Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

incoterms – nhìn từ thực tiễn áp dụng tại công ty tnhh một thành viên cao su thống nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.09 KB, 33 trang )

1
LỜI NÓI ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ công cuộc đổi mới đất nước sau Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần
VI năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã và đang phát triển không ngừng. Nếu như
trước đây sản xuất, mua bán hàng hóa chỉ giới hạn trong thị trường nội địa hoặc chỉ
ở mức độ hạn chế khi giao thương với các nước trong khối Xã hội chủ nghĩa thì
ngày nay, hoạt động này đã và đang diễn ra với mức độ phủ khắp hầu hết các nước
trên thế giới, đặc biệt, kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150
1
của Tổ chức Thương mại Thế giới – WTO. Sau hơn năm năm gia nhập WTO, dưới
tác động của tự do hóa thương mại, Việt Nam về cơ bản đã mở cửa thị trường, tạo
sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Xuất nhập khẩu ngày nay không còn là thuật ngữ xa lạ với mọi người, nó
xuất hiện với tần suất ngày càng dày đặc trên các bản tin thời sự trong và ngoài
nước, các mặt báo đua nhau đưa tin các con số về tỷ trọng xuất khẩu – nhập khẩu,
v.v… Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là hoạt động kinh tế mang lại nguồn
ngoại tệ rất lớn cho đất nước, trở thành một nhân tố chủ yếu thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế.
Để hoạt động mua bán hàng hóa giữa các quốc gia diễn ra một cách thống
nhất, hạn chế những bất đồng quan điểm dẫn đến những tranh chấp không đáng có,
Phòng Thương mại Quốc tế - ICC đã tập hợp và xuất bản bộ tập quán thương mại
Incoterms đầu tiên vào năm 1936 và đến nay, bản Incoterms mới nhất là Incoterms
2010 quy định về các điều kiện thương mại. Có thể nói, Incoterms là “luật chơi
chung” của các bạn hàng trên thế giới. Ắt hẳn doanh nghiệp xuất nhập khẩu nào
đang hoạt động tại Việt Nam cũng quen thuộc với những điều kiện thương mại theo
Incoterms nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng cập nhật kịp thời, hiểu rõ và áp
dụng một cách có hiệu quả nhất vào các hoạt động mua bán hàng hóa của mình để
1
/>%A1i_Th%E1%BA%BF_gi%E1%BB%9Bi. (truy cập ngày 02/04/2012)
2


đem về lợi nhuận cao nhất và tránh được rủi ro ở mức thấp nhất. Vì lẽ đó, tác giả
nhận thấy việc tìm hiểu kỹ lưỡng, có hệ thống Incoterms là điều cấp thiết, giúp các
doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt kịp thời những biến động về mặt pháp lý, từ đó
đưa ra những phương hướng, chiến lược kinh doanh hợp lý nhằm đem lại lợi nhuận
cao nhất cho doanh nghiệp.
Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu “Incoterms – Nhìn từ thực tiễn áp dụng tại Công ty
TNHH Một thành viên Cao Su Thống Nhất” nhằm phản ánh thực trạng áp dụng các
điều kiện thương mại theo Incoterms trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
của một doanh nghiệp cụ thể tại Việt Nam cũng như các nguyên nhân và điều kiện
có ảnh hưởng đến quá trình lựa chọn và áp dụng Incoterms của doanh nghiệp này,
từ đó có thể phản ánh một phần thực trạng áp dụng Incoterms của các doanh nghiệp
Việt Nam nói chung, đồng thời tác giả cũng xin đưa ra một số kiến nghị áp dụng
Incoterms nhằm đạt được lợi nhuận tối đa trong hoạt động kinh doanh cho doanh
nghiệp này nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung.
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận cơ bản về Incoterms, đồng
thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng Incoterms hiện nay tại Công ty TNHH Một thành
viên Cao Su Thống Nhất.
Phạm vi nghiên cứu
Về mặt lý luận, vì là sinh viên chuyên ngành luật, tác giả đi sâu vào nghiên
cứu các đặc điểm pháp lý của Incoterms hơn là nghiên cứu khía cạnh kinh tế của nó.
Cụ thể, tác giả sẽ đi vào nghiên cứu các vấn đề cơ bản như như khái niêm, đặc
điểm, quá trình hình thành và phát triển của Incoterms, vai trò và vị trí pháp lý của
3
Incoterms trong hợp đồng mua bán hàng hóa, những thay đổi của Incoterms 2010 so
với Incoterms 2000. Tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu trong hai bản Incoterms
2000 và Incoterms 2010 do đây là hai bản Incoterms được sử dụng phổ biến và cập
nhật mới nhất cho tới thời điểm hiện tại cũng như nhằm tránh trường hợp nội dung
tiểu luận bị dàn trải.
Về mặt thực tiễn, đề tài tiểu luận viết về thực tiễn áp dụng Incoterms tại

doanh nghiệp nơi sinh viên thực tập hoặc công tác. Do cơ quan thực tập của tác giả
là văn phòng luật sư - không có các hoạt động xuất nhập khẩu nên tác giả đã chủ
động liên hệ công tác tại Công ty TNHH Một thành viên Cao Su Thống Nhất thu
thập thông tin để thực hiện đề tài. Tuy nhiên, do khuôn khổ đề tài là tiểu luận tốt
nghiệp cử nhân luật học, hơn nữa do những khó khăn nhất định về thời gian, không
gian và kinh nghiệm bản thân nên việc nghiên cứu chỉ giới hạn trong phạm vi các
thông tin do Công ty TNHH Một thành viên Cao Su Thống Nhất cung cấp bên cạnh
các nguồn thông tin đa dạng trên sách, báo và một số website đáng tin cậy khác.
Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp tổng hợp nghiên
cứu các vấn đề lý luận cơ bản về Incoterms; phương pháp so sánh, đối chiếu, thống
kê để đưa ra kết luận về các nội dung mới thay đổi của bản Incoterms 2010 so với
Incoterms 2000; phương pháp phân tích, tổng hợp để nêu lên các kiến nghị áp dụng
Incoterms một cách hiệu quả cho Công ty TNHH Một thành viên Cao Su Thống
Nhất nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam có hoạt động xuất nhập khẩu nói
chung.
4
Cơ cấu của tiểu luận
- Lời cam đoan
- Lời cảm ơn
- Danh mục từ viết tắt
- Mục lục
- Lời nói đầu
- Nội dung:
+ Chương 1 Những vấn đề lý luận cơ bản về Incoterms
+ Chương 2 Thực tiễn áp dụng Incoterms tại Công ty TNHH Một thành viên
Cao Su Thống Nhất
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục:

