báo Nhân Dân, chủ nhật 10-
12- 1972).
- Nguyễn Minh Châu một cây bút văn xuôi nhiều triển vọng của Phan Cự
Đệ (tạp trí Văn nghệ quân đội số 1 – 1973).

- Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu của Hà Minh Đức (Tác
phẩm văn học – phân tích và bình giảng, NXB Văn học, 2001).
- Từ Dấu chân người lính nghĩ đến những cuốn tiểu thuyết lớn xứng đáng
với dân tộc, với thời đại của Trần Trọng Đăng Đàn (tạp chí Văn học, số 3 –
1974).
Tìm hiểu giá trị của các tác phẩm trên góc độ tiếp cận, phản ánh hiện thực,
ý nghĩa của hình tượng nhân vật, nghệ thuật thể hiện Các nhà nghiên cứu cho
rằng Nguyễn Minh Châu đã kịp thời viết những tác phẩm phục vụ trực tiếp cho
cuộc chiến đấu. Dù chưa có một khoảng thời gian và không gian để bao quát,
2
nghĩ suy và tổ chức lại cái hiện thực đang xiết chảy mãnh liệt, tươi rói và rực
sáng, nhưng nhà văn bị cuốn vào trong lòng hiện thực ấy, gắn bó với nó và viết về
nó bằng tâm huyết của mình. Đóng góp của Nguyễn Minh Châu được khẳng định
trong việc phản ánh lý giải một vấn đề thời sự nóng hổi: Hai thế hệ trong cuộc
chiến đấu với sự trưởng thành nhanh chóng đến kỳ lạ của thế hệ trẻ như một tất
yếu, một quy luật, một thực tiễn; thể hiện rất rõ một đặc điểm của hiện thực chống
Mỹ: Thế hệ trẻ đang kế tục xứng đáng cha anh mình.
Trần Trọng Đăng Đàn khẳng định: Ở tác phẩm Dấu chân người lính,
Nguyễn Minh Châu đã thể hiện tốt và tương đối toàn diện chủ nghĩa anh hùng
cách mạng Việt Nam trong chiến đấu mà cụ thể là đã “đẩy những hình tượng
người anh hùng cách mạng lên gắn với những điển hình mà công chúng đang chờ
đợi”, “tạo được những điển hình văn học đúng với tầm vóc của thời đại”[12;66].
Giới phê bình, nghiên cứu cũng chỉ ra những điểm hạn chế cần rút kinh
nghiệm ở Nguyễn Minh Châu. Đó là cách tiếp cận hiện thực còn sơ lược, “quá
nặng về trực quan, chưa vượt qua những khoảng cách về thời gian và không
gian”, “chưa kết hợp chặt chẽ việc phục hồi vốn sống trực tiếp với việc tái hiện
cuộc sống thông qua tưởng tượng”. Người đọc chưa thấy trong tác phẩm Nguyễn
Minh Châu “cái hùng tráng dữ dội của cuộc chống Mỹ cứu nước vĩ đại”[12;37].
Như vậy, có thể nhận thấy thời kỳ này giới nghiên cứu chưa có ý kiến nào
đề cập đến vấn đề “vì sao phải viết như thế” mà chỉ xoay quanh giải đáp những

câu hỏi: viết cái gì, viết cho ai, viết như thế nào. Mặt khác, các bài viết ấy cũng
chỉ tập trung vào phân tích đánh giá những tác phẩm cụ thể, chưa có những bài
viết mang tính chất tổng hợp về thế giới nghệ thuật Nguyễn Minh Châu.
2.1.2. Những nghiên cứu chung về sáng tác của Nguyễn Minh Châu giai đoạn
sau 1975
Sau 1975, khi Nguyễn Minh Châu trình làng Bức tranh, Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành, Khách ở quê ra… dư luận bạn đọc đã có nhiều ý kiến khác
nhau mà cuộc “Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh
Châu”[12;238] do tuần báo Văn nghệ tổ chức vào tháng 6 – 1985 đã thể hiện
tương đối đầy đủ. Có hai luồng ý kiến nổi trội. Một bên tỏ ra dè dặt về hướng tìm
tòi đổi mới của ông, một bên khác lại khẳng định sự tìm tòi đổi mới của Nguyễn
Minh Châu và xem những tìm tòi đó là cần thiết, có hiệu quả tích cực. Ở hướng
thứ nhất, một số ý kiến cho rằng sự tìm tòi của Nguyễn Minh Châu được đẩy
“Theo một hướng có vẻ phức tạp hơn nhưng chưa chắc là sâu sắc hơn”, vì thế
trong tác phẩm “Cái niềm tin ấy phần nào như bị hẫng hụt. Đồng thời hình tượng
3
quả có kém đi vẻ chân thực sinh động và sức mạnh thuần phục”[12;240], hoặc
“do có điều gì đó bối rối trước hiện thực xã hội diễn biến phức tạp” nên người đọc
“rất khó nắm bắt chủ đề tư tưởng của thiên truyện”[12;247], “Một số nhân vật
được xây dựng có tính chất khiên cưỡng”, “độc đáo nhưng hơi cá biệt”, “cảm
hứng của tác giả hơi gán ghép”[12;243]. Có ý kiến nhấn mạnh rằng các truyện
ngắn của ông “bị rối, có phần hơi khó hiểu”, “nghiêng về những nhân vật dị
thường”[12;252]. Hướng thứ hai tiếp tục khẳng định năng lực của Nguyễn Minh
Châu ở khả năng “nhìn đâu cũng ra truyện ngắn”[12;248], chỉ với “những cái
tưởng như bình thường, lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày, dưới con mắt và ngòi
bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm
triết lý”[12;245]. Ông là nhà văn mà “cái đa giọng điệu, cái đa thanh của cuộc đời
đã đi vào tác phẩm”, và do nhận thức “cái quyết định không phải là đề tài” nên
“Nguyễn Minh Châu đã dần dần tạo ra thế giới nghệ thuật riêng của
mình”[12;249]. Với “đối tượng mới”, văn phong Nguyễn Minh Châu như “hoạt

hẳn lên”, “tỏ rõ thêm một khía cạnh trong tài năng của mình”, một sự “thật sự hết
mình trong lao động nghệ thuật” [12;252]…Trước những ý kiến ấy, nhà văn đã
mạnh dạn phát biểu những suy nghĩ về hiện thực đất nước, con người sau chiến
tranh và không ngần ngại nói rõ quyết định xông vào mặt trận đạo đức với mong
muốn “dùng ngòi bút tham gia trợ lực vào cuộc giao tranh giữa cái tốt và cái xấu
bên trong mỗi người, một cuộc giao tranh không ồn ào nhưng xẩy ra từ ngày từng
giờ và khắp mọi lĩnh vực đời sống” [12;244].
Khảo sát hành trình tư tưởng của Nguyễn Minh Châu cũng là một vấn đề
rất được giới phê bình chú ý. Các bài viết chủ yếu dựa trên lịch sử sáng tác (tác
phẩm và các bài tiểu luận phê bình) trên di cảo của ông, đã tập trung phân tích để
một mặt vừa thấy được sự nhất quán trong quan niệm nghệ thuật của ông, một
mặt khẳng định sự vươn lên, vượt lên để trở thành “một trong những đại diện sớm
sủa, kiên định và có uy tín của trào lưu văn học đổi mới”[11;6]. Cuộc hành trình
đó của Nguyễn Minh Châu là cuộc hành trình của một con người “mải miết với
cái đẹp”[11;6], để trở thành “người kế tục xuất sắc truyền thống văn xuôi tâm lý
được hình thành trong sáng tác của Nam Cao”, “thành công của ông trong những
năm gần đây là sự gặp gỡ kỳ diệu của thời đại và cảm quan nghệ thuật nhạy bén
của nghệ sỹ với những tìm kiếm chân lý kiên trì, những suy ngẫm, trăn trở đầy
trách nhiệm của một nhà văn tài năng và tâm huyết”[11;6].
4
Trên cơ sở tác phẩm cùng với những tư liệu mang tính kỷ niệm, hồi ức
ngày ông còn sống, Vương Trí Nhàn, Ngô Thảo, Nguyễn Trung Thu…đã góp
một cái nhìn toàn diện về Nguyễn Minh Châu.
Nghiên cứu về sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật của ông, Lã Nguyên có
bài viết “Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duy nghệ
thuật”[12;340]. Bài viết quan tâm đến một Nguyễn Minh Châu luôn luôn trăn trở
trước những đổi thay của cuộc đời và những biến động của nền văn học: “Nếu
không có công cuộc đổi mới trong xã hội, trong văn nghệ ta hôm nay thì sự hiểu
biết và đánh giá của chúng ta về Nguyễn Minh Châu chắc chắn không thể nào đầy
đủ và chính xác. Bởi không có công cuộc đổi mới đó, Nguyễn Minh Châu không

