Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Bài giảng địa CHẤT dầu KHÍ KHU vực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.23 KB, 32 trang )











BÀI GIẢNG ĐỊA CHẤT DẦU KHÍ KHU
VỰC























ĐỊA CHẤT DẦU KHÍ KHU VỰC
Chương 1 – Khái niệm, phân loại các tích tụ dầu khí
- Tích tụ cục bộ: nơi dầu nằm (vùng hẹp) vỉa, mỏ
- Tích tụ khu vực: đới chứa dầu, bồn, tỉnh dầu (vùng rộng) hình thành
trong cùng điều kiện kiến tạo của khu vực
Ví dụ: tỉnh dầu Đệ Tam ở Đông Nam Á
Chương 2 - Bồn dầu khí
- Lịch sử nghiên cứu bồn
- Phân loại bồn (theo quá trình hình thành bồn), khả năng về dầu khí .
Theo 2 cách
• Klemme
• North
- Sự phụ thuộc của kiểu bồn với tuổi địa chất
- Mối liên quan giữa kiểu bồn và tiếm năng dầu khí
Chương 3 - Sự phân bố địa tầng, địa lý của dầu khí theo từng khu vực
(Địa Trung Hải, Âu, Úc, Á, Mỹ, Canada, ĐNÁ)
Chương 4 - Dầu khí ĐNÁ
- Kiến tạo vùng ĐNÁ
- Các bồn trũng Đệ Tam
- Một số mỏ điển hình
-
Chương 5 - Dầu khí Việt Nam
- Lịch sử nghiên cứu
- Vùng chứa dầu khí
1
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
CHƯƠNG 1 – KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI CÁC TÍCH TỤ DẦU KHÍ

Phân loại :
Phân loại vỉa và mỏ cần chỉ ra các đặc điểm chính hình thành bẫy liên
quan đến nguồn gốc của vỉa và mỏ.
- Vỉa dầu là một tích tụ đơn lẻ của dầu khí nằm trong các kênh dẫn có độ
rỗng cao hoặc các nứt nẻ có lỗ rỗng và độ thấm tốt.
- Mỏ dầu là tập hợp các vỉa trong một hoặc vài bẫy tự nhiên phân bố trên
diện tích địa phương.
Phân loại vỉa và mỏ theo kiểu bẫy
A - Lớp vỉa:
• Theo cấu trúc cấu tạo (kiến trúc)
• Riffogen
• Địa tầng
• Các lớp trầm tích địa phương
1. Bẫy kiến trúc
• Nếp lồi
• Nếp lõm, treo
• Màn chắn kiến tạo
• Đơn nghiêng – phá hủy kiến tạo
2. Bẫy rift :

Ám tiêu san hô
3. Bẫy trầm tích:
 Giới hạn trầm tích
• Thấu kính cát
• Gờ cát ven bờ
 Màn chắn trầm tích
• Vát mỏng thay đổi độ thấm
• Dầu khí kết đặc tạo những lớp hữu cơ đặc
4. Bẫy địa tầng:
Đá có kênh dẫn bị cắt ngang bởi xói mòn, sau đó bị phủ bởi lớp

không thấm (bất chỉnh hợp do kiến tạo, bất chỉnh hợp do xói mòn,
địa hình bị chắn bởi phần lồi của đá móng kết tinh)
2
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
• Vỉa rift
• Vỉa trầm tích (thấu kính cát)
• Vỉa địa tầng bất chỉnh hợp
B - Mỏ: Tập hợp những vỉa hoặc vỉa có trữ lượng lớn
• Mỏ rift
• Mỏ trầm tích
• Mỏ địa tầng
• Mỏ kết hợp trầm tích địa tầng
• Mỏ kiến trúc
1- Mỏ kiến trúc
• Nếp lồi đơn giản không bị phá hủy
• Nếp lồi kèm theo các phức tạp do đứt gãy
• Nếp lồi phức tạp do cấu tạo muối
• Nếp lồi phức tạp do bùn núi lửa hoặc các thành tạo núi lửa
2- Mỏ rift
• Khối ám tiêu đơn lẻ
• Nhóm khối ám tiêu
3- Mỏ trầm tích
3
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Hình thành tại các khu vực vát mỏng do thay đổi chế độ trầm
tích hoặc thay đổi hướng đi lên của trầm tích
- Các thành tạo ở ven bờ biển xưa
- Các thành tạo lòng sông cổ
- Các thấu kính
- Thay đổi trầm tích trong cùng một kênh dẫn

- Bị chắn bởi nút asphal hoặc đá kết tinh
4- Mỏ địa tầng
Bất chỉnh hợp tại các nếp lồi hoặc đơn nghiêng bào mòn của đới
lồi trước đó.
5- Mỏ kết hợp
Xảy ra tại các đới vát mỏng hoặc vỉa, kênh dẫn bị xâm thực, bị
phủ bởi bất chỉnh hợp hoặc đá không thấm trẻ hơn.
C - Đới chứa dầu
- Đới dầu là sự tích tụ dầu khí theo một điều kiện địa chất nhất định
- Ranh giới dựa vào cấu trúc (ví dụ: miền nền, đới trung tâm)
- Nhân tố chủ yếu để hình thành là trầm tích; yếu tố cấu trúc quyết định
sự hình thành bẫy dầu.
- Đới dầu còn được phân chia theo ranh giới địa lý
Theo Bakrov (1959): đới dầu là tập hợp những tích tụ có liên quan với
nhau, có quan hệ về nguồn gốc.
Có các loại đới dạng cấu trúc, dạng rift, trầm tích, địa tầng, hỗn hợp
trầm tích và địa tầng. Chia mỗi dạng thành những nhóm và phụ nhóm
- Xâm nhập muối: Khi đi lên, các lớp có trước bị vát nhọn
- Xâm nhập Magma : cắt ngang các lớp có trước
2 loại xâm nhập này đều tạo nên vỉa kiến tạo
4
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
CHƯƠNG 2 – CÁC BỒN DẦU KHÍ
I – Phân biệt tỉnh dầu, bồn dầu
- Bồn dầu (Oil basin, Petroliferous basin) là một dạng chứa có địa hình 3 chiều
(dài, rộng, sâu) chứa đựng những mỏ dầu khí.
Một bồn dầu luôn là một bồn trầm tích
- Tỉnh dầu (Petroleum province) là một khu vực địa chất chứa những mỏ dầu
có cùng đặc tính chung về địa chất. Có thể đồng nghĩa với một bồn dầu hoặc
bao gồm một số bồn với những đặc tính tương tự rõ ràng về mặt địa chất và

được tách biệt bởi những vùng không phải là bồn.
Tỉnh dầu gồm những mỏ hoặc bồn giống nhau về cấu trúc địa chất, tuổi
địa chất, cách hình thành dầu khí. Nghĩa là, có một đặc tính giống nhau về địa
chất dầu khí
Ví dụ: Tỉnh dầu P3, M3, K3
Tỉnh dầu có cùng đặc tính đá chứa, cấu trúc bẫy, không mang tính
hành chính, khu vực.
II - Lịch sử nghiên cứu bồn: (North 17.1, 17.2)
III – Phân loại bồn
1. Bồn trũng trầm tích
Các lớp trầm tích nằm trên bề mặt trái đất, nằm trên các đá núi lửa bản
chất phức tạp thuộc vùng lục địa. Phần đá nền (Núi lửa và biến chất) gọi là đá
móng.
Bồn trầm tích là nơi trũng xuất hiện trên bề mặt bị nén ép của đá móng.
Các nhà địa chất thường dùng từ bồn trũng. Bồn trũng bao gồm phần bị sụt
lún với những lớp trầm tích nằm trong nó (kích thước dầy, địa hình âm).
Nền hoặc thềm là những lớp trầm tích mỏng nằm trên đá móng không bị
trũng.
Cung chỉ phần nâng lên của đá móng trong vùng và nhân tố khách quan
(chiều dày nhỏ, địa hình dương) nổi lên. Chỗ nước sâu ở đại dương không phải
là bồn trầm tích do nơi đây chỉ phủ một lớp mỏng trầm tích trên nền đá móng
5
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Các bồn trũng thường tiến triển theo thời gian trải qua một số giai đoạn
khác nhau, tiến triển từ bồn trũng này sang bồn trũng khác. Phát triển từ bồn
trũng sang cung hoặc ngược lại.
1.1- Hình dạng của bồn trầm tích
• Bồn trũng tiến triển rộng rãi về kích thước và hình dạng, bao phủ
diện tích tối thiểu 1.000 km2. Một số bồn trũng có diện tích vài triệu
km2

