Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Địa chất dầu khí khu vực bồn trũng Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.43 MB, 85 trang )

Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
LỜI NÓI ĐẦU
Bài khoá luận này được thực hiện và hoàn thành dưới sự giúp đỡ, động
viên của gia đình, thầy cô và bạn bè.
Trước tiên em xin được gửi lời cảm ơn đến ban chủ nhiệm khoa cùng
toàn thể quý thầy, cô khoa ĐỊA CHẤT nói chung và thầy cô Bộ môn Đòa Chất
Dầu Khí nói riêng đã cho em những kiến thức quý báu trong suốt thời gian
học tập qua.
Em xin được gủi lời biết ơn sâu sắc đến giáo viên hướng dẫn, Thạc Só
Nguyễn Ngọc Thủy đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình
thực hiện Khoá Luận này. Cám ơn người thân và bạn bè đã giúp đỡ tôi rất
nhiều trong suốt thời gian qua.
Trong suốt quãng đường học tập bản thân em không tránh khỏi những
thiếu sót , khuyết điểm mong được sự góp ý quý báu của quý thầy cô.
Dầu khí Việt Nam ngày càng phát triển và đang đóng góp một phần
quan trọng trong nền kinh tế. Để đạt được kết quả này, ngành dầu khí đã
không ngừng nâng cao áp dụng Khoa học kỹ thuật tiên tiến trong lónh vực
thăm dò, tìm kiếm. Số lượng mỏ ngày càng được phát hiện ra nhiều ở các
tầng đất đá khác nhau và đặc biệt là đá móng phong hoá và nứt nẻ.
Với đề tài ” Đòa chất dầu khí khu vực bồn trũng Cửu Long” không ít
các nhà đòa chất dầu khí trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu dựa vào
mẫu thu thập được từ các giếng khoan.
Đi đôi với việc khai thác tìm kiếm các bồn dầu khí là cần phải xem xét,
đánh giá đá mẹ, đá chứa, độ thấm chứa, độ rỗng, độ nứt nẻ của đá chứa
móng và các vấn đề liên quan đến chúng.
Trước khi vào sâu vấn đề này cần có sự giới thiệu đôi nét về các đặc
điểm bồn trũng Cửu Long bao gồm : Hai phần.

SVTH : Nguyễn Minh Quang 1
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
Phần I khái quát chung về bồn trũng như : Lòch sử nghiên cứu, vò trí


đòa lý, đòa tầng, các hoạt động kiến tạo, lòch sử hình thành bồn trũng, tiềm
năng dầu khí, đặc điểm thạch học đá móng.
Phần II Đề cập chi tiết vào các đặc điểm của bồn trũng Cửu Long với
các đặc tính đá mẹ, đá chứa,đá chắn, các loại bẫy … của bể.
Đề tài này được hình thành nhờ quá trình sưu tập tài liệu, những hiểu
biết trong quá trình học tập tại trường, vậy không tránh khỏi những sai sót cả
nội dung lẫn hình thức. Rất mong được sự giúp đỡ phê bình của các quý thầy
cô cũng như sự đóng góp.
Tp.HCM, Tháng 01/2005
Nguyễn Minh Quang

SVTH : Nguyễn Minh Quang 2
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
MỤC LỤC
Lời nói đầu Trang 1
PHẦN I : CÁC KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒN TRŨNG CỬU LONG 5
Chương I : Lòch sử nghiên cứu 7
Chương II : Đặc điểm tổng quát của bồn trũng Cửu Long 11
I. Đặc điểm đòa lý tự nhiên 11
II. Đòa tầng tổng hợp 14
1. Đá móng trước Kainozoi. 14
2. Các thành tạo Kainozoi. 15
III. Đặc điểm kiến tạo khu vực Cửu Long. 20
Chương III : Lòch sử phát triển và cấu trúc đòa chất bồn trũng Cửu Long. 26
A- Lòch sử phát triển đòa chất bồn trũng Cửu Long 26
I. Giai đoạn Mezozoi muộn đầu Kainozoi 26
II. Giai đoạn Oligoxen sớm 26
III. Giai đoạn Oligoxen muộn 27
IV. Giai đoạn Mioxen 21
B. Cấu trúc đòa chất bồn trũng Cửu Long

PHẦN II : ĐẶC ĐIỂM DẦU KHÍ THUỘC KHU VỰC BỒN CỬU LONG
Chương I : Đá Mẹ 34
Chương II : Đá Chứa 42
I. Đá trầm tích 42
II. Đá móng 43
III. Đá phun trào 47
Chương III : Đá Chắn 49

