Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

motif trong nghiên cứu truyện kể dân gian lý thuyết và ứng dụng – trường hợp motif tái sin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.6 KB, 27 trang )



1

DẪN NHẬP

1. Lý do chọn đề tài.
Chúng tôi chọn đề tài Motif trong nghiên cứu truyện kể dân gian: lý
thuyết và ứng dụng – trường hợp motif tái sinh với mong muốn sẽ tiếp tục
công việc của các nhà nghiên cứu văn học dân gian ở Việt Nam từ trước đến
nay, những người đã cố công chuyển dịch và giới thiệu đến giới nghiên cứu
folklore Việt Nam những lý thuyết khác nhau của các trường phái khác nhau
trên thế giới về đơn vị motif trong nghiên cứu truyện kể dân gian. Tất cả
những vấn đề lý thuyết mà chúng tôi đề cập đến trong khi thực hiện đề tài của
mình đều là những vấn đề được nhắc đến ít nhiều trong lịch sử nghiên cứu văn
học dân gian Việt Nam. Tuy nhiên mỗi học giả chỉ giới thiệu về một lý thuyết
hay phương pháp của một trường phái nào đó hoặc giới thiệu nhiều lý thuyết
nhưng chỉ điểm qua chứ chưa thành một nghiên cứu có tính toàn diện về vấn
đề này. Do vậy mục đích của chúng tôi là cố gắng tập hợp được những vấn đề
lý thuyết và phương pháp nghiên cứu motif truyện kể dân gian chủ yếu đã
từng được nhắc đến ở Việt Nam và đồng thời chúng tôi còn mong muốn rằng
mình có thể làm sâu sắc hơn, toàn diện hơn những vấn đề đó bằng các tài liệu
mà chúng tôi may mắn được tiếp cận từ các nghiên cứu nước ngoài và từ ứng
dụng cụ thể ở chương 3 của luận án.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
2.1. Từ bộ Từ điển tiêu chuẩn về văn hóa dân gian, thần thoại và truyền
thuyết được xuất bản vào năm 1950 do Maria Leach và Jerome Fried biên
soạn, chúng tôi đã sử dụng những trang viết về “Motif”, “Finish folklore” và
“Historic – geographic method” để làm rõ thêm các thuật ngữ về motif truyện
kể dân gian, trường phái Phần Lan và phương pháp địa lý lịch sử.
Để giới thiệu về sự kế thừa của nhà folklore người Phần Lan Antti Aarne


và nhà folklore người Mỹ Stith Thompson đối với phương pháp địa lý – lịch
sử của trường phái Phần Lan, chúng tôi khảo sát các luận điểm trong phần mở


2

đầu của cuốn sách Bảng phân loại và danh mục kiểu truyện dân gian do Aarne
và Thompson cùng chấp bút. Công trình này được phổ biến rộng rãi trên khắp
thế giới và được gọi tắt là Từ điển A – T (The Aarne–Thompson Classification
system).
Công trình nghiên cứu Truyện kể dân gian (1977) của Stith Thompson là
tài liệu cung cấp những thí dụ ứng dụng cụ thể do tác giả thực hiện dựa theo
phương pháp nghiên cứu địa lý – lịch sử của trường phái Phần Lan và những
dẫn chứng về việc ứng dụng nghiên cứu motif theo bình diện mối quan hệ
giữa motif và cốt truyện.
Từ công trình nghiên cứu Ý nghĩa của văn hóa dân gian của nhà folklore
người Mỹ Alan Dundes, chúng tôi đã kế thừa được nhiều luận điểm có giá trị
về cấu trúc etic – emic và sự kết hợp giữa hai đơn vị motifem - allomotif trong
phân tích cốt truyện dân gian.
2.2. Từ bài viết“Motif như là thành tố tạo ra cốt truyện” của nhà nghiên
cứu B. N.Putilov, chúng tôi nắm bắt được các định nghĩa về motif truyện kể
dân gian của nhà ngữ văn học người Nga A.N.Veselovski – người sáng lập và
đại diện của trường phái thi pháp lịch sử trong nghiên cứu truyện kể dân gian.
Bài viết “Bàn về thi pháp mang tính lịch sử của Veselovski” của nhà
nghiên cứu K.Gorky là một sự tổng kết hết sức có giá trị các quan niệm về
nguồn gốc văn học dân gian từ các học giả đi trước. Ông nhắc đến lý thuyết
thần thoại của anh em Grim, lý thuyết vay mượn của Todo Benfey hay lý
thuyết di chuyển cốt truyện của trường phái nhân loại Anh.
Công trình nghiên cứu Nhân vật truyện cổ tích thần kỳ - nguồn gốc hình
tượng của Meletinsky cung cấp một khám phá quan trọng của ông về motif

dân tộc học và motif sinh hoạt xã hội trong cấu tạo nội dung chủ đề truyện cổ
tích thần kỳ.
Bài viết “Bàn về một số khía cạnh của việc nghiên cứu đề tài văn học dân
gian” của nhà nghiên cứu S.Iu.Nekliudov tập trung vào phân tích thuật ngữ
“chức năng hành động” của nhân vật truyện cổ tích thần kỳ trong định nghĩa
của Propp, giải thích khái niệm chức năng và vai trò của đơn vị chức năng
trong quá trình tạo lập cốt truyện. Nekliudov còn dẫn ra những quan niệm của


3

nhà nghiên cứu người Mỹ Alan Dundes đã phân định vai trò khác nhau giữa
chức năng và motif.
Công trình nghiên cứu Lý thuyết motif trong nghiên cứu văn học và
folklore học nước Nga của Silantev được xem như là một bảng tổng kết đầy đủ
nhất về các quan niệm lý thuyết trong nghiên cứu truyện kể dân gian đã từng
xuất hiện trong khoa folklore học nước Nga từ đầu thế kỷ 19 cho đến hiện tại.
2.3. Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu ít nhiều có chạm đến vấn đề lý
thuyết motif truyện kể dân gian nhưng nêu lên gần như đầy đủ nhất là trong
công trình Nghiên cứu văn hóa dân gian – Phương pháp, lịch sử, thể loại của
nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên. Sau phần trình bày về các quan điểm của các
trường phái folklore về đơn vị motif, ông đã ứng dụng thực tế các phương diện
nghiên cứu của các trường phái đó. Công trình này đóng vai trò như một tài
liệu hướng dẫn mẫu mực cho cách thức thực hiện đề tài luận án của chúng tôi.
Về các khái niệm và các thuật ngữ về đơn vị motif, tên gọi và đặc điểm
của các lý thuyết nghiên cứu, các trường phái nghiên cứu văn học dân gian…,
chúng tôi tham khảo từ một số công trình nghiên cứu có tính tổng hợp, dịch
thuật và giới thiệu như Folklore thế giới – những công trình nghiên cứu cơ
bản và Folklore thế giới – một số thuật ngữ đương đại của Viện nghiên cứu
văn hóa hay Văn hóa dân gian – Những lĩnh vực nghiên cứu và Văn hóa dân

gian – những phương pháp nghiên cứu của Viện văn hóa dân gian. Công trình
nghiên cứu Các khái niệm thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học
ở Tây Âu và Hoa kỳ thế kỷ XX của I.P.Ilin và E.A.Tzurganova cùng với công
trình Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ XX đã cung cấp cho chúng tôi
một cái nhìn toàn cảnh về lí luận, phê bình văn học thế giới.
Bộ sách Tuyển tập V.Ia.Propp chứa đựng những vấn đề khoa học về lý
thuyết t nghiên cứu truyện kể dân gian cùng với những thí dụ cụ thể từ những
ứng dụng tỉ mỉ của tác giả nhằm làm sáng rõ các quan điểm lý thuyết đó.
Ngoài ra còn có những công trình có tính ứng dụng cụ thể các bình diện
nghiên cứu motif truyện kể dân gian ở Việt Nam như Người anh hùng làng
Dóng của Cao Huy Đỉnh, Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif của
Nguyễn Tấn Đắc, Cổ tích thần kỳ người Việt - đặc điểm cấu tạo cốt truyện của