thể nói hết những gì ông muốn nói” [12;346]. Lã Nguyên phát hiện “trong sáng
tác của Nguyễn Minh Châu suy tưởng triết lý tràn vào mạch trần thuật, mạch kể
nhiều khi phải đuổi theo mạch miêu tả, dòng sự kiện hồi cố lấn át dòng sự kiện
tiến trình cốt truyện làm cho khung cốt truyện ngày càng giống khuynh hướng nới
lỏng[12;345].
Nguyễn Trọng Hoàn đã phát hiện rằng “Vẫn là một Nguyễn Minh
Châu tài hoa, tinh tế trong những phát hiện và phân tích, miêu tả hiện thực
cuộc sống và tâm lí nhân vật nhưng trong giai đoạn này, sự tài hoa tinh tế ấy
không bay bổng trên đôi cánh lãng mạn, hùng tráng chất sử thi của một thời
mà thể hiện qua bút pháp trần thuật trầm tĩnh, đề cập những góc cạnh xù xì,
phức tạp của cuộc sống, vì thế nó hướng tới tính đa dạng phổ quát” [12;18].
Di sản văn chương của Nguyễn Minh Châu trong mấy thập kỉ qua đã
thu hút sự chú ý tìm tòi, nghiên cứu của rất nhiều tác giả trong và ngoài nước. Các
tác giả đều có điểm chung khi nhấn mạnh đến những đóng góp của ông trong cả
hai giai đoạn sáng tác, đặc biệt, vai trò tiên phong của nhà văn trong tiến trình đổi
mới văn học thời đương đại.
2.2. Những nghiên cứu về biểu tượng trong truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu
Ở lĩnh vực này, đã có một số ý kiến chú tâm luận bàn:
Một số bài viết tiếp cận phân tích tác phẩm bằng việc chỉ ra các hình tượng
ám ảnh ngay trong văn bản tác phẩm của ông như: Đường tới Cỏ lau của Chu
Văn Sơn[12;196]; Đọc Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu của Đỗ Đức
Hiểu[12;177]; Đọc Nguyễn Minh Châu (Từ Bức tranh đến Phiên chợ Giát) của
Hoàng Ngọc Hiến[12;191]… Tất cả đều có xu hướng khẳng định hình ảnh biểu
tượng là những tín hiệu thẩm mĩ mới mẻ mang lại chiều sâu cho các truyện ngắn
5
của Nguyễn Minh Châu…Tác giả Nguyễn Văn Long đã có bài viết đăng trên báo
văn nghệ, số 46/1992 với tựa đề: Vẻ đẹp mảnh trăng cuối rừng, bằng tâm huyết
nghề nghiệp của mình, Nguyễn Văn Long đưa ra những ý kiến nhận xét về nghệ
thuật biểu tượng được tác giả Nguyễn Minh Châu thể hiện rõ nét qua hình ảnh

mảnh trăng, đồng thời ngợi ca cũng như chứng minh rõ nét thêm cho hình ảnh
biểu tượng trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu.
Ở một bài viết khác: Bức tranh – cuộc tự vấn lương tâm để nhận ra khuôn
mặt bên trong con người, Nguyễn Văn Long lại hướng vào khai thác đời sống
trên bình diện đạo đức thế sự, khẳng định việc sử dụng những hình tượng biểu
trưng trong tác phẩm như một hướng đi tích cực nhằm bóc tách được chiều sâu
nội tâm nhân vật, sự tự nhận thức, nhìn ra cái “khuôn mặt bên trong” của mình
[12;211]. Đặc biệt là với bài viết Chiếc thuyền ngoài xa – một biểu tượng nghệ
thuật giàu sức ám ảnh của Nguyễn Minh Châu[22;221], tác giả khẳng định ý
nghĩa của biểu tượng chiếc thuyền ngoài xa, hình tượng người phụ nữ, hình tượng
người chồng… như thể hiện rõ nét những tàn dư mà cuộc chiến tranh để lại, đó là
bức tranh một xã hội với đầy những nghịch lý không có hướng giải thoát mà chỉ
biết đổ thừa cho số phận.

Với bài nghiên cứu: Bến quê – sự chiêm nghiệm về đời người hay là một
bản di trúc nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, tác giả Nguyễn Văn Long đi vào
tìm hiểu truyện ngắn Bến quê và những hình ảnh biểu tượng tiêu biểu được
Nguyễn Minh Châu sử dụng trong tác phẩm. Trong bài viết, ông khẳng định Bến
quê như “một sự chiêm nghiệm sâu sắc, minh triết về cuộc đời con
người”[12;205].
Tác giả Dương Thị Thanh Hiên với bài viết Truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu (Tạp chí Nhà văn, số 7/2001) đã cho rằng Nguyễn Minh Châu sử dụng biểu
tượng để “tạo thành một mô típ số phận - chủ yếu là những số phận bi kịch với
nhiều dạng khác nhau: Bi kịch của đói nghèo, lạc hậu; bi kịch của chiến tranh, li
tán; bi kịch của những mất mát đau khổ”[12;314].
Nguyễn Tri Nguyên trong bài Những đổi mới về thi pháp trong sáng tác
của Nguyễn Minh Châu sau 1975 nhấn mạnh: “Trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu đặc biệt là trong truyện ngắn thường xuất hiện những biểu tượng ẩn dụ đa
nghĩa không tham gia vào cốt truyện và hành động nhân vật. Nhưng nó giãi bày
được nhiều suy nghĩ của tác giả, nâng tác phẩm lên ý nghĩa triết học và tượng

trưng” [11;8].
6
Tôn Phương Lan lại nhận thấy “Nguyễn Minh Châu thường khái quát vấn
đề, cô đọng vấn đề bằng sự triết lý, bằng những hình tượng mang tính biểu trưng”
[11;8].
Nói về hệ thống biểu tượng trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, luận
văn Hệ thống hình ảnh biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu[11] là
một công trình cần được kể đến. Tác giả đã chỉ ra sự gắn bó mật thiết giữa hệ
thống hình ảnh biểu tượng và phong cách nghệ thuật của tác giả, giữa hệ thống
biểu tượng và thế giới nhân vật trong truyện ngắn của ông, từ đó thử giải mã biểu
tượng trong ba tác phẩm (Mảnh trăng cuối rừng, Cỏ lau, Phiên chợ Giát). Đây là
một đóng góp mà chúng tôi – những người đi sau đã có sự kế thừa, mặc dù tác giả
luận văn chỉ dừng lại ở mức độ ban đầu: Thử giải mã theo quan niệm thẩm mĩ và
cách tiếp cận riêng.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, đã có một số nhà khoa học quan tâm
đến vấn đề biểu tượng trong sáng tác Nguyễn Minh Châu, thậm chí đã đặt vấn đề
nghiên cứu về nó. Tuy nhiên, nghiên cứu về biểu tượng trong truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu, đi sâu giải mã nó trong nhiều truyện ngắn, gắn liền với cách
cắt nghĩa, lí giải của nhà văn về con người và đời sống là một hướng nghiên cứu
vẫn cần được bổ khuyết.
Đề tài “Biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” sẽ là một
định hướng nghiên cứu tích cực, góp phần làm rõ thêm những đóng góp của
Nguyễn Minh Châu đối với nghệ thuật văn xuôi Việt Nam hiện đại.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Đề tài nghiên cứu hệ thống các biểu tượng trong truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu ở cả hai giai đoạn trước và sau năm 1975, từ đó khám phá quan niệm
của nhà văn về con người, hiện thực và nghệ thuật.
3.2. Nhiệm vụ
- Xác định khái niệm công cụ: Biểu tượng.

