Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ RỦI RO ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.7 KB, 15 trang )

Luật kinh tế
QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ RỦI RO ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Phan Khắc Minh, Phạm Lê Phương Thảo,
Đỗ Thị Kim Cương.
Sự phát triển của kinh tế đã làm cho nhu cầu vốn của những nhà đầu tư không
ngừng tăng lên. Hơn bao giờ hết vai trò của các tổ chức tín dụng càng được khẳng
định. Nhưng trong xu thế kinh tế thế giới hiện nay có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng làm
biến động thị trường tài chính gây ra những rủi ro trong vấn đề tín dụng từ đó, làm
lung chuyển hệ thống tài chính – huyết mạch của nền kinh tế, do đó buộc nhà nước
của mỗi quốc gia phải đưa ra những quy định cũng như quy chế để quản lý những
rủi ro này.
Xuất phát từ cơ sở trên cũng như tính quan trọng của vấn đề nên trọng tâm bài viết này sẽ
nhằm vào bốn vấn đề chính: thứ nhất, các rủi ro trong trong vấn đề thực hiện tín dụng của
các tổ chức tín dụng. Với phần một này chúng tôi sẽ tập trung trả lời câu hỏi cơ sở nào mà
những quy chế rủi ro đối với các tổ chức tín dụng? thứ hai, đó là hạn chế trong quy chế
quản lý rủi ro đối với các tổ chức tín dụng theo luật Việt Nam. Phần này trên cơ sở phân
tích các cơ chế quản lý chúng tôi sẽ trả lời câu hỏi những mặt mạnh cũng như hạn chế
của luật tín dụng Việt Nam như thế nào? Thứ ba, các đề nghị để bổ sung cho luật tín
dụng 2010. Trong phần này trên cơ sở phân tích các quy chế quản lý rủi ro đối với các tổ
chức tín dụng theo luật của Việt Nam và những rủi ro của tín dụng nhóm chúng tôi sẽ tập
trung trả lời câu hỏi với những vấn đề đang phát sinh như phần một và hai đã phân
tích thì đâu là giải pháp tốt nhất cho luật Việt Nam?. Và phần cuối cùng là kết quả
nghiên cứu. Bài viết được viết trên phương pháp lập luận, dẫn chứng số liệu, so sánh.
Nguồn số liệu sử dụng trong bài viết là nguồn thứ cấp – số liệu thống kê từ cezarysalad,
Vnexpress,…Giới hạn nghiên cứu trong phạm vi từ năm 2006 đến 2010 Giả thiết bài viết
những người đi vay là những người đầu tư. Đối tượng phân tích chính là vấn đề tín dụng
đối với ngân hàng thương mại.
1. Các rủi ro trong vấn đề thực hiện tín dụng của tổ chức tín dụng ở
Việt Nam.
Tổ chức tín dụng.
Theo luật tổ chức tín dụng năm 2010 (luật số: 47/2010/QH12) thì:


Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động của
ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức
tài chính vi mô và tổ chức tín dụng nhân dân.
Để làm cơ sở cho những phần sau nhóm chúng tôi xin trình bày thêm những khái niệm liên
quan đến tổ chức tín dụng đó là ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài
chính vi mô và tổ chức tín dụng nhân dân.
Trang 1
Luật kinh tế
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng theo quy định của Luật tổ chức tín dụng 2010. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động,
các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng
hợp tác xã.
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật tổ chức tín
dụng năm 2010 nhằm mục tiêu lợi nhuận. Và trong phạm vi bài viết này cũng sẽ
nghiên cứu vào loại ngân hàng này.
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một hoặc một
số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật tổ chức tín dụng 2010, trừ các hoạt động
nhận tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách
hàng. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.
Tổ chức tài chính vi mô là loại hình tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện một số hoạt động
ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh
nghiệp siêu nhỏ.
Quỹ tín dụng nhân dân là tổ chức tín dụng do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự
nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo
quy định của Luật tổ chức tín dụng 2010 và Luật hợp tác xã 2003 nhằm mục tiêu chủ yếu
là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Rủi ro tín dụng đối với các tổ chức tín dụng.
Tín dụng có thể hiểu đơn giản là sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu

cho người sử dụng trong một thời gian nhất định và với một khoảng chi phí nhất định. Với
mối quan hệ như trên nhưng không có yếu tố chịu chi phí thì đó không phải là tín dụng.
Như ở trên đã nói trong bài viết này tập trung nghiên cứu về đối tượng ngân hàng thương
mại để đại diện cho tổ chức tín dụng, vì rằng suy cho cùng ngân hàng thương mại là cơ sở
để hình thành các tổ chức khác nên nó có những ảnh hưởng nhất định đến hệ thống tín
dụng. Chính vì vậy nhóm chúng tôi sẽ tập trung phân tích những rủi ro tín dụng đối với đối
tượng này để làm cơ sở cho phần phân tích tiếp theo.
Vậy là trong quan hệ tín dụng thì gồm có hai đối tượng chủ yếu là người cho vay mà ở đây
là các ngân hàng thương mại và người đi vay là những người đầu tư. Những nhà đầu tư
này sẽ dùng số tiền vay được đó để đầu tư vào sản xuất, hoạt động tài chính,… sau đó
dùng tiền thu được để trả nợ gốc lẫn lãi cho ngân hàng và phần còn dư lại thì tích lũy tái
sản xuất. Như vậy điều gì sẽ xãy ra nếu như quá trình đầu tư đó không thuận lợi, nhà đầu
tư không thu được vốn và ngân hàng không thu được nợ. Dĩ nhiên ở đây chúng ta không
nói một vài cá nhân đi vay mà nói là một tập thể những người đi vay. Điều này sẽ làm cho
Trang 2
Luật kinh tế
hoạt động của ngân hàng bị đình trệ, chậm cung vốn lại từ đó làm nền kinh tế bị ngưng
động. Vậy xuất phát từ những nguyên nhân nào?
Vâng tất nhiên là phải kể đến sự biến động không thể ngờ của nền kinh tế thế giới cũng
như thị trường tài chính thế giới. Ví dụ như vào năm 2007 khi mà thị trường bất động sản
ở Mỹ đang ở đỉnh cao chính điều này cũng có tác động đến thị trường bất động sản Việt
Nam. Phải nói vào thời gian này thì hoạt động thị trường bất động sản Việt Nam vô cùng
sôi động. Việc nhà đầu tư vay tiền và thanh toán cho ngân hàng thương mại diễn ra liên
tục. Nhưng sau khi bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ tan thì không những nó đóng băng thị
trường bất động sản Mỹ mà nó còn tỏa hơi lạnh đóng băng luôn thị trường bất động sản
Việt Nam. Làm cho quá trình thu nợ của các ngân hàng bị chậm trễ gây ra những khoảng
tổn thất cho các ngân hàng thương mại. Như vậy có thể nói thì môi trường kinh tế biến
động là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng nhưng nó khó có thể mà đoán
được.
Một nguyên nhân khác nữa mà nhóm chúng tôi muốn nói đến là khả năng kinh doanh kém

