Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

nghiên cứu điều kiện lưu giữ và lựa chọn thức ăn phù hợp trong quá trình ương nuôi ban đầu cá chình hương sau khi thu vớt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.77 KB, 25 trang )

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, ngành ni trồng thuỷ sản phát triển mạnh
mẽ, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở
đó nghề ni cá nước ngọt cũng đang trên đà đa dạng hóa về giống lồi và
hình thức ni. Một số lồi cá đặc sản nước ngọt như cá Tầm, cá Anh Vũ, cá
Chình, cá Chiên, cá Lăng … đang được các nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu.
Trong số đó, cá chình được coi là lồi thủy đặc sản có giá trị kinh tế
nhất. Thịt cá chình thơm ngon, giàu protein, giàu vitamin, các acid amin và
các acid béo thiết yếu... Bên cạnh đó, thịt cá chình còn được xem như là một
nguồn dược liệu quý hiếm. Hiện nay giá cá chình hoa loại 0,5 - 1kg/con
khoảng 300 - 320 ngàn đồng/kg; loại 1 - 2 kg/con từ 360 - 380 ngàn đồng/kg;
trên 2 kg/con có thể mua từ 280.000 -300.000 đồng/kg. Cỡ cá chình hoa giống
loại 20 - 30 con/kg từ 480 - 500 ngàn đồng/kg. Cá chình phân bố rộng từ vùng
nhiệt đới đến ơn đới của vùng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, từ Đông
châu Phi đến quần đảo Polynesia, từ Bắc tới Nam Nhật Bản. Ở Việt Nam, Cá
chình hoa phân bố từ Hà Tĩnh đến Bình Định. Nhu cầu tiêu thụ cá chình ngày
càng lớn. Hằng năm, một lượng lớn cá chình được tiêu thụ ở Trung Quốc,
Nhật Bản, các nước EU... Ở Việt Nam, nhu cầu tiêu thụ loài thủy đặc sản này
cũng ngày càng tăng, song song với quá trình nâng cao mức sống của người
dân.
Ni cá chình trở thành một nghề có hiệu quả kinh tế cao từ những năm
2000, cá chình được ni nhiều ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long và các
tỉnh miền Trung, nghề ni lồi cá đặc sản này đã đem lại lợi ích về kinh tế rất
đáng kể cho các hộ nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, việc ni cá chình gặp
phải khó khăn trong việc chủ động con giống, bởi vì cá chình chỉ có nguồn
giống duy nhất từ tự nhiên. Việc thu vớt cá chình thường gặp nhiều khó khăn
từ kỹ thuật thu gom đến việc vận chuyển, lưu giữ và ương nuôi ở giai đoạn
đầu. Cho đến nay, chưa có một cơng trình khoa học nào hồn thiện để phổ
biến một quy trình đầy đủ về thu vớt, vận chuyển, lưu giữ và ương ni.
Trước mối quan tâm đó, tôi đã tiến hành “nghiên cứu điều kiện lưu giữ và


lựa chọn thức ăn phù hợp trong quá trình ương ni ban đầu cá chình
hương sau khi thu vớt” cho đến lúc thả vào ao nuôi. Nghiên cứu nhằm xác
định các điều kiện lý hóa thích hợp cho các chình ở các kích cở khác nhau khi
ngư dân thu vớt được từ cửa sông, đồng thời nhằm khuyến cáo cho người dân
lưu giữ cá chình giống được lâu mà khơng ảnh hưởng đến giá trị kinh tế và
sức khỏe của cá giống.


PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên của địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Vị trí địa lý
Quảng Bình là một tỉnh ven biển Bắc
Trung bộ, là nơi giao thoa các điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội giữa hai miền Nam
Bắc của đất nước. Phía Bắc giáp tỉnh Hà
Tĩnh, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị, phía
Đơng giáp biển Đơng và phía Tây giáp nước
Cộng hồ dân chủ nhân dân Lào.
Nằm trên nhiều đầu mối giao thơng
quan trọng nên Quảng Bình có nhiều thuận
lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội, giao
lưu hợp tác với các Tỉnh, Thành phố trong cả
nước và các quốc gia trong khu vực.
2.1.2. Địa hình, khí hậu
Hình 1: Bản đồ Quảng Bình
Địa hình Quảng Bình hẹp, dốc,
nghiêng từ Tây sang Đông và bị chia cắt bởi nhiều sông suối tạo thành nhiều
vùng đất có điều kiện khác nhau, trong đó vùng núi, gị đồi chiếm 85% diện
tích tự nhiên; vùng đồng bằng chiếm 11% còn lại là vùng cát và đụn cát ven
biển.

Khí hậu Quảng Bình nằm trong vùng khí hậu chuyển tiếp của 2 miền
Nam Bắc: mùa mưa (từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau) đặc trưng có gió mùa
Đơng Bắc, lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.000-2.300mm/năm. Mùa khơ
(từ tháng 4 đến tháng 8) có ảnh hưởng của gió Tây Nam tạo nắng nóng khơ,
tuy nhiên do được điều hồ bởi Biển Đơng nên khí hậu Quảng Bình về đêm
khá mát mẻ. Nhiệt độ trung bình của mùa khơ là 24-25 oC; các tháng nóng nhất
của mùa khô là tháng 6,7 và 8 nhiệt độ có thể lên đến trên 38-39oC.
Quảng Bình có nhiều sơng suối cắt ngang và đổ ra biển, đây là điều kiện
rất thuận lợi cho cá chình tập trung sinh sản và phát triển,đồng thời điều kiện
khí hậu cũng khá thích hợp cho q trình ương ni.
2.2. Vị trí phân loại và đặc điểm sinh học của cá chình hoa (Anguilla
marmorata)
2.2.1. Vị trí phân loại
Theo Nguyễn Hữu Phụng, 2001 cá chình có vị trí phân loại như sau:
Lớp
: Osteichthyes
Phân lớp
: Acfinopterygill
Bộ
: Anguilifomes
Phân bộ
: Anguilloidei
Họ
: Anguillidae
Giống : Anguilla
Loài : Anguilla marmorata (Quoy and Gaimard, 1824)
Tên địa phương: cá Chình bơng (Miền Nam), Chình hoa (Miền Bắc),
Chình cẩm thạch, Chình khổng lồ.
Tên tiếng anh: Marbled eels, Giant mottled eels.
2.2.2. Đặc điểm hình thái



Thân cá Chình bơng có hình trụ dài có vảy xếp dạng hình chiếc chiếu,
nhỏ, dạng trái xoan và vây chạy vùng quanh ngực. Đầu tròn, mắt bé, miệng
hơi chếch, mơi dày, lưỡi tự do khơng dính vào đáy miệng mút nhọn của mõm
và hàm dưới có gờ thịt, răng nhỏ và xếp trên hai hàm và xương khẩu cái thành
các dải răng.

Hình 2: Cá chình bơng
Chình bơng trưởng thành có màu vàng với màu nâu xanh đến đen trên
lưng và bụng màu trắng, con nhỏ có màu hơi xám đến vàng. Chiều dài thân
gấp 7 lần chiều dài đầu, gấp 3,5 lần chiều dài trước vây lưng và 2 lần chiều dài
vây hậu mơn. Chình bơng có 2 lỗ mũi, lỗ trước ở phía trước miệng, lỗ sau ở lỗ
trước mắt, mũi rất nhỏ khi xuống bùn thì đóng lại để bùn khơng chui vào. Do
tập tính sống ở hang hốc và đáy sông hồ nên mắt nhỏ, và các cơ quan khứu
giác, cơ quan đường bên phát triển. Da gồm nhiều biểu bì bài tiết để làm giảm
bớt lực cản của nước, tăng tốc độ bơi và giảm ma sát khi chui vào hang, niêm
dịch cá tiết ra chất dịch có tác dụng bảo vệ thân cá khi gặp mơi trường khơng
thích hợp. Đường bên dọc giữ thân, vây ngực nhỏ gần như hình trịn, khơng có
vây bụng. Vây lưng, vây hậu mơn, vây đi đính liền nhau đều và tương đối
phát triển, khoảng cách từ khởi điểm vây lưng đến vây hậu mơn lớn hơn từ đó
đến khe mang, hậu môn ở nửa trước của thân.
Theo Wikipedia (1976), khác với các lồi khác cùng thuộc giống
Anguilla, Chình bơng có lưng màu đen, có các chấm đen nằm rải rác trên thân
dạng hoa văn, cẩm thạch (Marbling) do đó được gọi là Chình bơng, Chình
hoa hay Chình cẩm thạch (Marbled eel).
2.2.3. Phân bố
Trên thế giới Chình bơng được tìm thấy vùng Indo-Thái Bính Dương
(Nhật Bản, Thái Lan, Indonesias, Philippins, Trung Quốc…) và khu vực đông
Châu Phi. Ở Châu Phi có thể tìm thấy trong sơng Mozambique và vùng thấp

của sơng Zambezi. Cá Chình bơng là lồi phân bố rộng nhất so với các loài
khác cùng thuộc giống Anguilla. Chình bơng thường được tìm thấy ở vùng
nhiệt đới từ 240N đến 330S. Một số vùng nó được liệt kê vào danh sách đỏ của
những loài đang bị đe dọa như ở Thái Lan, họ săn lùng Chình bơng với mục
đích làm dược liệu.