4

Tăng Kim Ngân, Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam và
Đông Nam Á của Nguyễn Bích Hà, Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ
tích thần kỳ Việt Nam của Nguyễn Thị Huế.
Công trình nghiên cứu văn hóa tiền sử với quy mô rộng của nhà nghiên
cứu văn hóa người Pháp J.G.Frazer, Cành vàng – bách khoa thư về văn hóa
nguyên thủy và một công trình nghiên cứu của một học giả Việt Nam Vũ Minh
Chi, Nhân học văn hoá - con người với thiên nhiên, xã hội và thế giới siêu
nhiên cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho chúng tôi trong khi luận giải vấn
đề nguồn gốc của motif tái sinh trong truyện cổ tích Việt Nam ở chương 3 của
luận án.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu ở chương 1 và chương 2 của luận án sẽ là
motif, các trường phái nghiên cứu, các lý thuyết, các quan niệm, các phương
pháp, các bình diện nghiên cứu đơn vị motif. Đồng thời chúng tôi còn khảo

sát, phân tích cả những nghiên cứu có tính ứng dụng đối với các vấn đề lý
thuyết và các bình diện nghiên cứu motif mà chúng tôi tập hợp được.
3.2. Đối tượng nghiên cứu ở chương 3 của luận án là motif tái sinh – một
motif rất phổ biến trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam và của cả thế giới.
Phạm vi nghiên cứu của chương này sẽ là những văn bản truyện cổ tích Việt
Nam đã được cố định thành văn bản, đã được xuất bản trong các công trình
sưu tập truyện kể dân gian của cá nhân hoặc tập thể nhóm tác giả có uy tín.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án bao gồm:
Phương pháp tổng hợp, Phương pháp khảo sát và miêu tả, Phương pháp phân
tích, Phương pháp nghiên cứu liên ngành
5. Đóng góp của luận án:
Những định nghĩa, quan niệm có tính lý thuyết về motif của các trường
phái nghiên cứu folklore trên thế giới được sắp xếp và trình bày một cách có
hệ thống nhằm góp phần mang đến cho người đọc một cái nhìn khái quát, đầy


5

đủ về đơn vị motif trong nghiên cứu truyện kể dân gian. Những so sánh đối
chiếu của luận án về lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của các trường phái
với nhau sẽ cung cấp thêm cho người đọc những nhận định đánh giá về
phương diện đúng đắn hay sai lầm của từng quan niệm, về mặt mạnh và mặt
yếu của từng phương pháp trong quá trình liên hệ với thực tiễn ứng dụng. Từ
đó có thể gợi ý về một bình diện nghiên cứu hiệu quả nhất có thể ứng dụng và
phát triển trong khoa nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam.
Cách tiếp cận thực tế của luận án khi phân tích một motif quen thuộc
trong truyện cổ tích Việt Nam theo hai phương pháp nghiên cứu phổ biến đã
từng được ứng dụng rộng rãi trên thế giới về hai bình diện cấu trúc và lịch sử
motif có thể đưa ra một định hướng về phương pháp nghiên cứu đã được ứng

dụng và có thể tiếp tục ứng dụng một cách sâu sắc hơn trên phạm vi rộng
trong nghiên cứu truyện kể dân gian Việt Nam, giúp tìm hiểu một cách thấu
đáo về từng đơn vị motif trong kho tàng truyện kể dân gian Việt Nam cả về
hình thức lẫn nội dung.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần Dẫn luận, Kết luận và Phụ lục, luận án của chúng tôi được
chia làm 3 chương chính như sau:
Chương 1: Motif trong lý thuyết của một số trường phái nghiên cứu văn
học dân gian trên thế giới.
Chương 2: Một số bình diện nghiên cứu motif truyện kể dân gian.
Chương 3: Nghiên cứu motif tái sinh trong truyện cổ tích Việt Nam theo
phương pháp phân tích cấu trúc chức năng và nguồn gốc lịch sử.


6

Chương 1
MOTIF TRONG LÝ THUYẾT CỦA MỘT SỐ TRƯỜNG PHÁI
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC DÂN GIAN TRÊN
THẾ GIỚI

1.1. MOTIF TRONG LÝ THUYẾT CỦA TRƯỜNG PHÁI PHẦN
LAN
1.1.1. Từ những lý thuyết tiền đề đến lý thuyết địa lý - lịch sử của
trường phái Phần Lan
1.1.1.1. Những lý thuyết tiền đề
Trước khi có sự xuất hiện các quan niệm và phương pháp nghiên cứu
mang tính lý thuyết về motif – một đơn vị hình thành nên truyện kể dân gian
thì ngay từ đầu thế kỷ 19, việc nghiên cứu nguồn gốc truyện cổ tích đã được
đặt ra với tính cách là một vấn đề khoa học. Để tìm câu trả lời cho câu hỏi này,

có nhiều giả thuyết đã được đặt ra rồi trở thành các lý thuyết phổ biến và được
ứng dụng rộng rãi trên thế giới. Có thể kể đến như lý thuyết Ấn – Âu, lý thuyết
thần thoại, lý thuyết vay mượn, lý thuyết di chuyển cốt truyện… Lý thuyết địa
lý – lịch sử của trường phái Phần Lan cũng là sự kế thừa từ một số quan điểm
trong những lý thuyết này và đã phát triển mạnh mẽ, trở thành một trường phái
nghiên cứu truyện kể dân gian gây ảnh hưởng lớn trong khoa folklore học trên
thế giới.
1.1.1.2. Trường phái Phần Lan và sự ra đời của phương pháp địa lý–
lịch sử
Phương pháp Phần Lan ra đời dựa trên quan niệm cho rằng có sự truyền
bá văn hóa trên khắp các quốc gia theo không gian và thời gian. Tính đơn
nguồn trong truyền thống truyện kể là giả thuyết cơ bản của trường phái này.
Một truyện hình thành tại một thời điểm và một địa điểm cụ thể, sau đó thông
qua khuếch tán truyền bá khắp các châu lục nằm kề nhau, tại đây sẽ hình thành
nên các biến thể. Các điều tra viên sẽ tiến hành thu gom các biến thể của từng
thể loại theo từng khu vực và thời kỳ để tìm ra được nguồn gốc, đặc điểm và


7

thời gian của bản đầu tiên qua việc so sánh tỉ mỉ các motif hợp thành cốt
truyện. Để thực hiện được tất cả những yêu cầu của một sự nghiên cứu thích
đáng về nguồn gốc của bản kể, các nhà nghiên cứu phải có được số lượng đầy
đủ các biến thể của văn bản trong các công trình của họ, lưu ý đến thời gian và
địa điểm sưu tập mỗi văn bản và tất cả các thông tin sẵn có trên nền các yếu tố
truyền thống. Điều này đã được chứng minh căn cứ vào sự thừa nhận rằng sự
phân bố về địa lý hay phân loại học của các văn bản được bảo tồn tiết lộ tiền
sử của văn bản và rằng một số văn bản có thể hoạt động như một bản đầu tiên
nhất và duy nhất, có tầm quan trọng quyết định.
1.1.2. Phương pháp địa lý – lịch sử từ trường phái Phần Lan đến