+ Hợp đồng xuất khẩu có sử dụng Incoterms
+ Hợp đồng nhập khẩu có sử dụng Incoterms
5
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
INCOTERMS
1.1 Khái niệm và đặc điểm Incoterms
1.1.1 Khái niệm Incoterms
“Incoterms” là từ viết tắt của thuật ngữ International Commercial Terms tức
là các điều kiện thương mại quốc tế và cũng là tên của những ấn bản do Phòng
Thương mại Quốc tế (International Chamber of Commerce – ICC) ban hành.
“Incoterms được coi là ngôn ngữ thương mại giúp người mua và người bán ở các
nước khác nhau, có luật lệ khác nhau có thể dễ dàng quy định về quyền lợi, nghĩa
vụ đối với nhau trong quá trình mua bán”
2
Riêng Incoterms 2010 – Phiên bản Incoterms mới nhất được xác định là
“quy tắc của ICC về sử dụng các điều kiện thương mại quốc tế và nội địa”
3
.
Những con số kèm theo sau, ví dụ: Incoterms 1936, Incoterms 1953,
Incoterms 1990, Incoterms 2000, … là chỉ năm mà văn bản này được ban hành
(hoặc sửa đổi, bổ sung).
Bản Incoterms đầu tiên được ICC chính thức ban hành vào năm 1936. Đến
nay, Incoterms đã trải qua 07 (bảy) lần sửa đổi, bổ sung lần lượt vào các năm 1953,
1967, 1976, 1989, 1990, 2000 và mới nhất là bản Incoterms 2010 có hiệu lực từ
ngày 01/01/2011.
2
PGS.TS Võ Thanh Thu, PGS.TS Đoàn Thị Hồng Vân, Hỏi đáp về sử dụng Incoterms 1990 và Incoterms
2000, NXB Thống Kê, (2005), tr.46.
3
ICC, Incoterms 2010, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, (2010), trang bìa.

6
1.1.2 Đặc điểm Incoterms
Thứ nhất, Incoterms là bộ tập quán quốc tế về thương mại, không có tính
chất bắt buộc áp dụng. Chỉ khi nào các bên quy định sử dụng trong hợp đồng mua
bán hàng hóa thì nó mới trở thành điều kiện ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm của
các bên tham gia hợp đồng.
Thứ hai, Incoterms chỉ giải thích những vấn đề chung nhất có liên quan đến
việc giao hàng như vận tải, bảo hiểm, v.v… Do đó, Incoterms không giải quyết các
vấn đề khác không liên quan đến nó như: chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa, miễn
trừ trách nhiệm khi gặp sự kiện bất khả kháng, hậu quả pháp lý của việc vi phạm
hợp đồng (phạt vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại xảy ra nếu có).
Thứ ba, các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa có thể thỏa thuận tăng
hoặc giảm trách nhiệm tùy thuộc vào thế mạnh hoặc yếu của mình. Tuy nhiên, việc
thỏa thuận này không được làm thay đổi cơ bản bản chất của điều kiện thương mại
trong Incoterms.
Thứ tư, tất cả các bản Incoterms do ICC ban hành đều có hiệu lực pháp lý.
Mặc dù được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhằm hoàn thiện hơn nhưng các bản
Incoterms ra đời sau không làm mất hiệu lực pháp lý của bản Incoterms ra đời
trước. Do vậy, khi vận dụng các điều kiện thương mại trong Incoterms vào hợp
đồng mua bán hàng hóa, thương nhân cần phải ghi rõ áp dụng bản Incoterms năm
nào để đối chiếu, xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên. Tuy nhiên, do tính
phổ biến và tính cập nhật mới của hai bản Incoterms 2000 và Incoterms 2010 trong
việc áp dụng tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay nên hai bản Incoterms này sẽ
được chú trọng nghiên cứu cũng như nhằm giới hạn phạm vi nghiên cứu của tiểu
luận.
Thứ năm, Incoterms có thể trở thành nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua
bán hàng hóa trong nước. Bản Incoterms 2010 lần đầu tiên chính thức thừa nhận
7
việc áp dụng Incoterms vào thương mại nội địa
4

, tạo điều kiện cho các thương nhân
trong nước vận dụng các điều kiện thương mại quốc tế vào các quan hệ mua bán
hàng hóa quốc nội.
1.2 Quá trình hình thành và phát triển của Incoterms
1.2.1 Quá trình hình thành Incoterms
Incoterms ra đời dưới sự tác động của nhiều nhân tố. Trong đó, các nhân tố tác động
chính tới sự ra đời của Incoterms bao gồm:
Thứ nhất là hoàn cảnh chính trị. Quan hệ mua bán hàng hóa giữa các quốc
gia đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử loài người và trải qua nhiều giai đoạn
“thăng trầm” khác nhau. Tuy nhiên, mốc đánh dấu cho bước phát triển tột bậc của
quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế là khoảng thời gian thập niên 20 của thế kỷ 19,
tức sau khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất chấm dứt. Bởi vì, vào thời điểm này,
nền kinh tế của các quốc gia tham chiến nói riêng và trên toàn thế giới nói chung
đang trong giai đoạn nỗ lực khôi phục sau chiến tranh bằng việc xây dựng lại cơ sở
hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ nhằm phục vụ sản xuất, kinh doanh, thiết lập
quan hệ giao thương với các quốc gia khác thông qua việc ký kết các Điều ước quốc
tế về thương mại
5
.
Thứ hai là sự ra đời của Phòng Thương mại Quốc tế (International Chamber
of Commerce – ICC) với tư cách là một tổ chức phi chính phủ được thành lập ngày
24/10/1919, có trụ sở đặt tại Paris (Pháp).
Mục đích và nhiệm vụ chính thức của ICC, như điều lệ quy định là:
thông qua việc tác động tới tất cả các lĩnh vực của hoạt động kinh tế
quốc tế (bao gồm thương mại, công nghiệp, vận tải và tài chính) nhằm
4
ICC, Incoterms 2010, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, (2010), tr.9.
5
PGS.TS Võ Thanh Thu, PGS.TS Đoàn Thị Hồng Vân, Những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
Incoterms 2000 tại Việt Nam, NXB Thống kê, (2002), tr.11.