Ở Việt Nam, cá chình bơng phân bố từ Hà Tĩnh đến Bình Định, chủ yếu
tập trung ở các khu vực sau:
- Sông Ngàn Phố của Hà Tĩnh.
- Sông Gianh, sơng Rn, sơng Nhật Lệ của Quảng Bình.
- Sơng Thạch Hãn, sông Hiền Lương, huyện Triệu Phong, Đakrong, Khe
Sanh (Tà Rụt) tỉnh Quảng Trị.
- Sông Bồ, sông Hương và đầm Cầu Hai của Thừa Thiên Huế.
- Sông Trà Khúc và vùng Ba Tơ của Quảng Ngãi.
- Sông Con và sông Ba tỉnh Phú Yên.
- Hồ Đắc Uy tỉnh Kon Tum.
- Đầm Châu Trúc tỉnh Bình Định.
Cá chình hương và giống tập trung chủ yếu ở các cửa sông và đầm phá
ven biển. (Nguyễn Chung, 2008)
2.2.4. Điều kiện môi trường sống
Nắm rõ điều kiện mơi trường sống, chúng ta sẽ có cơ sở để tìm ra biện
pháp lưu giữ, ương ni cũng như ni thương phẩm cá chình tốt nhất. Cũng
như các lồi động vật thuỷ sản khác, cá chình cũng địi hỏi các điều kiện mơi
trường nhất định.
2.2.4.1 Nhiệt độ
Cá chình là lồi cá có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới, chúng chỉ có thể sinh
trưởng và phát triển bình thường khi nhiệt độ nằm trong khoảng 13 – 30 oC.
Ngưỡng nhiệt độ tối đa mà cá chình có thể chịu đựng được là 38 oC, nhiệt độ
tối thiểu là 1 – 2oC, nhưng ở nhiệt độ 12oC cá mới bắt đầu bắt mồi (Nguyễn

Đình Trung, 2004). Nhiệt độ mơi trường cũng ảnh hưởng lớn đến lượng thức
ăn cá chình sử dụng. Đối với cá chình có trọng lượng từ 100 – 200 g/con, khi
nhiệt độ môi trường thấp hơn 18 oC, lượng thức ăn mà chúng sử dụng ít hơn
2% trọng lượng cơ thể; từ 18 – 23 oC lượng ăn vào từ 2 – 2,8%; tại nhiệt độ 23
– 280C là 2,8 – 3,2% và trên 28 oC lượng ăn giảm xuống còn từ 2 – 2,8% trọng
lượng cơ thể. Nhiệt độ thích hợp nhất là 25 – 27oC (Ngơ Trọng Lư, 2000).
2.2.4.2. Hàm lượng oxy hồ tan
Trong thủy vực DO có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của cá chình.
Khi hàm lượng oxy hồ tan trong nước ao không đầy đủ cá ăn kém, sinh
trưởng chậm. Vì vậy hàm lượng oxy hịa tan là yếu tố cần thiết nhất, thậm chí
nó là yếu tố giới hạn đối với sự sống của cá chình và các lồi thủy sinh vật.
Sự tăng cao quá mức của DO cũng gây ảnh hưởng xấu đến đối tượng
nuôi. Hàm lượng DO ở quá mức bão hoà (vượt quá 12 mg/l) sẽ là ngun
nhân gây ra bệnh bọt khí (Nguyễn Đình Trung, 2004). Hàm lượng oxy hoà tan
tối thiểu trong nước mà cá chình có thể chịu đựng được trong khoảng từ 0,5 –
2,0 mg/l. Cá càng lớn thì lượng oxy tiêu hao càng nhiều. Ở nhiệt độ 25 oC, với
trạng thái yên tĩnh, lượng tiêu hao theo kích cỡ cá. Ở nhiệt độ 10 – 30 oC thì sự
tiêu hao oxy tăng theo nhiệt độ tăng, dưới 10 oC và trên 30oC lượng tiêu hao
oxy có xu hướng giảm. Hàm lượng oxy hồ tan thích hợp cho cá chình là từ 5
– 10 mg/L (Atsushi Usui, 1991).
2.2.4.3 Độ mặn
Trong vòng đời của cá chình, ở mỗi giai đoạn khác nhau có sự địi hỏi
khác nhau về độ mặn và tính thích ứng khác nhau.


Giai đoạn ấu trùng và tiền ấu trùng chúng sống trong nước mặn và nước
lợ. Đến giai đoạn cá chình con, chúng di cư dần vào các thủy vực nước ngọt.
Suốt giai đoạn trưởng thành chúng sống trong nước ngọt, thường từ 2 – 30
năm trước khi trở lại biển. Khi cá đến tuổi thành thục chúng di cư ra biển để
đẻ và cá mẹ chết sau khi đẻ xong (Atsushi Usui, 1991). Tuy nhiên do cá chình

là lồi rộng muối nên chúng có thể sống và sinh trưởng ở cả nước mặn và
nước ngọt nhờ có khả năng điều tiết áp suất thẩm thấu của cơ thể.
2.2.4.4. Độ pH trong thủy vực
Trong tự nhiên cá chình có thể sống ở mơi trường có giá trị pH từ 4 – 10,
pH thích hợp từ 6,5 – 8,5. Giá trị pH thích hợp nhất cho cá phát triển là từ 7,0
– 8,0 (Boestius, 1980; dẫn theo Chu Văn Công, 2006).
Ở Trung Quốc u cầu kỹ thuật của ao ni có giá trị pH từ 7,2 – 8,5, ở
Nhật Bản giá trị pH từ 7,0 – 9,0; pH dưới 7,0 bất lợi cho sinh trưởng của cá
chình (Atsuishi Usui, 1991).
2.2.4.5. Ánh sáng
Cá chình là lồi sống đáy, chui rúc trong hang đá, hốc cây, vùi mình
xuống bùn cát. Cá chình thích bóng tối, sợ ánh sáng, ban ngày chúng tìm nơi
có ánh sáng yếu để ẩn nấp, ban đêm bơi ra kiếm mồi (Isao Matsui, 1979; dẫn
theo Chu Văn Công, 2006).
2.2.4.6. Các yếu tố mơi trường khác
Hàm lượng Nitơ thích hợp cho cá chình sinh trưởng phát triển là nhỏ
hơn 5 mg/L (Zhong Lin, 1991; dẫn theo Phạm Thị Hà, 2005). Bên cạnh đó cịn
rất nhiều yếu tố vơ sinh, hữu sinh khác cũng ảnh hưởng đến hoạt động của cá.
2.2.5. Đặc điểm dinh dưỡng
Cá Chình bơng là lồi cá dữ ăn động vật. Thành phần thức ăn của chúng
bao gồm những lồi trong nhóm động vật như giun ít tơ, thân mềm, chân
khớp, cá lưỡng cư và một số loài động vật trên cạn khác. Cá Chình sống trong
mơi trường khác nhau có thành phần thức ăn khác nhau. Cá Chình sống trong
sông, suối, ao, hồ ăn cá, côn trùng và giáp xác là chính. Cá Chình sống trong
vùng nhiệt đới và biển thành phần thức ăn chủ yếu là giun đốt và cua.
Ở giai đoạn phát triển khác nhau thành phần thức ăn của cá Chình bơng
thay đổi khác nhau. Cá Chình con mới đi vào vùng cửa sơng trong ruột và dạ
dày của chúng có chứa một lượng đáng kể mùn bã hữu cơ. Ở giai đoạn con
giống thức ăn chủ yếu là động vật phù du,như Neomysi, Alona, Moina…, các
ấu trùng của côn trùng thủy sinh, động vật thân mền nhỏ,giun chỉ và giun ít

tơ.
Ở giai đoạn trưởng thành thức ăn của chúng là cá, tôm, và các động vật
đáy. Chình bơng có tính ăn dữ do đó nó có thể ăn thịt đồng loại, rình bắt
những con có kích thước nhỏ hơn. Khi kích cỡ đạt dài hơn 20cm khơng nhận
thấy có sự sai khác nhiều về thành phần các sinh vật là thức ăn của chúng,
nhưng có sự sai khác nhiều về kích cỡ của loại thức ăn.
Để phát triển, sinh sản và duy trì các hoạt động sinh lý bình thường
khác Chình bơng cần phải được cung cấp protein, muối khoáng, vitamin và
các nguồn cung cấp năng lượng khác. Sự thiếu hụt của một hay một vài chất
dinh dưỡng khác nhau sẽ dẫn đến tỷ lệ tăng trưởng giảm, cá dễ bị bệnh và có
thể bị chết.