- Khảo sát hệ thống biểu tượng trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
trong cả hai giai đoạn trước và sau năm 1975.
- Thông qua hệ thống biểu tượng, tìm hiểu cách cắt nghĩa, lí giải về con
người, hiện thực, quan niệm sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu :
7
Đề tài nghiên cứu hệ thống biểu tượng trong truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trong
cả hai giai đoạn trước và sau 1975. Trong đó, chúng tôi tập trung vào những
truyện ngắn mà biểu tượng được sử dụng với tần suất cao:
- Nguồn suối (1970)
- Nhành Mai (1970)
- Mảnh trăng cuối rừng (1975)
- Bức tranh (1976)
- Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983)
- Bến quê (1985)
- Bên đường chiến tranh (1987)
- Chiếc thuyền ngoài xa (1987)
- Cỏ lau (1989)
- Phiên chợ Giát (1989)
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp kí hiệu học
Sử dụng phương pháp này, chúng tôi tiếp cận trực tiếp với biểu tượng
(thông qua cái biểu đạt – kí hiệu) trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, giải mã
kí hiệu, từ đó tìm ra ý nghĩa cái được biểu đạt trong sáng tác của ông.
5.2. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Chúng tôi sử dụng công cụ của thi pháp học nhằm chỉ ra sự vận động trong

quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua hai chặng đường sáng tác. Cụ
thể là: Tìm hiểu những biến đổi quan niệm nghệ thuật về con người, quan niệm về
hiện thực trong truyện ngắn của nhà văn.
5.3. Phương pháp loại hình
Dùng phương pháp loại hình, đề tài tìm ra những nét giống nhau của những
hiện tượng cùng loại.
5.4. Phương pháp so sánh
Sử dụng phương pháp so sánh, đề tài nhằm đối chiếu cách thức sử dụng
biểu tượng, ý nghĩa và chiều sâu tư tưởng được thể hiện thông qua việc sử dụng
biểu tượng qua hai giai đoạn trước và sau năm 1975, từ đó thấy được những đổi
mới cũng như những đóng góp của tác giả cho nền văn học dân tộc trong giai
đoạn chuyển mình quan trọng này.
8
5.5. Phương pháp hệ thống
Từ những vấn đề đã được khảo sát, đề tài đi vào hệ thống những đặc trưng
của biểu tượng, những bình diện thể hiện của biểu tượng từ đó rút ra những giá trị
của nghệ thuật biểu tượng được Nguyễn Minh Châu sử dụng trong các truyện
ngắn của mình.
6. Đóng góp của đề tài
- Đề tài khảo sát, hệ thống và phân tích một số hình ảnh biểu tượng trong
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ở cả hai giai đoạn trước và sau 1975, chỉ ra
cách cắt nghĩa, lí giải về đời sống và con người của Nguyễn Minh Châu.
- Đưa ra một định hướng tích cực trong khai thác thế giới nghệ thuật của
nhà văn.
- Là một tài liệu bổ ích phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên
cứu về tác giả Nguyễn Minh Châu nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
7. Giới thiệu cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của đề tài sẽ triển khai qua
3 chương:
Chương 1: Biểu tượng – Cơ sở hình thành, quan điểm tiếp cận, giải mã

biểu tượng trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
Chương 2: Giải mã biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
Chương 3: Sự vận động trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu nhìn từ hệ thống biểu tượng.
9
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
BIỂU TƯỢNG – CƠ SỞ HÌNH THÀNH, QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN, GIẢI
MÃ BIỂU TƯỢNG TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
1.1. Về thuật ngữ “biểu tượng”
Biểu tượng là một thuật ngữ đã và đang tiếp tục được nghiên cứu trên toàn
thế giới, trong nhiều ngành khoa học khác nhau.
Bắt nguồn từ Hy Lạp, thuật ngữ biểu tượng (Symbolon) có nghĩa là kí hiệu
(Sign), dấu hiệu, lời nói, tín hiệu, triệu trứng, hợp đồng v.v
Trong tiếng Hán: Biểu có nghĩa là “bày ra”, “trình bày”, “dấu hiệu”, để
người ta dễ nhận biết một điều gì đó. Tượng có nghĩa là “hình tượng”. Biểu
tượng là một hình tượng nào đó được phô bày ra trở thành một dấu hiệu, kí hiệu
tượng trưng, nhằm diễn đạt một ý nghĩa mang tính trừu tượng.
Theo từ điển Tiếng Việt (GS. Hoàng Phê chủ biên): “Biểu tượng là hình
ảnh tượng trưng, là hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh
của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã
chấm dứt”[35;19].
Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới cho rằng: “Mọi nền văn hóa đều có thể
xem như một tập hợp các hệ thống Biểu tượng trong đó xếp hàng đầu là ngôn
ngữ, quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn
giáo…”[14;XXIII].
Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng theo nghĩa rộng biểu tượng thể hiện
“đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng văn học nghệ thuật” và theo
nghĩa hẹp, biểu tượng là “một phương thức chuyển mã của lời nói” đặt bên cạnh
ẩn dụ, hoán dụ hoặc là một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt “có khả năng

truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa
thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lí sâu xa về con người và cuộc
đời”[32;23].
Trong đời sống, biểu tượng được dùng với ý nghĩa không nhất quán. Nó có
thể được hiểu là một hình ảnh tượng trưng mang tính ổn định (“chim bồ câu” biểu
tượng cho hòa bình); cũng có thể được hiểu là một lô gô, một kí hiệu đã chuyển
thành hình họa được thiết kế mang ý nghĩa cố định (“Trâu vàng” là biểu tượng
của Seagames 22 được tổ chức tại Việt Nam); được dùng chỉ dấu hiệu đặc trưng,
một cảnh quan thiên nhiên hoặc một công trình kiến trúc nổi bật của một khu
vực, quốc gia (tượng Nữ thần tự do của Mỹ, tháp Epphenb của Pháp, Tháp Rùa,
10
chùa Một cột của Hà Nội, Việt Nam); thậm chí biểu tượng được coi là mật mã
của sự bí ẩn… Những nhận thức khác nhau này về biểu tượng khiến cho khái
niệm này càng trở nên phức tạp. Vì vậy, trước khi đi vào nghiên cứu biểu tượng
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, chúng tôi tìm hiểu nội hàm của nó trong
một số ngành khoa học.
Dưới góc độ triết học, biểu tượng được hiểu là “hình ảnh cảm tính cụ thể
về những hình tượng của thế giới bên ngoài. Biểu tượng cùng với cảm giác, tri
giác tạo nên nhận thức cảm tính”[Dẫn theo 33;12]. Như vậy, hiểu theo nghĩa triết
học, tất cả các sự vật trong thế giới khách quan khi được con người tiếp nhận đều
sẽ trở thành biểu tượng.
Dưới góc độ tâm lí, biểu tượng là một phạm trù tâm lí gắn liền với trí tưởng
tượng, là hình thức cao nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính trực quan. Biểu
tượng vừa là kết quả của hoạt động nhận thức, vừa là phương tiện để biểu đạt của
hoạt động sáng tạo nghệ thuật, là một ‘mật mã” khó cắt nghĩa. Nhà phân tâm học
C. G. Jung cho rằng: “Biểu tượng không phải là một phúng dụ, cũng chẳng phải
một dấu hiệu đơn giản, mà đúng hơn là một hình ảnh thích hợp để chỉ ra đúng
hơn cả cái bản chất, ta mơ hồ nghi hoặc của tâm linh”[14;28].
Trong văn hóa, biểu tượng là một đối tượng được nghiên cứu cơ bản bởi nó
là đầu mối để xác định đặc trưng của nền văn hóa cũng như mối quan hệ của các