8
cải thiện các điều kiện quan hệ kinh tế giữa các nước và giải quyết những
vấn đề kinh tế quốc tế, thiết lập các mối giao tiếp quốc tế và sự hiểu biết
tương hỗ giữa các giới kinh tế và các tổ chức của chúng để trên cơ sở đó
“gìn giữ hòa bình và củng cố các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân
tộc”
6
.
Thứ ba là những khó khăn trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế tồn tại
lúc này. Thực tiễn thương mại là không giống nhau ở các nước khác nhau, các bên
của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không hiểu rõ ý định của nhau do những
bất đồng về ngôn ngữ, văn hóa, tập quán thương mại dẫn đến những khó khăn trong
quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng cũng như trong việc giải quyết tranh chấp giữa
các bên khi có tranh chấp xảy ra.
Trước những khó khăn và thuận lợi nêu trên, ICC đã cho ra đời Incoterms – Bộ quy
tắc tập hợp những điều kiện thương mại quốc tế phổ biến trên thế giới nhằm đơn
giản hóa hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, rút ngắn thời gian soạn thảo, đàm
phán, ký kết hợp đồng cũng như quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên.
1.2.2 Quá trình phát triển của Incoterms
Các tập quán thương mại trong Incoterms không phải chỉ mới xuất hiện khi
Incoterms ra đời mà nó đã tồn tại trước đó khá lâu trong quan hệ mua bán hàng hóa
quốc tế. Trước đây, các tập quán này tồn tại một cách rời rạc, riêng lẻ, chưa có sự
thống nhất về cách hiểu dẫn đến các thương nhân ở các quốc gia khác nhau áp dụng
không giống nhau. Incoterms ra đời là sự hệ thống hóa thực tiễn thương mại lúc bấy
giờ, tạo ra một cách hiểu thống nhất trên toàn thế giới.
Bản Incoterms đầu tiên ra đời năm 1936 bao gồm 07 (bảy) điều khoản
thương mại tập trung vào các vấn đề liên quan đến vận chuyển hàng hóa bằng
6
/>%91c_t%E1%BA%BF. (truy cập ngày 13/04/2012)
9

đường biển, bởi vì trong thời kỳ này, vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển
là phổ biến và thông dụng nhất. Tuy nhiên, do đây là bản Incoterms đầu tiên được
ban hành nên khó tránh khỏi những hạn chế, bất cập mặc dù ICC đã nỗ lực rất lớn
trong công trình tập hợp này.
Khắc phục những hạn chế từ bản Incoterms 1936 nhằm đáp ứng cho sự thay
đổi của môi trường và điều kiện kinh doanh quốc tế, Incoterms đã lần lượt được
hoàn thiện qua các lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1953, 1967, 1976, 1989, 1990.
Incoterms 2000 bao gồm 13 (mười ba) điều khoản thương mại, được trình
bày theo một trật tự logic và khoa học hơn so với các bản Incoterms trước đây, giúp
thương nhân dễ dàng nắm bắt và vận dụng một cách hiệu quả.
Đến bản Incoterms 2010, do tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ
thông tin nên Incoterms 2010 chính thức khuyến khích giao dịch bằng chứng từ
điện tử
7
, quy định nghĩa vụ của các bên đối với thủ tục an ninh và đặc biệt,
Incoterms 2010 chính thức thừa nhận việc sử dụng trong thương mại nội địa.
Incoterms được sửa đổi, bổ sung nhằm theo kịp những thay đổi trong thực
tiễn quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế, thể hiện sự phát triển về mặt cấu trúc, nội
dung cũng như phương thức trình bày.
1.3 Vai trò và vị trí pháp lý của Incoterms trong hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế
1.3.1 Vai trò của Incoterms trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Với những đặc điểm của một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế như: Các bên
mua, bán có trụ sở thương mại khác nhau ở những nước khác nhau
8
; hàng hóa trong
hợp đồng được vận chuyển qua biên giới quốc gia; đồng tiền dùng thanh toán trong
7
ICC, Incoterms 2010, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, (2010), tr.9.
8

Điều 1 Công ước Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước Viên 1980).
10
hợp đồng là ngoại tệ đối với một bên hoặc cả hai bên; v.v… thì sự hiện diện của
Incoterms trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trở nên rất cần thiết, giúp
người mua và người bán cùng hiểu một cách thống nhất về quyền và nghĩa vụ đối
với nhau. Nói cách khác, khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nếu
người mua và người bán có ý định áp dụng một điều kiện thương mại trong
Incoterms thì điều kiện thương mại đó sẽ trở thành một điều khoản của hợp đồng.
Khi đó, việc áp dụng Incoterms sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho các bên trong hợp
đồng:
Thứ nhất, đơn giản hóa và rút ngắn được hợp đồng. Ví dụ: khi ký kết hợp
đồng ngoại thương, các bên chỉ cần đưa một điều kiện thương mại cụ thể vào điều
khoản giá cả trong phần đơn giá là đủ mà không cần phải thỏa thuận chi tiết nếu các
bên thấy không cần thiết phải thỏa thuận thêm. Các bên có thể ghi như sau:
Rice 15% 250/USD/MT.FOB SaiGon Port Incoterms 2000
Hoặc Rice 15% 235/USD/MT.CFR Odessa Port Incoterms 2000
Với cách ghi như trên, các bên có thể rút ngắn được số trang của hợp đồng, tiết
kiệm được thời gian, chi phí trong quá trình soạn thảo cũng như đàm phán ký kết
hợp đồng.
Thứ hai, phân định rõ trách nhiệm thực hiện và nghĩa vụ thanh toán một số
chi phí giữa người bán và người mua như:
- Chi phí thuê phương tiện chuyên chở, mua bảo hiểm, bốc dỡ hàng hóa;
- Chi phí làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa;
- Chi phí cho việc kiểm tra, giám định, kiểm nghiệm hàng hóa;
- ….
11
Thứ ba, xác định rõ thời điểm, địa điểm chuyển dịch rủi ro cũng như chủ thể
gánh chịu rủi ro đó (người bán, người mua hay tổ chức tham gia bảo hiểm hàng
hóa).
Thứ tư, tránh được những tranh chấp không đáng có làm ảnh hưởng xấu đến