Thức ăn của Chình bơng phải đảm bảo protêin là 45%, lipid chiếm 3%,
cellulose 1%, calci 2,5%, phosphor 1.3% cộng thêm muối khống, vi lượng,
vitamin thích hợp. Nói chung tỷ lệ bột cá chiếm khoảng 70-75%, tinh bột 2025% và một ít vi lượng, vitamin.
Thức ăn của cá Chình có tỷ lệ bột khá cao, mỡ nhiều nên dễ hút ẩm, dễ
mốc, phải chý ý bảo quản tốt, thời gian bảo quản không quá 2 tháng. Cũng
như với các giống, khi cho ăn, thức ăn phải được thêm nước, thêm dầu dinh
dưỡng trộn đều làm thành loại thức ăn, mịn mới cho cá ăn.
Bảng 1: Các tỷ lệ thức ăn dầu, nước, phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ
Đơn vị: kg
Nhiệt độ
Thức ăn
Dầu
Nước
15 - 200C

100


3-5

110 – 130

20 - 230C

100

5-7

110 – 130

23 - 300C

100

7 - 10

110 – 130

Bảng 2:Thức ăn so với trọng lượng thân của Chình bơng ở các giai đoạn
Cỡ cá

Cá bột

Trọng lượng cá (g) 0,2 – 0,8
Thức ăn (%)
6 - 10



hương
1 – 1,5
4-6


giống
16 - 40
3-4

Cá cỡ
nhỏ
40 - 100
2,8 - 3

Cá thương
phẩm
150 – 200
2 – 2,5

2.2.6. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển
Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng của cá chình sống trong tự nhiên được
xác định là thấp hơn nhiều so với các loài cá khác. Các ấu trùng và ấu thể của
cá chình châu Âu phải mất 3 năm mới đến được các thủy vực nội địa.
Tốc độ tăng trưởng của cá chình được đo vào tháng 6 hàng năm cho
thấy, ở năm thứ nhất cá đạt chiều dài 25 cm, năm thứ hai dài 53 cm, năm thứ
ba dài 75 cm, cá chình đực phát triển chậm hơn cá cái. Sự khác biệt này thể
hiện rõ khi cá đạt kích cỡ từ 30 cm trở lên. Đối với cá chình Nhật (A.
japonica) vào giai đoạn thành thục cá chình đực có khối lượng 70 gam/con,
chiều dài 30 – 35 cm; cá chình cái có khối lượng từ 300 – 350 gam/con, chiều
dài 57 – 60 cm. Như vậy cá chình cái lớn hơn cá chình đực khoảng 4 lần

(Atsushi, 1991).
Cá chình ni trong điều kiện nhân tạo thường có tốc độ tăng trưởng
khác nhau tuỳ theo điều kiện môi trường, mật độ nuôi và chất lượng thức ăn.
Tốc độ sinh trưởng của cá chình ni ở Nhật sau 18 tháng nuôi tăng trọng từ
160 – 180 g/con (9 – 10 g/con/tháng). Tuy nhiên thời gian tăng trưởng thực tế
chỉ khoảng 10 tháng do nhiệt độ môi trường xuống quá thấp, cá không bắt
mồi. Khi nuôi trong điều kiện đảm bảo ổn định nhiệt độ, cá chình Nhật có
trọng lượng ban đầu 20 g/con, mật độ thả 40 – 50 con/m 2, sau một năm có thể
đạt kích cỡ 150 – 200 g/con. Trong khi cũng mức tăng trọng đó cá được ni


ở Trung Quốc và Đài Loan chỉ cần thời gian 8 – 10 tháng (Chen T.P, 1976;
dẫn từ Nguyễn Thị Quế Phụng, 2006).
2.2.7. Đặc điểm sinh sản
Cá Chình bơng là loài di cư sinh sản (Spawning migration fish), cá bố
mẹ sống trong nước ngọt đến lợ trong các sông và cửa sơng, gần đến giai đoạn
chín mùi sinh dục thì di cư những đoạn đường rất xa ra biển khơi đến bãi đẻ.
Cá Chình thường đẻ vào mùa xuân đến giữa hè, nơi có độ sâu 400 - 500m
nước, nhiệt độ nước 16-170C, độ mặn 35‰, cá Chình chỉ đẻ 1 lần trong năm.
2.3. Sơ lược kỹ thuật thu vớt cá chình giống
Kỹ thuật thu vớt có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, tỷ lệ sống cũng như
tốc độ tăng trưởng của cá trong quá trình lưu giữ và ương ni sau này.
2.3.1. Mùa vụ thu vớt
Cá chình bột mới nở cịn ở dạng ấu thể hình lá liểu theo dịng hải lưu và
thủy triều trơi dạt vào vùng biển ven bờ, trong thời gian ngắn khoảng 15-20
ngày cá bột biến thành cá con có chiều dài thân khoảng 5-6cm, mảnh, thon
dài, màu trắng đục nên thường được gọi là chình lá liểu hay cá chình trắng.
Ban ngày cá nằm dưới đáy chui rúc vào các khe đá, rong, cỏ,… ẩn nấp, ban
đêm chui ra ngoài hoạt động và chờ khi có điều kiện thích hợp tập trung thành
đàn đi vào các cửa sơng và di cư ngược dịng về các thủy vực nước ngọt ở sâu

trong nội địa. Thời điểm này là mùa vụ khai thác, thu vớt cá chình bột, cá
chình con để ni.
Cá chình giai đoạn này thường có kích cỡ 5-6cm, khối lượng khoảng
0,15-0,18g/con tương đương với 5500-7000con/kg.
Nhìn chung mùa vụ xuất hiện bắt đầu từ tháng 9 năm trước đến cuối
tháng 4 năm sau. Nhưng tập chủ vào tháng 1 đến tháng 2, đặc biệt sau mùa lũ,
ở những ngày biển động nhẹ, có gió mùa Đơng Bắc kết hợp với triều cường,
vào những ngày trời tối. Thời điểm di cư nhiều nhất ở chập tối đến 10-11 giờ
đêm, cịn về sau thì giảm dần.
Tuy nhiên thời gian thu vớt trong 1 lần có thể có lẫn cá chình có kích cỡ
lớn hơn, do các đợt cá di cư các đợt trước trộn lẫn vào. Càng về cuối vụ kích
cỡ cá chình thu được càng lớn.
2.3.2. Ngư cụ sử dụng để thu vớt
Hiện nay có khoảng 3-4 loại ngư cụ khai thác, thu vớt cá chình trắng.
Tùy loại ngư cụ mà có hiệu quả hay khả năng làm tổn hại cá chình và lạm sát
các loại cá khác.
- Lưới trũ:
Đây là loại ngư cụ thu vớt chủ yếu. Lưới này có kích thước khoảng 2 m x
m
1,2 . Lưới được dùng để làm là loại lưới xăm nhỏ, có mắt lưới khoảng 2a =
2mm.
Lưới được cắt hình chữ nhật, hai đầu gắn vào 2 que gỗ hay tre, dài
khoảng 1,5m, cho 2 người giữ 2 bên xúc cá chình trắng trơi nổi hay đang di
cư. Giềng dưới kẹp chì, giềng trên gắn phao hay khơng gắn gì tùy thuộc vào
từng người dân làm.
Lưới trũ dùng để xúc cá vào ban đêm. Đi kèm với ngư cụ này là loại vợt
nhỏ cũng sử dụng lưới xăm có kích cỡ mắt lưới 2a = 2mm trên để làm, lưới
được gắn vào vịng sắt có đường kính khoảng 20-30cm, cán vợt dài khoảng



0,5-1m tùy theo người làm. Vợt này dùng để vớt cá thu được từ lưới trũ.
Ngồi ra cịn dùng đèn pin hoặc đèn ắcquy để soi có xúc được cá hay không.
Đầu tiên 2 người giữ ở 2 đầu lưới trũ và xúc vào nơi có cá, dùng đèn soi
có cá hay khơng. Nếu khơng có thì tiến hành xúc tiếp, nếu có thì dùng vợt xúc
cá ở lưới trũ lên và cho vào xô hay thùng chứa cá.
So với các loại ngư cụ khác thì loại này thu vớt có hiệu quả nhất và ít tổn
hại cho cá chình tự nhiên.
- Vợt nhỏ:
Loại vợt này giống như vợt đi kèm cùng với lưới trũ, nhưng có cải tiến
bằng cách uốn thẳng miệng vợt có hình “bán nguyệt” để thu cá chình men theo
đập di cư, cán vợt cũng được nối dài để tiện sử dụng. Nó được sử dụng độc lập
để vớt cá chình trắng vượt đập.
Ngư cụ này ít hiệu quả vì số lượng thu vớt được ít. Nhưng khi sản lượng
cá lớn thì loại ngư cụ này có vẻ chiếm ưu thế hơn bởi sự nhanh nhẹn và tiện
lợi của nó.
- Vợt lớn:
Vợt lớn là loại vợt được làm như vợt nhỏ nhưng đường kính vịng vợt
lớn hơn, khoảng 0,8-1m để xúc cá chình ẩn nấp dưới lớp cát sỏi, lớp rong rêu,
bụi cỏ,… ở đáy sông vào ban ngày.
Người dân dùng vợt cào mạnh vào đáy đưa cá và lớp cát sỏi… ở đáy
sông lên rồi đổ ra trên bờ để tìm kiếm cá chình.
Như vậy loại ngư cụ này vừa ít hiệu quả, vừa gây tổn hại đến sức khỏe
cá chình và hệ sinh thái thủy sinh. Ngư cụ này không sử dụng phổ biến, chỉ sử
dụng để thu cá chình thêm vào ban ngày.
- Lưới đáy mịn:
Ngồi các phương pháp thủ cơng trên, cịn có phương pháp sử dụng lưới
đáy. Hình thức này chưa phổ biến vì các lý do sau:
+ Là lưới đáy, đóng hướng miệng ra biển để chặn đường di cư của cá
chình từ biển vào sơng do vậy chỉ đóng phù hợp khi có triều cường.
+ Sóng, gió thủy triều lớn rất vất vả cho người sử dụng.