• Chiều dày trầm tích lớn nhất tại trung tâm tích tụ của bồn trũng
thường không vượt quá 2-3 km, đôi khi đạt 10 km
• Không phải nơi sâu nhất có bề dày lớn nhất, vật liệu trầm tích lấn
dần ra theo mặt dốc bị mất cân bằng và trượt xuống
• Một số bồn trũng có dạng tròn, elip. Một số khác hình chữ nhật. Một
số bắt đầu là vũng, vịnh, sau đó mở rộng ra thành bồn trầm tích lớn
hơn và không có sự khép kín.
• Một số bồn nhận trầm tích lục địa (ví dụ: Delta châu). Trung tâm thu
của bồn tiếp cận với rìa bồn, chiều dày trầm tích mỏng dần khi ra tới
biển. Theo thời gian, trung tâm tích tụ dịch chuyển theo chiều ngang
và tiến ra xa rìa bồn, tiến đến nơi thấp nhất của bồn (trung tâm thu ≅
chỗ sâu nhất)
6
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
• Trung tâm thu của bồn và vị trí có sự sụt lún của đá móng lớn nhất
có thể không trùng nhau.
Ví dụ: Trong bồn trũng đá cacbonat, đa số trung tâm tích tụ ở rìa bồn
(Sinh vật vỏ vôi thường sống ở thềm lục địa, biển nông)
• Nhóm trầm tích chứa cacbonat có thể tiến ra biển sâu hơn trong các
tầng bùn vôi.
1.2- Quá trình lấp đầy trầm tích
Có các loại: trầm tích lục nguyên (mang ra từ lục địa), trầm tích
biển nông và biển sâu. Tùy thuộc chiều dày và mối quan hệ giữa tốc độ
trầm tích và tốc độ sụp lún.
Đa số quá trình sụp lún và tích tụ xảy ra cùng lúc.
o Nếu quá trình trầm tích theo kịp quá trình sụp lún thì không có
chỗ còn trống không được lấp đầy. Như vậy, bồn trũng được lấp
đầy theo kiểu trầm tích biển nông.
o Nếu quá trình sụp lún đầu tiên tạo ra vùng trống sâu, sau đó mới
được lấp đầy sẽ tạo ra sự sụp lún đẳng tĩnh. Nhiều bồn trũng phát

triển xa nguồn trầm tích lục nguyên hoặc bị cô lập bởi những kênh
chắn địa hình tại eo.
1.3- Thời gian và quá trình kiến tạo
Bản chất và thời gian của quá trình kiến tạo là tác nhân quan trọng . Các
kiểu uốn nếp và đứt gãy phát triển trong bồn trũng do sự biến dạng và thành
phần đá trầm tích gây ra. Do nén ép tạo ra nếp uốn và đứt gãy chờm nghịch.
Sự mở rộng dẫn đến sự hình thành đứt gãy khối và thông thường. Còn có sự
hiện diện chỏm muối (dome muối) kèm theo đứt gãy phụ thuộc vào chiều dày
trầm tích trong bồn trũng. Khi xem xét quá trình sinh, dịch chuyển và tích tụ
dầu cần xét thời gian phát triển cấu trúc bồn vì nó rất quan trọng ( lịch sử phát
triển vùng suy ra lịch sử phát triển bồn). Như vậy, do các tích tụ dầu khí
thường thích hợp với biến dạng cấu trúc trong suốt quá trình tích tụ dẫn đến sự
phát triển nhanh về tướng và chiều dày tích tụ. Ví dụ: đá phiến sét giàu vật
7
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chất hữu cơ tích tụ ở vùng cấu trúc thấp, trong khi đó tầng chứa có hạt thô hơn,
sự hình thành bẫy kết hợp phát triển ở vùng cao hơn.
Ranh giới bất chỉnh hợp hoặc đứt gãy thường tạo ra quá trình dịch chuyển.
Sự biến dạng về cấu trúc xảy ra trong giai đoạn muộn của quá trình tích tụ
trong bồn trầm tích giúp ích trong việc sinh dầu do tạo ra dòng nhiệt cao hơn
bình thường.
Giai đoạn sau khi hình thành tích tụ dầu trong bồn, quá trình kiến tạo gây ra
hiệu ứng ngược, nghĩa là phá hủy. Ví dụ: nâng tầng chứa lên bề mặt, sự xâm
nhập của nước ngầm hoặc sự bào mòn, sự phá hủy và thất thoát dầu khí có thể
xảy ra.
Đôi khi kiến tạo tạo ra dòng nhiệt cao, tầng chứa bị chôn vùi sâu, gây ra
biến chất dầu (dầu có thể chín đối với những loại chưa đủ nhiệt độ)
Theo thời gian, bồn phát triển dẫn đếnlớp trầm tích tiến triển về cấu trúc
1.4- Cơ chế hình thành bồn
Các bồn hình thành là do những quá trình dịch chuyển ngang và đứng theo

quy mô lớn của những lớp bề mặt trái đất.
Nguyên nhân: kiến tạo mảng
Lớp ngoài của vỏ trái đất là lớp cứng rắn (thạch quyển) gồm lớp vỏ và
manti trên. Vùng địa hình thấp hình thành trên bề mặt trái đất nơi lớp vỏ mỏng
là loại đá bazan, tạo thành lớp vỏ đại dương . Vỏ lục địa dày, cấu tạo bởi
những loại đá nhẹ, hơn ở địa hình cao hơn . Bồn trầm tích hình thành ở ranh
giới vỏ đại dương và lục địa và nằm trên vỏ lục địa.
Lớp thạch quyển cứng nằm trên quyển mềm ít nhớt hơn, tạo sự dịch
chuyển. Do các dòng đối lưu trong quyển mềm gây sự gãy vỡ các mảnh cứng.
Có 8 mảng chính và một số mảng nhỏ chia 2 phần: Nội mảng thường ổn
định và rìa mảng có hoạt động kiến tạo. Phá vỡ mảng ở sống núi đại dương
làm cho bazan trồi lên, đáy biển tách ra. Các lực liên quan mở rộng và tác
động lên vỏ lục địa.
Mỗi giai đoạn đánh dấu sự sinh ra, lớn lên và tiêu hủy của bồn.
1.5- Tuổi bồn
Bồn sinh ra khi bắt đầu bị sụt lún, thành tạo trầm tích chưa lớn, chuyển
động âm lõm xuống sẽ mở rộng diện lân cận theo sự dịch chuyển ly tâm theo
nếp oằn ven rìa.
Thời kỳ trưởng thành của bồn: Phần nổi trên bề mặt trước có xu hướng hạ
thấp, đới trung tâm chìm dưới nước có xu hướng nâng lên, quá trình này diễn
ra song song làm giảm hoạt động sụp lún làm bồn mở rộng tối đa. Đây là pha
căng giãn mạnh
Sau đó, hoạt động sụp lún trở lại với tốc độ nhất định, tăng nhanh ở những
diện tích nhỏ bằng sự di chuyển hướng tâm của các nếp oằn ven rìa.
Giai đoạn già của bồn: thành tạo trầm tích mạnh mẽ, lấp đầy nhanh.
8
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Các pha thành tạo và tiêu hủy bồn liên quan với các thời kỳ vận động kiến
tạo tích cực đặc trưng bởi luồng nước mạnh, trầm tích thường thô và không
đồng nhất.