quan hệ mua bán giữa các thương nhân khi có sự giải thích khác nhau trong pháp
luật thương mại của các nước.
Incoterms có mối liên hệ mật thiết, có thể nói cực kỳ quan trọng đối với việc thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Nhưng, như đã đề cập ở trên, với một
điều kiện thương mại theo Incoterms được thỏa thuận lựa chọn áp dụng chỉ tạo
thành nội dung của một điều khoản trong hợp đồng và chỉ giới hạn đối với những
vấn đề thuộc về quyền lợi, nghĩa vụ của các bên liên quan đến việc giao nhận hàng
hóa mà không giải thích các điều khoản khác trong hợp đồng.
1.3.2 Vị trí pháp lý của Incoterms trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Theo tinh thần của pháp luật Việt Nam nói riêng và pháp luật các nước trên
thế giới nói chung, hợp đồng là sự thỏa thuận về ý chí giữa các bên tham gia để tạo
lập sự ràng buộc pháp lý với nhau dựa trên các cam kết, thỏa thuận đó
9
. Điều 4 Bộ
Luật Dân sự Việt Nam năm 2005 quy định “Quyền tự do cam kết, thỏa thuận trong
việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa
thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”.
Tương tự, Điều 11 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định “Các bên có
quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ
tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt
động thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó”.
Do đó, mặc dù các bên đã thỏa thuận đồng ý áp dụng một điều kiện thương
9
Trường Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật Dân sự, Tập bài giảng Pháp luật về hợp đồng và
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, (2011), tr.89.
12
mại cụ thể trong Incoterms vào trong hợp đồng nhưng có sửa đổi một số nội dung,
tức là áp dụng không hoàn toàn đúng như điều kiện thương mại trong Incoterms thì
pháp luật vẫn tôn trọng thỏa thuận đó. Nghĩa là thỏa thuận trong hợp đồng được ưu
tiên áp dụng so với những quy định của Incoterms. Ví dụ: bên mua ký hợp đồng

nhập khẩu 01 (một) lô hàng theo điều kiện giao hàng CIF (Incoterms 2000), theo
đó, bên bán phải mua bảo hiểm cho lô hàng trên (Mục A3). Thế nhưng, trong điều
khoản quy định nghĩa vụ của bên mua trong hợp đồng lại xác định bên mua phải tự
mua bảo hiểm cho lô hàng của mình. Trong trường hợp có xảy ra rủi ro đối với lô
hàng nêu trên trong quá trình vận chuyển, bên mua không thể viện dẫn điều kiện
CIF (Incoterms 2000) để buộc bên bán phải bồi thường phần giá trị hàng hóa lẽ ra
bên bảo hiểm phải trả.
Như vậy, có thể nói trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Incoterms có
vị trí pháp lý thấp hơn các quy định của hợp đồng.
1.4 Cấu trúc của Incoterms
1.4.1 Cấu trúc của Incoterms 2000
Nếu như từ bản Incoterms 1980 trở về trước các điều kiện thương mại được
trình bày một cách riêng rẽ, rời rạc, không có mối liên hệ với nhau gây khó khăn,
hạn chế trong việc sử dụng của các thương nhân, thì đến bản Incoterms 1990 và
Incoterms 2000, các nhược điểm trên đã được khắc phục. Incoterms 2000 vẫn giữ
nguyên cấu trúc của Incoterms 1990 là phân các điều kiện thương mại thành 04
(bốn) nhóm gồm: E, F, C, D (lấy chữ cái đầu tiên của tên các điều kiện để đặt tên
nhóm). Trình tự E, F, C, D biểu thị sự tăng dần về trách nhiệm, nghĩa vụ của người
bán
10
. Mười ba (13) điều kiện thương mại của Incoterms 2000 được phân thành 04
(bốn) nhóm như sau:
10
GS.TS Hoàng Văn Châu, ThS. Tô Bình Minh, Các điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms 2000) Giải
thích và hướng dẫn sử dụng, NXB Khoa học và Kỹ thuật, TP. Hồ Chí Minh, (2006), tr.9.
13
■ Nhóm E: gồm 01 (một) điều kiện thương mại là:
- EXW (Ex Works - Giao tại xưởng).
* Đặc điểm: Người bán chịu chi phí tối thiểu, giao hàng tại địa điểm quy định là
hết nghĩa vụ.

■ Nhóm F: gồm 03 (ba) điều kiện thương mại là:
- FCA (Free Carrier - Giao cho người chuyên chở);
- FAS (Free Alongside Ship - Giao dọc mạn tàu);
- FOB (Free On Board - Giao lên tàu).
* Đặc điểm: Người bán không trả cước phí vận tải chính, giao hàng cho người
chuyên chở do người mua chỉ định là hết nghĩa vụ.
■ Nhóm C: gồm 04 (bốn) điều kiện thương mại là:
- CFR (Cost and Freight - Tiền hàng và cước phí);
- CIF (Cost, Insurance and Freight - Tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí);
- CPT (Carriage Paid To - Cước phí trả tới);
- CIP (Carriage and Insurance Paid to - Cước phí và phí bảo hiểm trả tới).
* Đặc điểm chính:
+ Người bán phải trả cước phí vận chuyển chính.
+ Địa điểm chuyển rủi ro về hàng hóa tại nơi gửi hàng (nơi đi).
■ Nhóm D: gồm 05 (năm) điều kiện thương mại là:
- DAF (Delivered At Frontier - Giao tại biên giới);
14
- DES (Delivered Ex Ship - Giao tại tàu);
- DEQ (Delivered Ex Quay - Giao tại cầu cảng);
- DDU (Delivered Duty Unpaid - Giao hàng chưa thông quan nhập khẩu);
- DDP (Delivered Duty Paid - Giao hàng đã thông quan nhập khẩu).
* Đặc điểm chính:
+ Người bán chịu mọi chi phí để đưa hàng tới địa điểm đích quy định.
+ Địa điểm chuyển rủi ro về hàng hóa tại nơi hàng đến.
1.4.2 Cấu trúc của Incoterms 2010
Đến bản Incoterms 2010, cấu trúc các điều kiện thương mại đã có sự thay
đổi. Nếu như theo Incoterms 2000 hay bản Incoterms trước đó – Incoterms 1990,
các điều kiện thương mại được chia thành 04 (bốn) nhóm E, F, C, D thể hiện mức
độ trách nhiệm tăng dần của người bán và giảm dần của người mua thì theo bản
Incoterms 2010, ICC không còn chia các điều kiện thương mại theo cấu trúc như