của các nhà đầu tư đi vay tiền cũng như những gian dối trong việc kê khai tài sản. Vì dù
rằng khi đi vay thì nhà đầu tư phải trình bày những phương án kinh doanh cụ thể và có tính
khả thi. Tuy nhiên trong quá trình thi hành dự án do quản lý kinh doanh kém đã làm nãy
sinh nhiều vấn đề trong dự án làm chi phí tăng cao hơn trong tính toán, do vậy ảnh hưởng
đến lợi nhuận cũng như khả năng thanh toán khoản tiền vay của ngân hàng. Mặc khác
trong một số trường hợp doanh nghiệp kê khai tài sản không đúng với thực tế thường thì
nhỏ hơn dẫn đến hệ lụy là dự án không thực hiện được do khả năng tài chính yếu kém và
nguồn vốn không đủ. Điều này làm cho các khoản tiền mà ngân hàng cho vay trở thành nợ
khó đòi. Chính vì vậy xuất phát từ yếu tố này buộc các nhà làm luật phải quan tâm vì đây
là một trong những nhân tố chủ quan chính gây ra rủi ro tín dụng mà cần được giải quyết.
Một yếu tố khác cũng là một trong những nguyên nhân chính gây ra rủi ro tín dụng mà
theo nhóm chúng tôi cần đề cập đến là sự cho vay một cách tùy tiện của ngân hàng. Ở đây
sự cho vay tùy tiện này là có nhiều nguyên nhân, nhưng một nguyên nhân chính phải kể
đến chính là do sự ảnh hưởng của lợi nhuận. Vì dù rằng như thế nào thì cuối cùng các ngân
hàng thương mại cũng là những doanh nghiệp do đó lợi nhuận luôn là yếu tố sống còn.
Chính vì nguyên nhân này mới dẫn đến tình trạng cho vay dưới mức của các ngân hàng
thương mại ở Mỹ năm 2007-2008, theo đó những ngân hàng thương mại Mỹ cho vay dưới
mức chuẩn theo quy định, chỉ cần người đi vay có mức lương cố định thì có thể vay được
tiền để mua bất động sản. Điều này đã làm cho cầu bất động sản tăng cao, dẫn đến giá bất
động sản tăng vọt một cách liên tục. Nhưng vào cuối năm 2007 đầu năm 2008 khi những
nhà đầu tư có kinh nghiệm ở Mỹ thấy nguy cơ tan vỡ của bong bóng nhà đất này do đó họ
đã bán ra để thu hồi vốn. Chính điều này làm cho cung bất động sản tăng lên. Từ đó làm
giá bất động sản đứng lại và khi nó không còn thu hút nhà đầu tư thì giá bắt đầu giảm gây
ra những thiệt hại nặng nề cho những người đi vay cuối cùng. Và rồi cứ theo tốc độ giảm
sút đó thì đến lúc phải thanh toán khoản tiền vay nhưng người đi vay không thanh toán
được. Và do cho vay dưới chuẩn nên các ngân hàng thương mại này cũng không thể thu
hồi lại vốn được hoàn toàn. Chính vì vậy rất nhiều ngân hàng ở Mỹ đã phá sản làm cho
lòng tin của người dân vào hệ thống tín dụng giảm hẵn. Và như vậy là thị trường tài chính
Trang 3
Luật kinh tế