+ Thời gian khai thác ngắn chỉ 4-6 giờ/ngày vì liên quan tới chế độ thủy
triều.
+ Năng suất khai thác thấp, chỉ từ 1-30con/1 lưới/đêm lẫn nhiều đối
tượng khác và rác thải.
Lưới đáy thường đặt cố định có dạng hình túi gồm 2 cánh lưới và 1 túi
đáy. Cánh lưới được kết ráp từ nhiều tấm lưới có mắt lưới đồng cỡ 2a = 2mm.
Hàm trên cánh lưới kết dây giềng gắn các phao nhựa lớn để miệng lưới trên
nổi trên mặt nước, hàm dưới cánh lưới kết dây giềng có gắn chì để đủ nặng
kéo miệng lưới mở rộng ra chìm sát đáy. Cánh lưới dài từ 15-20m, miệng lưới
mở rộng 10-15m.
Túi đáy hình trịn, dài, trước lớn hơn sau. Túi đáy có 2 phần, phần trước
nối từ cuối thân cánh lưới dài 1,5-2m, phần sau dài 2-2,5m. Miệng cuối túi đáy
kết dây giềng thắt nút tháo mở được và được buộc với neo để cố định đáy.
Phần miệng túi được buộc vào phao tiêu để xác định vị trí của túi. Khi thu cá,
kéo phao này lên xuồng và rũ cá từ miệng túi đáy ra phía sau để trút vào dụng


cụ chứa. Ngay phần miệng túi đáy còn được ráp thêm phần “toi” cũng được
may bằng lưới mùng nhằm hạn chế cá quay trở lại khi đã vào túi đáy.
Dùng neo sắt để cố định 2 cánh lưới và mở rộng miệng lưới. Neo phần
miệng lưới nặng 15kg, neo phần đụt lưới nặng 10kg. Hàm trên lưới luôn nổi
trên mặt nước và hàm dưới ln chìm sát đáy, miệng lưới mở rộng hình oval.
Đặt lưới đáy cố định ở cửa sơng, rộng, thơng thống hay có thể lùi vào
phía trong để hạn chế sóng gió, nơi có cá chình theo dịng nước trơi vào lưới.
Nơi đặt lưới phải có độ sâu đạt yêu cầu, nhưng không nên ở nơi quá sâu dịng
chảy mạnh khó thao tác. Dựa vào địa thế vùng cửa sơng để đặt đáy, thường đặt
phía bờ cát có độ sâu vừa phải (2-3m). Chỉ đặt miệng đáy hướng về biển khi
thủy triều lên.
Thường vào 17-18 giờ chiều phải tiến hành thả lưới, để có thể thu được
cá ngay từ chập tối và dễ quan sát, thao tác khi thả lưới. Cá chình theo dịng

nước thủy triều bơi vào lưới, khi triều gần đứng thì thu cá. Trong một lần thả
lưới có thể thu 2-3 lần tùy theo số lượng cá vào nhiều hay ít.
Dùng lưới đáy cố định có thể làm ảnh hưởng tới sức khỏe của cá do
dòng nước chảy tạo áp lực đè nặng lên cá và con này ép con kia hoặc bị cá tạp,
cua ghẹ và rác thải trôi vào ép nén làm những con vào túi trước dễ bị chết ngạt
hay yếu sức.
Khai thác bằng hình thức này phải có thêm dụng cụ để lọc cá. Có thể
dùng thau, thùng (nhựa, nhơm) chứa sẵn nước. Cá khai thác được trút vào
thau, sau đó khẩn trương lượm bỏ tất cả các tạp chất (rác thải, cá tạp, cua ghẹ),
rồi chuyển tiếp sang xô, thùng chứa khác để phân loại. Sau khi phân loại cá
được chứa trong thùng có các dụng cụ sục khí để cung cấp đủ oxy cho cá vừa
mới thu được, nước chứa trong thùng phải lấy tại chổ và lắng sạch.
2.3.3. Tổ chức thu vớt
Để thu vớt được nhiều cá chình trắng, ngư dân thường chọn các vùng
cửa sơng có nguồn nước ngọt đổ ra biển. Đặc biệt sau lụt, lượng nước ngọt đổ
ra biển nhiều làm thay đổi độ mặn ở cửa sông, đây là yếu tố nhạy cảm cuốn
hút cá chình ngược dịng di cư vào sơng.
Nơi cá chình tập trung nhiều nhất là vùng tiếp giáp giữa vùng nước ngọt
và vùng nước mặn (nước lợ). Vì vậy ngư dân thường chọn những vùng này để
thu vớt cá chình trắng.
Tuy nhiên cá chình trắng có thể xuất hiện từ cửa sông đến chân đập thủy
lợi. Tùy theo đập thủy lợi xa hay gần cửa biển.
Đối với những dòng sơng khơng có đập thủy lợi chắn ngang, cá chình
trắng thường xuất hiện từ 1-5km tính từ biển vào.
Người dân thường đặt ngư cụ thu vớt nơi có dịng chảy nhẹ, ven bờ
sơng, tương đối kín gió và độ sâu từ bờ ra đến độ sâu khoảng 2m trở lại.
Thường là những bãi bồi và những gị cát giữa sơng, cịn những bờ sơng lở do
dịng chảy xiết và nguy hiểm nên khơng có người khai thác. Theo kinh nghiệm
vào mùa này cá tập trung chủ yếu ở bờ Bắc, nơi kín gió.
2.4. Các phương pháp lưu giữ cá chình hương sau thu vớt

Cá chình giống vừa thu vớt được cho vào thùng chứa có sục khí. Lúc
này có lẫn nhiều rác bẩn và cá tạp lẫn lộn. Khi chuyển vào bờ cần sàng lọc,
sau đó đưa vào nuôi tạm để cá thải hết phân trong ruột ra.


Việc nuôi tạm cá chình trong thời gian ngắn 2-3 ngày có thể thực hiện
như sau:
- Nuôi khô và phun nước:
Cá thu được chứa trong thùng nhựa hay gỗ, cách 1-2 giờ phun nước một
lần để giữ cho da cá luôn có độ ẩm, tạo thuận lợi cho cá hô hấp bằng da. Có
thể nuôi tạm trong 2 – 3 ngày, tỷ lệ sống 80-90%. Tuy nhiên cá bị yếu sức
nhiều do phải sống trong môi trường không nước, một số bộ phận của cá bị ức
chế, ảnh hưởng khi thả nuôi sau này.
- Nuôi trong giai
Dùng giai lưới có kích thước khoảng 200 x 100 x 150 cm, mắt lưới 10
2
lỗ/cm , đặt dưới nước, tại nơi thu vớt cá chình giống, phải đảm bảo nước sạch,
thông thoáng.
Dùng giai có thể nuôi tam cá chình hoa giống trong một thời gian dài, từ
15- 30 ngày. Trong quá trình nuôi tạm nên thường xuyên rửa sạch bùn và rong
đóng kín trên mắt lưới giai, vớt cá chết và cho cá ăn.
Tỷ lệ sống khi nuôi tạm trong giai có thẻ đạt 80%, tuy nhiên chất lượng
cá cũng bị giảm do cá bị nuôi nhốt trong môi trường chật hẹp, cá ăn ít hoặc
không chịu ăn.
Bảng 3: Mật độ và thời gian nuôi tạm cá chình trong giai
Mật độ (kg/m2)
4–6
3–4
1–2


Nhiệt độ (oC)
12
13 – 16
17

Thời gian (ngày)
15 – 30
30 – 40
15 - 30

- Nuôi tạm trong bể Composit hay bể Ciment
Đây là cách nuôi tạm có trang bị dụng cụ tương đối, bể composit hay bể
ciment có hệ thống cấp thoát nước, có máy sục khí liên tục và có mái che, tạo
điều kiện tốt cho cá sinh sống. Bể có thể tích 15 – 25 m3, cao 80cm. Nước cấp
vào bể phải được lọc kỹ, pH từ 7-8, độ mặn 5-6 ‰.
Bảng 4: Mật độ nuôi giữ trong bể composit tuy theo nhiệt độ
Nhiệt độ (oC)
12
13 – 15
16 – 27

Mật độ (kg/m2)
7–8
5–6
3–4

Trong điều kiện hàm lượng oxy trên 4 mg/lít và pH từ 7 – 8, công tác
chăm sóc và làm vệ sinh tốt, mỗi ngày thay 1/3 nước, tập luyện cá ăn mồi, thời
gian nuôi là 30 – 50 ngày, tỷ lệ sống đạt 95%, cá vẫn tăng trưởng tốt.
2.5. Tình hình nghiên cứu cá chình trên thế giới