Các thời kỳ mà môi trường xáo động sẽ kém thuận lợi cho trầm đọng đá
mẹ, chỉ cho những tầng sét phần lớn có chất lượng xấu.
Các thời kỳ kiến tạo yên tĩnh hơn, có sự dịch chuyển ly tâm của nếp uằn
ven rìa cùng sự hạ thấp những lớp nổi bên trên mặt nước tạo sự thuận lợi.
Thành tạo những nền rộng lớn như biển và động lực của môi trường yếu sẽ
sàng lọc dễ dàng những sản phẩm mảnh vụn tạo tầng chứa tốt.
Ở những bồn trũng kín với sự trầm đọng chất mùn, bùn nguồn gốc biển ,
tạo môi trường thuận lợi cho tích tụ, bảo tồn vật chất hữu cơ.
Ở những thời kỳ môi trường có trầm tích yếu, trong giai đoạn trưởng thành
mà không có kiến tạo lớn sẽ thích hợp cho quá trình tổng hợp trầm tích, từ đó
thường tạo ra bồn có trầm tích hoá học hoặc sinh hoá. Ví dụ: Tỉnh đá vôi,
evaporit
Những pha căng dãn và động lực giảm cho phép có sự trùng lặp trầm tích,
có được các lớp phủ, bảo đảm cho sự khép kín tốt của bồn , đó là thời kỳ đặc
biệt thuận lợi.
Các chu kỳ trầm tích được kết thúc bằng sự hoạt động trở lại của kiến tạo
sẽ có nguy cơ tạo sự xói mòn sâu dẫn tới không có được lớp phủ.
Khi dòng đối lưu đi lên tạo ra chỗ lồi, đến lúc lực quá lớn, chỗ lồi nứt ra
theo chiều toả tia (thường là 3 nhánh).
Dịch chuyển tập trung ở hai cánh của khối nứt, 2 cánh này tiếp tục giãn ra,
nối liền với 2 cánh của tam giác khác trở thành bồn trũng đại dương nhỏ, cánh
thứ 3 ngừng quá trình mở trở thành đới tách mà không phát triển. Ví dụ: vùng
biển Hồng Hải và vịnh Eden. Đây là bồn trũng đại dương hình thành 2 đới nứt
làm Châu Phi tách ra xa Arập. Thung lũng rift phía Đông Phi là dấu vết cánh
thứ 3 không phát triển.
- Khi đáy biển tiếp tục tách giãn, lớp vỏ đại dương mới hình thành ngay tại
nơi sống núi đại dương. Bồn trũng phát triển dọc theo rìa thụ động của chúng
(rìa Đại Tây Dương).
- Khi các mảng hội tụ, lực chủ yếu là nếp ép, từ đó hình thành các bồn
trũng kế cận cung đảo. Trong trường hợp hội tụ 2 mảng đại dương, bồn trầm

tích không được hình thành, mảng đại dương sẽ tiêu biến và hình thành dãy
núi ven biển: Ví dụ: dãy Alps
Khi vỏ đại dương làm hai lục địa tách ra , các lục địa hội tụ sẽ bị va mảng.
Các đới tuyến tính hẹp trong quá trình va mảng lục địa - lục địa và cung đảo -
lục địa gọi là đới Sutu. Ở đới này hình thành bồn trũng nhỏ, phức tạp nằm sát
bên đới nâng tạo núi ở cả hai phía đới Sutu. Ở ranh giới, lớp vỏ không bị tiêu
biến. (hai mảng trượt bằng đứt gãy chuyển dạng), các bồn trũng sâu nhỏ có thể
hình thành ở đây. Ví dụ: Bồn trũng California nằm kề đứt gãy chuyển dạng
San Andreas -> Sống núi giữa đại dương, đới hút chìm, đới Sutu, đứt gãy
9
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chuyển dạng. Các bồn trũng được tạo ra dọc rìa thụ động của các lục địa bị xé
toạc.
- Các bồn dọc rìa hội tụ tích cực do quá trình hút chìm (đới Sutu hoặc đứt
gãy chuyển dạng)
- Các bồn trong các vùng nội mảng bình yên mà nguồn gốc ít liên quan đến
quá trình kiến tạo.
2. Phân loại bồn
Dựa theo tổng hợp biểu đồ Huff (1978-1980) và Klemme (1980), có 10
kiểu bồn trũng, trong đó có:
- 2 loại liên quan mảng lục địa bình ổn miền nền, trước núi
- 2 loại liên quan mảng phân kỳ dạng rift, kéo toạc
- 4 loại liên quan mảng hội tụ trước cung, sau cung, không cung va mảng
- 2 loại liên quan sự lên xuống của các đại dương nhỏ (sự hình thành và đặc
trưng dầu khí riêng)
Ngoài ra còn có tam giác châu Đệ Tam phủ lên bồn trầm tích.
2.1- Bồn trũng miền nền (nội mảng)
(* Nội mảng: bình ổn, chu kỳ trầm tích đều đặn, đối xứng hoàn chỉnh.
* Rìa nền: những hoạt động kiến tạo, nâng lên, nén ép, có những chu
kỳ trầm tích đối xứng tương đối. nhiệt độ và áp suất đủ để vật chất hữu

cơ bảo tồn và trưởng thành dầu.)
- Vị trí: Nằm trên vỏ lục địa bình ổn, hình thành ở vùng trung tâm của lục
địa.
Gọi là bồn trũng miền nền, nội mảng hoặc võng hình thành do sự lên
xuống, nén ép, không có vùng núi cao ở kế cận
- Tính chất
Chúng có dạng tròn, elip (mở rộng theo các chiều), kích thước thay đổi lớn.
Trong mặt cắt ngang, bồn có tính chất xác định, nông, đôi khi gần giống như
phẳng.
- Nguồn gốc ít được nghiên cứu
- Đá móng bị đứt gãy khối, trầm tích đều đặn không bị gián đoạn, vỏ bị suy
giảm, liên quan đến quá trình mở rộng -> chiếu rộng lơn hơn nhiều so với
chiều sâu.
- Đặc trưng: ở trong vùng có quá trình tạo rift không phát triển, vật liệu
nặng được đưa vào lớp vỏ nhẹ hơn, làm giảm khả năng nổi của lớp vỏ.
- Một số bồn trũng lớn trên thế giới thuộc loại này. Ví dụ: Bồn Williston
(Mỹ, Canada), Illinois, Michigan, Paris (Pháp).
+ Ví dụ: Bồn Williston (trung tâm Bắc Mỹ, tiếp giáp Canada):
* Đường kính 400 km, trầm tích dày 4-5 km.
* Các đá tuổi Pz lấp đầy bồn trũng, đa phần là đá vôi (môi trường
biển nông), trên đó là một lượng nhỏ cát kết và phiến sét trong Pz muộn,
10
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
bồn bị giới hạn bởi ám tiêu chắn, evaporit. Sau Pz, có những trầm tích
biển xảy ra, lớn nhất là ở Kreta. Các trầm tích Mg và Kz có lớp màu đỏ
nguồn gốc lục địa và đá cát nguồn gốc sông.
* Bồn Williston khai thác dầu và khí từ nhiều mỏ nhỏ, không được
xem là tỉnh dầu khí chính. Các tầng sản phẩm chủ yếu là bẫy kết hợp
đới nâng và cung đảo, các nếp lồi thoải nằm trên đá móng với những
đặc điểm tướng đá và bất chỉnh hợp trước và sau Kreta. ¾ sản lượng dầu