SVTH : Nguyễn Minh Quang 3
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
Chương IV : Các Loại Bẫy 54
I. Bẫy cấu tạo 54
II. Bẫy phi cấu tạo 55
Chương V : Tiềm năng dầu khí 59
Chương VI : Các mỏ dầu khí ở bồn trũng Cửu Long
I. Mỏ Bạch Hổ 65
II. Mỏ Rạng Đông 70
III. Mỏ Rồng 73
IV. Mỏ Sư Tử Đen 76
Kết luận 81
Tài liệu tham khảo 83

SVTH : Nguyễn Minh Quang 4
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
PHẦN I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ
BỒN TRŨNG CỬU LONG

SVTH : Nguyễn Minh Quang 5
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy


SVTH : Nguyễn Minh Quang 6
CẤU TRÚC KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
CHƯƠNG I
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Bồn trũng Cửu Long nằm phía Đông-Bắc thềm lục đòa Việt Nam, với tọa
độ đòa lý : nằm giữa 9
0
– 11
0
vó độ Bắc, 106
0
30 - 109
0
kinh độ Đông, kéo dài
dọc theo bờ biển Phan Thiết đến cửa sông Hậu. Bồn trũng Cửu Long có diện
tích 56.000 km
2
, phía Đông Nam được ngăn cách với trũng Nam Côn Sơn bởi
khối nâng Côn Sơn, phía Tây Nam được ngăn cách với bồn trũng vònh Thái
Lan bởi khối nâng Korat, phía Tây Bắc nằm trên phần rìa của đòa khối
Kontum.
Bồn trũng Cửu Long được các nhà đòa chất nghiên cứu từ lâu. Công tác
nghiên cứu đòa chất, đòa vật lý ở đây có thể đánh giá là khá tỉ mỉ và thu được
nhiều kết quả tốt, cùng với việc tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí được
tiến hành mạnh mẽ ở mỏ Bạch Hổ, mỏ Rồng và đã đạt được kết quả có giá trò
kinh tế lớn.
Nói chung lòch sử bồn trũng Cửu Long chia làm ba giai đoạn :
1. Giai đoạn trước 1975

 Vào đầu những năm 60 đã có những dự đoán về tìm năng dầu khí ở bồn
trũng, nó trở thành đối tượng tìm kiếm dầu khí của một số công ty nước ngoài.
 Năm 1960–1970, công ty Man Drel đã đo đòa vật lý thềm lục đòa phía
Nam với mạng lưới tuyến khảo sát 39x50 km
2
.
 Năm 1960, công ty Mobil Oil đã phủ mạng lưới tuyến khảo sát đòa vật
lý 8x8 km
2
và 4x4 km
2
trên khu vực lô 9 và lô 16.
 Năm 1974, công ty Petty Ray đã tiến hành nghiên cứu đòa vật lý với
mạng lưới tuyến 2x 2 km
2
trên khu vực lô 9.

SVTH : Nguyễn Minh Quang 7
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
 Đầu năm 1975, công ty Mobil Oil đã khoan giếng khoan BH–1X trên
cấu tạo Bạch Hổ, khi thử vỉa tầng Mioxen hạ đã thu được dòng dầu công
nghiệp đầu tiên với lưu lượng 2400 thùng/ngày đêm.
2. Giai đoạn 1975 – 1980
 Năm 1976, công ty Pháp đã tiến hàng đo đòa vật lý theo mạng lưới
tuyến khu vực và liên kết đòa chấn ở các lô 6, 16, 17 vào các khu vực đồng
bằng sông Cửu Long.
 Năm 1978, công ty Geco của Na Uy đã tiến hành đo mạng lưới đòa vật
lý 8x8 km
2
và 4x4 km

2
và khảo sát chi tiết mạng lưới 2x2 km
2
, 1x1 km
2
trên
khu vực lô 9, 16.
 Năm 1979, công ty Deminex đo đòa vật lý lô 15 với mạng lưới 3,5x3,5
km
2
và tiến hành khoan 4 giếng 15A – 1X, 15B, 15C – 1X, 15G – 1X.
3.Giai đoạn 1980 -1995
- Năm 1980, liên doanh dầu khí giữa Việt Nam và Liên Xô đã thành lập
và tiến hành thăm dò, khai thác dầu khí rộng rãi trên toàn bồn trũng.
- Năm 1984, liên đoàn đòa vật lý Thái Bình Dương của Liên Xô đã tiến
hành khảo sát khu vực một cách chi tiết với các mạng lưới như sau :
* Mạng lưới 2x2 km
2
ở các cấu tạo Bạch Hổ, Rồng, Tam Đảo.
* Mạng lưới tuyến 1x1 km
2
ở các cấu tạo Rồng, Tam Đảo, khu vực lô 15.
* Mạng lưới 0,5x0,5 km
2
ở cấu tạo Bạch Hổ.
- Sau hàng loạt những phát hiện dầu quan trọng như :Bạch Hổ (1985),
Rồng(1990) và đặc biệt sau đó là Rạng Đông, Jade (1993), Ruby (1994)