2.5.1. Tình hình ương ni cá chình trên thế giới


Trên thế giới hiện nay việc nuôi chủ yếu khai thác nguồn giống tự nhiên
tại các cửa sông vào cuối mùa thu đến mùa đông khi chúng đang di cư ngược
dòng . Ngư dân tại Nhật Bản thường dùng các cây lau, sậy rỗng bên trong là
nơi cho cá Chình vào chú ẩn (dựa vào tập tính sống ưa bóng tối). Theo
Quedens (1963), ở các nước như Austraila, Nam Phi người ta sử dụng mồi câu
móc vào trong một hộp gỗ và thả xuống nước.
Hiện nay cá Chình được xem như một sản phẩm thủy sản quan trọng. Cá
Chình được đánh giá cao về chất lượng thịt, mùi vị ngon và giàu dinh dưỡng,
các nước Tây Âu và Nhật Bản là thị trường tiêu thụ cá Chình mạnh nhất trên
thế giới. Trang trại ni cá Chình đầu tiên được xây dựng ở Đài Loan năm
1952 và đặc biệt những trang trại phát triển ni cá Chình lớn cũng được tìm
thấy ở vùng này. Xue (1988) thông báo sản lượng hàng năm mang lại 41.000
tấn và giá trị sản lượng là 300 triệu USD cho khu vực này.
Ni cá Chình ở Nhật Bản bắt đầu vào những năm cuối của thế kỷ 19 tại
Tokyo, suốt đầu thế kỷ 20, việc nuôi cá Chình mở rộng đáng kể ở ba trung
tâm của Nhật Bản là Shizuoka, Aichi và Mie. Năm 1942, tổng diện tích ni
cá Chình trong các ao đạt đến 2000 ha, sau sự sụt giá suốt chiến tranh thứ 2,
việc ni lại Chình lại bắt đầu phát triển trở lại và vượt qua mức độ ban đầu
trước chiến tranh thế giới thứ 2 năm 1960. Sản lượng Chình đánh bắt hang
năm dao động trong khoảng 200 tấn mỗi năm, sản lượng cá Chình ni đã
được tính tốn với các con số cao hơn rất nhiều, đạt 14.000 tấn năm 1972 và
27.000 tấn năm 1977. Tổng diện tích ni đạt đến 2.500 ha năm 1977. Nhờ
phương pháp ni tiên tiến có thể làm tăng cao sản lượng và nhu cầu tiêu thụ
tăng lên, việc khai thác con giống tự nhiên không đủ nhu cầu tiêu dùng và kết
quả là Nhật Bản phải nhập con giống từ Úc, Philippines, Trung Quốc, Châu
Âu, và Mỹ.
Từ Nhật Bản nghề ni cá Chình đã lan rộng sang Trung Quốc, Hàn

Quốc,Đài Loan. Những năm 70 của thập kỷ XX, việc ni cá Chình được bắt
nguồn đầu tiên ở Nam và Đông của Trung Quốc với mục đích để xuất khẩu.
Sản lượng ban đầu chỉ giới hạn trong khoảng 3000 đến 4500 kg/ha bởi vì thiếu
kỹ thuật, thức ăn và kế hoạch phát triển. Tuy nhiên từ năm 1980, với việc áp
dụng hệ thống nuôi thâm canh, các trang trại ni Chình đã có những bước
tiến nhanh chóng và sản lượng cũng tăng lên nhanh ở vùng đất liền (Yu,
1988).có hàng trăm trang trại ni Chình mọc lên ở các tỉnh Quảng Đông và
Fujian. Năm 1988, tổng diện tích ni Chình là 530 ha với sản lượng hàng
năm là 8000-10.000 tấn và giá trị sản lượng là 65-80 triệu USD. Vào những
năm 80-90 của thập kỷ XX, Trung Quốc đã thành cơng về kỹ thuật ni cá
Chình trong ao đất, giúp nghề cá Chình trong ao đất ở Trung Quốc phát triển
nhanh chóng, giảm giá thành có thể cạnh tranh với nhiều nước.
Đài Loan đã học nghề ni cá Chình và ứng dụng vào năm 1952, sau đó
mơ hình ni cá Chình thương phẩm với quy mơ nhỏ đã được tổ chức thực
hiện vào năm 1985, nuôi Cá Chình trong các trang trại với quy mơ lớn được
thực hiện vào năm 1964. Đến năm 1964 tổng diện tích ni cá Chình ở Đài
Loan xấp xỉ 3000 ha.


Ở Mỹ cũng thực hiện ni cá Chình, tuy nhiên do nhu cầu người dân
không cao, nguồn lợi tự nhiên khá phong phú và ổn địng nên số lượng trang
trại nuôi chỉ khoảng 50 trang trại. Kỹ thuật nuôi được chuyển giao từ Nhật.
Ở New Zealand, cá Chình đang được nuôi thử nghiệm bởi trường Đại
học Victoria, bang Wellington. Mục đích chính của chương trình là làm thế
nào để khai thác ổn định và tối đa nguồn lợi, thúc đẩy nghề ni cá Chình phát
triển và nghiên cứu thêm đặc điểm sinh học của các lồi cá Chình New
Zealand. Cịn ở Úc , hoạt động ni cá Chình vẫn năm trong thử nghiệm và
đang thu hút được sự quan tâm của người ni.
Ni cá Chình ở các nước Đơng Nam Á và Nam Á vẫn chưa phát triển
mạnh, còn chưa được quan tâm đầu tư do người dân của các nước này còn

nghèo, bữa ăn của họ còn thiếu nhiều Protein nghiêm trọng, như vậy việc ni
cá Chình đồng nghĩa với việc cạnh tranh nguồn thức ăn Protein của con người.
Hơn nữa do mức sống của người dân ở nay cịn thấp nên họ khơng có điều
kiện để ăn những loại thực phẩm cao cấp như cá Chình. Do nhu cầu ni thực
tế ở khu vực này cịn chưa phat triển do đó những nghiên cứu ứng dụng cho
ni ở khu vực này cịn rất ít, chưa thu hút được quan tâm đúng mức.Vàu năm
gần nay mới bắt đầu thu hút được một số nhà nghiên cứu về lĩnh vực này
Bảng 5: Sản lượng ni cá Chình ở một số quốc gia năm 2001
(theo thống kê FAO)
Quốc gia
Trung Quốc
Đài Loan
Nhật Bản
Hàn Quốc
Malaysia
Europe

Sản lượng (tấn/năm)
155.800
34.000
23.100
2.600
2.400
10.200

Trên thế giới hiện nay có 4 nước phát triển nghề ni cá Chình mạnh
nhất là: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc. Các loài cá Chình được
ni chủ yếu là: A. anguilla, A. japonica, A. rostrata, A. cebesensis, A. bicolor
pacifica, A. marmorata.
Trung Quốc là một quốc gia phát triển ni cá Chình muộn hơn so với

Nhật Bản, Đài Loan nhưng do có lợi thế về diện tích rộng lớn, nguồn giống
phong phú, phát triển ni cá Chình trong ao đất sớm … từ những lý do đó đã
khiến Trung Quốc trở thành quốc gia đứng đầu thế giới vế sản lượng cá Chình
(155.800 tấn/năm) . Sau Trung Quốc là Đài Loan (34.000 tấn/năm), mặc dù có
nghề cá Chình phát triển sau Nhật Bản và Trung Quốc, nhưng với những
thuận lợi khơng kém gì Trung Quốc và một chiến lược sản xuất với trình độ
thâm canh cao nên chỉ trong vòng 30 năm đã phát triển vượt qua Nhật Bản về
lĩnh vực này.
Hệ thống nuôi hiện nay trên thế giới có 2 phương thức ni đó là nuôi ao
nước tĩnh và nuôi ao nước chảy.