có trong đá cacbonat Devon sớm và bảo tồn trong cacbonat Ordovic.
Tối thiểu có 3 thành hệ cacbonat Cambri-Ordovic.
- Đá mẹ chủ yếu là đá phiến sét, tuổi K giầu vật chất hữu cơ chưa đủ trưởng
thành để tạo dầu.
- Tầng sản phẩm đặc trưng cho bồn nội mảng, chỉ có 1 chu kỳ đơn không
lập lại lấp đầy bồn, tích tụ thuộc môi trường biển nông hoặc lục địa hoặc trộn
lẫn cả hai.
Cát kết và cacbonat có độ chọn lọc tốt, đa số bồn nội mảng có tuổi Pz. Cuối
Pz các bồn này không có tích tụ hoặc chủ yếu tích tụ không phải nguồn gốc
biển.
- Bẫy tầng chứa cát kết và cacbonat hình thành do đới nâng hoặc đá móng.
Bẫy địa tầng có mặt ở ven rìa bồn. Do nằm xa ranh giới mảng , yếu tố gradient
địa nhiệt quyết định sự trưởng thành (nhiệt độ và thời gian quyết định sự hình
thành dầu). Bồn trũng nội mảng chưa bao giờ được chôn vùi sâu.
- Rủi ro trong khai thác không có sự hiện diện của các bẫy hoàn chỉnh và
đá phiến sét phát không triển đầy đủ dưới dạng đá mẹ và đá chắn. Một số bồn
nội mảng quá đơn giản, cấu trúc ít thuận lợi để chứa sản phẩm.
- Bồn nội mảng có thể ở 2 dạng:
+ Tập trung nhiều mỏ nhỏ, nếu kết hợp có thể có đới sản phẩm đáng
kể (Williston).
+ Có mỏ lớn kết hợp cùng đá móng, dịch chuyển dài, có thể chứa hơn
phân nửa tổng lượng sản phẩm của bồn (Illinois) dầu tập trung trong
thấu khính cát kết ở nếp lồi.
2.2- Bồn trũng rìa miền nền (Trước núi – foreland)
- Vị trí: Phát triển gần rìa lục địa (còn gọi là bồn trũng trước núi)
Phát triển trong 2 giai đoạn từ kiểu bồn trũng nội mảng: Chu kỳ hội tụ đầu
tiên bị gián đoạn bởi quá trình nâng lên, thường trong Pz muộn hoặc trong Mz.
Chu kỳ thứ 2 bắt đầu theo hướng khác, được đánh dấu bởi một bất chỉnh hợp.
Bồn trũng được bắt đầu bằng một quá trình mở rộng, nhưng trong chu kỳ thứ 2
chủ yếu là giai đoạn nén ép liên quan đến việc nâng lên và chuyển động tạo

núi
- Tính chất
Thường có dạng elip hoặc kéo dài, có sự thay đổi chiều rộng, trắc diện đối
xứng
11
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Một số bồn trũng lớn Bồn trũng miền trước núi đang khai thác thuộc vùng
Bắc Mỹ (bồn Alberta, Anadarko, Permian, Appalachian) và đa số các bồn
trũng nhỏ thuộc Rocky mount và ở Đông Nam Mỹ, một số bồn thuộc Angieri.
+ Ví dụ: Bồn Permian (Tây Texas) tiêu biểu cho bồn trũng trước núi.
Đường kính khoảng 360 km, trầm tích dày khoảng 6 km (rộng
>>dày) chiều sâu tối thiểu 2km mới đạt ngưỡng cửa sổ tạo dầu bồn mở
rộng tương đối đối xứng.
Đây là bồn trũng kín, rộng chia ra làm 2 bồn trũng nhỏ Delaware và
Midland, cách nhau bởi phần lồi gọi là cung đảo trung tâm. Trong bồn
trũng Permian, dầu khí đều có trong 2 kỳ: Kỳ 1 là trong Permian sớm
liên quan địa hình của đá móng tạo bẫy, kỳ 2 nằm trong đá vôi và cát kết
Pecmi, liên quan nhiều hơn so với kỳ 1, chủ yếu là nếp lồi của các dome
muối và các tướng liên quan đấn ám tiêu. Trong các đá trầm tích Pz
giữa, một số tầng chứa không liên tục theo chiều ngang nên đới sản
phẩm ít.
- Tầng chứa chủ yếu là trầm tích hạt vụn. Tầng sản phẩm Permian có mặt
trong cả hai chu kỳ tích tụ và liên quan đá móng thời ký đầu và nếp lồi của
các tướng địa tầng trong chu kỳ 2
- Gradient địa nhiệt: Bồn trũng trước núi có xu hướng địa nhiệt thấp, tuy
vẫn cao hơn so với nội mảng. Một số có gradient địa nhiệt cao hơn trung bình
tạo thuận lợi về nhiệt độ để tạo dầu. Bồn trũng kiểu này sâu hơn, tiềm năng
dầu khí tốt hơn so với nội mảng.
Các mỏ kích thước nhỏ gom lại hoặc một số mỏ lớn khác thường tạo trữ
lượng thương mại của bồn.

2.3- Bồn trũng dạng rift
- Vị trí: Thuộc miền rìa vỏ lục địa.
Miền trũng dạng rift khác trước núi là đứt gãy do kéo toạc, sụp xuống, hẹp
bề ngang và kéo dài chiều rộng và chiều sâu, 2 bờ vách thẳng đứng.
Miền trũng dạng rift khác miền nền bởi các rift có thể liên kết khép kín theo
thành bồn trong quá trình phân kỳ (do tách giãn đáy biển), và bồn được hình
thành ở cánh không phát triển, bị kéo căng và không tách ra hoàn toàn.
- Tính chất
Dạng tuyến nhỏ-vừa, nông vừa-sâu. Các địa hào địa lũy tạo nên trắc diện
không quy luật .
- Một số bồn trũng lớn Bồn Sirte (Libi), Rhine (Châu Âu), vịnh Siam, Suez
(Ai Cập), địa hào Vi King (North Sea)
+ Ví dụ: Bồn trũng Suez (Ai Cập)
* Đường kính 40 km, bề dày trầm tích ~ 5 km
* Tầng chứa chủ yếu là đá cát không có nguồn gốc biển, tuổi C-K bề
dày mỏng
12
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
* Mz. bắt đầu tạo rift. trong suốt Miocen hỗn hợp cát kết và phiến sét
giầu vật chất hữu cơ (thấu kính cát) bề dày quan trọng trung bình ~ 2
km phát triển tướng đá không bị khống chế khép kín do ~ đứt gãy
khối. Sau đó trầm tích bốc hơi hoặc đá phiến sét sinh dầu Miocen
Địa hào Vi King (Biển Bắc)
* Đường kính 200 km, bề dày trầm tích 8 km
* Quá trình đứt gãy chính xảy ra trong suốt Jura muộn, khi mà 2
nhánh trở thành Đại Tây Dương tách băng đảo ra khỏi phần còn lại
của Châu Âu -> địa hào trở thành rift không phát triển dày 4 km, chủ
yếu là cát kết màu đỏ không phiến sét tam giác châu nguồn gốc biển
tuổi Mz, Trước đó có những khu vực cục bộ tuổi hơn (Pz). Có một
vài km lấp đầy trầm tích hậu rift bắt đầu là phiến sét giàu vật chất hữu