nền văn hóa khác nhau. Biểu tượng trong văn hóa được xem là một yếu tố động,
luôn biến đổi theo sự biến đổi của đời sống xã hội. TS. Nguyễn Văn Hậu cho
rằng: “Biểu tượng là một hình thái ngôn ngữ - ký hiệu tượng trưng của văn hóa.
Nó được sáng tạo nhờ vào năng lực “tượng trưng hóa” của con người, theo
phương thức dùng hình ảnh này để bày tỏ ý nghĩa kia nhằm để nhận thức và
khám phá ra một giá trị trừu tượng nào đó. Biểu tượng được xem là “tế bào” của
văn hóa và là hạt nhân “di truyền xã hội” đầu tiên của nhân loại. Nó quy định
mọi hành vi ứng xử và giao tiếp của con người đồng thời liên kết họ lại thành một
cộng đồng riêng biệt”[9;9]. Ông khẳng định những quan niệm hay định nghĩa nêu
trên đều gắn biểu tượng với sự thực hiện “khiếu năng tinh thần” đặc biệt chỉ có ở
loài người - năng lực tượng trưng hóa. Biểu tượng được hiểu là một hiện tượng
vật thể, nhờ thể hiện trong đó một nội dung cụ thể - cảm tính mà hiện tượng này
thể hiện, trình ra những ý nghĩa, những giá trị trừu xuất nào đó. Và do đó, ông đã
đưa ra quan điểm riêng của mình về biểu tượng như trên. Quan niệm của ông tuy
nhiên chỉ dừng lại ở góc độ gắn với văn hóa, đây là một quan điểm đúng đắn
11
nhưng chưa đầy đủ nếu như ta tiến hành nghiên cứu và áp dụng vào việc nghiên
cứu văn học.
Ở phương diện ngôn ngữ, “Biểu tượng là một ký hiệu tùy thuộc vào đối
tượng mà nó biểu hiện do một luật lệ thông thường là một sự liên tưởng
chung”[Dẫn theo 41;167]. Biểu tượng vì vậy là một sự vật có hình ảnh mang tính
chất thông điệp được dùng để gợi ra một cái ở bên ngoài theo một quan hệ ước lệ.
Biểu tượng là sự thống nhất giữa cái biểu đạt (hình thức tồn tại) và cái được biểu
đạt (giá trị nội dung). Cái biểu đạt khi tác động lên tư tưởng, cảm xúc, nhận thức
của con người sẽ gợi lên một số nội dung ý nghĩa nào đó (gợi cái được biểu đạt).
Trong văn học, biểu tượng là phương tiện tạo hình và biểu đạt có tính đa
nghĩa. Mỗi nhà văn khi sáng tạo đồng thời lại là một nhà tư tưởng. Nhà văn thực
hiện việc mã hóa ngôn từ nhằm tạo ra một thế giới hình tượng in đậm cảm quan
cá nhân, nói rộng hơn là phong cách của chủ thể sáng tạo. Những hình tượng
nghệ thuật có sức sống sẽ vượt lên trên ý nghĩa biểu đạt và làm thành các biểu

tượng nghệ thuật độc đáo, đa nghĩa. Trong tác phẩm văn học, biểu tượng chính là
hình tượng được hiểu ở bình diện kí hiệu và là kí hiệu chứa đựng tính đa nghĩa
của hình tượng. Trở thành biểu tượng, hình ảnh sẽ có chiều sâu, tầng ý nghĩa mới
và có tính khái quát. Việc nghiên cứu, sáng tạo ra những biểu tượng nghệ thuật sẽ
mang tới cái nhìn sâu sắc, khắc phục sự đơn giản về hình ảnh được sao chép từ
cuộc đời thật. Biểu tượng trong văn học mang tính đa nghĩa nên cần phải phát huy
nhận thức cùng với sự liên tưởng. Nghĩa của biểu tượng thậm chí có lúc chỉ tồn
tại trong tình thế giao tiếp, vì vậy mà mỗi tình huống lại là một ý nghĩa khác
nhau. Điều đó đòi hỏi khi giải mã ý nghĩa biểu tượng không thể tách rời nó ra
khỏi ngữ cảnh ngôn ngữ, ngữ cảnh văn hóa.
Nói như vậy, bản chất của biểu tượng là khó xác định, sự hiểu biết về nó
đương nhiên còn tùy thuộc vào sự từng trải và kinh nghiệm vốn có của mỗi cá
nhân cũng như trình độ nhận thức của từng người. Không những thế, việc “giải
mã” tìm ra ý nghĩa của biểu tượng cũng phải tính đến thói quen, phong tục, tập
quán của các nền văn hóa trong từng cộng đồng dân tộc khác nhau. Điều bí ẩn
vẫn luôn còn nguyên vẹn và mơ hồ về mặt ý nghĩa nếu như biểu tượng chưa được
“giải mã” “Một biểu tượng thường có nhiều nghĩa và ngược lại một ý nghĩa lại có
nhiều biểu tượng cùng biểu thị” [Dẫn theo 9;2].
Từ quá trình nghiên cứu tìm hiểu,
kế thừa quan điểm và kết quả nghiên cứu của những người đi trước, chúng
tôi sơ bộ đưa ra quan niệm về biểu tượng như sau:
12
Biểu tượng là một sự vật có hình ảnh mang tính chất thông điệp được dùng
để gợi ra một cái ở bên ngoài, theo một quan hệ ước lệ. Quan hệ liên tưởng, tưởng
tượng và tính ước lệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt trong biểu tượng là cơ
sở để tạo nên tính đa nghĩa cho biểu tượng. Biểu tượng mang tính khái quát về
đối tượng, là hình ảnh tượng trưng được phô bày ra khiến người ta cảm nhận một
giá trị bên trong hay thế giới ý nghĩa của nó. Chính vì thế, biểu tượng phản ánh
được đặc trưng của các sự vật, hiện tượng.
Giải mã biểu tượng trong tác phẩm văn học không thể dựa trên một nhận

thức nhất định. Cần mở rộng nó theo chiều rộng đồng đại và khám phá nó ở chiều
dài lịch sử, gắn kết với cái nhìn văn hóa, không thể bỏ qua đặc trưng phong cách
tác giả, đồng thời cần lưu ý ngữ cảnh nảy sinh, bao chứa nó.
1.2. Vài nét về biểu tượng trong văn học Việt Nam
Trong văn học Việt Nam, biểu tượng được sử dụng như một thủ pháp nghệ
thuật phổ biến và hết sức độc đáo. Trong văn học dân gian, biểu tượng được thể
hiện trong sự biến hóa dạng lưỡng thể nửa người – nửa vật, mang dấu vết tôtem
(vật tổ) thời hoang dã, nguyên sơ của thần thoại, hoặc dạng người hóa vật, vật hóa
người (hòn vọng phu, trầu cau,…) mang dấu tích thần thoại trong cổ tích. Nghệ sĩ
dân gian thường lấy những hình ảnh gần gũi với đời sống sinh hoạt hàng ngày
như con cò, con bống, tấm lụa đào, nụ tầm xuân… để diễn tả thế giới tâm hồn
phong phú của người lao động, diễn tả tư tưởng, tình cảm của con người. Trong
ca dao cổ, nói đến “con cò” là người ta liên tưởng đến hình ảnh người nông dân
hiền hậu chất phác, đặc biệt là hình ảnh biểu tượng cho thân phận người phụ nữ
lao động xưa - đó là hình ảnh người đàn bà lam lũ vất vả. Ví dụ:
“Cái cò lăn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
Trong văn học trung đại, các nhà văn, nhà thơ đã sáng tạo và tích lũy được
một hệ thống biểu tượng hết sức phong phú, đa dạng.
Ví dụ:
- Dương liễu: Biểu tượng cho sự chia ly
- Phù dung: Biểu tượng của sự thanh bạch
- Con Rồng: Hiện thân của sự uy nghi
- Con Rùa: Biểu tượng của tuổi thọ, sự trường tồn
- Bồ câu: Biểu tượng của hòa bình.v.v…
Khác với văn học dân gian, văn học trung đại xây dựng những biểu tượng
trên cơ sở chú ý đến giá trị, tính cao cả, phẩm chất đặc biệt của sự vật hiện tượng.
13
Nổi bật là biểu tượng tùng, cúc, trúc, mai trong thơ Nguyễn Trãi: Vừa có ý nghĩa
tượng trưng cho người quân tử, vừa thể hiện vẻ đẹp cao thượng và phẩm chất nhà