SVTH : Nguyễn Minh Quang 8
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy

4. Từ 1995 đến nay
Đòa chất bồn trũng Cửu Long đã được nghiên cứu tỉ mỉ và chi tiết thể
hiện qua các báo cáo về dầu khí được hoàn thành bởi Viện Nghiên Cứu Khoa
Học và Thiết Kế Biển của xí nghiệp liên doanh Việt Xô cùng với trữ lượng
dầu đã khai thác ở các mỏ Bạch Hổ, Rồng.
Trong những năm từ 1995 đến nay công tác tìm kiếm thăm dò đã được
tăng cường và đã phát hiện ra nhiều mỏ mới có trữ lượng dầu khí lớn như Sư
Tử đen (2000), Sư Tử Vàng (2001) cùng hàng loạt các tích tụ nhỏ khác như
Emerald, Diamond, Topaz, Saphia, Phương Đông (tất cả đều phân bố ở phần
Bắc bể). Hiện nay phần Bắc bể Cửu long cũng như toàn bộ các khu vực khác
ở trong bể đang tiến hành các hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu
khí nhộn nhòp nhất ở Việt Nam.

SVTH : Nguyễn Minh Quang 9
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy

SVTH : Nguyễn Minh Quang 10
SƠ ĐỒ VỊ TRÍ BỒN TRŨNG CỬU LONG
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
CHƯƠNG II
ĐẶC ĐIỂM TỔNG QUÁT CỦA BỒN TRŨNG
CỬU LONG
I. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN
Bồn trũng Cửu Long nằm phía Đông thềm lục đòa Nam Việt Nam, trong
khoảng giữa 9
0
– 11
0
vó độ Bắc, 106
0

30 - 109
0
kinh độ Đông, kéo dài dọc theo
bờ biển Phan Thiết đến cửa sông Hậu, với diện tích hiện tại (400.000 km
2
) có
thể so sánh với châu thổ của các con sông lớn như : sông Mixixipi, sông
Trường Giang…. Lượng nước sông Mekong đổ ra biển trung bình 38.000
m
3
/giây, lượng phù sa 0,25 kg/m
3
. Như vậy hàng năm sông Mekong đưa ra
biển hàng triệu tấn phù sa. Ngoài ra nguồn cung cấp vât liệu trầm tích còn
phải kể đến con sông khác như : sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông, sông Sài
Gòn,……
Về chế độ gió : bồn trũng Cửu Long có thể nhận thấy hai chế độ gió
mùa rõ rệt - chế độ gió mùa Đông, và chế độ gió mùa Hè.
Chế độ gió mùa Đông : đặc trưng bởi gió mùa Đông Bắc, kéo dài từ
tháng 11 đến cuối tháng 8. Vào đầu mùa tốc độ gió trung bình sau đó tăng dần
lên và lớn nhất vào tháng 1 và tháng 2. Đây là thời kỳ biển động nhất trong
năm, gây nhiều ảnh hưởng đến các hoạt động trên biển.
Chế độ gió mùa hè : đặc trưng bởi gió mùa Tây Nam kéo dài từ cuối
tháng 5 đến giữa tháng 9 với hướng gió chủ yếu là Tây Nam.
Ngoài ra còn hai thời kỳ chuyển tiếp từ gió mùa Đông Bắc sang gió
mùa Tây Nam từ đầu tháng 4 đến cuối tháng 5 và thời kỳ chuyển tiếp từ gió
mùa Tây Nam sang Đông Bắc vào tháng 9 đến tháng 11.

SVTH : Nguyễn Minh Quang 11
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy

Chế độ dòng chảy : dưới tác động gió mùa ở vùng biển Đông tạo dòng
đối lưu vào hướng và tốc độ được xác đònh bằng hướng gió và tốc độ gió.
Về khí hậu : bồn trũng Cửu Long được đặc trưng là khí hậu xích đạo,
chia làm hai mùa rõ rệt : mùa khô và mùa mưa. Nhiệt độ bề mặt và đáy biển
gần như bằng nhau. Trên mặt nhiệt độ trung bình vào mùa đông từ 27
0
C đến
28
0
C. Còn ở độ sâu 20 m nước, mùa đông nhiệt độ trung bình 26
0
C đến 27
0
C,
mùa hè 28
0
C đến 29
0
C. Nhìn chung vùng nghiên cứu có khí hậu khô ráo, độ
ẩm trung bình 60%...
Bồn trũng Cửu Long nằm gần Vũng Tàu, TP.HCM và các khu vực
trọng điểm kinh tế, các khu công nghiệp là các cơ sở dòch vụ tốt cho công tác
thăm dò khai thác dầu khí, rất thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở sử dụng, chế
biến các sản phẩm dầu khí như nhà máy tua bin khí, nhà máy phân bón, nhà
máy hóa lỏng khí, lọc dầu…