trên nữa mà 11 (mười một) điều kiện thương mại của Incoterms 2010 được chia
thành 02 (hai) nhóm căn cứ vào phương thức vận tải như sau:
■ Nhóm các điều kiện áp dụng cho mọi phương tiện vận tải gồm 07 (bảy) điều
kiện thương mại là:
- EXW (Ex Works - Giao tại xưởng);
- FCA (Free Carrier - Giao cho người chuyên chở);
- CPT (Carriage Paid To - Cước phí trả tới);
- CIP (Carriage and Insurance Paid to - Cước phí và phí bảo hiểm trả tới);
15
- DAT
11
(Delivered At Terminal - Giao tại bến);
- DAP
12
(Delivered At Place - Giao tại nơi đến);
- DDP (Delivered Duty Paid - Giao hàng đã thông quan nhập khẩu).
■ Nhóm các điều kiện áp dụng cho vận tải đường biển và đường thủy nội địa
gồm 04 (bốn) điều kiện thương mại là:
- FAS (Free Alongside Ship - Giao dọc mạn tàu);
- FOB (Free On Board - Giao lên tàu);
- CFR (Cost and Freight - Tiền hàng và cước phí);
- CIF (Cost, Insurance and Freight - Tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí).
Một điều cần lưu ý là tuy cấu trúc Incoterms 2010 chia các điều kiện thương
mại thành hai nhóm riêng biệt như đã đề cập ở trên nhưng điều đó không có nghĩa
là khi các bên sử dụng phương tiện vận tải đường biển và đường thủy nội địa cho
một phần hoặc toàn bộ hành trình của mình thì chỉ được áp dụng các điều kiện
thương mại quy định ở nhóm các điều kiện áp dụng cho vận tải đường biển và
đường thủy nội địa mà họ có thể sử dụng bất kỳ điều khoản thương mại nào trong
tất cả các điều kiện thương mại Incoterms để phù hợp với nhu cầu của họ
13

bởi ngay
bản thân tên gọi của nhóm các điều kiện áp dụng cho mọi phương tiện vận tải cũng
đã thể hiện rõ không loại trừ bất cứ hình thức vận tải nào kể cả vận tải đường biển
và đường thủy nội địa.
1.5 Một số thay đổi của Incoterms 2010 so với Incoterms 2000
11
Điều kiện DAT thay thế điều kiện DEQ (xem mục 1.5 Chương 1 Tiểu luận).
12
Điều kiện DAP thay thế điều kiện DAF, DES, DDU (xem mục 1.5 Chương 1 Tiểu luận).
13
ICC, Incoterms 2010, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, (2010), tr.08; Nguyễn Văn Hồng, “Những
điểm mới của Incoterms 2010”, Tạp chí kinh tế đối ngoại, Số 45/2010, tr.4; />v=sp6YOXZly84&feature=related. (truy cập ngày 12/04/2012)
16
Thứ nhất, về số lượng, từ 13 (mười ba) điều kiện thương mại trong bản
Incoterms 2000 đã giảm xuống còn 11 (mười một) điều kiện thương mại trong bản
Incoterms 2010 do có một số điều kiện thương mại theo Incoterms 2000 ít được sử
dụng như DAF, DDU, DEQ, DES bị thay thế
14
, cụ thể, DAF (giao tại biên giới),
DES (giao tại tàu), DDU (giao hàng chưa thông quan nhập khẩu) bị thay thế bởi
DAP (giao tại nơi đến) và DEQ (giao tại cầu cảng) bị thay thế bởi DAT (giao tại
bến).
Thứ hai, về cấu trúc, nếu như 13 (mười ba) điều kiện thương mại trong
Incoterms 2000 được phân thành 04 (bốn) nhóm: E, F, C, D thì đến bản Incoterms
2010, cấu trúc các điều kiện thương mại đã có sự thay đổi. 11 (mười một) điều kiện
thương mại của Incoterms 2010 được chia thành 02 (hai) nhóm:
(i) Các điều kiện thương mại áp dụng cho mọi phương tiện vận tải gồm: EXW,
FCA, CPT, CIP, DAT, DAP và DDP.
(ii) Các điều kiện thương mại áp dụng cho vận tải đường biển và đường thủy
nội địa gồm: FAS, FOB, CFR và CIF.

Thứ ba, Incoterms 2010 chính thức thừa nhận rằng những quy tắc này có thể
sử dụng cả trong thương mại quốc tế lẫn thương mại nội địa (nếu phù hợp). Điều
khoản EXW (giao tại xưởng) được nói rõ là chỉ phù hợp cho thương mại nội địa
15
.
Thứ tư, Incoterms 2010 quy định rõ ràng hơn về việc thừa nhận chứng từ
điện tử có giá trị tương đương chứng từ giấy nếu các bên có thỏa thuận đồng ý hoặc
theo tập quán. Quy định này được tách riêng nằm tại mục A1 và B1 của từng điều
kiện thương mại cụ thể trong Incoterms 2010 trong khi theo Incoterms 2000 quy
định các bên phải thống nhất rõ ràng là sẽ trao đổi dữ liệu với nhau bằng phương
tiện điện tử và phải thống nhất chấp nhận bằng chứng về chứng từ giao hàng. Như
vậy, mặc dù Incoterms 2000 đã thừa nhận giá trị pháp lý của chứng từ điện tử
14
ICC, Incoterms 2010, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, (2010), tr.9.
15
Dịch thuật và biên soạn: MBA. Nguyễn Văn Dung, Incoterms 2010 Những điều kiện thương mại quốc tế
của ICC, NXB Lao động, (2011), tr.67.
17
nhưng vẫn chưa phổ biến và chưa thực sự rõ ràng như Incoterms 2010. Việc sửa đổi
Incoterms 2010 của ICC như trên là phù hợp với trình độ phát triển của công nghệ
thông tin cũng như của thương mại toàn cầu. Sự phát triển của internet như hiện nay
đã mở ra rất nhiều thuận lợi cho thương mại do những ưu điểm, tiện ích mà nó
mang lại như giảm chi phí và thời gian thông tin liên lạc, cho phép liên kết chặt chẽ
và rộng lớn hơn giữa các cộng đồng kinh doanh. Điều này đặc biệt thuận lợi đối với
các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi có vốn điều lệ không lớn, nhân sự ít nhưng vẫn
đạt được lợi nhuận cao khi thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh thông qua phương
thức điện tử. Điều này cũng bảo đảm sự phù hợp của Incoterms 2010 trong tương
lai khi giao tiếp điện tử ngày càng phát triển.
Thứ năm, về các điều khoản bảo hiểm hàng hóa chuẩn. Chỉ theo điều kiện
CIF và CIP thì người bán mới có nghĩa vụ mua bảo hiểm vì quyền lợi của người