cơ tuổi J muộn. Sau đó là đá phấn và cát kết nguồn gốc biển.
* Trong địa hào Vi King, tầng chứa sản phẩm chủ yếu là cát kết J.
- Đặc trưng
+ Tiền rift: Bẫy tạo lập bởi khối đứt gãy, chắn bởi phiến sét giàu vật
chất hữu cơ tuổi J muộn, phiến sét này vừa là sinh và chắn.
+ Hậu rift: một số cát kết và cacbonnat sâu chứa sản phẩm là phát triển
-> hầu hết bồn trũng dạng rift chủ yếu là đá trầm tích hạt vụn có nguồn gốc
biển hoặc sông. Tuy nhiên, ở các đại dương ấm rift bị giới hạn, thường
chứa phù sa cacbonat, bốc hơi, tùy thuộc vào các tướng đá đã phát triển
hoặc các đá vôi, cát kết thì loại này có thể là tầng chứa.
- Đá mẹ: đá phiến sét nằm trên hoặc xen ngang, khoảng cách di chuyển
ngắn.
- Bẫy kết hợp tướng biển nông và bất chỉnh hợp, phát triển trên các khối
đang sụp lún khác nhau. Khối đứt gãy nghiêng và nếp lồi phủ lên trên đá
phiến. Sự giới hạn bồn trũng tạo ra tầng chắn trầm tích bốc hơi như bồn Suez
- Gradient địa nhiệt cao hơn giá trị trung bình do đó bồn dạng rift giàu dầu
khí mặc dù kích thước nhỏ.
- Mức độ rủi ro: sự phát triển không hoàn toàn các đá phiến sét giàu vật
chất hữu cơ; kích thước bẫy chứa không đầy đủ, gradient địa nhiệt cao làm phá
huỷ sản phẩm
- Sản phẩm: Có cả dầu và khí
Không phải tất cả quá trình phân kỳ đều tạo ra một đới rift không phát triển
mà số ít phát triển để hình thành loại bồn kéo toạc khi hoạt động tách dãn đáy
biển tiếp tục để vỏ đại dương sinh ra. Lúc này, bồn trũng đã hình thành ở ven
rìa sẽ được kéo tách ra về 1 phía.
2.4- Bồn trũng kéo toạc (pull-apart)
13
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Tính chất có dạng không đối xứng, thuộc rìa lục địa. Dạng tuyến kéo dài,
có một phía là nguồn gốc lục địa, mặt chủ yếu ở ngoài khơi, nằm trên lớp vỏ

chuyển tiếp.
Đa số được định vị ở rìa Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương.
- Một số bồn trũng lớn Bồn trũng Gabon và Angola Cabinda (ngoài khơi
phía Tây Châu Phi), bồn trũng phía Bắc nước Úc, ngoài khơi Đông Nam
Newfoundland
+ Ví dụ: bồn trũng Gabon (Châu phi), Bồn trũng bắt đầu giống rift
trong suốt giai đoạn P-Mz
* Đường kính 200km, bề dày trầm tích khoảng 10km.
* Dòng bùn chảy từ đầm lầy đưa ra tạo thành các thấu kính, chỉ xảy
ra trong một thời gian nhất định.
* Biển tiến và biển lùi tạo trầm tích xen kẹp J, trầm tích cát môi
trường lục địa. Cuối J sụp lún và kéo toạc, mở rộng về biển khơi với
môi trường biển nông tạo ra trầm tích vôi và đá muối. trong K tiếp
tục sụp lún xuống sâu hơn.
* Bẫy: gồm bẫy vòm và bẫy phay kết hợp địa tầng
* Đá sinh: đá vôi
* Đá chứa: lớp bất chỉnh hợp
* Đới rift được hình thành
Đầu tiên, tiền J được lấp đầy bời đá hạt vụn, không phải nguồn
gốc đại dương. Giai đoạn tách giãn bắt đầu vào K đới rift kéo toạc ra
tạo thành môi trường trong đó cacbonat và trầm tích bốc hơi được
phát triển trong điều kiện biển ngày càng mở rộng nhiều hơn, quạt
trầm tích hạt vụn được tích tụ ngày càng dày. Trầm tích này dẫn đến
các diapa muối với các sản phẩm nằm trong đá trầm tích bốc hơi.
* Đá mẹ và các tầng sản phẩm chứa dầu được tìm thấy trong hầu hết
các loại trầm tích như cát kết K sớm hình thành trong quá trình tạo
rift đầu tiên với sản phẩm trong các bẫy liên quan đến đứt gãy.
* Ở nhịp môi trường biển nông, dầu có mặt trong cát kết và đá vôi K
muộn. Khi nếp lồi phủ lên ở cao hơn. Đa số đới sản phẩm nằm trong
nêm đá hạt vụn tuổi Kz trong các bẫy liên quan diapa muối.

- Đặc tính dầu khí do chỉ có một ít bồn kéo toạc được thăm dò tốt , vì vậy
khó để tổng quát về đặc tính dầu khí của chúng
- Tầng chứa sản phẩm từ đá cát kết dưới sâu liên quan đến quá trình tạo
rift hoặc ở giai đoạn tách giãn.
Đầu tiên là rift -> sau đó kéo toạc
- Đá chắn : Đá phiến sét hoặc đá chắn trầm tích bốc hơi nói chung cân
bằng.
- Bẫy chứa thường là nếp lồi hoặc bẫy kết hợp với kích thước trung bình
liên quan đến đới nâng của đá móng trong giai đoạn tạo rift đầu tiên và các nếp
lồi cuốn trong giai đoạn tạo rìa thụ động.
Diapa muối thường quan trọng
14
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Gradient địa nhiệt của bồn kéo toạc chưa biết nhiều. Gradient địa nhiệt
cao trong giai đoạn rift đầu tiên và thấp trong quá trình hạt vụn của giai đoạn
hậu rift.
- Rủi ro của quá trình khai thác : thiếu sự chôn vùi đủ và mức độ chín
muồi của Kerogen, thiếu sự phát triển các đá sét là đá mẹ trong quá trình tạo
rift ban đầu, thiếu phát triển của các tầng chứa trong giai đoạn sau của quá
trình tách
Thời ký đầu: cát kết vì vậy thiếu đá mẹ
Thời kỳ sau: đá hạt mịn phát triển, không có đá chứa
2.5- Bồn hội tụ trước cung và sau cung
- Vị trí: hình thành ở rìa lục địa với đại dương, nơi những mảng đại dương
cắm xuống bên dưới mảng lục địa.
- Tính chất kích thước nhỏ, dạng tuyến kéo dài, hình thành trên lớp vỏ
chuyển tiếp; tuổi Kreta và Đệ Tam; được lấp đầy phiến sét, đá phiến sét; phát
triển nhanh chóng và đồng thời phá hủy nhanh do các quá trình va mảng xảy ra
liên tục bởi quá trình kiến tạo phức tạp.
- Cơ chế kiến tạo: sự nén ép, có đứt gãy khối và đứt gãy trượt ngang.

Đa số bồn trũng rìa hội tụ trên thế giới liên quan đến rìa Thái Bình Dương
hoặc ở những đới Sutu hình thành nơi Châu Phi chồm lên mảng Âu Á. 2 kiểu
bồn trũng không tìm thấy gần đới hút chìm mà phát triển gần các cung đảo .
Bồn sau cung nằm trong cung đảo và lục địa nhận chủ yếu trầm tích môi
trường biển nông, dòng nhiệt đo được ở trũng sau cung từ cao đến rất cao do
sự nóng chảy và hoạt động núi lửa ở cung đảo.
Bồn trước cung nằm trong cung đảo và mảng đại dương, các trầm tích phát
triển khá nhiều, có thể là 1 dải trầm tích nông đến quạt biển sâu, tương phản
với bồn sau cung, bồn trước cung có dòng trầm tích thấp dị thường do sự dịch
chuyển của mảng đại dương lạnh. 1 ví dụ về bồn trũng thuộc đới hút chìm là
Indonesia, 1 số bồn trũng sau cùng được phát triển sau cung đảo nằm kế cận
thềm lục địa bình ổn Sunda
Bồn trũng Sumatra (sau cung) và Mentawai (trước cung) mảng Thái
Bình Dương chúi xuống dưới mảng Ấn Úc.
Trầm tích cát Miocen môi trường biển nông có nguồn gốc từ lục địa .
Hoạt động kiến tạo làm chuyển sang môi trường biển sâu hơn, tướng sét và các
thấu kính cát (do các dòng nước mạnh theo mùa) nằm ở môi trường biển nông
gần bờ
Bồn trước cung có kích thước nhỏ hơn, vật liệu từ cung đạo, có các ám tiêu
san hô bám xung quanh cung đảo, bề dày trầm tích lớn hơn 4.000 m, đa phần
là mỏ dầu
Inđo là l ví dụ tốt về bồn trũng đới hút chìm.
Bồn trước cung nhỏ hơn được tìm thấy ở phía trước cung đảo.
15
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Cả hai loại chạy song song với hệ thống máng và cung nội mảng Ấn-Úc di
chuyển về phía Bắc và bị chồm lên bởi mảng Âu-Á .
Một mặt cắt xuyên qua bồn trũng trước cung Mentawai và sau cung
Sumatra minh hoạ tướng
Bồn trũng Sumatra được lấp đầy trên 5km đá trầm tích hạt vụn Đệ