SVTH : Nguyễn Minh Quang 12
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy

SVTH : Nguyễn Minh Quang 13

CỘT ĐỊA TẦNG KHU VỰC BỒN CỬU LONG
+
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
I. II. ĐỊA TẦNG TỔNG HP
Giai đoạn từ năm 1980 đến nay, với số lượng giếng khoan ngày càng
tăng trên bồn trũng cho phép hiểu biết ngày càng nhiều hơn về đòa tầng và
cấu trúc của bồn trũng này.
Đòa tầng của bồn trũng Cửu Long đã thành lập dựa vào kết quả phân tích
mẫu vụn, mẫu lõi, tài liệu carota và các tài liệu phân tích cổ sinh từ các giếng
khoan trong phạm vi bồn trũng, bao gồm các thành tạo móng trước Kainozoi
và các trầm tích Kainozoi.
1. Đá móng trước Kainozoi
Đá móng là đá magma toàn tinh với các đai mạch Diabaz và Pocphia
Bazan Trachit được đặc trưng bởi mức độ không đồng nhất cao về tính chất
vật lý thạch học như đã phát hiện ở các giếng khoan lô 9 và lô 16. Đá móng ở
đây bao gồm các loại Granit Biotit thông thường, Granodiorit, và Adamelit
biotit màu sáng, ngoài ra còn có Monzonit và Diorit á kiềm. Các đá này tương
đương một số phức hệ của lục đòa, còn phức hệ Hòn Khoai
γ
(T)hk, Đònh Quán
γδ(J
3
).đq, phức hệ Cà Ná
γ
(K
2
)cn và Ankroet (
γ
ak). Do các hoạt động kiến tạo
mạnh mẽ trước và trong Kainozoi các đá này bò phá hủy bởi các đứt gãy, kèm

theo nứt nẻ đồng thời các hoạt động phun trào Andesit, Bazan đưa lên thâm
nhập vào một số các đứt gãy và nứt nẻ. Tùy theo từng khu vực các đá khác
nhau mà chúng bò nứt nẻ, phong hóa ở các mức độ khác nhau.
Đá móng bò thay đổi ở những mức độ khác nhau bởi quá trình biến đổi
thứ sinh. Trong số những khoáng vật biến đổi thứ sinh thì phát triển nhất là
canxit, zeolit và kaolinit. Đá móng Granit với hàm lượng thạch anh lớn hơn so
với loại khác nên tính cứng dòn dễ tạo nứt nẻ trong quá trình kiến tạo.
Tuổi tuyệt đối của đá móng kết tinh thay đổi từ 245±7 triệu năm đến
89±3 triệu năm (từ nghiên cứu đá móng Bạch Hổ). Granit tuổi Creta có hang

SVTH : Nguyễn Minh Quang 14
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
hốc và nứt nẻ cao, góp phần thuận lợi cho việc chuyển dòch và tích tụ dầu
trong móng.
Tới nay, các thành tạo móng được khoan với chiều dày hơn 1600m
(giếng khoan 404 mỏ Bạch Hổ) và mức độ biến đổi của đá có xu thế giảm
theo chiều sâu, đặc biệt ở chiều sâu hơn 4500m thì quá trình biến đổi giảm rõ
rệt.
2. Các thành tạo trầm tích Kainozoi
Việc phân chia các thành tạo trầm tích Kainozoi không thống nhất giữa
các nhà đòa chất, do đó có những sự khác biệt trong sự phân chia các thành
tạo này. Theo tài liệu của Vietsovpetro “Thống nhất đòa tầng trầm tích
Kainozoi bồn trũng Cửu Long” 1987, các thành tạo trầm tích Kainozoi có
những đặc điểm sau :
 Các thành tạo trầm tích theo bình đồ cũng như mặt cắt khá phức tạp,
bao gồm các loại đá lục nguyên tướng châu thổ và ven biển.
 Trầm tích Kainozoi phủ bất chỉnh hợp trên móng nước Kainozoi với
độ dày 3-8 km, càng đi về trung tâm bồn trũng độ dày càng tăng, chỗ sâu nhất
lớn hơn 8 km.
 Các trầm tích Kainozoi ở bồn Cửu Long bao gồm các phân vò đòa