mua. Tuy nhiên, trong tất cả các điều kiện giao hàng thì các bên đều có nghĩa vụ
cung cấp thông tin cho bên kia (nếu có yêu cầu) để họ mua bảo hiểm hay mua thêm
bảo hiểm cho hàng hóa. Nghĩa vụ cung cấp thông tin được quy định tại mục A3 và
B3 trong Incoterms 2010 trong khi những điều này được quy định tại mục A10 và
B10 trong Incoterms 2000. Ngôn ngữ trong các điều A3 và B3 liên quan đến bảo
hiểm cũng đã được sửa đổi để làm rõ nghĩa vụ của các bên về vấn đề này
16
.
Thứ sáu, về vấn đề an ninh, Incoterms 2010 quy định rõ nghĩa vụ của các
bên về thủ tục an ninh trong quá trình vận chuyển hàng hóa. Sau sự kiện khủng bố
ngày 11/09/2001 tại Mỹ, những lo ngại về vấn đề an ninh toàn cầu ngày càng được
chú ý
17
. Vấn đề an ninh trong vận chuyển hàng hóa, tàu biển, v.v… cũng trở thành
mối quan tâm hàng đầu của mọi thương nhân khi giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa. Do đó, ICC đã bổ sung các quy định về an ninh phù hợp với thực tiễn thương
mại quốc tế, xác định bên bán hoặc bên mua có nghĩa vụ lấy giấy phép xuất khẩu
hoặc giấy phép nhập khẩu hoặc giấy phép chính thức khác và nghĩa vụ tiến hành
16
Dịch thuật và biên soạn: MBA. Nguyễn Văn Dung, Incoterms 2010 Những điều kiện thương mại quốc tế
của ICC, NXB Lao động, (2011), tr.15.
17
GS.TS Võ Thanh Thu, Kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí
Minh, (2011), tr.23.
18
mọi thủ tục hải quan cần thiết đối với việc xuất khẩu hoặc nhập khẩu hàng hóa,
v.v… cũng như nghĩa vụ cung cấp hoặc hỗ trợ bên kia những thông tin và tài liệu
cần thiết liên quan đến an ninh trong vận chuyển hàng hóa (mục A2, B2 và A10,
B10 theo Incoterms 2010).
Thứ bảy, điểm chuyển giao rủi ro từ người bán sang người mua theo các điều

kiện FOB, CFR và CIF không còn là lan can tàu – biên giới tưởng tượng nữa mà
giờ đây, rủi ro về hàng hóa chỉ được chuyển giao từ người bán sang người mua khi
hàng hóa đó được giao lên boong tàu. Theo đó, trong quá trình bốc hàng lên tàu,
nếu hàng hóa bị rơi dẫn đến hư hỏng hay mất mát thì người bán phải chịu rủi ro (trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác), trong khi nếu áp dụng theo điểm chuyển
rủi ro theo các bản Incoterms trước đây, khi hàng rơi cần xác định hàng đang nằm
trong hay ngoài lan can tàu, từ đó mới xác định rủi ro do bên nào chịu dẫn đến
nhiều khó khăn về thời gian, chi phí của các bên.
Thứ tám, về các khoản phí bốc dỡ hàng hóa tại ga/trạm. Trong trường hợp
người bán phải thuê và thanh toán cho việc vận chuyển hàng hóa đến một điểm đích
nhất định theo các điều kiện CPT, CIP, CFR, CIF, DAT, DAP và DDP nhưng có thể
các chi phí này đã được chuyển sang cho người mua thông qua giá bán, tuy nhiên,
có trường hợp người mua vẫn có thể phải thanh toán độc lập khoản này cho người
chuyên chở hoặc người điều hành bến bãi (bên mua trả khoản phí này đến hai lần).
Incoterms 2010 đã cố gắng khắc phục tình trạng này bằng cách xác định rõ ràng
theo các điều kiện CPT, CIP, CFR, CIF, DAT, DAP và DDP, người bán phải tổ
chức và chịu cước phí vận chuyển hàng hóa tới nơi đến thỏa thuận.
Kết luận Chương 1
Từ những nội dung nổi bật đã phân tích trong Chương 1, có thể rút ra những
kết luận về đặc điểm mang tính pháp lý của Incoterms như sau:
19
- Incoterms là bộ tập quán quốc tế mang tính chất khuyến nghị, khuyến khích
các bên áp dụng trong hợp đồng mua bán của mình. Các bên có thể chọn bất kỳ bản
Incoterms nào phù hợp với nhu cầu của bản thân và phải nêu rõ trong hợp đồng.
Khi Incoterms được dẫn chiếu vào hợp đồng, Incoterms trở thành nguồn luật điều
chỉnh hợp đồng và có giá trị bắt buộc áp dụng đối với các bên (trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác trong hợp đồng);
- Việc áp dụng các điều kiện thương mại theo Incoterms vào trong hợp đồng
mua bán hàng hóa mang lại các lợi ích nhất định cho doanh nghiệp;
- Đặc biệt, bản Incoterms 2010 có thể áp dụng cho cả thương mại nội địa.

CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG INCOTERMS TẠI CÔNG
TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN CAO SU THỐNG NHẤT
2.1 Giới thiệu sơ lược về Công ty TNHH Một thành viên Cao Su Thống Nhất
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Tiền thân của Công ty TNHH Một thành viên Cao Su Thống Nhất là Xí
20
nghiệp Công tư Hợp doanh Kỹ nghệ Cao su Độc lập được thành lập năm l978. Qua
nhiều lần cải tổ, sắp xếp lại, năm 1994, Xí nghiệp được Ủy ban nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh (“UBND TP. Hồ Chí Minh”) đổi tên thành Công ty Cao Su Thống
Nhất. Năm 2006, UBND TP. Hồ Chí Minh đã ra Quyết định thành lập Tổng Công
ty Công nghiệp Sài Gòn hoạt động theo mô hình Công ty mẹ – Công ty con, trong
đó Công ty Cao Su Thống Nhất là Công ty con.
Thực hiện quy định pháp luật về chuyển đổi Công ty Nhà nước thành Công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 và
Nghị định 25/2010/NĐ-CP ngày 19/03/2010 của Chính phủ, tháng 7/2010, Công ty
Cao Su Thống Nhất đã chuyển đổi thành Công ty TNHH Một thành viên Cao Su
Thống Nhất (sau đây gọi tắt là “Công ty Cao Su Thống Nhất
18
”).
2.1.2 Lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh
Là một doanh nghiệp nhà nước, Công ty Cao Su Thống Nhất là một trong
những công ty hàng đầu về sản xuất và gia công các mặt hàng được làm bằng cao su
tại Việt Nam như: giày da, túi xách da, các phụ tùng cao su kỹ thuật ô tô, xe máy,
sản xuất kinh doanh văn phòng phẩm, khai khoáng, v.v…
19
2.2 Mức độ am hiểu về Incoterms của Công ty Cao Su Thống Nhất
Thứ nhất, khi được hỏi: “Incoterms là văn bản mang tính pháp lý, văn bản
chỉ thuần túy là tài liệu hướng dẫn thương mại hay là văn bản kết hợp cả hai yếu tố
trên?”, hầu hết các nhân viên (10/12) trong Phòng xuất nhập khẩu (“nhân viên”)
của Công ty Cao Su Thống Nhất đều cho rằng Incoterms là văn bản kết hợp cả hai