Stith Thompson.
Theo Stith Thompson, trong folklore, motif là thuật ngữ dùng để chỉ bất
kỳ phần nào mà ở một tiết của folklore có thể phân tích ra được Lĩnh vực mà
motif được nghiên cứu nhiều nhất và nghiên cứu cẩn thận nhất là truyện kể
dân gian như các loại truyện cổ tích, truyền thuyết, ballat và huyền thoại…
Motif còn có thể chỉ là một mẫu kể ngắn, đơn giản, một sự việc gây ấn tượng
và làm vui thích người nghe [156;753].
Sau khi xác định cho mình một định nghĩa đầy đủ về đơn vị motif trong
nghiên cứu truyện kể dân gian, Stith Thompson đã tiến hành lập bảng danh
mục các motif truyện kể dân gian trên thế giới. Kết quả công việc tập hợp, sắp
xếp, phân loại motif của ông là một công trình nghiên cứu đồ sộ gồm 6 tập
sách có tên gọi Motif-index of folk-literature : a classification of narrative
elements in folktales, ballads, myths, fables, medieval romances, exempla,
fabliaux, jest-books, and local legends. Lý thuyết địa lý lịch sử trong nghiên
cứu motif của trường phái Phần Lan và cụ thể là Motif-index of folk-literature
của Stith Thompson đã làm dấy lên phong trào nghiên cứu truyện kể dân gian
theo type và motif từ khắp nơi trên thế giới.
1.2. MOTIF TRONG LÝ THUYẾT CỦA TRƯỜNG PHÁI THI
PHÁP LỊCH SỬ
1.2.1. Từ các lý thuyết tiền đề đến lý thuyết thi pháp lịch sử


8

Việc nghiên cứu folklore theo cách tiếp cận nguồn gốc lịch sử tác phẩm
của trường phái thi pháp lịch sử có sự kế thừa lý thuyết nhân học về sự tương
đồng của các kiểu, đề tài trong văn học dân gian đã xuất hiện ở Anh vào
những năm 60 của thế kỷ 19. Các nhà nghiên cứu theo trường phái này cho
rằng sự giống nhau của truyện cổ tích giữa các dân tộc được gọi là lý thuyết tự
sản sinh cốt truyện. Vào giữa thế kỷ 20, trường phái nghi lễ - huyền thoại với

đại diện là nhà nhân loại học người Anh James George Frazer và trường phái
chức năng với đại diện là Malinowski đã ra đời và phát triển mạnh mẽ ở
Phương Tây. Hai trường phái này có khuynh hướng dân tộc hóa việc nghiên
cứu văn học trên cơ sở phối hợp việc nghiên cứu các huyền thoại truyền thống
với việc nghiên cứu văn học. Đây là những lý thuyết đã tạo tiền đề và có tính
gợi mở cho sự phát triển của lý thuyết thi pháp lịch sử về sau này.
1.2.2. Trường phái thi pháp lịch sử
Người khởi xướng lý thuyết thi pháp lịch sử trong nghiên cứu folklore là
nhà ngữ văn học người Nga A.N.Veselovski (1838 – 1906) vào đầu thế kỷ 20,
ông là người đứng đầu trường phái văn học lịch sử so sánh, là người đặt nền
móng và cũng là người đại diện lớn nhất của trường phái này. Veselovski đã
có sự kế thừa và phát triển toàn diện những lý thuyết nghiên cứu truyện kể
dân gian trước đó như lý thuyết nhân loại học, lý thuyết chức năng, lý thuyết
nghi lễ - huyền thoại.
Kế thừa các quan niệm lý thuyết đi trước, các nhà nghiên cứu thuộc
trường phái thi pháp lịch sử cũng cho rằng có thể dễ dàng tìm ra được cội
nguồn của motif truyện cổ tích trong các huyền thoại cổ xưa, trong các phong
tục và quan niệm nguyên thủy, phản ánh những đặc trưng tâm lý thuần nhất
trong tư duy nguyên thủy của toàn bộ nhân loại.
Phương pháp nghiên cứu truyện kể bằng cách tiếp cận nguồn gốc lịch sử
bắt đầu từ Veselovski tiếp tục được vận dụng với sự kế thừa có bổ sung của
nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu folklore sau này mà tiêu biểu là V.Ia.Propp và
E.M.Meletinsky, đã hình thành nên trường phái thi pháp lịch sử có nhiều đóng
góp to lớn trong nghiên cứu văn học dân gian thế giới.


9

1.3. MOTIF TRONG LÝ THUYẾT CỦA TRƯỜNG PHÁI THI
PHÁP CẤU TRÚC

1.3.1. Hình thái học truyện cổ tích thần kỳ và lý thuyết cấu trúc chức
năng
Phương pháp cấu trúc - chức năng trong nghiên cứu truyện kể dân gian
theo quan niệm của V.Ia.Propp là một phương pháp được thực hiện với sự kết
hợp giữa hai đơn vị cơ bản tạo nên truyện kể dân gian là chức năng và motif.
Bước đầu tiên của phương pháp này là cần phải xác định được một cấu trúc
bền vững của từng thể loại truyện kể, nghĩa là cần phải hình thức hóa các dạng
xác định của cốt truyện nhằm mục đích có thể phân loại hợp lý hơn các cốt
truyện vào trong những thể loại truyện kể khác nhau.
Ta thấy rằng để xác định được cấu trúc của truyện cổ tích thần kỳ, Propp
đã tìm ra đơn vị chức năng, là những yếu tố bền vững có thứ tự liên kết chặt
chẽ trong các cốt truyện khác nhau. Sau khi đã xác định được mô hình chức
năng của truyện cổ tích thì bước thứ 2 của phương pháp cấu trúc là quay về
nghiên cứu các motif đã tìm thấy được trong cốt truyện nhờ vào quá trình phân
tích cấu trúc chức năng ở bước 1.
1.3.2. Sự khác nhau giữa hai đơn vị motif và chức năng theo lý
thuyết cấu trúc – chức năng
Khái niệm chức năng được Propp định nghĩa như sau: “Danh từ chức
năng chỉ hành vi của nhân vật được xác định theo hạn điểm giá trị của nó đối
với tiến trình hành động” và “những yếu tố thường xuyên cố định của truyện
cổ tích là chức năng của những con người hoạt động độc lập với chỗ họ là ai
và những việc ấy được thực hiện như thế nào”. Khái niệm motif theo quan
điểm của Propp chính là những thành phần được tạo ra từ sự kết hợp của các
chức năng đó – “chức năng của nhân vật hành động thì có thể làm thành
những bộ phận có thể dùng để thay thế cho thuật ngữ motif của Veselovski”.
Propp đặt hai đơn vị motif và chức năng vào trong mối tương quan với
đơn vị cốt truyện để phân biệt sự khác nhau trong vai trò của chúng đối với