Mỹ suýt nữa đóng băng nếu không có những nổ lực từ phía chính phủ Mỹ cũng như FED
(cục dự trữ Liên Bang Mỹ). Bây giờ chúng ta hãy tưởng tượng nếu sự kiện đó ở Việt Nam
thì hậu quả sẽ như thế nào rất có thể hệ thống tài chính Việt Nam sẽ sụp đổ hoàn toàn do
kiến thức của người dân về tín dụng vẫn chưa thật cao về tín dụng từ đó gây ra hiện tượng
lan truyền tâm lý. Vì dù rằng bạn là những người thật am hiểu về tín dụng, nhưng ta có thể
đứng nhìn khi nhiều người cùng rút tiền mà ngân hàng không thanh toán kịp? Quay lại vấn
đề ngoài nguyên nhân chính do lợi nhuận thu hút, thì vẫn còn nhiều nhân tố khác làm cho
các ngân hàng cho vay tùy tiện đó là sự bố trí người không đúng với nghiệp vụ gây ra
những hậu quả nghiệm trọng trong việc thẩm định tài sản thế chấp,…lỏng lẻo trong công
tác quản lý sau khi cho vay, thật ra nhân tố này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến việc gây ra
rủi ro tín dụng vì ngân hàng không thể kiểm soát được số tiền này có dùng đúng vào mục
đích hay không? Tuy nhiên về nguyên tắc thì không cho phép ngân hàng xen vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp hay người đi vay. Xuất phát từ những cơ sở như trên
đặt ra yêu cầu cho những nhà làm luật quản lý rủi ro đối với các tổ chức tín dụng phải có
những cơ chế cũng như sự giám sát nào nhằm xóa bỏ nguyên nhân này?
Và nguyên nhân chính cuối cùng mà nhóm chúng tôi sẽ trình bày ngay sau đây sẽ là các
bất cập trong công tác thi hành luật tổ chức tín dụng vào trong thực tiễn. Mặc dù luật có
quy định ngân hàng được bồi hoàn bằng tài sản thế chấp nếu như người đi vay không trả
được khoản tiền đã vay. Tuy nhiên suy cho cùng thì ngân hàng thương mại vẫn là các tổ
chức kinh tế chứ không phải tổ chức chính trị do đó nó không có quyền cưỡng chế hay ép
buộc. Nếu trong trường hợp này nhờ đến tòa án thì đợi đến khi tòa án giải quyết thì ngân
hàng đã phải mất đi những lợi ích đúng ra sẽ nhận được từ khoản tiền đó trong thời gian
kiện tụng. Hay nói khác hơn là ngân hàng mất đi chi phí cơ hội của khoản tiền đó trong
thời gian chờ giải quyết. Và đây cũng là nhân tố nan giải cho những người làm luật, vì
rằng vừa phải tính toán như thế nào sao cho lợi ích của những người đi vay không bị xâm
phạm cũng như bảo vệ lợi ích cho ngân hàng? Về vấn đề này nhóm chúng tôi sẽ đề cập ở
phần sau của bài viết.
Dựa trên những nguyên nhân đã phân tích ở trên ta có thể chia rủi ro tín dụng thành hai
loại: rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan và rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ
quan. Rủi do tín dụng do nguyên nhân khách quan gồm rủi ro do môi trường kinh tế không

ổn định, rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi. Còn rủi ro tín dụng do nguyên nhân
chủ quan thì gồm rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay và rủi ro do các
nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay.
Nói tóm lại ở đây thì hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động cơ bản của thị
trường tài chính, với vai trò vô cùng quan trọng là thành phần chủ chốt trong việc làm cầu
nối cung vốn, các ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động tín dụng cho các nhà đầu tư
để thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhưng tiềm ẩn sau đó là nhiều nguyên nhân
như vừa phân tích ở trên có thể gây ra những rủi ro tín dụng nghiệm trọng. Do đó những
nhà làm luật xuất phát từ cơ sở này để xây dựng lên các tiêu chuẩn cũng như những quy
định để quản lý rủi ro đối với các tổ chức tín dụng.
Trang 4
Luật kinh tế
2. Những hạn chế trong quy chế quản lý rủi ro đối với các tổ chức tín dụng
theo luật Việt Nam (luật các tổ chức tín dụng 2010).
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các tổ
chức kinh tế, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả. Việc hoàn trả được nợ gốc trong tín dụng
có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hoá trên thị trường, còn việc hoàn trả được lãi
vay trong tín dụng là việc thực hiện được giá trị thặng dư trên thị trường. Do đó, có thể
xem rủi ro tín dụng cũng là rủi ro kinh doanh nhưng được xem xét dưới góc độ của ngân
hàng.
Luật các tổ chức tín dụng đã được ban hành và luôn sửa đổi phù hợp với thực tế phát sinh
trong quá trình hoạt động của các ngân hàng thương mại. Hàng loạt các văn bản pháp luật
mới như “Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng” do Ngân hàng nhà
nước ban hành liên tục được thay đổi cho phù hợp với thực tế, Nghị định 08/2000/NĐ-CP
ngày 10/03/2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch đảm bảo, thông tư số 07/2003/TT-
NHNN của Ngân hàng nhà nước Việt Nam ngày 19.5.2003 về hướng dẫn thực hiện một số
quy định về đảm bảo tiền vay của các Tổ chức tín dụng theo Nghị định 178 và Nghị định
85 (Thông tư này thay cho Thông tư số 06), Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT/NHNN-
BTP- BCA-BTC-TCĐC ngày 23.4.2001 hướng dẫn việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để
thu hồi nợ cho các Tổ chức tín dụng tất cả đã nói lên quyết tâm của Chính phủ, Ngân

hàng nhà nước, các cơ quan có liên quan trong việc khắc phục hậu quả và tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho ngành ngân hàng phát triển.
Tuy nhiên bên cạnh đó còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế trong luật tín dụng Việt Nam.
Theo chúng tôi tìm hiểu và nghiên cứu thì:
Theo điểm 5 điều 38. Quyền, nghĩa vụ của người quản lý, người điều hành tổ chức tín
dụng: Am hiểu về các loại rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Các biện pháp
phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các NHTM nhưng cũng có những biện
pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản
thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định hướng mô hình phát triển ở VN. Rủi ro tín
dụng do nguyên nhân chủ quan thì dễ phòng ngừa và có thể đoán trước được, còn rủi ro tín
dụng do nguyên nhân khách quan như rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định (Sự biến
động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới, rủi ro tất yếu của quá trình
tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế, sự tấn công của hàng nhập lậu, thiếu sự quy hoạch,
phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số
ngành) thì khó phòng ngừa, khó đoán trước mà chỉ có thể chuẩn bị đối phó ở một mức độ
nào đó chứ không thể lường trước được.
Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ
tồn tại trên hình thức, công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng rất lỏng lẻo. Mà thực tế cho
thấy kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe
càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho
cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi
tới. Như vậy điều 40. Hệ thống kiểm soát nội bộ: các quy định về kiểm tra nội bộ các
Trang 5
Luật kinh tế
ngân hàng vẫn quy định chưa rõ ràng, cụ thể từng khoản mục về cơ chế, chính sách, quy
trình, quy định nội bộ, cơ cấu tổ chức của tổ chức tín dụng cũng như thời gian kiểm tra
định kì là bao lâu.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể,
khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để
chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề,

liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác. Do
vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính
chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của
doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và
xác thực. Mà các ngân hàng lại thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc
thẩm định trước khi cho vay và lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho
vay. Như vậy, theo điều 94. Xét duyệt cấp tín dụng, kiểm tra sử dụng tiền vay tuy có
quy định trong Luật tín dụng nhưng do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng
của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các
doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM
yêu cầu nên các ngân hàng thương mại vẫn chưa thực hiện tốt công tác này, vẫn còn tình
trạng thiếu giám sát và quản lí sau khi cho vay khiến khoản vay không có bảo đảm được
hoàn trả.
Một số trường hợp luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng
thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về
việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những văn bản này đều có quy định: Trong những hợp khách
hàng không trả được nợ, Ngân hàng thương mại có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay.
Trên thực tế, các Ngân hàng thương mại không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ
chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế
buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển tài
sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng… cùng nhiều các quy định
khác dẫn đến tình trạng Ngân hàng thương mại không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài
sản tồn đọng.
Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ Ngân hàng
thương mại đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả
hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân
hàng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn
chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ
tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí
trong công tác tín dụng. Như vậy theo điểm 3 điều 38. Quyền, nghĩa vụ của người quản

lý, người điều hành tổ chức tín dụng: Trung thành với tổ chức tín dụng; không sử dụng
thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của tổ chức tín dụng, lạm dụng địa vị, chức vụ và tài
sản của tổ chức tín dụng để thu lợi cá nhân hoặc để phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân
khác làm tổn hại tới lợi ích của tổ chức tín dụng, cổ đông, thành viên góp vốn và chủ sở
hữu tổ chức tín dụng. Vấn đề này mang tính chủ quan vì đạo đức của cán bộ thì không thể
Trang 6
Luật kinh tế
đoán được, nên việc chọn được cán bộ giỏi thì dễ nhưng việc chọn cán bộ đạo đức tốt thì
khó vì thuộc phạm trù định tính nên rất khó xác định.
Tóm lại ta thấy còn rất nhiều bất cập, hạn chế trong Luật tín dụng cũng như quá trình thi
hanh luật của các ngân hàng thương mại. Những rủi ro tín dụng xảy ra cho dù có xuất phát
từ những nguyên nhân khách quan hay chủ quan đều phản ánh rõ nét những yếu kém trong
công tác quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại. Những biện pháp nhằm
ngăn ngừa, quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng chưa được các ngân hàng đưa ra và
thực hiện một cách đầy đủ, triệt để, đặc biệt là các biện pháp liên quan đến yếu tố con
người.
Đó là những vấn đề tín dụng trong nước mà luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quản lý.
Trước xu thế hội nhập, mở cửa khi mà hoạt động tài chính tín dụng không còn gói gém
trong phạm vi một quốc gia thì bao giờ nó buộc nhà làm luật cũng phải phân tích, kiểm tra,
phán đoán để từ đó đề ra những chính sách cũng như điều luật cho thích hợp. Nhưng cũng
như đã nói ở trên thì phạm vi bài viết này chỉ phân tích những vấn đề thiếu xót cũng như
hạn chế về quản lý tín dụng giới hạn trong nước trên nền tảng luật các tổ chức tín dụng
2010.
3. Các đề nghị để bổ sung cho luật các tổ chức tín dụng 2010.
Trong phần này trên cơ sở những phân tích ở trên tức là kết hợp nguyên nhân gây
nên rủi ro tín dụng cộng với những điểm còn thiếu trong luật tổ chức tín dụng 2010 nhóm
chúng tôi xin đề cử một số giải pháp mà theo nhóm chúng tôi đánh giá là quan trọng.
Thứ nhất là vấn đề chủ quan, như đã phân tích các ngân hàng thương mại suy cho
cùng cũng là những doanh nghiệp. Do vậy nó luôn mang một ham muốn mà như các
doanh nghiệp khác luôn khát khao là tìm kiếm giá trị thặng dư hay nói khác hơn là lợi