18
Kể từ đây, Công ty TNHH Một thành viên Cao Su Thống Nhất sẽ được gọi tắt là Công ty Cao Su Thống
Nhất, cần phân biệt tên gọi tắt Công ty Cao Su Thống Nhất từ thời điểm này với Công ty Cao Su Thống Nhất
trước khi chuyển đổi.
19
Thông tin do Công ty Cao Su Thống Nhất cung cấp.
21
yếu tố trên. Điều này cho thấy doanh nghiệp đã có nhận thức khá chính xác về chức
năng của Incoterms. Bởi vì, như đã phân tích ở Chương 1, Incoterms được xem như
ngôn ngữ thương mại giúp người mua và người bán ở các nước khác nhau, có luật
lệ khác nhau có thể dễ dàng quy định về quyền lợi, nghĩa vụ đối với nhau trong quá
trình mua bán
20
. Mặt khác, Incoterms còn có thể hướng dẫn cho doanh nghiệp lựa
chọn điều kiện thương mại theo Incoterms sao cho phù hợp với khả năng và thương
vụ mua bán của họ. Như đã phân tích ở Chương 1, Incoterms chỉ là văn bản có tính
chất khuyến nghị, khuyến khích thương nhân áp dụng, do đó, doanh nghiệp có thể
tùy ý áp dụng bất kỳ bản Incoterms nào trong số 08 (tám) bản Incoterms do ICC
ban hành và có quyền thỏa thuận áp dụng bất kỳ điều kiện thương mại nào trong
bản Incoterms đã chọn. Như vậy, Incoterms đã thực hiện chức năng là tài liệu
hướng dẫn thương mại.
Tuy nhiên, Incoterms sẽ trở thành văn bản pháp lý buộc các bên nghiêm
chỉnh thực hiện (nếu hợp đồng không có quy định khác) khi các bên đã tự nguyện
áp dụng Incoterms và dẫn chiếu điều ấy trong hợp đồng. Khi đó, nếu có tranh chấp
xảy ra, Incoterms được xem như cơ sở pháp lý không tách rời khỏi hợp đồng để giải
quyết các tranh chấp đó. Incoterms đã thực hiện chức năng là văn bản pháp lý.
Thứ hai, hầu hết các nhân viên của Công ty Cao Su Thống Nhất đều nhận xét
rằng Incoterms là tài liệu dễ hiểu, dễ sử dụng. Tuy nhiên, khi được hỏi về một số
điều kiện thương mại cụ thể như EXW, DEQ, DDU, … trong bản Incoterms 2000,
các nhân viên hầu như không nắm bắt được nội dung chính của các điều kiện này

do thói quen đã có từ những lần giao dịch trước, doanh nghiệp này chỉ sử dụng các
điều kiện nhóm F mà chủ yếu là FOB cho các hoạt động xuất khẩu hàng hóa và các
điều kiện nhóm C mà chủ yếu là CIF cho các hoạt động nhập khẩu hàng hóa nên
các nhân viên hầu như không có điều kiện tiếp cận các điều kiện thương mại khác.
Thứ ba, mặc dù doanh nghiệp cho rằng đã nghiên cứu rất kỹ các điều kiện
20
PGS.TS Võ Thanh Thu, PGS.TS Đoàn Thị Hồng Vân, Hỏi đáp về sử dụng Incoterms 1990 và Incoterms
2000, NXB Thống Kê, (2005), tr.46.
22
thương mại Incoterms trước khi vận dụng vào hợp đồng ngoại thương nhưng khi
được tham khảo ý kiến, các nhân viên của Công ty Cao Su Thống Nhất chưa nắm
bắt được hoặc nắm bắt chưa chính xác về hai điểm lưu ý rất cơ bản của Incoterms.
Thứ nhất là các nội dung hợp đồng mà Incoterms điều chỉnh và thứ hai là phạm vi
áp dụng của Incoterms.
● Ở điểm lưu ý thứ nhất, doanh nghiệp đã có cách hiểu không chính xác về các
nội dung hợp đồng do Incoterms điều chỉnh. Như đã phân tích ở Chương 1,
Incoterms chỉ giải thích những vấn đề chung nhất có liên quan đến việc giao
hàng như vận tải, bảo hiểm, v.v Vì vậy, Incoterms không giải quyết các vấn
đề khác không liên quan đến nó như: chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa, miễn
trừ trách nhiệm khi gặp sự kiện bất khả kháng, hậu quả pháp lý của việc vi
phạm hợp đồng (phạt vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại xảy ra nếu có).
● Ở điểm lưu ý thứ hai, doanh nghiệp cho rằng Incoterms có thể áp dụng cho
giao dịch mua bán quốc tế đối với tất cả các loại hàng hóa. Do Incoterms quy
định về các điều kiện vận chuyển, xếp dỡ, … hàng hóa nên hàng hóa ở đây chỉ
là hàng hóa với ý nghĩa hữu hình.
Thứ tư, doanh nghiệp cho rằng một khi đã lựa chọn một điều kiện thương
mại Incoterms cụ thể để áp dung vào hợp đồng ngoại thương thì phải giữ nguyên
các nội dung của điều kiện thương mại đó mà không được quy định bổ sung hay
quy định khác đi. Tuy nhiên, với tính chất là một tài liệu hướng dẫn thương mại có
tính chất khuyến nghị, các bên trong hợp đồng hoàn toàn có thể quy định khác đi