10


việc nghiên cứu cốt truyện. Tuy vai trò của chúng khác nhau song đều có ý
nghĩa quan trọng như nhau về mặt phương pháp luận, cả hai đều có vai trò tạo
nên tính hệ thống trong cốt truyện. Tuy nhiên chức năng tạo nên tính hệ thống
về mặt cấu trúc (tạo cấu trúc) còn motif tạo nên tính hệ thống về mặt chủ đề
(tạo chủ đề). Thực chất theo quan điểm cấu trúc học, thì đơn vị nhỏ nhất tạo
nên tính hệ thống chính là chức năng còn theo quan điểm ngữ nghĩa học thì
đơn vị nhỏ nhất không thể phân chia được về mặt ngữ nghĩa đó chính là motif.
1.3.3.Từ trường phái thi pháp cấu trúc đến thuyết nhị nguyên về
motif
Dựa vào những quan niệm có tính gợi mở về sự bất biến của motif ở hai
phương diện cấu trúc và ngữ nghĩa mà Propp đã trình bày trong công trình
Hình thái học truyện cổ tích thần kỳ, các nhà nghiên cứu folklore Nga sau này
đã tiếp tục triển khai và hình thành nên lý thuyết nhị nguyên về motif truyện
kể dân gian.
Trên cơ sở quan niệm về tính nhị nguyên (cấu trúc và ngữ nghĩa) của
motif, Silantev lí giải, trên thực tế, theo cách hiểu của Veselovski và những
người đại diện của cách tiếp cận ngữ nghĩa, thì motif là một toàn thể bất khả
phân không phải từ quan điểm cấu trúc logic của nó mà từ quan điểm ngữ
nghĩa có giá trị về mặt thẩm mỹ và hình tượng, liên kết và thống nhất những
thành tố mang tính logic của motif. Trong đó hiện tượng biến hóa của cốt
truyện không hề phá hủy tính toàn vẹn ngữ nghĩa của nó. Ý nghĩa cụ thể của
những biến thể cốt truyện của motif, ngược lại chỉ góp phần bảo vệ sự thống
nhất về mặt ngữ nghĩa của motif mà thôi”[148].
Công lao của việc xây dựng lý thuyết nhị nguyên về motif là thuộc về
nhà nghiên cứu văn học dân gian người Mỹ, ông Alan Dundes. Bằng cách mô
phỏng các thuật ngữ ngôn ngữ học, Dundes cho rằng có thể gọi khái niệm
chức năng của Propp là các motifem (motif vị) dựa theo thuật ngữ phoneme
(âm vị) và những biến thể chức năng là các allomotif (biến thể motif) tương
ứng với thuật ngữ allophem (biến thể âm vị). Như vậy khi triển khai nghiên

cứu cốt truyện cụ thể thì các motifem và các allomotif có mối quan hệ với các


11

đơn vị chất liệu tạo nên motif. Motifem chính là cái bất biến ở phương diện cơ
cấu ngữ nghĩa của motif và allomotif là biểu hiện cụ thể của cái bất biến trong
những nội dung câu chuyện khác nhau [152].
1.4. MOTIF TRONG LÝ THUYẾT CỦA TRƯỜNG PHÁI PHÂN
TÂM HỌC
1.4.1. Trường phái phân tâm học
Jung là nhà tâm lý học nổi tiếng người Thụy Sỹ, cũng như thầy của mình,
ông rất quan tâm đến lĩnh vực vô thức trong tâm thần con người. Tuy nhiên,
khác với Freud, Jung chia vô thức thành hai tầng bậc, tầng trên thuộc về kinh
nghiệm cá nhân còn tầng dưới thuộc về kinh nghiệm tập thể - là những vô thức
nguyên thủy được chia sẻ trong di sản tâm thức của tất cả các thành viên trong
gia đình loài người. Jung cho rằng những hình ảnh xuất hiện trong giấc mơ
của con người sẽ gợi nhớ đến các motif của huyền thoại và truyện cổ tích, đó
chính là những hình ảnh nguyên thủy, những cổ mẫu. Nếu Freud cho rằng nằm
sâu bên trong tiềm thức của con người là “cái mặc cảm” thì đối với Jung, đó
chính là những cổ mẫu và cái cổ mẫu này là những thành tố của các cấu trúc
tâm lý, là sản phẩm của ý thức nguyên thủy và chính là những motif được thể
hiện trong huyền thoại và truyện cổ tích.
1.4.2. Cổ mẫu huyền thoại và motif trong văn học dân gian:
Ta có thể thấy rằng, đối với lĩnh vực văn học dân gian, cổ mẫu với tư
cách là những vô thức tập thể đã được ẩn sâu tầng tầng lớp lớp trong các motif
truyện kể, trong các huyền thoại – là nơi chứa đựng những ký ức chung của
cộng đồng người nguyên thủy. Có thể thấy được sự tương đồng giữa khái
niệm cổ mẫu và motif trong nghiên cứu văn học, motif cũng như cổ mẫu là
những hình ảnh, những biểu tượng, những hành động… đặc trưng được lặp đi

lặp lại trong nhiều tác phẩm khác nhau. Đi tìm cổ mẫu trong sáng tác của một
nhà văn tức là đi tìm những ám ảnh vô thức, những yếu tố tâm thần của nhà
văn đó thường xuyên lặp lại trong cả sự nghiệp sáng tác của họ. Còn một chi
tiết nào đó trong truyện kể dân gian để được thừa nhận là motif hay không
trước tiên phải thể hiện ở sự xuất hiện thường xuyên của nó trong nhiều cốt


12

truyện khác nhau, đồng thời đó phải là những chi tiết đặc biệt, gây chú ý và
đóng vai trò quan trọng trong diễn biến cốt truyện. Đó là còn chưa kể đến vấn
đề cội nguồn dân tộc, văn hóa nguyên thủy hay tư duy của nhân loại từ thưở
bình minh của loài người được thể hiện thông qua nội dung của những motif
đó, bằng cách trực tiếp, bằng cách đảo ngược, thêm bớt hay có thể làm biến
dạng nó đi. Đồng thời “những motif và chủ đề giống nhau có thể được tìm
thấy trong nhiều hệ huyền thoại khác nhau, và một số hình ảnh trở đi trở lại
trong huyền thoại của các dân tộc cách xa trong thời gian và không gian có
khuynh hướng mang một ý nghĩa chung, hoặc chính xác hơn, có khuynh
hướng gợi ra những phản ứng tâm lý có thể so sánh được và phục vụ những
chức năng văn hóa giống nhau. Những motif và hình ảnh như thế được gọi là
cổ mẫu” [15;157].
1.5. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Các lý thuyết của những trường phái mà chúng tôi nhắc đến bao gồm lý
thuyết Ấn – Âu, lý thuyết vay mượn, lý thuyết di chuyển, lý thuyết nhân loại
học, lý thuyết chức năng, lý thuyết nghi lễ huyền thoại, lý thuyết thi pháp lịch
sử, lý thuyết cấu trúc chức năng, lý thuyết phân tâm học… Tất nhiên sẽ còn
nhiều những lý thuyết khác nữa về đơn vị motif trong nghiên cứu truyện kể
dân gian trong khoa nghiên cứu folklore học trên khắp thế giới mà chúng tôi
không thể bao quát được và cũng không có tham vọng làm được điều đó trong
phạm vi luận án của mình.

Tóm lại, dù giữa các trường phái và trong bản thân của mỗi trường phái
còn tồn tại rất nhiều những quan niệm lý thuyết khác nhau, hoặc cùng một
quan niệm nhưng lại được triển khai theo nhiều phương pháp nghiên cứu khác
nhau; thậm chí đôi khi có những ý kiến cực đoan, những khẳng định thiếu tính
thuyết phục và không mấy khoa học cùng với những niềm tin sai lầm về mặt
quan điểm nhưng chính sự cố công truy tìm nguồn gốc, bản chất motif truyện
kể dân gian trên thế giới của các trường phái đã khiến cho việc nghiên cứu
truyện kể dân gian vượt khỏi phạm vi của quốc gia và trở thành một vấn đề
mang tầm vóc quốc tế. Cho đến nay việc tìm kiếm những quan điểm mới về


13

motif, phương pháp nghiên cứu truyện kể dân gian bằng motif, cùng với sự
ứng dụng các quan điểm và các phương pháp đó trong khoa nghiên cứu
folklore học trên cơ sở khuynh hướng nghiên cứu liên ngành vẫn tiếp tục phát
triển theo với sự phát triển ngày càng phong phú của các ngành khoa học xã
hội và nhân văn.