nhuận. Chính vì vậy không thể tránh khỏi những cơn khủng hoảng do cho vay dưới chuẩn.
Ở đây chúng ta kết hợp luôn hai nhân tố tác động là chủ quan và chủ quan. Do vậy để
tránh ảnh hưởng này chúng tôi đề nghị mặc dù luật đã quy định rất rõ rằng …. Tuy nhiên
trên thực tế những quy định này sẽ làm giảm lợi nhuận ngân hàng vì hoạt động ngân hàng
là hoạt động mang tính chất xoay vốn. Do vậy vấn đề đặt ra là phải làm sao để vừa làm cho
ngân hàng vừa có lợi nhuận và ngân hàng trung ương (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) có
thể kiểm soát cũng như đảm bảo rằng hoạt động của ngân hàng đó vẫn được đảm bảo tránh
khỏi rủi ro tín dụng. Và thật sự đây là một câu trả lời khó khăn và dường như ngay cả nước
Mỹ là trung tâm kinh tế tài chính hàng đầu trên thế giới vẫn chưa giải được bài toán này.
Nhưng theo nhóm chúng tôi nghỉ là vấn đề trọng tâm nằm ở chổ quy định về tỷ lệ dự trữ.
Vi dụ như theo điều 101 luật các tổ chức tín dụng năm 2010 có quy định tại khoản 1:
Ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và duy trì trên
tài khoản tiền gửi này số dư bình quân không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc. Theo quy
định này thì ngân hàng thương mại phải gởi tại ngân hàng trung ương một khoản tiền tính
theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện hành. Như vậy nếu trong thời kì lạm phát thì ngân hàng
trung ương sẽ ban hành một tỷ lệ cao để giảm bớt cung tiền, còn trong thời kỳ cung tiền
Trang 7
Luật kinh tế
thiếu thì ngân hàng nhà nước sẽ quy định một tỷ lệ thấp để tăng cung tiền. Theo suy nghỉ
của nhóm chúng tôi nếu làm như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng
thương mại. Vì thiết nghỉ rằng nếu giảm lãi suất thì chúng ta không bàn cải, nhưng nếu
tăng lãi suất mặc dù ngân hàng thương mại đã được thông báo sớm để chuẩn bị. Tuy nhiên
đây cũng là một yếu tố ngắn hạn, còn hoạt động của ngân hàng thương mại có thể là dài
hạn. Ví dụ như cho vay để đầu tư. Hình thức tín dụng dài hạn. Như vậy nếu tăng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc lên thì vấn để đặt ra là ngân hàng phải làm như thế nào với khoản tín dụng
này? Và thật sự một điều rằng nếu có một kế hoạch nào dài hạn của ngân hàng thương mại
đặt ra thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc được xem là một trong những nhân tố khách quan có thể
làm ảnh hưởng đến kế hoạch. Như vậy liệu Việt Nam chúng ta có xây dựng một môi
trường đầu tư ổn định để mời gọi đầu tư hay không? Do đó thiết nghỉ việc quy định tỷ lệ
dự trữ bắt buộc là nên cố định trong luật luôn. Ở đây có thể bổ sung điều 101 khoản 1 luật

các tổ chức tín dụng 2010 như sau: Ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tiền gửi tại
Ngân hàng Nhà nước và duy trì trên tài khoản tiền gửi này số dư bình quân không thấp
hơn mức dự trữ bắt buộc là 10% chẳng hạn hay một con số cụ thể do Ngân hàng nhà nước
quy định và con số này sẽ cố định trong suốt thời kỳ luật này còn giá trị hiệu lực. Để làm
ổn định những nhà đầu tư tín dụng vừa đảm bảo khả năng sinh lợi, vừa đảm bảo khả năng
ngân hàng nhà nước biết được khả năng của ngân hàng thương mại. Còn chính sách tiền tệ
có thể sử dụng hai công cụ còn lại là lãi suất tái chiết khấu hoặc nghiệp vụ thị trường mở.
Vì đây là những công cụ chủ lực của chính sách tiền tệ. Đồng thời với giải pháp này nhóm
chúng tôi nghỉ sẽ khắc phục được những nguyên nhân chủ quan gây ra rủi ro tín dụng.
Thứ hai là các vấn đề khách quan, như ta biết đối với những nhân tố khách quan thì khó
mà đoán được hay dự đoán chính xác được. Nhưng theo quy luật thông thường có thể thấy
dòng máu tài chính sẽ là cội nguồn của sự khủng hoảng. Bởi hai cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới mở đầu cho hai cuộc chiến tranh thế giới đặc biệt cuộc khủng hoảng 1929- 1933
và có thể thấy rõ nhất gần đây là cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đều bắt nguồn từ
khủng hoảng, biến động tài chính. Nhưng có thể nhìn ra một điều rằng, các cuộc khủng
hoảng tài chính tất yếu sẽ làm cho một số ngân hàng bị sụp đổ. Như năm 2008 vừa qua ở
Mỹ cho đến thời điểm tháng 01/2010 Mỹ đã có 174 ngân hàng bị đóng cửa (Nguồn
) Do vậy hơn bao giờ hết có lẻ để chống lại yếu tố này có thể so
sánh như những cơn bảo lớn bất chợt thì đòi hỏi các ngân hàng thương mại cũng như các
tổ chức tín dụng khác liên kết với nhau. Nhưng có thể nói trong lúc như vậy thì các ngân
hàng phải tự lo cho mình vì lạm phát tăng cao, khách hàng tới rút tiền nhiều để chuyển tiền
sang hình thức cất trữ khác, nhưng quỹ tiền mặt thì có hạn do vậy đồng loạt các ngân hàng
nào không thể chi trả và không nhận được trợ giúp từ ngân hàng trung ương thì phải tuyên
bố phá sản. Và đây có thể lý giải cho tình hình các nước phát triển với quá nhiều ngân
hàng thì việc giải cứu hết thực sự là khó khăn với ngân hàng trung ương. Do vậy trong
những lúc như thế này thì vấn đề đặt ra là nên có một chiếc thuyền thật lớn để chứa hết
những người mắt nạn thay vì để một chiếc thuyền to với vận tốc chậm chạp ra khơi trợ
giúp. Chính vì như thế thiết nghỉ trong điều luật các tổ chức tín dụng nên bổ sung thêm
một điều khoản trong đó quy định về việc liên kết các ngân hàng với nhau. Nhưng liên kết
bằng cách nào? Chúng tôi đề nghị liên kết bằng một tổ chức. Tức là quy định bắt buộc các