Tam muộn và một ít đá vôi nằm ở rìa cung đảo.
Tuy nhiên do dòng nhiệt rất cao nên các đá trầm tích trẻ có thể tạo ra
dầu ở độ sâu nhỏ hơn 1 km. Tầng sản phẩm chủ yếu nằm trong đá cát kết
Miocen muộn và Pliocen được bẫy trong cấu trúc nén ở địa hình không
bằng phẳng của đá móng và cao hơn nữa là trong các nếp lồi.
Đá sinh dầu: Đá phiến sét môi trường nước sâu nằm trên và xen kẹp với
các đá chứa
Ở bồn Mentawai hầu hết là phiến sét và đá trầm tích hạt vụn núi lửa và
các dải ám tiêu cacbonat; đáy bồn này nông và có dòng nhiệt thấp; không
có sản phẩm dầu thương mại, chỉ có khí. Lý do chính là gradient địa nhiệt
thấp hơn bình thường gây ra bởi sự dốc xuống của mảng đại dương lạnh;
các đá trầm tích hạt vụn của núi lửa có độ rỗng thấp nếu so sánh với đá cát
của bồn sau cung.
2.6- Bồn trũng không cung và va mảng
Bồn trũng không cung
Hình thành dọc theo rìa hội tụ nơi mảng di chuyển bởi quá trình đứt gãy
chuyển dạng ngang tạo những bồn trũng không cung, đôi khi còn gọi là bồn
trũng trượt hoặc bồn trũng kiểu California do hầu hết hình thành dọc bờ biển
phía tây của Mỹ.
Bồn trũng không cung là những bồn trũng nhỏ hình thành do sự kết hợp của
quá trình dịch chuyển liên quan đứt gãy chuyển dạng ngang và đứt gãy khối
cục bộ.
Ngoài các bồn trũng California còn có bồn trũng Ventura tiêu biểu cho bồn
trũng kiểu California.
Bồn trũng Los Angeles
Bồn trũng nhỏ(khoảng 50 km), sâu khoảng 8km được lấp đầy bởi trầm
tích Đệ Tam. Sự biến dạng xảy ra lần một vào Miocen muộn, lần hai là vào
Pleistocen. Hiện tại vẫn còn đang xảy ra.
Đới sản phẩm nằm trong các thấu kính cát
Dầu chủ yếu nằm trong nếp lồi, đứt gãy

Đá chứa: Đa số dầu chứa trong đá cát tướng sâu tuổi Miocen muộn –
Pliocen sớm.
Đá mẹ là đá phiến sét tuổi Miocen giữa.
Tuổi bồn tuy trẻ nhưng vẫn sinh nguồn dầu do gradient nhiệt cao, tích tụ
đá mẹ giàu vật liệu hữu cơ bề dày lớn .
Đá cát với đặc tính tầng chứa nghèo nhưng vẫn có ưu thế về chiều dày
16
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Bồn trũng va mảng
Bồn trũng ở giữa các núi, kế tiếp là các bồn trũng nhỏ hình thành trong giai
đoạn uốn nếp ở rìa, nằm dọc theo đới Sutu nơi hoặc hai lục địa hoặc các bờ
biển lục địa và máng va mảng. Đây là một kiểu của bồn sau cung nhưng một
hệ thống mảng và cung được xác định tốt thường không tồn tại lâu dài.
Các bồn trũng va mảng hình thành do sự kết hợp giữa quá trình mở rộng
với sự trượt ngang cục bộ trong môi trường nén ép, gradient địa nhiệt thường
cao, chất trầm tích lấp đầy thường là hạt vụn.
Bồn do vỏ đại dương
va vỏ lục địa đôi khi
được xem là bồn trước
cung
Đặc điểm: hẹp và sâu, tích chất nhuyễn được hình thành 4 kiểu bồn trũng
cho một số đặc trưng dầu khí.
Đá chứa: Sản phẩm chủ yếu trong tầng cát kết ở độ sâu nông không dày
hoặc trong đa tầng sản phẩm.
Các bẫy có kích thước bình thường, hầu như là các nếp lồi được nâng lên
dạng khối và một số bẫy kết hợp.
Đá mẹ bồn trũng này thường trẻ, chưa chín muồi, nhưng gradient địa nhiệt
cao tạo triển vọng tốt trong bồn sau cung, không cung và va mảng nơi có tầng
chứa dầy và đa tầng sản phẩm phiến.
Bồn trũng trước cung thường triển vọng kém do phần lớn Kerogen chưa

chín muồi, gradient địa nhiệt thấp, độ rỗng nghèo của đá trầm tích hạt vụn núi
lửa.
Rủi ro trong khai thác: Quá trình biến dạng quá mạnh, hoạt động núi lửa và
tính chất tầng chứa kém (cấu trúc giàu sét) chưa trưởng thành là những vấn đề
trong bất kỳ bồn trũng hội tụ nào dẫn đến giếng khô.
2.7- Bồn trũng sụp lún (downwarp basin)
Hình thành do sự sụp lún đại dương nhỏ tạo một kiểu bồn trũng riêng biệt
do đá trầm tích và đặc tính dầu khí thường rất khác biệt liên quan về nguồn
gốc so với các bồn hội tụ khác.
- Kích thước từ lớn đến trung bình, dạng tuyến không xác định , tìm thấy
dọc rìa của những đại dương nhỏ trong quá khứ và hiện nay.
17
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Một số tác giả cho rằng các bồn trũng sụp lún là một kiểu riêng. Một số bồn
trũng này liên quan đến việc mở ra các bồn trũng đại dương nhỏ mà không tiếp
tục tách giãn (mở ra theo một hướng nhưng không thực kéo dài)
Một số khác cho rằng bồn trũng được xem là một loại của bồn trũng kéo
toạc.
- Ví dụ: Bồn trũng bờ biển Bắc Alaska
Bồn trũng sụp lún hình thành trong các đại dương đang khép kín, ở một số
phân loại khác bồn trũng lại được xem là va mảng, sau cung, trước núi.
Bồn trũng sụp lún khép kín tìm thấy dọc Địa Trung Hải và một số vùng
khác ở biển Tethyan và ở hầu hết các bồn trũng giàu dầu khí trên thế giới (vdụ:
Arabian – Iran)
Các đá trầm tích và cấu trúc tương tự trong mọi bồn trũng sụp lún dù ở đại
dương đang mở hoặc đóng.
Mở vẫn còn tiến triển theo thời gian, sau đó trở thành bồn trũng sụp lún do
hội tụ các mảng lục địa, quá trình va mảng tăng cường có thể làm cho bồn này
trở thành bồn sụp lún như Bắc Phi, Ploiesti- Rumani.
- Ví dụ: Bồn trũng bờ biển Vịnh, miền Nam Mỹ