14

Chương 2

MỘT SỐ BÌNH DIỆN
NGHIÊN CỨU MOTIF TRUYỆN KỂ DÂN GIAN


2.1. NGHIÊN CỨU MOTIF TRÊN BÌNH DIỆN CẤU TẠO
Tại sao motif là một đơn vị nghiên cứu truyện kể dân gian lại là một công
thức được cấu tạo bởi nhiều thành phần và làm thế nào để xác định được các
thành phần đó? Khi chấp nhận tính nhiều thành phần và tính có thể phân chia
được của motif, nghĩa là chúng ta đang xem xét motif trên bình diện của lý
thuyết hình thái học. Như vậy để có thể đảm bảo được tính toàn vẹn về mặt
ngữ nghĩa, đảm bảo được chức năng chuyển tải một chủ đề, một nội dung đầy
đủ có đặc điểm “khác thường, gây chú ý, gây ấn tượng”… thì về mặt nguyên
tắc mà ai cũng có thể nhận ra là motif đương nhiên phải chứa đựng nhiều
thành phần, các thành phần đó kết hợp với nhau mới có thể tạo nên một nghĩa
toàn vẹn. Tóm lại khi đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu motif truyện kể dân gian
trên bình diện cấu tạo, chúng tôi thấy cần đảm bảo được các nguyên tắc như
sau:
- Miêu tả hình thái học về motif như là một đơn vị trần thuật truyền
thống của cốt truyện dân gian, tuy nhiên việc miêu tả không phải được thực
hiện với tất cả mọi motif vì cho dù cùng tham gia cấu thành cốt truyện về mặt
hình thái nhưng vai trò của các motif lại không giống nhau trong việc tạo nên
ý nghĩa chủ đề của cốt truyện. Những motif được chọn để miêu tả cấu tạo hình
thái của nó phải là những motif có ý nghĩa truyền thống quan trọng nhất, chứa
đựng nhiều chủ đề cả về mặt phong tục lẫn sinh hoạt xã hội, đồng thời phải là
motif đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được trong việc tìm hiểu nội
dung cốt truyện.
- Motif cần được miêu tả dựa trên cơ sở nghiên cứu so sánh giữa các cốt
truyện có chứa đựng motif, giữa các cốt truyện thuộc cùng một kiểu truyện
hay một thể loại truyện kể dân gian.


15


- Miêu tả cấu tạo hình thái của motif là bước đầu của việc nghiên cứu
motif trên bình diện nguồn gốc và sự biến đổi lịch sử.
2.2. NGHIÊN CỨU MOTIF TRÊN BÌNH DIỆN NGUỒN GỐC
VÀ SỰ BIẾN ĐỔI LỊCH SỬ
2.2.1. Bình diện nguồn gốc lịch sử
Từ những tiền đề lý thuyết và những ví dụ của Propp trong Những căn rễ
lịch sử của truyện cổ tích thần kỳ, ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc
nghiên cứu motif truyện kể dân gian theo bình diện nguồn gốc lịch sử. Tuy
nhiên cũng cần phải xác định rằng không phải bất kỳ motif truyện kể được tìm
thấy ở một dân tộc nào cũng có thể có nguồn gốc trực tiếp từ lịch sử phong tục
nghi lễ của chính dân tộc đó. Chẳng hạn như khi nghiên cứu một motif nào đó
trong truyện kể dân gian Việt Nam, ta sẽ phát hiện được sự giống nhau rõ ràng
giữa motif truyện với những motif dân tộc học cụ thể thuộc các nền văn hóa
của các dân tộc Việt Nam, tuy nhiên cũng có những motif truyện kể dân gian
Việt Nam không thể tìm thấy nguồn gốc rõ ràng trong các motif dân tộc học
của chính nước mình. Những motif dân tộc học này, hiểu theo nghĩa là motif
truyện cũng có thể có một mối quan hệ xa xôi nào đó với những motif truyền
thống của văn học dân gian của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Qua lịch
sử hình thành và phát triển, giao lưu và tiếp biến văn hóa, Việt Nam có thể kế
thừa và tiếp nhận những motif ấy chứ đó không phải là những motif có căn rễ
trực tiếp từ motif dân tộc học của chính mình.
Nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên cho rằng qua hàng loạt công trình
nghiên cứu về truyện cổ tích của Propp người ta thấy rõ ông có khuynh hướng
đặc biệt chú ý đến các trường hợp trong đó có những cốt truyện và những
motif “không xuất phát trực tiếp rõ ràng từ thực tại lịch sử”, các trường hợp
những cốt truyện và motif đó nảy sinh “trên cơ sở một quá trình tư duy nào đó
còn chưa được nghiên cứu và chưa được biết rõ”. Để phát hiện ra những điều
bí ẩn của một cốt truyện, một motif (đôi khi cả một thể loại) theo ông, thứ nhất
cần phải tìm ra cho được cái nền móng dân tộc học nằm ở đầu nguồn của nó,
thứ hai cần nêu lên hệ thống những quan niệm có liên quan với nó, và thứ ba



16

cần theo dõi con đường chuyển hóa cái nền móng dân tộc học đó thành các sự
kiện folklore, con đường đó có tính quy luật và nhất quán [18;363 ]. Đồng
thời, “nếu như ta thấy trong các công trình nghiên cứu của V.Ia.Propp đầy rẫy
những sự phân tích dân tộc học thì đấy không phải là việc phân tích bản thân
các dữ kiện dân tộc học mà là phân tích quá trình chuyển hóa các dữ liệu dân
tộc học thành các dữ liệu folklore nhằm mục đích phát hiện ra cái cơ chế của
sự chuyển hóa đó”.
2.2.2. Bình diện biến đổi lịch sử
Nghiên cứu sự chuyển hóa, biến đổi của motif truyện cổ tích là một trong
những thao tác quan trọng để nhận diện được mối liên hệ của đời sống motif
truyện kể với môi trường lịch sử xã hội của con người, nơi mà motif nảy sinh,
phát triển và biến đổi. Nghiên cứu sự biến đổi có quan hệ với nghiên cứu
nguồn gốc, việc nghiên cứu sự chuyển hóa đa dạng của motif trong các giai
đoạn phát triển của lịch sử xã hội giúp nhận diện được cái mẫu gốc đầu tiên
mà motif thể hiện.
Do đặc điểm của đời sống motif là có khả năng biến đổi, chuyển hóa
không những từ đề tài - cốt truyện này sang đề tài - cốt truyện khác, mà cả
trong những dị bản của cùng một đề tài - cốt truyện nên việc xác định được tất
cả các hình thức thể hiện khác nhau của cùng một motif sau khi đã biến đổi
trong nhiều cốt truyện khác nhau sẽ giúp ta hiểu được sâu sắc hơn cả sự thâm
nhập và ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố văn hóa xã hội vào văn học, đặc
biệt là văn học dân gian qua các thời kỳ lịch sử. Thao tác nghiên cứu này yêu
cầu phải xem xét truyện cổ tích trong mối quan hệ với hoàn cảnh ra đời và môi
trường sinh tồn của nó vì các nguyên nhân gây ra sự chuyển hóa motif thường
ở bên ngoài truyện cổ tích và trong đời sống lịch sử của xã hội loài người. Do
vậy mà chúng ta không thể nào hiểu được sự tiến triển và biến đổi liên tục của

motif nếu không đối chiếu bản thân truyện cổ tích với môi trường con người là
nơi nảy sinh và cũng là nơi sinh tồn của nó
.