tầng có các hóa thạch đặc trưng được xác đònh bởi các bào tử phấn và vi cổ
sinh từ dưới lên bao gồm :
2.1 Các thành tạo trầm tích Paleogen
Trầm tích Oligoxen (Ք
3
)
Theo kết quả nghiên cứu đòa chấn, thạch học, đòa tầng cho thấy trầm tích
Oligoxen của bồn Cửu Long được tạo thành bởi sự lắp đầy các trũng đòa hình
cổ, bao gồm các tập trầm tích lục nguyên, loại trầm tích sông hồ, đầm lầy,
trầm tích ven biển, chúng phủ bất chỉnh hợp lên móng trước Kainozoi.

SVTH : Nguyễn Minh Quang 15
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
Cũng theo kết quả nghiên cứu trên, trầm tích Oligoxen được chia làm hai
phần : điệp Trà Cú – Oligoxen hạ và điệp Trà Tân – Oligoxen thượng.
• Trầm tích Oligoxen hạ - điệp Trà Cú (Ք
3
1
tc)
Tầng phản xạ “Light Green” – tầng F11 mỏ Bạch Hổ nằm ở nóc của
điệp. Trầm tích điệp Trà Cú không có những phần nâng cao của móng như ở
mỏ Bạch Hổ, phần nhô cao của cấu tạo Rạng Đông, và cũng hầu như vắng
mặt ở phần Tây Bắc bồn trũng Cửu Long. Chiều dày của điệp này thay đổi từ
0 đến 3500 m, chiều dày lớn của tập thường được tập trung ở những trũng sâu
phía Tây của cấu tạo Bạch Hổ và Rạng Đông.
Điệp này bao gồm các tập sét kết màu đen, xám xen kẽ với các lớp hạt
từ mòn đến trung bình, độ lựa chọn tốt gắn kết chủ yếu bởi xi măng kaolinit,
lắng động trong môi trường sông hồ, đầm lầy hoặc châu thổ. Phía bên trên
của trầm tích Oligoxen hạ là lớp sét dày. Trên các đòa hình nâng cổ ở đỉnh
thường không gặp hoặc gặp các lớp sét Oligoxen hạ mỏng. chiều sâu lớn

sét kết có màu đỏ cam đến màu nâu đỏ hoặc màu hồng xám cam, màu xám
sáng đến màu xám và đen nâu.
• Trầm tích Oligoxen thượngï - điệp Trà Tân (Ք
3
1
trt)
Gồm các trầm tích sông hồ, đầm lầy và trầm tích biển nông. Ngoài ra
trầm tích Oligoxen thượng còn chứa các thân đá phun trào như Bazan,
Andezit…(ở lô 09 khu vực mỏ Rồng và lô 1 tại các cấu tạo Ruby, Diamond,
Emerald, Topaz và một số những khu vực khác trong bồn trũng Cửu Long).
Trầm tích Oligoxen thượng có thể chia thành hai phần theo đặc trưng thạch
học của chúng : phần dưới bao gồm xen kẽ các lớp cát hạt mòn – trung, các
lớp sét và các tập đá phun trào, phần trên đặc trưng bằng các lớp sét đen dày.
Ở khu vực đới nâng Côn Sơn, phần trên của mặt cắt tỷ lệ cát nhiều hơn. Ở
một vài nơi tầng trầm tích Oligoxen thượng có dò thường áp suất cao.

SVTH : Nguyễn Minh Quang 16
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
Trầm tích điệp Trà Tân có chiều dày từ 100 –1000 m và phủ hầu hết bồn
trũng từ phía Tây Bắc của lô 16.
2.2 Các thành tạo trầm tích Neogen
Trầm tích Mioxen hạ – điệp Bạch Hổ (N
1
1
bh)
Trầm tích điệp Bạch Hổ bắt gặp ở hầu hết các giếng khoan đã được
khoan ở bồn trũng Cửu Long. Trầm tích điệp này nằm bất chỉnh hợp trên các
trầm tích dưới, bề mặt bất chỉnh hợp được phản xạ khá tốt trên mặt cắt đòa
chấn. Đây là bề mặt bất chỉnh hợp quan trọng nhất trên đòa tầng Kainozoi.
Dựa trên tài liệu thạch học, cổ sinh, đòa vật lý, điệp này chia thành hai phụ