tổ chức tín dụng hoặc các ngân hàng khi thành lập phải cam kết là thành viên của một tổ
chức quản lý tín dụng. Và tổ chức này trực thuộc ngân hàng trung ương quản lý với nhiệm
Trang 8
Luật kinh tế
vụ gần như một tổ chức bảo hiểm cho số tiền gởi của khách hàng. Theo đó các ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng phải cam kết khi có khủng hoảng tài chính hoặc biến
động nghiệm trọng có thể dẫn đến n ngân hàng thương mại phá sản (n là số ngân hàng
thương mại phá sản theo quy định của ngân hàng trung ương là dấu hiệu của khủng hoảng
tài chính) thì phải chuyển một khoản tiền đủ để thanh toán cho các khách hàng mình trong
trường hợp không thể giải quyết được. Theo đó tổ chức này sẽ được ngân hàng trung ương
chi tiền để trả cho khách hàng. Cần nhấn mạnh rằng sự xuất hiện của tổ chức này không
phải là để thực hiện chức năng giao dịch mà yếu tố chính nó là làm ổn định lòng tin của
dân chúng về hệ thống tài chính quốc gia. Vì có thể thấy rằng một trong những nguyên
nhân chính khiến các ngân hàng thương mại hay phá sản là do không đáp ứng được nhu
cầu rút tiền của khách hàng. Và đó cũng là nỗi lo lớn nhất của khách hàng. Thực chất nếu
quy định trên được thực hiện đặc biệt trong những lúc lạm phát cao thì sẽ càng làm tăng
lạm phát. Nhưng có thể thấy rằng tùy thuộc vào điều kiện mỗi quốc gia, với Việt Nam
chúng ta thực sự mà nói thì trình độ của người dân về tài chính chưa cao. Do vậy tâm lý ai
cũng lo sợ khi một ngân hàng nào đó sụp đổ là điều không bàn cãi. Và thực chất nếu như
một ngân hàng thương mại sụp đổ chẳng hạn ở tại thành phố Hồ Chính Minh thì dễ dàng
suy luận được rằng rất nhiều người sẽ đổ xô đi rút tiền ở những ngân hàng khác, theo kiểu
“tiền ta ta lấy trước cho chắc” và như vậy tất yếu sẽ làm sụp đổ hệ thống tài chính của
quốc gia và làm nền kinh tế tê liệt kéo theo đó là những yếu tố chính trị. Và so sánh lại thì
lạm phát chúng ta có thể kiềm chế lại sau còn yếu tố chính trị là một trong những thành
quả cách mạng. Nếu vận dụng nguyên lý hai mặt đối lập của chủ nghĩa Mác – Lênin ở
trong trường hợp này thì giữa lạm phát và chính trị thì sự tồn vong của của hệ thống chính
trị vẫn là yếu tố chính quyết định.
Trang 9

Biểu đồ biểu thị tỷ lệ lạm phát ở Mỹ từ năm 2006 đến hết tháng 3 năm 2008

Luật kinh tế
Và đây cũng làm một trong những nguyên nhân giải thích tại sao nước Mỹ mặc dù
kinh tế khủng hoảng trầm trọng, lạm phát tăng cao trong năm 2008 (minh họa theo biểu
đồ) thì tại Mỹ, FED (Cục dự trữ liện bang Mỹ - Federal Reserve System) và Quốc hội Mỹ
đã có những hoạt động chính như sau:
Ở đây nhóm chúng tôi không lấy ví dụ về Việt Nam vì thực chất một điều tại Việt
Nam từ khi mở cửa đến nay (1986) vẫn chưa có ngân hàng thương mại nào phá sản trừ
những vụ trốn nợ làm người dân mất lòng tin vào tín dụng như hợp tác xã Thanh Hương
(năm 2005). Quay lại với vấn đề chính là chủ trương thành lập tổ chức quản lý tín dụng
mặc dù có nét giống với trường hợp ngân hàng tham gia bảo hiểm cho tiền gởi. Nhưng
cũng như đã phân tích khi tham gia bảo hiểm thì ngân hàng sẽ chịu chi phí do đó làm giảm
lợi nhuận do vậy khách hàng khó mà biết được ngân hàng có hoàn thành nghĩa vụ bảo
hiểm với khoản tiền gởi mình không?
Nói chung lại với hai bổ sung chính là bổ sung thêm vào điều 101 khoản 1 luật các
tổ chức tín dụng năm 2010 là quy định cụ thể mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc và thêm một điều
bổ sung vào luật các tổ chức tín dụng 2010 là buộc các ngân hàng thương mại phải trở
thành thành viên của tổ chức quản lý tín dụng. Với mục đích chính tạo lòng tin cho người
dân tránh dao động khi có khủng hoảng và hạn chế được những nguyên nhân chủ quan gây
rủi ro tín dụng. Bằng cách từ ý thức tự nguyện chấp hành của các tổ chức tín dụng là
chính.
4. Kết quả nghiên cứu.
Thông qua việc phân tích các rủi ro trong vấn đề tín dụng ở Việt Nam hiện nay kết
hợp với sự phân tích những điều còn hạn chế của luật các tổ chức tín dụng năm 2010,
nhóm chúng tôi thấy rằng quả thật với sự biến đổi một cách liên tục và khó dự báo trước
được của môi trường xung quanh và các hoạt động con người thì luật đặt ra luôn có những
bất cập mà đây là vấn đề hiển nhiên. Như vậy vấn đề đặt ra là những nhà làm luật nên quy
định như thế nào để hạn chế những lỗ hỗng này? Theo nhóm chúng tôi biện pháp tốt nhất
là khắc phục bằng cách là quy định những vấn đề theo cách nó sẽ góp phần hạn chế từ ý
thức tự nguyện của đối tượng bị quản lý hơn là cưỡng chế. Dĩ nhiên là không phải thuyết
phục mà là theo cách sẽ cưỡng chế khi vi phạm theo đúng tính chất pháp luật nhưng nó sẽ