17

2.3. NGHIÊN CỨU MOTIF TRÊN BÌNH DIỆN MỐI QUAN HỆ
GIỮA MOTIF VÀ CỐT TRUYỆN
2.3.1. Motif như là những thành phần kết hợp với nhau tạo nên cốt truyện
Trong mối tương quan với từng cốt truyện riêng lẻ, có thể có một motif
nào đó giữ vai trò quan trọng không thể thiếu được trong cấu tạo cốt truyện
đó. Tuy nhiên khi chuyển sang một cốt truyện khác hoặc khi kết hợp với
những nhóm motif khác để tạo nên một kiểu truyện nào đó thì motif ấy có thể
lại trở thành một motif đóng vai trò thứ yếu mà thôi.
Về quan hệ giữa motif và cốt truyện, Veselovski cho rằng trong tất cả các
mối quan hệ và trên tất cả các thang bậc thì motif bao giờ cũng là cái gì đó có
trước và cốt truyện là cái có sau, motif luôn luôn sơ đẳng hơn, đơn giản hơn
cốt truyện, motif là yếu tố nhỏ nhất cấu tạo nên type, nghĩa là motif ở trong type
và type bao trùm lên motif. Motif là một đơn vị cấu tạo nên cốt truyện với vai
trò là một thành phần, một mắc xích của cốt truyện, vai trò là một “mắt xích”
của motif được thể hiện theo khía cạnh hình thái học. Veselovski còn cho rằng,
vì motif là một thành phần của cốt truyện, một thành phần của hệ thống cốt
truyện nên motif vận hành như là một thành phần của hệ thống, nó có một vị trí
xác định, một nội dung cụ thể trong hệ thống đó. Cùng với các motif khác nó
tạo ra hệ thống. Mọi motif đều liên quan đến cốt truyện và liên quan đến các
motif khác trong cốt truyện, nghĩa là liên quan đến các thành phần trong cái
toàn thể. Tức là có tồn tại một số bình diện liên hệ giữa các motif bên trong cốt
truyện và mỗi bình diện như thế đều đáng được chú ý [151].
2.3.2. Cốt truyện được hình thành bởi sự kết hợp giữa hai đơn vị

motif và chức năng.
Dundes đưa ra gợi ý, nếu xem motif hay type như là những đơn vị không
có cấu trúc thì có thể thay thế bằng thuật ngữ chất liệu (etic), ngược lại nếu coi
chúng là những cấu trúc có thể quan sát được theo kinh nghiệm thì có thể thay
bằng thuật ngữ chức năng (emic) trong mô hình etic – emic của nhà nghiên
cứu ngôn ngữ Kenneth Pike. Theo ông, có thể phân biệt đơn vị motif và đơn vị
chức năng của Propp trong nghiên cứu truyện kể dân gian dựa theo cách phân


18

biệt hai thuật ngữ etic và emic trong nghiên cứu về ngôn ngữ học của Pike.
Cách tiếp cận etic cũng như tiếp cận motif là không theo cấu trúc nhưng có thể
phân loại trong những phạm trù hợp lý của các hệ thống kiểu truyện, thể
loại… mà không cần phải cố gắng làm cho chúng tương ứng với những cấu
trúc thực tế trong các dữ liệu cụ thể. Ngược lại cách tiếp cận emic, cũng như
tiếp cận chức năng là cách tiếp cận cấu trúc, xem chúng như là bộ phận bất
biến của cái toàn thể lớn hơn mà nó có liên quan, từ đó chúng mới có được ý
nghĩa cơ bản. Vì vậy, etic cũng như motif là các đơn vị dùng để xử lý các dữ
liệu so sánh giữa các nền văn hóa, vì những mục đích đặc biệt có thể tách
chúng ra khỏi nội dung hay hệ thống các tình tiết nội tại của chúng để nhóm
chúng lại với nhau trên phạm vi toàn thế giới mà không cần phải đặt chúng
vào trong mối quan hệ với bất kỳ cấu trúc cụ thể nào [152;96].
Đồng thời, Dundes còn chỉ ra rằng giữa cấu trúc ngôn ngữ của Pike và cấu trúc
truyện cổ tích thần kỳ của Propp có sự trùng hợp ngẫu nhiên một cách lạ thường
trong việc xác định đơn vị nhỏ nhất bất biến của hệ thống. Đơn vị nhỏ nhất trong mô
hình tính năng của Pike là motifeme, tương đương với đơn vị chức năng của Propp,
vì vậy các motif khác nhau có thể dùng trong các motifeme hay các chức năng khác
nhau. Ngược lại Dundes còn đưa ra các ví dụ về trường hợp các motif khác nhau có
thể được dùng trong các motifem giống nhau… Những biến thể khác nhau của motif

được dùng để điền đầy một motifem như các thí dụ ở trên được Dundes gọi là các
allomotif. Tóm lại, việc nghiên cứu cốt truyện theo cách tiếp cận hai đơn vị motif và
motifem đã cho thấy vai trò của chức năng trong cơ chế tạo dựng cấu trúc truyện kể
và vai trò của các allomotif là cụ thể hóa các chức năng và tạo nên diễn biến của
truyện kể.
2.3.3. Motif như là hạt nhân đầu tiên có thể tiến hóa thành cốt truyện
Theo Veselovski, phải tách các vấn đề về motif ra khỏi các vấn đề về cốt
truyện. Bởi các lý do, motif có thể là hạt nhân của cốt truyện, trải qua một quá
trình gia tăng, nối dài, phát triển, nó sẽ trở thành cốt truyện. Trong trường hợp
này, Veselovski xem xét cốt truyện như là sự tiến hóa tất yếu của motif hay
motif có thể phát triển thành cốt truyện. Như vậy rõ ràng là không phải cốt


19

truyện là sự cộng gộp đơn giản của những motif tạo ra nó mà lúc này bên
trong motif sẽ xuất hiện những tính chất mới, những đặc trưng, khả năng và
quy luật riêng của mình. Theo ý nghĩa đó thì motif có thể được định nghĩa như
là những khái quát hóa đơn giản nhất, theo thời gian có thể tạo nên những khái
quát hóa phức tạp hơn.
Quan niệm của Veselovski về motif là đơn vị đầu tiên sơ khởi, là khái
quát hóa đơn giản nhất, theo thời gian nó liên tục biến đổi, gia tăng, nối dài,
được đắp thêm những tình tiết trong sinh hoạt thực tại của xã hội và cuối cùng
là chuyển hóa thành cốt truyện sau này được E.M.Meletinsky tiếp tục triển
khai trong các nghiên cứu của mình. Tuy nhiên thay vì đồng nhất nguồn gốc
và sự biến đổi lịch sử xã hội cho cùng một motif thì Meletinsky lại chia ra
thành hai loại motif là motif dân tộc học và motif sinh hoạt xã hội. Đồng thời
khẳng định cốt truyện là sự kết hợp của hai loại motif này.
2.4. TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trên bình diện cấu tạo cần phải hiểu cái cấu trúc của bản thân motif, hiểu

được sự đa dạng của các thành phần trong motif, hiểu được khả năng có những
hình thức mới có thể được sản sinh ra từ motif đầu tiên thông qua sự thay thế
đa dạng của các thành phần trong motif. Nhiệm vụ nghiên cứu này gắn với
việc truy tìm nguồn gốc và sự biến đổi lịch sử của motif dựa vào những hình
thức chuyển hóa đa dạng của motif trong các cốt truyện khác nhau - đây chính
là bước triển khai của bình diện nghiên cứu nguồn gốc và biến đổi lịch sử.
Bình diện mối quan hệ giữa motif và cốt truyện là hướng nghiên cứu sẽ được
thực hiện có hiệu quả nếu đã nắm được cấu trúc hình thức và nội dung lịch sử
chứa đựng bên trong bản thân mỗi motif. Đặt motif vào trong mối quan hệ với
từng cốt truyện riêng lẻ cụ thể hoặc với từng kiểu truyện và thậm chí là từng
thể loại truyện kể khác nhau sẽ giúp hiểu được thấu đáo vị trí, vai trò và chức
năng của motif trong quá trình tạo nên cốt truyện. Đồng thời để nhận thấy
được có những hình thức cấu tạo mang tính công thức trong một kiểu truyện
nào đó thông qua sự kết hợp giữa các motif đã tham gia tạo nên những biến
thể đa dạng của nó.