thơ. Theo quan niệm của các nhà Nho: Tùng, trúc, mai là những loài cây tượng
trưng cho khí tiết, đức tính cao thượng của người quân tử. Quan niệm này dựa
trên một thực tế: Trong ngày đông tháng giá, các loài cây khác đều rụng lá, khô
cằn thì tùng, trúc vẫn xanh, còn mai không chỉ xanh tươi mà còn nở hoa. Các trí
thức phong kiến thường trồng hoặc vẽ những thứ cây này ở quanh nơi ở. Nguyễn
Trãi đã từng ví phẩm chất, khí tiết của người quân tử với phẩm chất của cây tùng,
trúc, mai:
“ Trúc Tường Hủ nên thêm tiết cứng/ Mai Lâm Bô dâm được câu thần”.
Hay:
“ Song có hoa mai, trì có nguyệt/ Án còn phiến sách, triện còn hương’’.
Kết hợp biểu tượng với các điển tích, điển cố tác giả vừa thể hiện sự sáng
tạo vừa diễn tả thành công thế giới nội tâm nhân vật.
Trong văn học hiện đại những năm đầu thế kỉ XX, văn học dân tộc và phát
huy cao độ tinh thần “đổi mới” từ giai đoạn trước, đồng thời đưa ra những biểu
tượng khỏe khoắn, mới lạ đầy tính sáng tạo. Với một số tác giả tiêu biểu: Nguyễn
Bính, Xuân Quỳnh, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Tố Hữu…
Xuyên suốt hành trình thơ của Nguyễn Bính, ta thấy lặp đi lặp lại hình ảnh
cánh bướm và giậu mồng tơi, mưa xuân bay và làng quê vào hội, giàn trầu không
và hàng cau liên phòng, con đê làng và sự hẹn hò chờ đợi…ở hầu hết các tập thơ,
các bài thơ và nó là tiêu biểu cho hệ thống biểu tượng văn hóa truyền thống của
làng quê Việt Nam.
Trong thơ ca Hàn Mặc Tử, ta bắt gặp rất nhiều hình ảnh biểu tượng, tiêu
biểu nhất là hồn, máu, ánh trăng. Với hai biểu tượng hồn và máu, Hàn đã tô đậm
khao khát sống, nhiệt huyết tuổi trẻ. Ánh trăng trở thành người bạn tâm giao, là
mối lương duyên kỳ ngộ với nhà thơ, cũng do xuất phát từ hoàn cảnh nhà thơ
sống trong bệnh tật, sự sống còn của nhà thơ trên cõi trần dường như chỉ được đo
đếm bằng mỗi mùa trăng, do vậy ánh trăng đi vào thơ của ông như một sự hiển
nhiên và đầy ý nghĩa…
Trong văn học 1945 – 1975, các biểu tượng nghệ thuật mang đậm tính sử
thi. Xuất phát từ nhu cầu nhằm phục vụ cách mạng, đề cao tinh thần tất cả vì tiền

tuyến, các sáng tác thơ ca giai đoạn này thường sử dụng các biểu tượng mang tính
lãng mạn cách mạng. Ta bắt gặp hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong bài Đồng
chí của nhà thơ Chính Hữu – một biểu tượng nghệ thuật đa nghĩa về tình đồng
14
chí, về niềm tin và khát vọng hòa bình. Hình ảnh ánh sao trên mũ của người chiến
sĩ cũng là biểu tượng tiêu biểu cho lý tưởng cách mạng, cho tinh thần quyết chiến
quyết thắng, còn là niềm tin, niềm khát vọng vào ngày mai chiến thắng:
… Anh đi bộ đội, sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm
(Núi Đôi – Vũ Cao)
Nhà thơ nữ Xuân Quỳnh để lại ấn tượng sâu sắc với biểu tượng sóng trong
bài thơ cùng tên. Biểu tượng sóng giàu giá trị cảm xúc, tinh tế và phong phú đã
diễn tả thành công mọi cung bậc của trái tim người phụ nữ nhân hậu và giàu khát
khao yêu thương. Sóng trở thành biểu tượng tiêu biểu sâu sắc bao trùm toàn bộ
bài thơ, sóng bộc lộ bản thể ngay từ đầu “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ…”,
sóng còn vỗ dọc bài thơ và cuối cùng bài thơ khép lại trong các âm vang của biển
“Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ”.
Từ sau 1975, hướng tới cuộc sống hòa bình, văn học sử dụng biểu tượng
linh hoạt và phong phú hơn. Theo yêu cầu mới của thời đại, các hình ảnh biểu
trưng thể hiện sự kết tinh ý chí, sức mạnh của cả một cộng đồng dần nhường chỗ
cho các biểu tượng gần gũi gắn với cuộc sống thế sự và đời sống cá nhân. Biểu
tượng trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu vừa là một bước tiếp nối và phát
triển hệ thống hình ảnh biểu tượng trong truyền thống lịch sử văn học Việt Nam,
vừa khẳng định được yếu tố cá nhân, một khía cạnh của đời sống, những “giếng
nước” chờ đợi, “bến quê”, “chuyến tàu tốc hành”, “chiếc thuyền ngoài xa”, “cỏ
lau”, “chiếc xe cút kít”… chuyển tải khá nhiều thông điệp về con người và cuộc
đời. Tác giả Nguyễn Huy Thiệp cũng sáng tạo ra những biểu tượng vô cùng độc
đáo và hấp dẫn: “người nghệ sĩ” – biểu tượng cho cái đẹp nghệ thuật bị cô đơn

lãng quên trong cõi dung tục, “người anh hùng” – biểu tượng cho khát vọng đời
thường và bức thông điệp cho cuộc sống hiện tại… Dương Hướng thể hiện số
phận của những người phụ nữ làng Đông qua biểu tượng Bến không chồng,
Nguyễn Bình Phương ấn tượng với những đứa trẻ chết già, chuyến xe trâu chạy
về vô tận của những hồn ma (Những đứa trẻ chết già), cây điệp vàng và người
đàn ông điên (Trí nhớ suy tàn), con cú, trăng, những người điên ở xóm Soi (Thoạt
kì thủy), Đoàn Minh Phượng để lại những băn khoăn dai dẳng về kiếp người từ
những biểu tượng sương, chuyến tàu không bến đợi, cát bụi (Và khi tro bụi)…Có
thể nói, sử dụng biểu tượng vẫn là một thủ pháp hữu hiệu nhằm biểu đạt đời sống
15
và con người của văn học sau 1975. Dĩ nhiên, với mục tiêu hướng đến phản ánh
đời sống đa sự và tìm về bản ngã của con người, hệ thống biểu tượng trong văn
học giai đoạn này cũng đa dạng hơn, gần gũi hơn, phong phú hơn và nhiều ám
ảnh hơn.
1.3. Cơ sở hình thành – Quan điểm tiếp cận, giải mã biểu tượng trong sáng
tác của Nguyễn Minh Châu
1.3.1. Cơ sở hình thành biểu tượng trong sáng tác Nguyễn Minh Châu
1.3.1.1. Bản sắc văn hóa dân tộc
Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống những đặc tính bên trong, những sắc
thái riêng có tính nguồn gốc, gắn với những đặc tính của chủ thể, trở thành nguồn
cội, khuôn mặt, nền tảng, bản thể của một nền văn hóa; là thẻ căn cước, là chứng
minh thư của văn hóa bất kì dân tộc nào. Nó chính là cái để phân biệt văn hóa dân
tộc này và với văn hóa dân tộc khác, khiến cho văn hóa dân tộc này không trở
thành “cái bóng” của văn hóa dân tộc khác và ngược lại.
Đối với một cộng đồng người thì bản sắc văn hóa dân tộc chính là những
đặc điểm tính cách, phẩm chất đã được kết tinh lại trong lịch sử và qua lịch sử của
mỗi quốc gia cụ thể. Những nét riêng độc đáo đó được thể hiện thông qua văn hóa
ứng xử, các kiểu quan hệ trong đời sống, tâm lý con người… Cụ thể hơn, nét đặc
trưng của văn hóa mỗi dân tộc sẽ được nhận ra ở chính mỗi cá thể trong cộng
đồng dân tộc đó, từ lời ăn tiếng nói, từ tâm tư tình cảm đến chí hướng, từ ứng xử