điều kiện thương mại Incoterms đã lựa chọn nhưng phải bảo đảm trên cơ sở thỏa
thuận tự nguyện của hai bên nhằm tránh những tranh chấp phát sinh sau này trong
quá trình giải thích hợp đồng.
Thứ năm, về bản Incoterms mới nhất – Incoterms 2010, doanh nghiệp đã cập
nhật, tuy nhiên, do mới được ICC ban hành và mới có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2011 nên Công ty Cao Su Thống Nhất vẫn còn đang nghiên cứu áp dụng mà
23
chưa vận dụng vào các hợp đồng thực tế tính đến nay.
Nhìn chung, tuy còn một số hạn chế trong cách hiểu về Incoterms nhưng Công ty
Cao Su Thống Nhất - vì lợi ích chính đáng của mình trong hoạt động kinh doanh,
nhất là với các thương nhân nước ngoài - đã cố gắng tìm hiểu để có thể vận dụng
Incoterms một cách hiệu quả nhất.
2.3 Thực tiễn áp dụng Incoterms tại Công ty Cao Su Thống Nhất
Khi ban hành Incoterms, ý định của ICC là nhằm tập hợp những tập quán
thương mại phổ biến, có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn thương mại
quốc tế. Bản thân ICC không khuyến khích các bên nên sử dụng cố định một bản
Incoterms nào hay một điều kiện thương mại cụ thể nào bởi mỗi điều kiện thương
mại có những đặc trưng riêng phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, sử dụng điều kiện
thương mại nào là do hai bên thoả thuận và phụ thuộc vào hành trình, phương thức
vận tải.
2.3.1 Thực trạng áp dụng Incoterms tại Công ty Cao Su Thống Nhất
Thứ nhất, Công ty Cao Su Thống Nhất thường chỉ quy định điều kiện giao
hàng theo Incoterms trong hợp đồng mà không ghi nhận rõ áp dụng bản Incoterms
năm nào. Khi hợp đồng không quy định việc áp dụng bản Incoterms năm nào có thể
dẫn đến tranh chấp về ý định của các bên khi dẫn chiếu trong hợp đồng, từ đó dẫn
đến tranh chấp về phân chia nghĩa vụ và chi phí. Ví dụ, đối với điều kiện giao hàng
FOB, nếu theo Incoterms 2000, rủi ro đối với hàng hóa được chuyển giao từ người
bán sang người mua khi hàng hóa đã qua lan can tàu tại cảng bốc hàng thì theo
Incoterms 2010, rủi ro đối với hàng hóa được chuyển giao từ người bán sang người
24

mua khi người bán đã hoàn tất việc xếp hàng lên tàu. Do đó, nếu các bên sử dụng
điều kiện giao hàng trên nhưng lại không xác định rõ sử dụng bản Incoterms 2000
hay Incoterms 2010 sẽ dẫn đến lầm tưởng về điểm chuyển giao rủi ro như nêu trên.
Thứ hai, việc sử dụng Incoterms 2010 thật sự chưa phổ biến, Công ty Cao Su
Thống Nhất hầu như vẫn áp dụng Incoterms 2000 đối với các hợp đồng mua bán
hàng hóa của mình
Thứ ba, hiện nay Công ty Cao Su Thống Nhất chủ yếu sử dụng các điều kiện
giao hàng trong nhóm F mà đa số là FOB khi xuất khẩu và các điều kiện giao hàng
trong nhóm C mà đa số là CIF khi nhập khẩu trong các hợp đồng mua bán hàng hóa
của mình.
Theo Incoterms 2000, khi sử dụng điều kiện FOB trong xuất khẩu, doanh
nghiệp có trách nhiệm giao hàng lên tàu tại cảng đi, tàu do bên mua đưa đến trong
thời gian quy định. Rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua khi hàng hóa thực
sự được chuyển qua lan can tàu ở cảng đi. Mọi chi phí tiếp theo kể từ lúc hàng hóa
đã được chuyển qua lan can tàu ở cảng đi sẽ do bên mua chịu trách nhiệm. Còn khi
nhập khẩu bằng điều kiện CIF, bên mua chỉ phải trả tiền hàng theo quy định trong
hợp đồng (đã bao gồm tiền hàng, cước phí vận chuyển và bảo hiểm). Bên bán nước
ngoài sẽ chịu tất cả chi phí cho tới cảng đến của bên mua.
Từ thói quen áp dụng các điều kiện giao hàng của Công ty Cao Su Thống
Nhất, tác giả đưa ra một số lợi ích và hạn chế khi lựa chọn điều kiện xuất “F” mà
chủ yếu là FOB và nhập “C” mà chủ yếu là CIF như sau:
● Lợi ích
- Lợi ích lớn nhất khi xuất “F” là Công ty Cao Su Thống Nhất chỉ có nghĩa vụ
giao hàng cho người chuyên chở (FCA), giao hàng dọc mạn tàu (FAS) hoặc
giao hàng qua lan can tàu (FOB) do người mua chỉ định mà không cần phải ký
hợp đồng thuê tàu vận chuyển hàng hóa cho bên mua hoặc ký hợp đồng bảo
25
hiểm đối với lượng hàng hóa đó. Từ đó, Công ty Cao Su Thống Nhất không cần
lo lắng về những rủi ro trong hợp đồng thuê tàu như cước phí thuê tàu tăng và
những yếu kém về chất lượng của các hãng tàu Việt Nam dẫn đến tàu bị “mắc

kẹt” ở nước ngoài
21
cũng như những rủi ro trong hợp đồng bảo hiểm như phí
bảo hiểm tăng, v.v… ;
- Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, giành quyền thuê phương tiện vận tải
hay mua bảo hiểm hàng hóa về mình luôn là một trong những điều kiện quan
trọng khi đàm phán hợp đồng. Chính vì vậy, Công ty Cao Su Thống Nhất chấp
nhận xuất “F”, nhập “C” để “chiều” bạn hàng, thường là những đối tác lớn của
doanh nghiệp, đồng thời đẩy nhanh quá trình đàm phán, đạt được hợp đồng có
giá trị như mong muốn;
- Mặt khác, khi xuất khẩu theo các điều kiện nhóm “F”, cụ thể là FOB, Công ty
Cao Su Thống Nhất dễ dàng tính thuế khi khai báo hải quan vì trị giá tính thuế
xuất khẩu được tính dựa trên giá FOB mà không dựa trên giá CIF, cụ thể, tại
khoản 1 Điều 4 Nghị định 40/2007/NĐ-CP về việc xác định trị giá hải quan đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (“Nghị định 40/2007”) quy định:
Trị giá hải quan nhằm mục đích tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu (sau đây gọi là trị giá tính thuế) được xác định theo nguyên
tắc và phương pháp sau:
1. Đối với hàng hoá xuất khẩu, trị giá tính thuế là giá bán tại cửa khẩu
xuất (giá FOB, giá DAF), không bao gồm phí bảo hiểm (I) và phí vận tải
(F).
- Cuối cùng, khi Công ty Cao Su Thống Nhất đã từ lâu có thói quen sử dụng
những hợp đồng mẫu trong giao dịch mua bán của mình thì việc tiếp tục sử
dụng hợp đồng với những điều khoản như cũ bao gồm cả việc xuất FOB, nhập
21
La Quang Trí, “Vì sao tàu Việt Nam hay bị mắc kẹt?”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, Số 11/2011, tr.47.

×