Bắt đầu thông qua quá trình tạo ríft vào Pz muộn, các đá trầm tích hạt
vụn cơ sở tích tụ tiếp sau với chiều dày 12 km và cacbonat môi trường biển
nông. Trong Đệ Tam có 1 sự sụp lún nhanh tạo các dome muối trên đó là
các tầng sản phẩm rất quan trọng, tại bờ biển Vịnh.
Bẫy hình nêm vát nhọn địa tầng tập trung ở rìa bồn.
Gradient địa nhiệt lớn hơn mức bình thường, phát triển lên về phía đất
liền.
* Bồn trũng Arabian - Iran
Tiêu biển cho kiểu bồn sụp lún khép kín, trong đó Vịnh Arabian và một
vùng khác của Biển Tethyan.
Phía ra Tây Nam của bồn trũng thì không bị biến dạng nhưng dọc rìa
Đông Bắc bồn trũng bị kết thúc đột ngột bởi các dãy núi Zagros chồm phủ
và uốn nếp mạnh, phản ánh phần rìa mảng hội tụ Arabia bị phủ bởi lục địa
Châu Á, tạo điều kiện để bồn trũng giới hạn một cách lý tưởng cho các
thành tạo dầu khí.
Đường kính 100 km, bề dày trầm tích lớn hơn 7 km.
Bồn trũng bị chi phối bởi đá cacbonat tuổi Mz và Kz
Đá mẹ được hình thành trong suốt quá trình biển tiến tại môi trường bồn
trũng. Sau đó biển lùi tạo đá cát thành tầng chứa và mở rộng các đá trầm
tích bốc hơi ở nhiều tầng
Đá vôi và đolomit J là tầng chứa chủ yếu thuộc vùng Saudi Arabia. Về
trung tâm bồn trũng, các đới sản phẩm hầu như chỉ nằm trong cát kết dạng
thấu kính tuổi K bị chồm phủ ở phía Tây Iran có đới sản phẩm chủ yếu nằm
trong đá vôi tuổi Đệ Tam.
Các mỏ đang khai thác đều nằm trong bẫy nếp lồi, có được do quá trình
nén ép ở phía Đông Iran. Tại phía Tây là khu vực Arập Saudi có đặc trưng
18
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
địa hình thấp mà có thể liên quan độ cao của đá móng và một số mỏ muối
tuổi Cambri tạo thành các bẫy chính.

Đá mẹ Dầu khí thường sinh ra từ đá mẹ phiến sét nằm trên và nằm xen
kẹp . Trong một số bồn trũng đá hoa và đá vôi đóng vai trò là đá mẹ quan
trọng.
Bẫy chứa thường là bẫy nếp lồi hoặc nằm trên đá móng cao hoặc nếp uốn
nén ép, thường được góp mặt bởi các vòm muối.
Bẫy địa tầng gồm ám tiêu và nêm vát thạch học cùng với bẫy kết hợp (kiến
tạo và địa tầng) đá phiến trong các bồn trũng sụp lún vào đại dương nhỏ đang
mở (Vịnh Mexico). Bẫy này nói chung đá chắn là phiến sét, đá bốc hơi.
Dầu thô có tỷ trọng trung bình, hỗn tạp nhiều loại hoạt tính có thể phát
triển tuỳ thuộc môi trường và tướng đá. Dầu chủ yếu sinh ra ở độ sâu trung
bình, khí chủ yếu sinh ra do tăng nhiệt độ đáng kể ở độ sâu hơn.
2.8- Bồn Delta Đệ Tam
Gắn liền với kỷ Đệ Tam.
Một số tác giả không cho đây là một kiểu bồn trũng do chúng có thể hình
thành ở bất kỳ môi trường nào và cơ hội tìm thấy ở bất kỳ rìa hội tụ và phân kỳ
là như nhau.
Do sự có mặt của nó là một trung tâm tích tụ dọc theo chỗ nối giữa bộ ba
các mảng cổ hoặc tại ranh giới giữa lục địa và đại dương. Điều kiện nhiệt độ
do các hệ thống dẫn lưu lục địa lớn với các dòng chảy xuống các vùng rift với
các cánh không phát triển.
Ở khu vực, delta có kích thước từ nhỏ đến trung bình nhưng có tích tụ dầy.
Toàn bộ vật liệu là đá hạt vụn nguồn gốc lục địa với một tỷ lệ giữa khối lượng
trầm tích và diện tích là rất cao do quá trình tích tụ rất nhanh và lấn dần ra biển
cùng với quá trình nén chặt dẫn đến hình thành đứt gãy, nếp lồi.
Gradient địa nhiệt thấp, tạo nên do bề dày trầm tích quá nặng
Ví dụ: Delta Niger (Tây Phi) là một bồn tiêu biểu có sông Niger chảy
xuống bồn trũng rift Benue Troush. Delta châu của nó hình thành nên bồn
trũng kéo toạc bị chặn trên bởi đá phiến sét thuộc môi trường nước sâu tuổi
K. Có ba thành hệ cắt qua delta, dày nhất là Miocen với đá phiến sét tiền
delta là đá mẹ bị nằm trên bởi đá cát kết và đá phiến sét nằm xen kẽ ở mặt

trước delta. Ở phía đồng bằng delta châu, lớp đá cát mỏng vừa .
Đới sản phẩm chủ yếu nằm trong nếp lồi được phát triển với những đứt gãy
có hơn 140 mỏ. Những mỏ lớn nhất nằm khép kín với trung tâm tích tụ
delta châu với cấu trúc rất phức tạp.
Delta Mississipi tương tự với delta Niger về cả tuổi đá trầm tích, cấu
trúc và tính chất dầu khí.
Các tướng tiền delta có tuổi Miocen chứa trữ lượng lớn, delta
Mississipi có chứa lớp muối Mz thuận lợi tạo cấu trúc diapa.
Hai delta này góp 90% trữ lượng dầu khí được biết trên thế giới trong loại
bồn delta.
19
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Delta hầu như được lấp đầy bởi đá hạt vụn Đệ Tam muộn.
Gradient nhiệt thấp,
Trữ lượng dầu khí khá nhiều,
Tầng chứa hoàn toàn là đá cát kết,
Đá mẹ hoàn toàn là đá phiến sét.
Bẫy chứa thường hình thành với các đứt gãy phát triển, nếp lồi cuộn (do
các đợt trầm tích quá ép) hoặc các cấu trúc dòng bùn, muối.
Rủi ro: chủ yếu là kích thước nhỏ hoặc bẫy là sự vắng mặt của đá chắn tốt.
Đa số kerogen trong đá mẹ có nguồn gốc lục địa. Delta thường tạo khí tự
nhiên, dầu paraphin dạng sáp.
20
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
CHƯƠNG 3 – PHÂN BỐ
3.1- Mỹ:
Một trong những nước đứng đầu về dầu mỏ, chiếm khoảng 27% sản lượng
thế giới từ các bồn trầm tích với diện tích khoảng 5,6 triệu km2, đại diện cho
khoảng 15% các bồn thế giới.
Trữ lượng ban đầu của thế giới chính là của Mỹ, đạt đỉnh cao trong nhiều