hạn chế xuất phát điểm của hàng vi vi phạm thông qua tính tự nguyện của chủ thể thực
hiện hành vi đó. Và áp dụng vào trong vấn đề quản lý tín dụng nhóm chúng tôi có nêu hai
chính sách kiến nghị được trình bày ngay sau đây:
Chính sách kiến nghị:
7/9/2008: Chi 200 tỷ USD tiếp quản Freddie Mac và Fannie Mae.
3/10/2008: Hạ viện Mỹ thông qua gói 700 tỷ USD.
25/11/2008: Mỹ chi thêm 800 tỷ USD hỗ trợ kinh tế.
(Nguồn />Trang 10
Luật kinh tế
Một là bổ sung thêm vào điều 101 khoản 1 luật các tổ chức tín dụng năm 2010 là quy
định cụ thể mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Nhằm hạn chế được những nguyên nhân chủ quan
gây rủi ro tín dụng. Bằng cách từ ý thức tự nguyện chấp hành của các tổ chức tín dụng là
chính.
Hai là thêm một điều bổ sung vào luật các tổ chức tín dụng 2010 là buộc các ngân hàng
thương mại phải trở thành thành viên của tổ chức quản lý tín dụng. Với mục đích chính tạo
lòng tin cho người dân tránh dao động khi có khủng hoảng.
Các nghiên cứu tiếp theo:
Với kết quả nghiên cứu của nhóm chúng tôi như vừa nêu trên nhóm chúng tôi sẽ tiếp
tục nghiên cứu những quy định để bổ sung thêm vào luật các tổ chức tín dụng năm 2010 về
đề tài “làm thế nào để hạn chế nguyên nhân chủ quan gây ra rủi ro tín dụng từ phía người
đi vay một cách hiệu quả nhất.” vì đây là một đề tài đòi hỏi phải phân tích tâm lý, cộng
thêm hành vi ứng xử của khách hàng ,nên trong phạm vi bài viết này chúng tôi không đề
cập đến.
Trang 11
Luật kinh tế
MỤC LỤC
1.Các rủi ro trong vấn đề thực hiện tín dụng của tổ chức tín dụng ở Việt Nam 1
Tổ chức tín dụng 1
Rủi ro tín dụng đối với các tổ chức tín dụng 2
2.Những hạn chế trong quy chế quản lý rủi ro đối với các tổ chức tín dụng theo luật Việt Nam

(luật các tổ chức tín dụng 2010) 5
3.Các đề nghị để bổ sung cho luật các tổ chức tín dụng 2010 7
4.Kết quả nghiên cứu 10
MỤC LỤC 12
Tài liệu tham khảo 12
Tài liệu tham khảo 15
Tài liệu tham khảo
1. TS. Lê Văn Hưng (chủ biên) (2006), Giáo trình luật kinh tế, NXB Đại học Quốc gia
TP. HCM.
2. Khoa luật kinh tế, trường ĐH Kinh tế TP. HCM (2010), Văn bản pháp luật dành
cho học phần Luật kinh tế, NXB Phương Đông.
3. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật số 47 – 2010 – QH12).
4. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010.
Trang 12
Luật kinh tế
Bổ sung
3. Các đề nghị bổ sung luật tín dụng 2010.
Thứ ba, theo quy định tại điều 16, luật tổ chức tín dụng năm 2010 quy định “Nhà
đầu tư nước ngoài được mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam” đồng thời Chính phủ
quy định tổng mức sở hữu cổ phần tối đa của các nhà đầu tư nước ngoài. Nếu theo quy
định này thì tùy theo quyết định của Chính Phủ mà nhà đầu tư nước ngoài sẽ được sở hữu
bao nhiêu phần trăm vốn cổ phần tại một ngân hàng Việt Nam. Vậy điều gì sẽ xãy ra nếu
quy định của chính phủ về tổng mức cổ phần tối đa của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam giảm xuống. Chẳng hạn theo Nghị định số 69/2007/NĐ-CP quy định tổng mức sở
hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của Ngân hàng
Việt Nam, nhưng vì một lý do nào đó chẳng hạn do Chính phủ không muốn các ngân hàng
Việt Nam có nhiều nhà đầu tư nước ngoài can thiệp vào do đó đã giảm tỷ lệ này xuống còn
25% chẳng hạn. Trong trường hợp này nếu ngân hàng kinh doanh có hiệu quả thì khi này
lượng cổ phiếu do nhà đầu tư nước ngoài bán ra sẽ có nhiều người mua và dĩ nhiên là hoạt
động kinh doanh của ngân hàng sẽ it bị biến động. Tuy nhiên nếu hoạt động kinh doanh

của ngân hàng này là yếu kém, lượng cổ phiếu không ai mua, thì buộc lòng tự ngân hàng
phải bỏ vốn chủ sở hữu ra mua lại, điều này làm thu hẹp nguồn vốn chủ sở hữu, qua đó
trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh và có thể gây ra những biến động rủi ro trong
tín dụng, chẳng hạn như khó đáp ứng khả năng thanh toán. Dĩ nhiên những điều chúng ta
đang nói ở đây chỉ mang tính vi mô, nhưng không gì chắc chắn là nó sẽ không phải là vĩ
mô, và rằng nếu chỉ tin là nó không xảy ra tại sao các nhà làm luật không dự liệu trước.
Mặc dù theo quy định hiện nay tại điều 16, luật các tổ chức tín dụng 2010 sẽ làm cho nền
kinh tế cũng như hoạt động của các ngân hàng dễ dàng thoát khỏi qua những biến động
của tình hình thế giới. Chẳng hạn như khủng hoảng tài chính thế giới năm 2007 đã làm cho
nhiều ngân hàng lớn trên thế giới, lẫn những nhà đầu tư phá sản. Trong trường hợp này
việc quy định giảm mức sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài sẽ là một trong những
nhân tố làm giảm thiểu rủi ro từ hoạt động tín dụng vì đơn giản là như vậy sẽ tạo cho các
nhà đầu tư nước ngoài có thêm vốn phục vụ cho những hoạt động chi phát triển sản xuất
mà không phải đi vay mượn trong điều kiện nền kinh tế vô cùng khó khăn. Tuy nhiên nếu
xét lại ta thấy việc giảm mức sở hữu tổng số vốn cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài vẫn
có ảnh hưởng nhiều hơn, xét trong ví dụ trên ta thấy rằng trong những lúc kinh tế đang
biến động như vậy thì bất kì những nhân tố nào ảnh hưởng làm vốn ngân hàng giảm đi
cũng chẳng khác nào như một cơn bảo lớn ập vào một chiếc thuyền đang lênh đênh trong
cơn bảo, nó chỉ làm cho con thuyền đó chìm đi một cách nhanh chóng mà thôi. Nên từ
những nhận định đó, nhóm chúng tôi đề nghị nên quy định rõ tổng mức cổ phần mà nhà
đầu tư nước ngoài được quyền sở hữu trong một ngân hàng. Chính yếu tố này sẽ làm cho
luật các tổ chức tín dụng thêm rõ hơn, đúng bản chất của pháp luật chứ không phải là một
yếu tố làm cho người ta phải suy tính và lo lắng.
Trang 13
Luật kinh tế
Thứ tư, mặc dù như đã phân tích ở trên thì việc phá sản một ngân hàng sẽ dẫn đến
những rắc rối rất lớn trong hệ thống tài chính lẫn hệ thống kinh tế. Tuy nhiên cùng với
nhịp độ phát triển thì việc phá sản một ngân hàng hay một tổ chức tín dụng sẽ là điều tất
nhiên, vì rằng chúng điều là một doanh nghiệp, mà doanh nghiệp kinh doanh không hiệu
quả thì tất yếu sẽ bị phá sản. Do đó thay vì chúng ta cứ tập trung quy định những hình thức