thông thường đến hành động
Sáng tác văn chương nghệ thuật là một trong những lĩnh vực thể hiện rõ
nhất bản sắc văn hóa của một dân tộc. Nhà văn dù vô tình hay hữu ý vẫn thể hiện
những dấu ấn của văn hóa dân tộc. Và điều đó minh chứng rằng bản sắc văn hóa
đã ảnh hưởng một cách âm thầm nhưng khá mạnh mẽ, bền vững đối với các chủ
thể sáng tạo này. Nguyễn Minh Châu cũng không là một ngoại lệ.
1.3.1.2. Âm hưởng thời đại
Sinh ra và lớn lên đúng vào những thời khắc lớn lao của lịch sử, Nguyễn
Minh Châu chứng kiến những biến chuyển của đất nước từ thời chiến sang thời
bình, lại là một nhà văn – chiến sĩ thấu hiểu sâu sắc về thời cuộc. Vì vậy trên mặt
trận cầm bút của mình, Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu
biểu chịu ảnh hưởng và sự chi phối mạnh mẽ của thời đại, điều đó thể hiện rõ nét
qua mỗi trang viết trong cả hai giai đoạn sáng tác của ông.
Giai đoạn đất nước ngập chìm trong bom đạn, thời khắc này muôn người
như một đều hướng về tiền tuyến, giành lại non sông là mục tiêu sống còn của
16
dân tộc ta lúc bấy giờ. Toàn dân ta lúc này sống trong bầu không khí hào hùng, đi
theo tiếng gọi chung, lý tưởng chung của cách mạng, tạo ra hào khí Đông A một
thời. Các nhà văn cũng không đứng ngoài cuộc chiến, những trang viết, những
vần thơ ở thời điểm này được coi như một thứ vũ khí sắc bén nhằm cổ vũ, động
viên, kêu gọi tinh thần chiến đấu của toàn dân tộc.
Đến thời bình, dân tộc ta bước vào thời kỳ mới, hào khí Đông A lúc này
lắng lại nhường chỗ cho những nhu cầu đích thực của cá nhân, con người lúc này
mới có thời gian và cơ hội để sống cho mình, nhìn lại mình và thể hiện mình. Các
sáng tác văn học cũng có những bước đổi thay lớn khi nhà văn có cơ hội đi sâu
vào số phận cá nhân, viết lên những tâm tư, tình cảm của riêng của mỗi con
người… Không nằm ngoài thời cuộc, Nguyễn Minh Châu là một trong những cây
bút đầu tiên hăng hái hòa nhập với công cuộc đổi mới và có những biến đổi mạnh
mẽ cả trong suy nghĩ lẫn cách viết.
1.3.1.3. Cuộc đời, sự nghiệp của nhà văn

Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), quê ở Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Sinh ra
ở một vùng quê giàu truyền thống cách mạng, gắn bó với sự nghiệp cầm bút của
một người lính, ông đã tiếp xúc được với thực tế sống động của cuộc sống. Là một
nhà văn khoác trên mình chiếc áo lính, đã từng trải nghiệm qua những thời khắc
khó khăn, gian nguy của cuộc kháng chiến, một thời chắc tay súng cùng anh em
chiến đấu hết mình bảo vệ đất nước. Lại sinh ra trên một vùng đất nghèo nàn,
chứng kiến bao cảnh đời nhọc nhằn, lam lũ của những người dân lao động vùng đất
Quảng Trị. Từ những lí do đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến những trang văn của ông.
Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, đề tài quán xuyến toàn bộ sáng
tác của ông là cuộc chiến đấu bảo vệ miền bắc, giải phóng miền nam của dân tộc.
Hình ảnh anh bộ đội, cô thanh niên xung phong dũng cảm, mưu trí, đẹp đẽ là hình
ảnh trung tâm trong sáng tác của ông. Nhà văn đã góp phần khẳng định: Chủ
nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam là vô địch; sự nghiệp chiến đấu “xẻ dọc
trường sơn đi cứu nước” của nhân dân ta là chính nghĩa và tất thắng: Những vùng
trời khác nhau (1976), Dấu chân người lính (1972), Mảnh trăng cuối rừng (1970)

Là nhà văn nhạy bén với thời cuộc, hòa bình lập lại (1975), Nguyễn Minh
Châu nhanh chóng chuyển hướng viết. Ông đã cho ra đời một số tiểu thuyết thể
hiện những vấn đề mới của đời sống chiến sĩ, mô tả vẻ đẹp của tâm hồn người
lính trong lao động xây dựng đất nước và trong cách ứng xử đầy nhân văn …
(Miền cháy, 1977; Những người đi từ trong rừng ra, 1982). Mặt khác, ông quan
17
tâm nhiều hơn đến quần chúng nhân dân. Hình ảnh những người lao động bình
thường, số phận éo le song vẫn trụ bám quê hương với một sức sống mãnh liệt là
những hình ảnh đẹp của con người mới (Mảnh đất tình yêu, 1987). Điều đáng chú
ý là khi viết về những vấn đề có ý nghĩa triết lý nhân sinh, ngòi bút của Nguyễn
Minh Châu không tỏ ra dễ dãi. Với cái nhìn nhiều chiều, Nguyễn Minh Châu luôn
thể hiện khả năng khám phá sắc bén về hiện thực và con người. Các tập truyện
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985) là minh chứng
tiêu biểu.

Trong những sáng tác cuối đời của Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Khách
ở quê ra nổi lên như một cột mốc quan trọng. Nhân vật Khúng là một điển hình
cho người nông dân thời đó từ diện mạo bên ngoài đến tính cách. Lão Khúng giống
như bao người nông dân khác gánh cả cuộc đời kháng chiến trên vai, họ đã làm
được cái việc thần kỳ “biến sỏi đá thành sắt gạo” để nuôi cả dân tộc trong chiến
tranh… Nhưng chính họ lại ngăn trở xã hội tiến lên con đường hiện đại hóa. Ở đây
tác giả muốn nói tới tư tưởng nông dân, cái tâm lí, lối sống nông dân trong thời đại
mới. Cả cái gia đình đông đúc đã sinh ra và sống được là nhờ lão Khúng, nhưng
không ai muốn ăn đời ở kiếp với lão mà đều hướng cả về ánh sáng của thành phố,
của văn minh công nghiệp. Sáng tạo ra nhân vật Khúng, Nguyễn Minh Châu đã
giác ngộ ra chính tư tưởng – nghệ thuật vốn tiềm ẩn sâu xa của mình. Trong những
ngày lâm bệnh hiểm nghèo, Nguyễn Minh Châu vẫn cố viết thêm về lão Khúng của
mình. Phiên chợ Giát (in trong tập Cỏ lau – 1989) là sự phát sáng cuối cùng tư
tưởng và tài năng Nguyễn Minh Châu. Phiên chợ Giát được coi là thông điệp nghệ
thuật được thể hiện bằng một bút pháp tài hoa Nguyễn Minh Châu.
1.3.2. Quan điểm tiếp cận, giải mã biểu tượng trong sáng tác của Nguyễn
Minh Châu
Chúng tôi cho rằng, với mỗi một tác giả, quan điểm tiếp cận, giải mã biểu
tượng không hề giống nhau và vô cùng quan trọng. Với sáng tác của Nguyễn
Minh Châu, chúng tôi đặt ra hai tiêu chí sau:
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm cơ bản trong phong cách nhà văn.
Là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại,
Với hai mươi chín năm cầm bút, sống và viết trong thời kì chiến tranh giải phóng
đất nước, thời kì đổi mới, tác phẩm của ông luôn được độc giả hoan nghênh, đón
nhận nhiệt thành. Thời kì sáng tác nào, Nguyễn Minh Châu cũng ghi dấu ấn khó
phai mờ trong lòng người đọc với những: Cửa sông, Những vùng trời khác nhau,
Dấu chân người lính, Bức tranh, Mảnh trăng cuối rừng, Phiên chợ Giát, Khách ở
18
quê ra, Chiếc thuyền ngoài xa… Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu có sức hấp
dẫn riêng biệt, nhà văn khẳng định bản sắc cá nhân nghệ sĩ bằng nét phong cách