năm, sau đó không tăng thêm. Nhiều khoáng sàng già cỗi, phát hiện mới hiếm,
giá thành khai thác dầu không ngừng gia tăng.
Sản lượng hiện nay của Mỹ hơn 9/10 xuất phát từ tỉnh dầu lớn Mid
Continent, Gulf Costa, California, Rocky. Sản lượng của Mid 39%, Gulf 33%,
Cali 11%, Rocky 10%.
Hai tỉnh Mid and Gulf thuộc 2 tiểu bang Texas và Louisiana.
Mỹ đứng đầu trữ lượng khí thiên nhiên. sản lượng tăng dần: 1950-178 tỷ
m3/năm, 1965-450 tỷ m3/năm. Tỉnh chính cũng thuộc 2 bang trên.
Tỉnh dầu chính của Mỹ sắp xếp theo thứ tự quan trọng Mid, Gulf, Cali,
Rock, Illinois, Appalachian, Michigân.
* Lịch sử tìm kiếm dầu khí ở Mỹ
Công tác tìm kiếm đầu tiên bắt đầu giữa thế kỷ 19, trong các đới uốn nếp,
dấu hiệu của dãy Appalachian. Đây được coi là nôi của công nghệ dầu mỏ của
Mỹ. Nhờ những chương trình thực hiện ở đây, 1883: lý thuyết nếp lồi được
xác định, thuyết này mở đường cho việc thành lập đại học dầu mỏ; năm 1915:
lý thuyết về tỷ số cacbon được xác định. Những thành công đầu tiên nằm trong
tỉnh dầu Rocky và Cali 1884 và Kansas 1892 và Gulf Costa 1901.
Năm 1900 tỉnh dầu Appalachian vẫn là đới sản xuất quan trọng nhất, sản
lượng hàng năm tối đa 5,8 triệu m3.
Năm 1930 công tác tìm kiếm địa chấn được áp dụng
Khi kiến trúc trên bề mặt bắt đầu cạn, từ năm 1981, ngoài bẫy nếp lồi, tìm
kiếm lần đầu tiên bẫy địa tầng trong vùng Kanssas, từ đó Texas là nơi diễn ra
những thành công tuyệt vời cho đến sau chiến tranh Thế giới thứ 2.
Hiện nay nhịp độ phát hiện dầu giảm rõ rệt, người ta cố gắng tìm kiếm khí
thiên nhiên để thay thế dầu mỏ. Sản lượng giữ vững nhờ vào hệ số thu hồi
ngày càng cao, đồng thời phát hiện thêm những khoáng sàng ở vùng Alaska
(mua của Nga Hoàng).
Việc tăng giá dầu cho phép khai thác cạnh tranh đá bitum.
3.1.1- Tỉnh dầu Mid Continent (39%) thuộc bang Texas
Tương ứng hệ thống gồm các bồn Pz phủ gần 1 triệu km2 ở trung tâm nước

Mỹ. Phát hiện gần 6,2 triệu m3 dầu. Kiểu bồn giữa nền và loại địa tầng tương
21
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
đối nhỏ bị cắt ngang bởi những bất chỉnh hợp đóng vai trò chính trong hoạt
động trữ dầu.
Tầng sản phẩm của Pz trải từ Cambri đến Permi với các bồn lớn Mac Elest,
Chero Kee nằm phía Đông Bắc với sản phẩm nằm trong cát và nêm vát về phía
Đông dựa vào dãy núi thấp Ozark.
Các nếp uốn Nemaha với khoáng sàng già cỗi tương ứng với nếp lồi nổi
cùng các bất chỉnh hợp. Khoáng sàng quan trọng nhất là ở Oklahoma City
Bồn Pecmi (Tây Texas) diện tích khoảng 300.000 km2 cung cấp ¼ sản
lượng của nước Mỹ. Là bồn bất chỉnh hợp bị phân chia ở phần trung tâm bởi
nền trung tâm tuổi Pz dưới, chia cắt bồn thành 2 phần: Midland phía Đông và
Dalaware phía Tây. Ở đới cao trung tâm hệ Pecmi nằm trên loạt Pz cổ hơn bị
xói mòn rìa Bắc và Đông hình thành vùng đáy nông phát triển tuổi Pecmi
dưới. Những thành hệ ám tiêu dày bị uốn nếp thành những nếp lồi rộng tạo
một trong những tầng chứa quan trọng nhất của tỉnh dầu này. Tầng chứa này bị
phủ bởi loạt muối cách nước .
3.1.2- Tỉnh dầu Gulf Costa (33%) Bang Louisiana
Sản xuất và chứa 1/3 dầu mỏ của Mỹ, tương ứng với một bồn đơn nghiêng
rộng lớn tuổi Mz và Đệ Tam.
Có những vòm muối che phủ 3,5 triệu km2 chìm dần phía Nam và Đông
Nam, kéo dài về phía Vịnh Mehicô. Tầng chứa đa số là trầm tích vụn nằm rải
rác trong toàn bộ loạt địa tầng từ Jura trên ở rìa bồn đến Pliocen trong các khu
vực biển và bờ biển. Trong một vùng ít chịu tác động của kiến tạo, bẫy tạo nên
do các vòm muối, phay và những uốn nếp nhẹ cũng như nhân tố địa tầng.
Khoáng sàn quan trọng nhất Tây Texas là một bẫy địa tầng trong thống K
trên.
Từ 1946, công tác tìm kiếm tiếp tục trên biển trên diện tích khoảng
355.000km2. Xấp xỉ 150 vỉa sản phẩm ở ngoài khơi của bang Louisiana với

400 tỷ m3 khí và 300-400 tỷ m3 dầu.
3.1.3 Tỉnh dầu Rocky Mountain (10%)
Tương ứng một loạt các bồn bất chỉnh hợp Pz như Williston (phía Bắc)
hoặc các bồn giữa núi Mz (Big Horn, Powfer River, Wind River, Green River,
Denver, San Jaoquin)
Bẫy chủ yếu là bẫy kiến tạo, sản phẩm trong cát kết và đá vôi Carbon-
Permi
3.1.4 Tỉnh dầu California (11%)
Được tạo thành bởi những bồn Neogen nhỏ nằm trong số các tỉnh dầu giầu
nhất thế giới. Trong vùng thung lũng San Joaquin phát hiện khoáng sàn
22
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Midway Sunset, Los Angeles diện tích 3.000 km2 với khoáng sàn Williston,
Long Beach, bồn Hustinton Beach, bồn Santa Febring tất cả đều có sản phẩm
nằm trong cát Pliocen bị uốn nếp thành vòm hoặc những nếp lồi.
3.2- Canada:
Đứng thứ 9 trong các nước sản xuất dầu với sản lượng tăng dần 1964- 37,5
triệu tấn dầu thô (Tây Canada)
* Lịch sử thăm dò
Công tác thăm dò dầu mỏ của Tây Canada là một gương vượt khó nhờ vào
kiên trì bề bỉ. Tuy phát hiện đá phiến từ 1914 nhưng đến 1947, sau 20 năm cố
gắng và thực hiện 133 lỗ khoan thất bại thì mới thực sự mở ra một tỉnh dầu lớn
với việc phát hiện vỉa dầu Le Dune. Từ thành công này, từ 1953 phát hiện các
vỉa trong cát kết K, hướng tìm kiếm ở phía Bắc của Tây Canada với những bồn
trầm tích có triển vọng lớn về dầu khí .
3.2.1- Tỉnh dầu miền Tây Canada
Là một tỉnh dầu rộng lớn, hơn 1 triệu km2 ứng với một bồn Pz và Mz. Kiểu
bồn địa máng hoặc lõm sâu ở chân dãy núi Rocky nâng cao đều về phía Đông
nằm trên và xuất hiện ở tiền Cambri.
Dầu phân bố khoảng 1/2 trong hệ Devon và 40% nằm trong K trên, phát

triển tăng trong K hạ, bậc Mississipi.
Khoáng sàng Devon chủ yếu nằm thành hàng theo dãy Bắc Nam tương ứng
với nếp lồi nhỏ của nền trên đó có các ám tiêu phát triển.
Vỉa đầu tiên phát hiện 1947 ở Tây Canada, thuộc một hàng thẳng ám tiêu
bao gồm 4 khoáng sàn, sản lượng hàng năm 2,5 triệu m3.
Khoáng sàng K phát hiện 1953, là một bẫy địa tầng rất rộng trải ra 1.250
km2 với 3 tầng cát K trên.
Ngoài dầu và khí thiên nhiên, Canada còn chứa nguồn quan trọng Asphalt.
3.3- Venezuela (Mỹ latin)
* Lịch sử thăm dò
Công tác tìm kiếm bắt đầu 1890 nhưng do khoa học kỹ thuật kém nên năm
1914 mới phát hiện dầu ở bồn Maracaibo.
1928 tìm được ở bồn phía Đông, trải qua những thời kỳ đáng thất vọng do
tính đơn nghiêng của suờn phía Nam là một chướng ngại cho công việc tìm
kiếm và tồn tại của một hệ thống phay và tạo bẫy phay chỉ được biết đến 1937.
Những hãng khai thác dầu cũng nếm mùi thất vọng ở khu vực này.
23
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×