điệp.
• Phụ điệp Bạch Hổ dưới (N
1
1
bh
1
)
Trầm tích của phụ điệp này là các lớp cát kết lẫn với các lớp sét kết và
bột kết chiều dày hàng trăm mét tương đối ổn đònh và phát triển trên toàn bộ
bồn trũng Cửu Long. Càng lên trên của phụ điệp khuynh hướng cát hạt thô
càng rõ. Cát kết thạch anh màu xám sáng, có dạng thấu kính, hạt độ từ nhỏ
đến trung bình. Được gắn kết chủ yếu bằng xi măng sét, kaolinit lẫn với ít
cacbonat. Bột kết từ màu xám đến nâu, xanh đến xanh tối, trong phần dưới
chứa nhiều sét. Trong phần rìa của bồn trũng Cửu Long, cát chiếm phần lớn
(60%), giảm dần ở trung tâm bồn trũng.
• Phụ điệp Bạch Hổ giữa (N
1
1
bh
2
)
Phần dưới phụ điệp này là những lớp cát hạt nhỏ lẫn với những lớp bột
mỏng. Phần trên chủ yếu là sét kết, bột kết, đôi chỗ gặp những vết than,
glauconit.
• Phụ điệp Bạch Hổ trên (N
1
1
bh
3
)

Trong trầm tích điệp Bạch Hổ rất giàu bào tử Magnastriatites howardi
và phấn Shorae.

SVTH : Nguyễn Minh Quang 17
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
Trầm tích của phụ điệp này dày từ 500 – 1250 m và được tạo thành chủ
yếu trong điều kiện biển nông và châu thổ ven bờ.
Trầm tích Mioxen trung – điệp Côn Sơn (N
1
2
cs)
Trầm tích điệp này phủ bất chỉnh hợp trên trầm tích Mioxen hạ, bao gồm
sự xen kẽ giữa các tập cát dày gắn kết kém với các lớp sét vôi màu xanh
thẫm, đôi chỗ gặp các lớp than và dolomit.
Trầm tích của điệp được thành tạo chủ yếu trong môi trường ven bờ và
có mặt đầy đủ trên toàn bồn trũng Cửu Long.
Trầm tích Mioxen thượng – điệp Đồng Nai (N
1
3
đn)
Trầm tích được phân bố rộng rãi trên toàn bồn trũng Cửu Long và một
phần của đồng bằng sông Cửu Long (ở giếng khoan Cửu Long 1). Trầm tích
của điệp này nằm chỉnh hợp trên trầm tích điệp Côn Sơn. Trầm tích phần dưới
gồm những lớp cát xen lẫn những lớp sét mỏng, đôi chỗ lẫn với cuội, sạn kích
thước nhỏ. Thành phần hạt chủ yếu là thạch anh, một ít những mảnh đá biến
chất, tuff. Trong sét đôi chỗ gặp than nâu hoặc bột xám sáng. Phần trên là cát
thạch anh với kích thước lớn, độ lựa chọn kém, hạt sắc cạnh. Trong cát gặp
nhiều mảnh hóa thạch sinh vật, glauconit, than và đôi khi cả tuff.
Trầm tích Plioxen –Đệ Tứ – điệp Biển Đông (N
1

-Q bđ)
Trầm tích của điệp này bất phủ chỉnh hợp lên trầm tích Mioxen. Trầm
tích của điệp này đánh dấu một giai đoạn mới của một sự phát triển trên toàn
bộ trũng Cửu Long, tất cả bồn trũng được bao phủ với biển. Điệp này được
đặt trưng chủ yếu là cát màu xanh, trắng, có độ mài mòn trung bình, độ lựa
chọn kém, có nhiều glauconit. Trong cát có cuội thạch anh hạt nhỏ. Phần trên
các hóa thạch giảm, cát trở nên thô hơn, trong cát có lẫn bột, cát có màu hồng
chứa glauconit.

SVTH : Nguyễn Minh Quang 18
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy

SVTH : Nguyễn Minh Quang 19
CÁC YẾU TỐ CẤU TRÚC PHỤ BỒN TRŨNG
BẮC CỬU LONG
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
III. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TẠO KHU VỰC BỒN TRŨNG CỬU LONG
Theo Ngô Trường San và Trần Lê Đông (hội nghò KHĐCVN-1995) đặc
điểm cấu trúc chung của thềm lục đòa phía Nam Việt Nam như sau :
Thềm lục đòa phía nam Việt Nam và vùng kế cận hợp thành đơn vò cấu
trúc kiểu vỏ lục đòa (mảng Kontum-Borneo) được gắn kết từ cuối Mesozoi
đầu Đệ Tam cùng với sự mở rộng của biển rìa “biển Đông” có kiểu vỏ
chuyển tiếp Đại Dương, tạo thành khung kiến tạo chung của Đông Nam Á. Sự
tách mảng và va chạm giữa các mảng lớn Âu-Á, Âu-Úc và Thái Bình Dương
mang tính nhòp điệu và đều được phản ánh trong lòch sử phát triển của vỏ lục
đòa Kontum – Borneo sau thời kỳ Trias và sự nhấn chìm của mảng đại dương
(Thái Bình Dương và n Độ Dương) bên dưới lục đòa dẫn đến sự phá vỡ, tách
giãn, lún chìm của rìa lục đòa u-Á tạo ra biển rìa “Biển Đông” và thềm lục
đòa rộng lớn phía Nam Việt Nam và Sunda, hình thành các đai tạo núi – uốn
nếp trẻ và cung đảo núi lửa.