20

Chương 3

NGHIÊN CỨU MOTIF TÁI SINH
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM THEO PHƯƠNG PHÁP
PHÂN TÍCH CẤU TRÚC CHỨC NĂNG VÀ NGUỒN GỐC LỊCH SỬ

3.1. VỀ CÁC KHÁI NIỆM
3.1.1. Motif tái sinh trong truyện cổ tích Việt Nam
Motif tái sinh trong truyện cổ tích Việt Nam là những tình tiết chỉ hiện
tượng sống lại của nhân vật trong truyện kể sau khi đã chết đi vì một lý do nào
đó. Theo chúng tôi, nội dung khái niệm tái sinh nhất thiết phải bao hàm hai

yếu tố: (1) Chết (đã chết)+(2) Sống (sống lại). Trong quá trình khảo sát, chúng
tôi thấy nổi lên hai loại dạng thức chính của motif tái sinh:
a. Nhân vật sống lại do đầu thai hoặc do hóa thân.
b. Nhân vật sống lại từ bộ phận còn lại của cơ thể hoặc do tác động
từ các tác nhân bên ngoài

3.1.2. Phương pháp phân tích cấu trúc chức năng và phương pháp
phân tích nguồn gốc lịch sử
Với phương pháp phân tích cấu trúc chức năng, chúng tôi đã xem xét
motif tái sinh như là một đơn vị, một thành phần cấu tạo nên truyện kể dân
gian với vai trò là những yếu tố được nhóm lại với nhau xung quanh chức
năng của nhân vật hành động.
Khi nghiên cứu motif tái sinh với chức năng là một nhân tố cấu thành cốt
truyện cổ tích, chúng tôi liên hệ với hoàn cảnh lịch sử của dân tộc về các mặt
quan niệm tâm linh, phong tục tập quán, tín ngưỡng và tôn giáo dân gian hay
các nghi lễ thực hành ma thuật nguyên thủy… để tìm ra cội nguồn lịch sử của
motif này. Qua đó chúng tôi nhận ra sự tương đồng của motif tái sinh trong


21

các cốt truyện khác nhau có nguồn gốc tự sinh trong lịch sử phát triển của dân
tộc và là một motif dân tộc học được chuyển tải vào truyện kể dân gian.
3.2. NGHIÊN CỨU MOTIF TÁI SINH TRONG TRUYỆN CỔ
TÍCH VIỆT NAM THEO PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH CẤU TRÚC
CHỨC NĂNG
3.2.1. Đối thủ gây tai họa hay thiệt hại cho một người trong gia đình
(Việc làm hại - A)
- Arin quay lại phía vợ, đôi mắt đỏ ngầu. Với con dao dính đầy máu trăn
trong tay, chàng đâm Kaly chết (Chàng Arin)

- Rây Dính xuống đến nơi thì Bóc Xét chặt đứt cây tre cho Rây Dính hết
đường về nhà. Côn Ken biết vợ đã bị người ở mặt đất bắt đi nên dùng dao giết
cả hai con rồi tự tử (Trồng tre lên trăng).
3.2.2. Nhân vật chính bị truy nã (Sự truy nã - Pr)
- Ú chết hóa thành chim, Cao làm thịt chim, chỗ chôn xương chim mọc
lên một cây cà. Cao luộc cà ăn, hột cà mọc thành cây cam, cây cam chỉ có một
quả rơi vào bị bà già (Ú và Cao).
- Khao chết hóa thành chim cu, Đăm ăn thịt chim, lông chim mọc thành
cây tre ngà. Đăm đốn tre nhóm bếp, còn một đoạn tre cháy dở cho bà già xin
lửa (Nàng Khao – Nàng Đăm).
3.2.3. Nhân vật chính thoát khỏi sự truy nã (Sự thoát khỏi - Sp)
- Con vợ cả đầu thai thành một con trâu đực hoa rất đẹp (Sp
3
) khiến mẹ
con vợ lẽ không nhận ra được (Chàng Trâu).
- Gầu Nà hóa thân nhiều lần cũng bị hại, lần cuối hóa thành một chiếc
nhẫn (Sp
3
). Một bà già mang nhẫn cất vào trong hủ (Sp
5
) (Gầu Nà – Gầu
Rềnh).
3.2.4. Nhân vật chính được nhận ra (Sự nhận ra – Y)


22

- Bị ép duyên, nàng con gái họ Phàng tự tử trên kiệu hoa, đầu thai vào
nhà họ Đặng, trên lưng còn hình hai bông hoa gạo. Người yêu của nàng đến
nhà họ Đặng và nhận ra nàng (Mối tình chung thủy).

- Một hôm thấy con đang chơi dưới sàn, Ý Ưởi vờ đánh rơi thoi và thò
tay xuống nhờ con nhặt hộ. Con nhận ra cánh tay mẹ liền chạy về nhà gọi bố.
Chồng con Ý Ưởi nhận ra nàng (Ý Ưởi – Ý Nọong).
3.2.5. Nhân vật chính mang diện mạo mới (Sự chuyển - T)
a. Nhân vật chính mang diện mạo mới nhờ tác động của hành động
pháp thuật (T
1
).
- Trời lấy dao bằm nát thân thể chàng Một Nửa như bột tro, dùng lá
môn gói lại rồi nắn thành người đầy đủ. Chàng sống lại (Chàng Một Nửa).
- Chồng của M’Đi mổ bụng trăn, lôi xác M’Nga ra, rửa sạch bằng nước
mưa và nước suối cho trôi hết dòi bọ, băm nát thân thể, dùng lá môn gói lại
thành người, M’Nga sống lại xinh đẹp hơn xưa (Lấy chồng rắn).
b. Nhân vật chính mang diện mạo mới không nhờ tác động của
hành động pháp thuật (T
1’
).
- Quả thị rơi xuống, Từ trong quả thị Gơ Liu bước ra thành một cô gái
xinh đẹp, có đôi mắt sáng như ánh trăng, có cặp môi tươi như cánh hoa hồng
mới nở (Gơ Liu – Gơ Lát).
- Ính ngượng vì thấy Inh đẹp quá, người Inh đẫy đà, mái tóc dài đen
nhánh, bộ mặt xinh tươi, bộ váy áo mới nguyên, màu sắc rực rỡ (Ính và Ính).
3.3. NGHIÊN CỨU MOTIF TÁI SINH TRONG TRUYỆN CỔ
TÍCH VIỆT NAM THEO PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH NGUỒN GỐC
LỊCH SỬ
3.3.1. Tái sinh trong tín ngưỡng thờ nước của dân gian
Sự xuất hiện lặp lại nhiều lần dưới nhiều hình thức đa dạng của tác nhân
nước trong motif tái sinh trong truyện cổ tích Việt Nam đã chứng tỏ được rằng
ở nước ta, ngay từ thời xa xưa, loài người đã ý thức được tầm quan trọng của