như sáp nhập, thay thế chủ sở hữu ngân hàng, tại sao ta không tập trung quy định những
vấn đề xoay quanh việc phá sản các tổ chức tín dụng. Thực chất đây là một trong những
chính sách vượt ra khỏi luật các tổ chức tín dụng năm 2010, vấn đề chính mà nhóm chúng
tôi muốn nói ở đây là việc phá sản một tổ chức tín dụng có khi lại là một trong những nhân
tố làm giảm rủi ro tín dụng, tại sao vậy? một điều là nếu nó kinh doanh không hiệu quả thì
nó nên bị đào thải để cuối cùng trên thị trường chỉ còn những kẻ nào chinh phục được. Thị
trường tài chính ta hiện nay cũng có cạnh tranh nhưng cạnh tranh chưa gay gắt, do vậy
việc cho phép tổ chức tín dụng phá sản sẽ là một trong những bước tiến đẩy thị trường tài
chính chúng ta tiến lên một bước mới. Nhưng vấn đề chính là làm sao có thể ổn định lòng
của người dân khi một ngân hàng hay một tổ chức tín dụng phá sản? điều này sẽ được lý
giải bằng chính sách thứ hai mà chúng tôi vừa nêu bên trên, chỉ cần cho người dân thấy
rằng họ có thể rút tiền của họ được, họ hoàn toàn có nơi dự bị để xóa bỏ rủi ro cho số tiền
của họ, thì khi đó việc một ngân hàng hay một tổ chức tín dụng phá sản cũng là điều không
quan trọng. Tuy nhiên cũng như đã phân tích ở trên thì việc thực hiện cho người dân rút
tiền tại tổ chức quản lý tín dụng sẽ gây ra lạm phát nếu người dân không tin hệ thống tài
chính và như vậy sẽ làm cho nền kinh tế tồi tệ hơn. Tuy nhiên cũng cần nhìn nhận một
điều rằng nếu không chấp nhận hậu quả này thì sao có thể có bước tiến mới, ta cứ đứng
chân tại chỗ, cứ sợ, cứ lo lắng thì không thể nào thực hiện được nhưng bước tiến. Thực
chất khi ngân hàng phá sản thì có thể một số khoản nợ của nó không thể thu hồi được, mà
khách hàng lại đến rút tiền làm cho lượng tiền mặt trong nền kinh tế tăng lên, do đó chúng
ta phải chấp nhận chịu lạm phát trong thời gian đầu này. Tuy nhiên sau đó tổ chức quản lý
tín dụng có thể thay mặc ngân hàng đã phá sản hoặc nhân danh cơ quan quyền lực nào đó
để thu hồi số nợ này, mặc khác cộng với sự phát triển của chính sách mở rộng thẻ thanh
toán hóa sẽ làm cho lượng tiền trong lưu thông giảm, từ đó làm giảm lạm phát.
Cộng thêm với việc phát triển trình độ của người dân thì việc phá sản các tổ chức tín dụng
sẽ dần trở nên thân thuộc chứ không phải xa lạ như hôm nay.
Tóm lại một điều là ở trong chính sách thứ tư này là chúng tôi kiến nghị nên xây dựng một
hệ thống pháp luật phá sản các tổ chức tín dụng trong đó nên chú trọng đến yếu tố ổn định
lòng tin của người dân như vừa phân tích ở trên.
Trang 14

Luật kinh tế
Tài liệu tham khảo
1. TS. Lê Văn Hưng (chủ biên) (2006), Giáo trình luật kinh tế, NXB Đại học Quốc gia
TP. HCM.
2. Khoa luật kinh tế, trường ĐH Kinh tế TP. HCM (2010), Văn bản pháp luật dành
cho học phần Luật kinh tế, NXB Phương Đông.
3. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật số 47 – 2010 – QH12).
4. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010.
5. Tạp chí phát triển kinh tế số 170 Tháng 12 năm 2004.
6. Hồ Sỹ Thụy- Ngân hàng Nhà nước đăng trên www.chinhphu.vn Cổng thông tin điện
tử Chính phủ.
7. www.tapchiketoan.com – trang web “Tạp chí kế toán”, bài viết “ Rủi ro tín dụng và
quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại tại TP.HCM”
Trang 15

×