Bên trong mảng Kontum-Borneo xảy ra hiện tượng gia tăng dòng đòa
nhiệt và dâng lên các khu vực. Dọc theo các đứt gãy lớn phát triển các hoạt
động xâm nhập của magma Granitoit, phun trào núi lửa axit và kiềm kể cả
bazan lục đòa. Sự chuyển động phân dò đi kèm với tách giãn tạo các rift, khai
sinh đầu tiên các trũng Molat giữa núi cuối Mesozoi – đầu Paleogen dần dần
mở rộng và phát triển thành các bể trầm tích có tiềm năng về dầu khí trên
thềm và thềm lục đòa Nam Việt Nam. Những va chạm giữa các mảng gây nên
những chuyển động kiến tạo lớn Mesozoi – Kainozoi trong mảng Kontum –
Borneo được ghi nhận vào cuối Trias (Indonesia); vào Jura (Malaysia); cuối
Creta (Sumatra); cuối Eoxen trung; cuối Oligoxen; Mioxen trung; cuối Mioxen
muộn – Plioxen.

SVTH : Nguyễn Minh Quang 20
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy

SVTH : Nguyễn Minh Quang 21
SƠ ĐỒ KIẾN TẠO KHU VỰC BỒN CỬU LONG
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
Giai đoạn thành tạo này chia làm ba thời kỳ
Thời kỳ Jura – Creta : là thời kỳ rift với sự tách giãn và sự lún phân dò
theo các đứt gãy lớn bên trong mảng Kontum – Borneo để hình thành các
trũng kiểu giữa núi như : Phú Quốc, vònh Thái Lan.
Quá trình này đi kèm magma xâm nhập Granitoit và phun trào axit dạng
Rhyolit và Andesit, Bazan và các họat động nhiệt dòch, và các chuyển động
nứt co bên trong các khối magma, tạo ra các khe nứt đồng sinh được lấp đây
bởi zeolit và canxit, cũng như tạo ra các hang hốc khác nhau.
Thời kỳ Eoxen – Oligoxen sớm : là thời kỳ phát triển của rift với các
thành hệ lục đòa, Molat phủ không chỉnh hợp trên các trầm tích Mezozoi ở
trung tâm trũng hoặc trong các đá cổ hơn ở ven rìa.
Sự chuyển động dâng lên mạnh ở các khối nâng và quá trình phong hóa

xảy ra vào đầu Paleogen tạo ra lớp phong hoá có chiều dày khác nhau trên
đỉnh các khối nâng Granit. Đó là điều kiện hết sức thuận lợi để tích tụ
hydrocacbon và cũng là tầng sản phẩm quan trọng phát hiện và khai thác hiện
nay ở trũng Cửu Long.
Thời kỳ Oligoxen – Đệ Tứ : là thời kỳ mở rộng các vùng trũng do sự lún
chìm khu vực ở rìa Nam đòa khối Kontum – Borneo, có liên quan trực tiếp với
sự phát triển của biển Đông. Trầm tích biển lan rộng dần từ Đông sang Tây.
Trên cơ sở các số liệu đòa vật lý giếng và khoan sâu ở thềm lục đòa Nam
Việt Nam, đòa tầng Đệ Tam sớm nhất được khoan qua có tuổi xác đònh
Oligoxen. Các trầm tích Molat giữa núi dự kiến tuổi Eoxen và sớm hơn chỉ
phổ biến ở trung tâm các đòa hào, ở đây chiều dài trầm tích Đệ Tam đạt 8 -10
km.
• Sự va chạm giữa các mảng vào cuối Oligoxen đã
ảnh hưởng đến sự phát triển của rìa Nam mảng Kontum – Borneo, gây ra hiện