23

nước đối với việc hình thành nên và duy trì sự sống của mình. Chính vì quan
niệm như thế mà con người đã gán cho nước sức mạnh của thần linh bằng sự
tôn kính và cả nỗi khiếp sợ của mình. Gắn liền với những quan niệm về chức
năng sinh sản và tái sinh của nước cũng như những tư duy nguyên thủy về sức
mạnh ma thuật của thần nước, thần mưa mà ở nước ta đã tồn tại nhiều tín
ngưỡng dân gian có liên quan đến nước như tục thờ nước, thờ thần nước hay
thần mưa. Đi kèm với những tín ngưỡng dân gian đó là những thực hành ma
thuật có từ thời nguyên thủy và vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Những quan
niệm và thực hành ma thuật có liên quan đến tín ngưỡng thờ nước ấy đã được
chuyển tải vào trong văn học dân gian và đã trở thành một bộ phận quan trọng
trong việc cấu thành nên motif tái sinh trong kho tàng truyện kể dân gian nước
ta.
3.3.2. Tái sinh trong tín ngưỡng thờ Cây của dân gian
Với chức năng làm tái sinh người chết được thể hiện trong truyện cổ tích,
cây đã được gắn cho một đặc tính thiêng liêng ở bậc cao nhất trong sự sùng
bái của loài người. Những quan niệm có tính ma thuật của con người về chức
năng sinh sản và tái sinh của cây đã nâng loài thực vật này lên thành vật tổ của
rất nhiều dân tộc ở nước ta và trên toàn thế giới.
Những quan niệm của dân gian về chức năng sinh sản và khả năng làm
cho người chết sống lại của cây cối đã được chuyển tải vào văn học dân gian
trong hình thức của một motif truyện kể - motif tái sinh. Đồng thời từ ý nghĩa
phong tục, tín ngưỡng trong dân tộc học như lòng biết ơn, sự tôn sùng của con
người đối với những lực lượng thần linh vô hình trong thiên nhiên như thần
nước, thần cây… đã chở che và mang đến cho loài người cuộc sống bình yên,
motif tái sinh trong truyện kể dân gian đã được khái quát thành một motif có ý
nghĩa xã hội, ý nghĩa nhân sinh to lớn. Là niềm tin của loài người về cội nguồn
thiêng liêng và bất tử của mình, là mong ước của con người về sự tồn sinh liên

tục và bền bỉ của loài người trong thế giới này.




24

3.3.3. Tái sinh trong thuyết luân hồi của Phật Giáo
Nhân vật trung tâm của dạng thức tái sinh do đầu thai và do hóa kiếp
trong những truyện kể mà chúng tôi tập hợp được đều là con người, là những
linh hồn hiện diện trong thân xác con người và tùy duyên tu tập của kiếp này
hoặc nhiều kiếp khác nữa mà sau khi thân xác hiện tại ngừng hoạt động thì
linh hồn ấy lại tiếp tục được đầu thai vào kiếp người hay bị đày ải thành kiếp
vật.
Sự thưởng phạt công bằng là một ý nghĩa sâu sắc của motif tái sinh trong
dạng thức này. Ở đây motif truyện mang một ý nghĩa nhân sinh to lớn, bênh
vực cho những con người hiền lành nhân hậu phải gánh chịu những thiệt thòi
đau khổ từ kiếp trước. Do đó sau khi được tái sinh, họ phải được nhận lấy
niềm an vui hạnh phúc. Dựa theo thuyết luân hồi của Phật giáo thì những nhân
vật này là những chúng sinh đã tự tạo được nghiệp tốt qua thân, khẩu, ý, cung
kính các bậc thánh và không có tà kiến, do tạo nghiệp tốt với chánh kiến nên
khi thân hoại mạng chung, họ sẽ tái sinh trong hoàn cảnh tốt và trong các cõi
thiên giới.
Trong dạng thức nhân vật tái sinh thành kiếp vật do bị thần linh trừng
phạt ta phần nào thấy rõ rệt sự tác động trực tiếp của Phật giáo trong quá trình
hóa thân của nhân vật. Trong số các truyện kể có chứa đựng dạng thức này của
motif tái sinh mà chúng tôi sưu tầm được thì hầu hết đều có các nhân vật được
miêu tả như là những bậc chân tu. Tuy nhiên đấy lại là những nhà sư “đi tu mà
chẳng trót đời” dù cho có thông tuệ nhiều kinh kệ, giáo lý nhưng họ vẫn còn
thiếu một chút gì đó để có thể đắc đạo. Kẻ thì chưa vượt qua được thất tình lục

dục nên dù đã cố công tu tập bao nhiêu năm cuối cùng cũng bị đày thành kiếp
vật do không vượt qua được sắc giới. Kẻ thì vì một chút phiền não thế gian mà
không ngộ được đạo pháp để phải chịu tái sinh làm con cá ngoi lên lặn xuống
giữa biển cả mênh mông để sám hối tội lỗi của mình. Theo triết lý nhà Phật thì
những nhà sư – chúng sinh này đã tái sinh thành chim, cá hay ếch nhái là do
họ đã luân hồi tùy theo nghiệp quả của mình. Những sinh linh này đã tự tạo
nghiệp xấu qua thân, khẩu, ý, họ bất kính với các thánh nhân và ôm giữ tà


25

kiến, và chính vì do tạo nghiệp với tà kiến nên khi thân hoại mạng chung, họ
tái sinh trong hoàn cảnh xấu và trong các địa ngục.
3.3.4. Tái sinh trong nghi lễ trưởng thành
Nghi lễ trưởng thành – một thiết chế đặc trưng của chế độ thị tộc đã từng
tồn tại rất sinh động trong phong tục, nghi lễ dân gian của nhiều dân tộc trên
thế giới và hiện nay vẫn còn tiếp tục được thực hiện ở một số quốc gia, tuy
nhiên các nghi thức hành lễ đã có nhiều biến đổi cho phù hợp với sự phát triển
về nhận thức của loài người trong các thời kỳ lịch sử xã hội sau. Mặc dù vậy,
khi chuyển tải vào truyện kể dân gian, thông qua nội dung của motif tái sinh,
quan niệm và thực hành của dân gian về nghi lễ này vẫn còn được thể hiện hết
sức sinh động như là những tia hồi quang của những motif dân tộc cổ xưa.
Những biểu hiện cụ thể của nghi lễ trưởng thành qua motif tái sinh
a. Hình thức gây vết thương hoặc băm chặt các bộ phận cơ thể rồi ghép
chúng lại với nhau
b. Hóa trang theo hình dáng vật tổ để có thể giao tiếp được với tổ tiên
hay đi vào thế giới của người chết
c. Bị thần linh, ma quỷ hay thú dữ ăn thịt – sự tái sinh từ bào thai mới
3.4. TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Khi tiến hành triển khai nghiên cứu motif truyện cổ tích Việt Nam theo

phương pháp tiếp cận cấu trúc chức năng và phương pháp nghiên cứu lịch sử,
chúng tôi đã dựa vào những lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của trường
phái cấu trúc và trường phái thi pháp lịch sử. Cụ thể là việc ứng dụng sơ đồ 31
chức năng của nhân vật hành động trong truyện cổ tích thần kỳ được thể hiện
trong công trình Hình thái học truyện cổ tích thần kỳ của V.Ia.Propp. Từ sơ đồ
này, sau khi so sánh và đối chiếu chúng tôi tìm ra được 5 chức năng tương ứng
được tạo nên từ các motif nhóm lại xung quanh chúng, trong đó có sự góp
phần của motif tái sinh. Đó là các chức năng Việc làm hại, Sự truy nã, Sự
thoát khỏi truy nã, Sự nhận ra và Sự mang diện mạo mới. Đây là các chức
năng không thể thiếu được trong rất nhiều cốt truyện cổ tích thần kỳ, các

×