kết hợp hài hòa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn, hình tượng nhân
vật được soi thấu trong mối quan hệ đa chiều, phức tạp nhưng hòa hợp và thống
nhất trong tư tưởng đề cao tôn vinh những giá trị cuộc sống của nhà văn.
Nguyễn Minh Châu là một tác giả trưởng thành trong kháng chiến chống
Mỹ. Bối cảnh đó đối với sự phát triển của một tác giả, có rất nhiều lợi thế nhưng
cũng có những bất cập nhất định. Những năm chiến tranh, điều kiện đủ để cho
mỗi nghệ sĩ phát triển mọi mặt trong lao động sáng tạo chưa thể nói là thuận lợi
mà phải sau chiến tranh, đặc biệt là chỉ đến khi văn học cũng như đời sống xã hội
được sống trong không khí đổi mới thì người nghệ sỹ mới có điều kiện hơn để
suy ngẫm, tìm tòi và thể nghiệm. Chỉ đến những năm 80, các sáng tác của
Nguyễn Minh Châu mới thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật độc đáo, lúc bấy
giờ ngòi bút của ông mới thực sự thăng hoa và để lại nhiều ấn tượng vô cùng độc
đáo. Đáng tiếc là Nguyễn Minh Châu mất vào thời điểm đó, khi tâm hồn sáng tạo
của ông đang độ chín, tuy nhiên chỉ bằng ấy những sáng tác cuối đời của Nguyễn
Minh Châu cũng đủ để chúng ta cảm nhận và thấu hiểu được một nhà văn, một
phong cách văn chương hết sức tiêu biểu và độc đáo.
Điều đáng nói nhất chính là ở việc ông sử dụng biểu tượng trong các sáng
tác ở cả hai giai đoạn, chúng tôi đánh giá cao về vấn đề này, bởi chính nghệ thuật
biểu tượng là một trong những yếu tố quan trọng góp phần hình thành nên phong
cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu.
Thứ hai, tiếp cận sáng tác Nguyễn Minh Châu trong tính hệ thống và cắt
nghĩa chúng trong ngữ cảnh cụ thể.
Khám phá thế giới biểu tượng trong sáng tác Nguyễn Minh Châu, chúng ta
phải tiếp cận chúng trong hệ thống và đặt chúng trong mối quan hệ với nhau. Sự
trở đi trở lại của nhiều chi tiết, hình tượng có sức ám ảnh khá lớn. Nó đặt ra yêu
cầu tiếp nhận biểu tượng trên mạch liên kết nhiều tác phẩm trong một hệ thống.
Gắn với ngữ cảnh cụ thể trong tác phẩm, chúng ta càng có cơ hội phát hiện những
giá trị mới cho những sự vật mà biểu tượng quy chiếu. Đó cũng là cách khẳng
định đóng góp của Nguyễn Minh Châu đối với hành trình phát triển của văn xuôi
Việt Nam hiện đại.

1.3.3. Vài nét về biểu tượng và cách phân nhóm biểu tượng trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu
1.3.3.1. Vài nét về biểu tượng trong sáng tác Nguyễn Minh Châu
19
Tìm hiểu về các sáng tác của Nguyễn Minh Châu chúng tôi nhận thấy: biểu
tượng xuất hiện trong sáng tác của ông với tần số cao, trong thể loại tiểu thuyết,
độc giả bắt gặp hình ảnh người nông dân trong Cửa sông, hình ảnh bếp lửa, ngọn
lửa trong Lửa từ những ngôi nhà và Những người đi từ trong rừng ra, Mảnh đất
tình yêu…Đặc biệt, biểu tượng tham gia vào yếu tố cấu trúc truyện ngắn của ông
với tần suất khá lớn: “mảnh trăng” trong Mảnh trăng cuối rừng,“nguồn suối” và “
nhành mai” trong hai truyện ngắn cùng tên, “bến quê” (trong truyện ngắn cùng
tên), “giếng khơi” mát lành trong Bên đường chiến tranh, “chiếc thuyền ngoài xa”
(Chiếc thuyền ngoài xa), “khuôn mặt người” trong Bức tranh, “cỏ lau” và “đá
vọng phu” (Cỏ lau), “người – bò” (Phiên chợ Giát), “chuyến tàu tốc hành”
(Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành)…
Sự lặp đi lặp lại các biểu tượng thường xuất hiện như những “mã” nghệ
thuật vừa thể hiện nội dung, ý nghĩa sâu xa của tác phẩm, vừa thể hiện phong
cách sáng tác của Nguyễn Minh Châu, khiến cho những sáng tác của ông được
xây dựng với nhiều điểm sáng, điểm nhấn phong phú, đa dạng và sâu sắc hơn,
mang tầm triết lý cao hơn và đặc biệt là tạo nên giọng điệu riêng cho tác phẩm.
Có những hình ảnh lấy từ mô típ biểu tượng truyền thống trở đi trở lại
trong các tác phẩm của ông với những dấu ấn sáng tạo mới. Ví như hình ảnh trăng
trong tác phẩm của ông được coi như là một nhân vật có một thứ tiếng nói riêng:
“Vầng trăng khuyết mỏng manh sáng trong như một mảnh bạc” là vầng trăng của
kẻ đang yêu (Mảnh trăng cuối rừng). “Mảnh trăng cuối tháng như một chiếc đĩa
bằng vàng bị vỡ” trong lần Thai và Lực đi dỡ sắn ở vùng núi Đợi phải chăng là
một dự báo về hạnh phúc, để rồi hơn hai mươi năm sau họ gặp lại nhau trong một
hoàn cảnh oái oăm thì “Trăng trở lên như một chiếc thuyền vàng đi tròng trành
giữa nền trời”(Cỏ lau).
Đặc biệt chúng tôi nhận thấy hình ảnh ngọn lửa, bếp lửa thường trở đi trở

lại trong sáng tác của ông với những nghĩa biểu trưng khác nhau: Trong Dấu
chân người lính, lửa được ví như một môi trường cho lớp trẻ tôi luyện, thử thách
“Phải ném vào lửa hết, ném vào lửa bằng hết, tất cả mọi thứ sách vở và bản thân
những thằng học trò như mình” hoặc để chỉ lòng yêu nước và nhiệt tình cách
mạng qua hình ảnh bếp lửa trên con đường giao liên Trường Sơn được những
người lính nhen nhóm và gìn giữ thì “Lửa từ những ngôi nhà” là biểu tượng cho
nguồn nhiệt năng tinh thần từ những người mẹ, người vợ, từ những đứa con gái
sớm tảo tần sưởi ấm trái tim và tiếp sức cho người lính. Ngọn lửa trong Mảnh đất
tình yêu cháy trong chiếc bếp “gia truyền” vẫn còn lại sau trận hồng thủy của
20
những con người “đầu Ngô mình Sở” là biểu hiện của tình yêu thương nhân bản
giữa những con người giàu lòng trắc ẩn, giữa sự đồng cảm đã biết dựa vào nhau
mà sống khi thiên tai địch họa suốt đời đe dọa họ.
Ngay từ tiểu thuyết Cửa sông, Nguyễn Minh Châu đã phát hiện ra mối
quan hệ giữa người nông dân với đất. Đặc biệt hơn cả đó là chân dung lịch sử của
người nông dân Khúng trong Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát đã được Nguyễn
Minh Châu tạo dựng trong mối quan hệ gắn bó với đất đai: “họ nhà mình chỉ nên
sống với cái hòn đất” và chính lão Khúng, người đã phải bỏ làng xóm, bỏ mồ mả
tổ tiên ở dưới miền biển lên khai khẩn đất đai nơi rừng thiêng nước độc để kiếm
miếng sống đã “suốt đời chúi mũi vào hòn đất”, “đã tưới cạn kiệt mồ hôi cho
mảnh đất này”.
Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, màu sắc cũng là một thứ ký hiệu
của tâm trạng con người (tác giả nhấn mạnh). Ông thường sử dụng màu xanh như
là biểu tượng cho tuổi trẻ, sự thủy chung, lòng tin yêu và niềm hy vọng: “sợi chỉ
xanh óng ánh”, “chiếc khăn xanh nhỏ trên mái tóc”, “những ngọn cỏ xanh”…
trong khi đó màu vàng là sắc thiên nhiên trong chiếc lá mùa thu, trong ánh trăng,
trong doi cát trên biển lúc hoàng hôn, nhưng cũng có khi nó lại là màu sắc để chỉ
tâm trạng: màu vàng trong “cái mặt hắn vàng như trát nghệ và tròng con mắt cũng
trở lên vàng rực” của tên chiêu hồi là biểu thị của một lòng khát khao vô độ cũng
như một sự xuống cấp về nhân cách; “những gò má vàng nghệ nhọn hoắt” của