Tại Nhật Bản, do giá trị đặc biệt cao của đất ni và ấu trùng Chình nên
kỹ thuật ni cá Chình theo phương thức hiện đại ngày càng phát triển. Các ao
ni cá Chình nước tĩnh đã từng được sử dụng được thay thế hầu hết bởi các
bể trong nhà kính với với hệ thống nước chảy tuần hồn và cung cấp nhiệt chủ
động, và thức ăn cung cấp cho Chình đã được tính tốn the cơng thức trước
khi cho ăn. Hầu hết các nước Châu Âu cũng thực hiện ni theo phương pháp
này.Cịn ở Trung Quốc thì ni chủ yếu trong ao đất với các hệ thống nuôi
đơn, hệ thống máy quạt nước. Ao ni hình chữ nhật, đáy được làm bằng
phẳng và nghiêng về hướng các ống thoát nước, có lớp cát hoặc sỏi dày từ 35cm dưới đáy, hai máy quạt nước được đặt đối diện nhau tại các góc ao.
2.5.2. Nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của cá chình
Trên thế giới lồi cá Chình được quan tâm ni nhiều là Chình Châu Âu
(Anguilla anguilla) và Chình Nhật Bản (Anguilla Japonica), Do đó hầu hết
các nghiên cứu về dinh dưỡng chủ yếu về cá Chình Nhật Bản và Chình Châu
Âu.
2.5.2.1. Nhu cầu Protein
Theo hội đồng khoa học Hoa Kỳ (NRC) đã đưa ra một định nghĩa về
nhu cầu protein đối với động vật: “Nhu cầu Protein là lượng protein tối thiểu
tối thiểu trong thức ăn nhằm thỏa mãn các nhu cầu amino acid để đạt tốc độ

tăng trưởng tối đa”. Protein là vật chất hữu cơ chủ yếu xây dựng lên các tổ
chức mô của cá cũng như của động vật, protein chiếm khoảng 60-70% tổng số
vật chất khô của cơ thể. Cá sử dụng protein để đáp ứng nhu cầu amino acid.
Nhu cầu protein của cá Chình cao hơn so với các lồi cá nước ngọt khác. Theo
Nose và Arai (1972), tiến hành nghiên cứu nhu cầu protein đối với cá Chình
Nhật Bản là 45.5% .
Thức ăn sử dụng trong ni cá Chình ở các nước trên thế giới là khác
nhau (tuy nhiên không dưới 45%). Hàm lượng protein ni cá Chình, ở Châu
Âu từ 46-52%, ni cá Chình ở Mỹ khoảng từ 55-60%, Nhật Bản là 52%,
Trung Quốc 50%, Đài Loan 45% .
Có khoảng 20 amino acid thường gặp trong thức ăn protein và trong cơ
thể động vật, trong đó có khoảng 10 amino acid cần thiết. Năm 1979 hai nhà
khoa học Arai và Nose nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng các amino acid cần
thiết của cá Chình Nhật Bản đã chỉ ra kết quả cho thấy.
Bảng 6: Nhu cầu amino acid của cá Chình Nhật Bản
(Arai và Nose, 1979)
Loại amino acid
Nhu cầu
Arginine
4,5 (1,7/37,7)
Histidine
2,1 (0,8/38)
Isoleucine
4,0 (1,5/38)
Leucine
5,3 (2,0/37,7)
Valine
4,0 (1,5/37,7)
Lysine
5,3 (2,0/37,7)

Phenylalanine
5,8 (2,2/38)
Methionine
3,2 (1,2/38)
Threonine
4,0 (1,5/38)
Tryptophan
1,1 (0,4/38)


Giải thích: ví dụ cá Chình có nhu cầu về Arginine cao nhất khoảng 45%
của protein thức ăn, Nếu thức ăn có 37,7 % protein thì nhu cầu Arginine trong
thức ăn là: 45% ×37,7% =1,7%. Cơng thức là 4,5(1,7/37,7)
2.5.2.2. Nhu cầu về Lipid
Lipid là một nhóm vật chất hữu cơ có trong các tổ chức mơ của động vật
và thực vật, có thành phần hóa học và cấu tạo khác nhau nhưng có một tính
chất chung là khơng hịa tan trong nước mà hịa tan trong dung mơi hứu cơ.
Lipid là hợp phần cấu tạo quan trọng của các màng sinh học, nguồn cung cấp
các vitamin hòa tan trong mỡ như: vitamin A,D,E,K. Khẩu phần lipid trong
thức ăn có tác dụng cung cấp axit béo cần thiết để xây dựng nên cấu trúc cơ
thể và cung cấp năng lượng cần thiết cho hoạt động của cá. Sự thiếu hụt thành
phần này trong thức ăn sẽ làm giảm sức đề kháng của cá đối với bệnh tật, cá
có tốc độ tăng trưởng thấp và hệ số sử dụng thức ăn cao.
Tùy theo loài cá khác nhau mà nhu cầu lipid trong thức ăn cũng khác
nhau. Hàm lượng Lipid trong thức ăn cho cá biến động trong khoảng 2,5 15%. Hàm lượng Lipid trong thức ăn cho cá Chình Châu Âu từ 3 - 5%, ở Nhật
là 4%, Trung Quốc là 5%, Hàm lượng Lipid trong thức ăn ni cá Chình ở Đài
Loan từ 5,34 - 9,0%.
Theo Runge và CTV (1987), nhu cầu acid béo của cá Chình với họ acid
béo 18:n-6 và họ 20:4n-6 đều là 0,5% khối lượng thức ăn, và không cần nhiều
các họ acid béo 18:3n-3, 20:5n-3 và 22:6n-3. Do đặc điểm phải tích tụ năng

lượng cho quá trình di cư sinh sản nên hàm lượng Lipid trong cá Chình rất
cao. Theo Takeuchi và cộng tác viên (1980), việc cung cấp bổ sung acid béo
18:3n-3 thì sẽ làm tăng hiệu quả chuyển đổi thức ăn, làm tăng tốc độ sinh
trưởng.
2.5.2.3. Nhu cầu về Vitamin
Vitamin là những chất hữu cơ có bản chất hóa học khác nhau, cơ thể
động vật có nhu cầu một lượng nhỏ trong thức ăn để đảm bảo sự sinh trưởng
và phát triển bình thường. Về mặt số lượng thì Vitamin khơng phải là một hợp
phần quan trọng của cơ thể như protein, lipid, carbohydrate mà có vai trị như
là chất bổ dưỡng, giữ gìn sức khỏe cho động vật. Sự thiếu hụt bất cứ một loại
vitamin nào sẽ dẫn đến khả năng bị bệnh. Trong thức ăn cho cá Chình được bổ
sung một lượng vitamin cần thiết. Hàm lượng vitamin trong thức ăn ở mỗi
khực đều khác nhau, từ 1-10%. Nhật Bản hàm lượng vitamin sử dụng cho cá
Chình thay đổi tùy theo nhiệt độ môi trường nước, khi nhiệt nước độ thấp hơn
180C lượng vitamin bổ sung là 5%, nhưng khi nhiệt độ trên 18 0C lượng
vitamin bổ sung vào khoảng 10%. Vitamin PP gồm có nicotinic acid, niacin là
thành phần cấu tạo quan trọng của coenzyme Nicotinamindeanin dinucleotide
(NAD) và Nicotinamideadine dinucleotide phosphate (NADP). Theo nghiên
cứa của Arai và các cộng tác viên (1972) đối với cá Chình Nhật Bản, sự thiếu
hụt acid nicotinic sẽ dẫn đến khả năng tiêu thụ thức ăn giảm, tốc độ sinh
trưởng chậm chạp, sự khơng bình thường trong hoạt động di chuyển bơi lội và
điều hòa áp suất thẩm thấu. Sau 10 tuần ni thì dừng phát triển, sau 14 tuần
da bị xám đen lại và viêm loét.


Theo Yamakawa và các cộng tác viên (1975), đối với cá Chình Nhật
Bản nếu thiếu hàm lượng vitamin E trong thức ăn cá sẽ giảm ăn đồng thời
giảm tốc độ sinh trưởng do đó hàm lượng hàm lượng vitamin E yêu cầu tối
thiểu là 200 mg/kg thức ănkhô.
2.5.2.4. Nhu cầu về chất khống

Chất khống là những ngun tố hóa học cần thiết để xây dựng lên cơ
thể và tham gia vào quá trình trao đổi chất trong cơ thể động vật. Chất khống
có vai trị như là chất xúc tác đối với các enzyme, hormone, và protein. Ngồi
ra chất khống cịn có vai trị điều hịa áp suất thẩm thấu. Cá Chình Nhật Bản
yêu cầu trong hàm lượng tối thiểu trong khẩu phần thức ăn là 170mg/kg.
Bảng 7: Nhu cầu chất khống trong thức ăn của cá Chình Nhật Bản
(Nose và Arai, 1979)
Chất khoáng
Ca
P
Mg
Fe
Se

Nhu cầu hàm lượng
300mg -3 g
6g
400 – 700 mg
170mg
0,3 – 0,5 mg

Theo Nose và Arai (1976), đã thí nghiệm trên cá Chình Nhật Bản. Kết
quả cho thấy nếu thức ăn thiếu hàm lượng canxi và photpho cá sẽ bỏ ăn một
tuần, nếu thiếu hàm lượng magie và iron cá sẽ bỏ ăn 3 – 4 tuần.
2.5.3. Các loại thức ăn đã được nghiên cứu để ương nuôi cá chình
Với một nguồn giống rất hạn chế, việc tìm ra loại thức ăn thích hợp nhất
cho cá giống nhằm thu được tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng cao nhất, giảm
bớt áp lực cung cấp giống cho nuôi thương phẩm là một vấn đề cấp thiết.
Theo thí nghiệm số 80/2 của Christoph Meske (1985), thực hiện với cá
Chình Châu Âu giai đoạn bột, trung bình 0,3 g/con. Thí nghiệm được thực