SVTH : Nguyễn Minh Quang 22
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
tượng biển lùi và bất chỉnh hợp khu vực giữa phức hệ Oligoxen và các trầm
tích phủ lên chúng. Các chuyển động khối theo các đứt gãy đồng sinh cùng
quá trình trầm tích thừa kế bình đồ kiến tạo của móng trước Đệ Tam đã tạo ra
những cấu tạo đòa phương.
Sự nâng lên làm đa số các cấu tạo bò bào mòn ở đỉnh hoặc vát mỏng
chiều dày. Các trầm tích sét cuối Oligoxen là lớp chắn quan trọng phủ lên các
bẫy chứa dầu Oligoxen và móng trước Đệ Tam.
• Thời kỳ Mioxen tiếp theo bắt đầu bằng đợt biển
tiến ngắn vào đầu Mioxen sớm và kết thúc bằng sự dâng lên, bất chỉnh hợp
khu vực với sự gián đoạn trầm tích vào Mioxen trung. Diện tích các bồn trũng
biến đổi theo các chu kỳ dao động của mực nước biển. Thành phần sét biển
chiếm ưu thế. Vào thời kỳ này bình đồ kiến tạo Oligoxen – Mioxen hoàn toàn
bò san phẳng do không còn các chuyển động phân dò trên các đới cấu tạo thứ

cấp.
Có thể nói quy luật phân đới cấu tạo, cũng như thành phần phủ Kainozoi
trong các bồn trũng Đệ Tam được khống chế bởi sự chuyển động của móng và
các đứt gãy cổ xuyên qua móng tiếp tục hoạt động trở lại về sau. Sự chuyển
động khối đứt gãy và sự phát triển của những cấu tạo đòa phương tập trung
chủ yếu vào Oligoxen, Mioxen sớm, yếu dần vào Mioxen giữa và mất hẳn
vào Mioxen muộn.
Bồn trũng Cửu Long có bề dày trầm tích Kainozoi lấp đầy bồn trũng khá
lớn, tại trung tâm bồn trũng trên 8km. Chúng được phát sinh phát triển trên vỏ
lục đòa được hình thành trong các giai đoạn kiến tạo khác nhau.
Bồn trũng Cửu Long trải qua các hình thái phát triển bồn khác nhau như :
bồn trũng giữa núi (trước Oligoxen), bồn trũng kiểu rift (trong Oligoxen), bồn
trũng oằn võng (trong Mioxen), bồn trũng kiểu thềm lục đòa (từ Plioxen đến
nay). Các hình thái bồn này tương ứng với các ứng suất căng giãn vì vậy các

SVTH : Nguyễn Minh Quang 23
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy
đứt gãy trong bồn chủ yếu là các đứt gãy thuận và có sự thành tạo của dạng
đòa lũy, đòa hào : đây chính là tâm điểm cho sự dòch chuyển của dầu khí ở
dưới sâu lên.
Thật vậy, phần lớn các đứt gãy quan trọng trong bồn trũng Cửu Long là
đứt gãy thuận kế thừa từ móng và phát triển đồng sinh với quá trình lắng đọng
trầm tích. Các đứt gãy nghòch hiện diện ít do sự nén ép đòa phương hoặc nén
ép đòa tầng. Chúng bao gồm hai hệ thống đứt gãy sâu khu vực :
• Hệ thống theo phương Tây Bắc–Đông Nam bao
gồm các đứt gãy lớn.
• Hệ thống đứt gãy sâu Đông Bắc–Tây Nam tồn tại ở
phần biển của bồn trũng, gồm hai đứt gãy chạy song song. Đứt gãy thứ nhất
chạy dọc theo rìa biển, đứt gãy thứ hai chạy dọc theo rìa Tây Bắc khối nâng
Côn Sơn. Các đứt gãy này có góc cắm 10–15

0
so với phương thẳng đứng, cắm
sâu tới phần lớp dưới Bazan, hướng cắm về trung tâm bồn trũng. Hai đứt gãy
này khống chế phương của bồn trũng Cửu Long trong quá trình lòch sử phát
triển của mình.
Ngoài ra hệ thống đứt gãy sâu khu vực, trong bồn trũng Cửu Long còn
tồn tại các đứt gãy có độ kéo dài nhỏ hơn (có thể chỉ tồn tại trong trầm tích có
tuổi Kainozoi). Kết quả xây dựng các bản đồ cấu tạo bồn trũng cho thấy bình
đồ cấu trúc Kainozoi bò phức tạp hóa bởi ba hệ thống đứt gãy chính: Đông
Bắc–Tây Nam, Đông Tây, Tây Bắc–Đông Nam.

SVTH : Nguyễn Minh Quang 24
Khoá luận tốt nghiệp GVHD-ThS Nguyễn Ngọc Thủy

SVTH : Nguyễn Minh Quang 25
YẾU TỐ CẤU TRÚC BỒN CỬU LONG

×