những người lính đã chịu đựng rất nhiều gian khổ giờ đây đang thu dọn chiến
trường (Cơn giông).
1.3.3.2. Cách phân nhóm biểu tượng trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu
Có nhiều cách thức khác nhau để phân nhóm biểu tượng. Dựa trên các tiêu
chí khác nhau, có thể phân thành các nhóm biểu tượng trong sáng tác của Nguyễn
Minh Châu. Dựa trên tiêu chí nguồn gốc của cái biểu đạt, có thể chia biểu tượng
trong sáng tác của ông thành ba nhóm: nhóm biểu tượng từ thiên nhiên vũ trụ
(mảnh trăng, nguồn suối, nhành mai); nhóm biểu tượng siêu thực (bức tranh,
chuyến tàu tốc hành, bức tượng nghìn tay nghìn mắt, giấc mơ người – bò…);
nhóm biểu tượng từ cuộc sống sinh hoạt đời thường (lửa, bò, xe cút kít…). Dựa
trên tiêu chí cái được biểu đạt, có thể phân chia hệ thống biểu tượng trong sáng
tác nhà văn này thành hai nhóm: nhóm biểu tượng sử thi (mảnh trăng, nhành mai,
nguồn suối, giếng ), nhóm biểu tượng phi sử thi (bức tranh, chuyến tàu, cỏ lau,
đá vọng phu, chiếc thuyền, bò, xe cút kít ). Tiếp cận hệ thống biểu tượng trong
21
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, chúng tôi dựa trên tiêu chí thứ hai và tiến
hành giải mã hệ thống biểu tượng này theo hai nhóm: Nhóm biểu tượng sử thi và
nhóm biểu tượng phi sử thi.
*
* *
Tóm lại, việc xây dựng hình ảnh mang tính biểu tượng là một thủ pháp
nghệ thuật đặc sắc, ổn định trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.
Được ông sử dụng hầu hết trong các sáng tác từ trước những năm 1975, tuy nhiên
đến giai đoạn sau năm 1975 thủ pháp nghệ thuật này được ông sử dụng nhiều và
rộng rãi hơn, đặc biệt ở thể loại truyện ngắn. Có thể khẳng định rằng: hệ thống
hình ảnh biểu tượng là một trong những nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Minh Châu. Nó vừa là một thủ pháp nghệ thuật góp phần tạo dựng
nên một thế giới hình tượng sinh động giàu tính biểu cảm, vừa là những mốc để
đánh dấu sự phát triển của tư duy nghệ thuật trong tiến trình đổi mới nền văn học
dân tộc.

22
CHƯƠNG 2
GIẢI MÃ BIỂU TƯỢNG TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU
Xuyên suốt hành trình sáng tác của Nguyễn Minh Châu, chúng ta nhận
thấy rằng những thành công qua mỗi trang viết của nhà văn chính là ở cách ông
vận dụng nghệ thuật biểu tượng thể hiện phong cách nghệ thuật riêng độc đáo của
mình. Điều đặc biệt là các hình ảnh đó được phân tách thành những lớp ý nghĩa
khác nhau gắn với hai chặng đường lịch sử của dân tộc. Qua đó thể hiện rõ sự vận
động trong quan niệm nghệ thuật của tác giả.
2.1. Lớp biểu tượng sử thi
2.1.1. Khảo sát
TT Tên
truyện
Hình
ảnh
Số
lần
xuất
hiện
Hình
ảnh
Biểu
tượn
g
Tỉ
lệ
%
Ý nghĩa
1 Nguồn suối nguồn

suối
19 4 21
- Một hình ảnh của tự nhiên,
gắn liền với cuộc sống con
người.
- Biểu trưng cho sự trường tồn
vĩnh cửu của tình yêu.
- Tinh thần kháng chiến bền bỉ
của người dân Pa- Khen anh
hùng.
- Niềm tin mãnh liệt vào ngày
mai tươi sáng.
23
2 Nhành mai nhành
mai
14 9 64
- Một biểu tượng cho mùa xuân.
- Biểu trưng cho niềm tin mãnh
liệt vào cuộc sống.
- Chứng minh cho mối tình
trong sáng vượt thời gian giữa
Lương và Thận.
- Biểu trưng cho tinh thần chiến
đấu anh dũng, cao cả của người
dân làng Đằng.
3 Mảnh trăng
cuối rừng
mảnh
trăng
18 9 50

- Vẻ đẹp của thiên nhiên.
- Biểu tượng cho sức sống mãnh
liệt của tâm hồn con người.
- Biểu trưng cho tình yêu trong
sáng của Nguyệt và Lãm.
- Là một hiện thực đẹp, tròn trịa,
“vô trùng” không bom đạn nào
có thể xâm phạm được.
4 Bên đường
chiến tranh
giếng
nước
15 7 46
- Một sự vật gần gũi với đời
sống.
- Biểu tượng chứng nhân của
thời gian, của số phận con người
gắn với những thăng trầm của
lịch sử.
- Biểu tượng của tình yêu son
sắt, thủy chung của An và Hạnh.
- Niềm tin vào cuộc sống, vào
tâm hồn con người.
2.1.2. Giải mã một số biểu tượng tiêu biểu
2.1.2.1. “Nhành mai” – niềm tin vào ngày mai chiến thắng
Mai là loài cây rất được ưa chuộng từ xưa tới nay không những ở Việt Nam
mà còn ở các nước trên thế giới, hoa mai ở Việt Nam thường có màu vàng, màu
trắng có thể thích nghi với mọi thời tiết khí hậu kể cả thời tiết khắc nghiệt nhất.
24
Hoa mai trở nên quen thuộc với người Việt từ rất lâu, trong những dịp tết, mai

thường hiện diện trong gia đình người Việt đặc biệt ở miền nam.
Trong thơ văn, cây mai được đề cao do hình ảnh của nó tuy mảnh mai, gầy
guộc, mong manh, hoa có hương thơm dịu dàng nhưng luôn chịu được qua mùa
đông gió rét để nở hoa khi xuân về. Mai kết bạn cùng tùng, trúc, trở thành biểu
tượng đẹp và tiêu biểu trong cuộc sống. Khi nhắc đến hình ảnh mai là người ta
nghĩ ngay đến vẻ đẹp, tấm lòng trinh bạch, sức chịu đựng, kiên nhẫn của con
người vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống. Mai xuất hiện và trở thành đề tài
hết quen thuộc trong văn học Việt Nam từ xa xưa. Đặc biệt ở giai đoạn của nền
văn học trung đại. Trong thơ văn thời Lý - Trần, chúng ta thấy sự xuất hiện khá
dày đặc hình ảnh hoa mai và dường như mỗi khi hoa mai hiện diện đều khiến
những áng thơ của thi nhân xưa trở thành những câu chữ xuất thần. Ấn tượng nhất
là những bài thơ “Tảo mai” của Phật hoàng Trần Nhân Tông và “Cáo tật thị
chúng” của Thiền sư Mãn Giác thời Lý với câu thơ bất hủ:
“Cứ tưởng xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua, sân trước một nhành mai”
Hoa mai ở đây còn mang ý nghĩa về mùa xuân – sự sống – hạnh phúc, thể
hiện sự thanh khiết và cao thượng – phẩm chất và khí tiết của người quân tử.
Không nằm ngoài ý nghĩa đó, hình ảnh cây mai trong truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu cũng thể hiện những nét nghĩa vô cùng độc đáo và ấn tượng.
Trong truyện ngắn, tác giả đưa ra hình ảnh nhành mai, biểu tượng cho sức
sống mãnh liệt của con người, của toàn thể dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng
chiến trường kỳ, vượt qua mọi khó khăn, hiểm nguy nhất của thời cuộc và vươn
lên giành lại hòa bình, giành lại sự sống cho dân tộc.
Ngay ở nhan đề của tác phẩm, nhành mai được nhắc đến mang một ý nghĩa
biểu tượng sâu sắc, mai là dấu hiệu cho mùa xuân, nhành mai hiện hữu như góp
phần xua tan cái bầu không khí lạnh lẽo, u uất của tiết trời cuối đông, làm ấm
nóng cho cảnh vật, cho bầu không khí đầu xuân.
Đặc biệt, nhành mai được đặt trong một không gian của một làng quê
nghèo “đất cày lên đầy sỏi”, nhưng điều đáng quý là “nơi ấy đất cằn nhưng người
tốt cảnh đẹp”, hình ảnh những rặng mai trong vườn, hay nhà làng Đằng nhà nào
cũng có một vài cây mai trước ngõ, mai lúc này là biểu tượng cho sức sống bền

bỉ, dẻo dai của người dân làng Đằng nói riêng, toàn dân tộc Việt Nam nói chung,
vượt qua mọi khó khăn, nhưng cây mai vẫn vươn lên với sức sống mãnh liệt như
những con người nơi đây với một niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, với tinh thần
chiến đấu anh dũng cao cả. Hình ảnh những cô gái mỗi dịp tết đến “quẩy hai đầu
25

×