hiện trong 114 ngày với 4 loại thức ăn là: nauplius của Artemia shrimp, cá
chép xay (tươi), trùn chỉ và thức ăn hỗn hợp. Thí nghiệm chia làm 2 giai đoạn,
mỗi giai đoạn kéo dài 2 tháng, mỗi thí nghiệm lặp lại 2 lần và ni 100 con
trong bể kính 20 lít.
Kết quả của giai đoạn một cho thấy chỉ có nhóm cho ăn trùn chỉ tăng
trọng lượng (+156,64%). Cá trong các lô khác đều giảm trọng lượng. Tỷ lệ cá
chết thấp nhất ở lô cho ăn trùn chỉ với 4%, nhóm cho ăn thức ăn tổng hợp có
tỷ lệ chết cao nhất đó là 63%. Nguyên nhân chủ yếu của sự hao hụt này đó là
sự ăn thịt lẫn nhau, do đói.
Kết thúc giai đoạn 2 (ngày thứ 114), lại một lần nữa khẳng định sự tăng
trọng lớn nhất đối với lô cho ăn trùn chỉ là 422,34%, nhóm kế tiếp cũng có
tốc độ tăng trọng cao là nhóm cho ăn cả trùn chỉ (giai đoạn 1) và sau đó cho ăn
thức ăn tổng hợp ( giai đoạn 2) với 189,9%. Nhóm thứ 3 là cho ăn thức ăn
tổng hợp chỉ có 77,83%. Hai nhóm cịn lại cho ăn ấu trùng nauplius của
Artemia và cá chép xay thì bị giảm cân. Tỷ lệ cá bị chết thấp nhất tại lô cho ăn


trùn chỉ là 18%, và 62% với lô cho ăn trùn chỉ và thức ăn tổng hợp và cao nhất
là 77% với cá cho ăn thức ăn tổng hợp.
Theo thí nghiệm này thì đối với cá Chình bột thì việc cho ăn trùn chỉ sẽ
đạt được sự tăng trọng lớn hơn rất nhiều so với cá cho ăn các loại thức ăn khác
trong thí nghiệm. Cá ăn thức ăn tổng hợp có tỷ lệ ăn thit lẫn nhau cao và đạt
được tốc độ tăng trọng trung bình.
Nhưng có một thí nghiệm khác cho rằng cho cá Chình bột ăn cá xay là
phương pháp tốt nhất và thu được tốc độ tăng trong cao nhất. Sự phát triển với
một tốc độ nhanh này của cá Chình được cho ăn khá thành công cùng với sự
trợ giúp của các ống rỗng được đục các lỗ xung quanh và đặt lơ lửng thẳng cột
nước trong bể.Thức ăn được đẩy vào trong ống theo yêu cầu, điều này sẽ làm
giảm lãng phí thức ăn. Cá xay được chia thành từng phần và giữ trong tủ
đơng.Với cá Chình việc ăn thức ăn tổng hợp khơ thì khó hơn với cá chép rất

nhiều, những viên thức ăn nổi hầu hết bị lãng phí. Để khắc phục điều này
người ta trộn thức ăn với nước, hay tốt hơn là dầu cá, được làm thành dạng bột
nhão và dính vào cạnh bể, điều này thu hút cá ăn rất mạnh. Một khung lưới lơ
lửng có thể đem lại nhiều thuận lợi.
Tại Nhật Bản và Trung Quốc người ta sử dụng các rổ cho ăn treo lơ lửng
và cho thức ăn vào đó. Cá Chình con được ni trong các bể trong nhà với
kích thước từ 30 đến 50m2 và độ sâu 50 đến 70m, thức ăn được Chình con ưa
thích và được coi tốt nhất đó là bon giun nhiều tơ. Với tuần thứ 2 đến tuần thứ
4 người ta cho ăn giun nhiều tơ xay và rải đều xung quanh bể. Từ tuần thứ 5
trở đi cho ăn kết hợp giun nhiều tơ, cá xay và thức ăn được tính tốn theo cơng
thức. Hàm lượng thức ăn tính theo cơng thức được pha trộn trong khẩu phần
thức ăn tăng dần và cuối cùng cho ăn hoàn toàn thức ăn theo cơng thức đã tính
tốn sẵn.Thức ăn ni cá Chình thương phẩm ở hầu hết các trang trại nuôi công
nghiệp tại Trung Quốc được tiến hành theo các thành phần sau:
- Bột cá đã được lấy mỡ: 60%
- Bột đậu 10%
- Bột men 5%
- Tinh bột 23%
- Khoáng chất, vitamin, và các phụ gia khác là 2%
2.6. Tình hình nghiên cứu cá chình ở Việt Nam
Do cá Chình khơng phải là đối tượng ni truyền thống và nó chỉ được
quan tâm từ một vài năm gần đây nên những nghiên cứu về cá Chình cịn rất
hạn chế. Nếu cá thì chỉ mang ý nghĩa khoa học như phân loại, tìm hiểu đặc
điểm sinh học…, cịn những nghiên cứu cho việc ứng dụng thực tiễn chưa
nhiều.
Ở Việt Nam, cá Chình đã dược nghiên cứu từ những năm đầu của thập
kỷ 30, nhưng chủ yếu là chỉ dừng lại ở việc cơng bố thành phần lồi, đặc điểm
phân loại của chúng.
Năm 1974 Orsi đã xác định được 4 loài ở vùng biển Việt Nam: A.
marmorata, A.japonica, A.bicolor pacifica. Một số nhà nghiên cứu ngư loại

khác như Mai Đình Yên, Nguyễn Hữu Dực đã xcs định được ở nước ta hiện
nay có 4 lồi cá Chình trong giống Anguilla, đó là: A. marmorata, A.japonica,
A. bicolor pacifica, A. bornessnsis. Nguyễn Hữu Phụng, Nguyễn Nhật Phi


(1994) trong danh mục các loài cá biển Việt Nam xác định có 3 lồi: A.
celebensis, A. marmorata, A.japonica.
Theo Nguyễn Hữu Phụng (2001), giống Anguilla có 18 lồi trong đó ở
Việt Nam có 5 lồi đó là:A.nebulosa (McClelland,1844), A.japonica
(Temminck và Schlegel, 1984), A. Marmorata (Quoy và Gaimard,1824), A.
celebensis (Kaup, 1856), A.bicolor pacifica (Schmidt, 1928).
Trong số 5 loài phân bố ở Việt Nam thì chỉ có 2 lồi là: A.japonica (cá
Chình Nhật Bản) và A.marmorata ( cá Chình bơng) được ni phổ biến do
dặc điểm thịt thơm ngon, có giá trị dinh dưỡng cao, thị trường tiêu thụ lớn rất
được ưa chuộng tại Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông. Trong hai
lồi đó thì hiện nay Chình bơng được ni phổ biến hơn cả do có kích thước
lớn nhất, thích ứng rộng và nó mang lại giá trị kinh tế cao và được coi là lồi
cá ni rất có triển vọng trong tương lai.
Ở Việt Nam hiện nay đàn cá Chình đang bị giảm sút nghiêm trọng, đã
được đưa vào danh Sách Đỏ ở mức đe dọa bậc E (Endangered: đang nguy cấp
bị đe dọa diệt chủng). Vì vậy cần có biện pháp bảo vệ tích cực để khơi phục
nguồn lợi quý giá này.
Trong những năm gần đây, cùng với phong trào ni cá Chình đang
phát triển thì những nghiên cứu về chúng cũng được quan tâm không kém.


PHẦN 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Tên Khoa học: Anguilla marmorata

Tên Tiếng Anh: Marbled eels, Gaint mottled eels
Tên Tiếng Việt: Cá Chình bơng, Chình Cẩm Thạch
3.1.2. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ ngày 15/10/2008 đến ngày 07/05/2009
3.1.3. Địa điểm nghiên cứu
Trại sản xuất giống cá nước ngọt Đại Phương (Thôn Phương Hạ - xã Đại
Trạch - huyện Bố Trạch - tỉnh Quảng Bình)
3.2. Nội dung nghiên cứu
Thử nghiệm các phương pháp khác nhau trong q trình lưu giữ và ương
ni ban đầu dối với cá chình hương.
3.2.1. Lưu giữ
- Thiết bị lưu giữ.
- Thời gian lưu giữ.
- Điều kiện môi trường lưu giữ (DO; t0; pH; S‰; NH3)
- Xác định tỷ lệ sống sau q trình lưu giữ.
3.2.2. Ương ni ban đầu
- Theo dõi các yếu tố môi trường nước trong bể ương.
- Theo dõi tốc độ tăng trưởng của cá chình ở các loại thức ăn khác nhau.
- Xác định tỷ lệ sống
- Đánh giá hiệu quả của 3 loại thức ăn: trùn chỉ, moina và hỗn hợp.
3.3. Trang thiết bị và dụng cụ sử dụng trong nghiên cứu
3.3.1. Thiết bị và dụng cụ thí nghiệm
- Thí nghiệm lưu giữ được bố trí trong hệ thống thùng xốp (thể tích
60x40x40cm) và các bể composit.
- Thí nghiệm lựa chọn thức ăn ương ni ban đầu được bố trí trong hệ
thống bể composit.
- Máy sục khí và hệ thống dây sục khí
- Chậu, vợt, ống xiphon, ca nhựa, xơ lớn 100 lít chứa nước…
3.3.2. Thiết bị điều chỉnh môi trường
Các thiết bị điều chỉnh mơi trường được sử dụng trong thí nghiệm lưu

giữ, bao gồm máy sục khí và bóng đèn nâng nhiệt.
3.3.3. Dụng cụ đo môi trường
- Đo nhiệt độ (0C): Nhiệt kế thủy ngân (độ chính xác 10C)
- Đo pH, độ kiềm, oxy hòa tan (DO), NH3, NO2: Bằng bộ test kit do Thái
Lan sản xuất
3.3.4. Dụng cụ đo tốc độ tăng trưởng
- Đo chiều dài cá: Dùng thước đo (chia vạch theo mm), và một ống nhỏ
vừa kích thước cá.
- Đo trọng lượng cá: Dùng cân điện tử độ chính xác 0,01 g


3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Sơ đồ khối nghiên cứu
Không sục khí

Cá chình hương thu vớt từ tự nhiên
Chiều dài TB=5 cm;Trọng lượng TB=0,1g

Thùng xốp
Bố trí thí nghiệm lưu giữ

Sục khí liên tục
Sục khí theo giờ

Bể composit

Đánh giá tỷ lệ sống

Nhiệt độ thường
Nhiệt độ cố định

trên 25oC

- Tìm ra điều kiện lưu giữ
thích hợp
- Tìm ra loại thức ăn phù hợp
cho ương nuôi ban đầu
- Kết luận và kiến nghị

Trùn chỉ
Bố trí thí nghiệm lựa chọn thức ăn
phù hợp trong ương ni ban đầu

Bể composit

Moina

½ trùn chỉ: ½ moina
Hình : Sơ đồ nghiên cứu

Đánh giá tỷ lệ sống,
tốc độ tăng trưởng


3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
- Số liệu sơ cấp: Thu thập bằng cách trực tiếp phỏng vấn ngư dân, qua
sách báo, tạp chí, và các website thủy sản.
- Số liệu thứ cấp: Bố trí thí nghiệm
3.4.3. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm 1: Nghiên cứu điều kiện thích hợp trong lưu giữ
- Thí nghiệm được bố trí trong 10 nghiệm thức, lặp lại 3 lần, với các

điều kiện khác nhau, bao gồm:
+ Khác nhau về dụng cụ lưu giữ : thùng xốp kích thước 60x40x40cm
(TX) và bể composit 2m3 (BC)
+ Khác nhau về các điều kiện môi trường:
Không sục khí (KSK)
Sục khí liên tục (SKLT)
Sục khí từ 0 giờ đến 7 giờ (SK0-7)
Nhiệt độ thường
Nhiệt độ cố định trên 25oC
- Các nghiệm thức về sử dụng sục khí được bố ở điều kiện nhiệt độ
thường của môi trường.
- Các thí nghiệm về nhiệt độ được bố trí sục khí liên tục 24/24.
- Các yếu tố khác hoàn toàn giống nhau.
- Mỗi nghiệm thức bố trí 100 cá chình bột (MẬT ĐỘ?) tương đối đồng
đều nhau về chiều dài và trọng lượng. Chiều dài trung bình 5cm, trọng lượng
trung bình 0,10g.
- Thí nghiệm được tiến hành trong 3 ngày.
- Sơ đồ bố trí thí nghiệm:
Bảng 8:Sơ đồ bố trí thí nghiệm lưu giữ
Yếu tố thí nghiệm
Thùng xốp Bể composit
Khơng sục khí
X
X
Sục khí liên tục
X
X
Sục khí theo giờ
X
X

Nhiệt độ thường
X
X
o
Nhiệt độ cố định trên 25 C
X
X
Thí nghiệm 2: Lựa chọn thức ăn phù hợp trong q trình ương ni
ban đầu.
- Thí nghiệm được bố trí trong 9 bể composit, bao gồm 3 nghiệm thức
lặp lại 3 lần.
- Mỗi nghiệm thức bố trí 100 cá chình hương đồng đều về chiều dài và
trọng lượng. Chiều dài trung bình 5cm, trọng lượng trung bình 0,10g.
- Thí nghiệm được bố trí hồn tồn ngẫu nhiên, trong đó:
+ Nghiệm thức 1: Cho ăn 100% trùn chỉ, kí hiệu T.
+ Nghiệm thức 2: Cho ăn 100% moina, kí hiệu M.
+ Nghiệm thức 3: Cho ăn hổn hợp 50% trùn chỉ:50% moina, kí hiệu TM.


- Thí nghiệm được tiến hành trong 30 ngày.
- Sơ đồ bố trí thí nghiệm:
Bảng 9: Sơ đồ bố trí thí nghiệm thức ăn
T
M
TM
M
TM
T
TM
T

M
3.4.4. Cách tiến hành
3.4.4.1. Thí nghiệm 1
- Chuẩn bị dụng cụ và môi trường lưu giữ:
+ Các bể và thùng xốp sau khi vệ sinh sạch sẽ được đặt trong nhà, có
nắp đậy bằng lưới polyetylen để bố trí thí nghiệm.
+ Mỗi thùng xốp được cấp 40 lít nước, mỗi bể composit được cấp 500 lít
nước (độ cao mực nước 40cm).
+ Các thùng xốp và bể bố trí thí nghiệm sục khí thì được mắc sục khí:1
vịi/1 thùng xốp; 1vòi/1 bể.
+ Các thùng xốp và bể bố trí thí nghiệm nhiệt độ thì được mắc bóng đèn
nâng nhiệt, đảm bảo nhiệt độ trên 25 oC:1 bóng đèn 60W/1 thùng xốp; 2 bóng
đèn 60W/ 1 bể.
+ Nguồn nước dùng thí nghiệm: được lấy từ nguồn nước của trại, qua hệ
thống lọc.
+ Nguồn cá thí nghiệm: mua từ Phú n được lọc cỡ và bố trí vào các lơ
thí nghiệm.
+ Thức ăn sử dụng: hỗn hợp trùn chỉ và moina.
- Chăm sóc và quản lý:
+ Cho ăn ngày một lần vào lúc 17h
+ Lượng thức ăn sử dụng 4 – 6 % khối lượng thân,và được điều chỉnh
theo lượng thức ăn dư thừa.
+ Trước khi cho ăn xiphông thức ăn thừa, cá chết ra ngoài đồng thời
thay 30 – 50 % lượng nước.
+ Sau 3 ngày lưu giữ, tiến hành thu cá và tính tỷ lệ sống.
+ Đo nhiệt độ nước, độ kiềm, hàm lượng DO, NH 3, NO2 và pH ngày 2
lần sáng 6 – 7 giờ, chiều 13-14 giờ.
3.4.4.2. Thí nghiệm 2:
- Chuẩn bị dụng cụ và môi trường ương nuôi:
+ Các bể composit sau khi vệ sinh sạch sẽ được đặt ngồi trời, có lưới

lan chắn sáng và nắp đậy bằng lưới polyetylen để bố trí thí nghiệm.
+ Mỗi bể được cấp 500 lít nước (độ cao mực nước 40cm).
+ Nguồn nước dùng thí nghiệm: được lấy từ nguồn nước của trại, qua hệ
thống lọc.
+ Nguồn cá thí nghiệm: mua từ Phú Yên được lọc cỡ và bố trí vào các lơ
thí nghiệm.
+ Thức ăn sử dụng: trùn chỉ và moina.


- Chăm sóc và quản lý:
+ Cho ăn ngày một lần vào lúc 17giờ
+ Lượng thức ăn sử dụng 4 – 6 % khối lượng thân.
+ Lượng thức ăn điều chỉnh theo mức độ no đói của cá và theo lượng
thức ăn dư thừa.
+ Trước khi cho ăn xiphông thức ăn thừa, cá chết ra ngoài đồng thời
thay 30 – 50 % lượng nước.
+ Sục khí 24/24 giờ
+ Định kỳ cân trọng lượng 15 ngày/lần, lượng mẫu 30 con/lần/bể. Sau
60 ngày ni thu cá và tính tỷ lệ sống.
+ Đo nhiệt độ nước, hàm lượng oxy và pH ngày 2 lần sáng 7 – 8 giờ,
chiều 13-14 giờ.
- Xác định được loại thức ăn thích hợp nhất thơng qua các chỉ tiêu sinh
trưởng và tỷ lệ sống.
3.4.4. Phương pháp xác định các thông số
+ Quan sát bằng mắt thường và sử dụng một số dụng cụ chuyên dùng để
xác định: Nhiệt độ, độ mặn, oxy hoà tan (DO), pH, độ đục của nước, NH 3,
BOD.
+ Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối trung bình ngày về trọng lượng (DWG)
(Daily Weight Growth).
ADG(g/ngày) =


Wt - Wi
T

Trong đó:
Wt : Trọng lượng khi thu mẫu (gam/con)
Wi : Trọng lượng khi thả (gam/con).
T : Số ngày ni.
+ Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối trung bình ngày về chiều dài (DLG)
( Daily Length Growth)
Ltb2 – Ltb1
LL (mm/ngày) =
T
LL(mm/ngày): Tốc độ sinh trưởng bình quân về chiều dài.
Ltb1 (mm): Chiều dài cá ban đầu.
Ltb2 (mm): Chiều dài lúc kết thúc thí nghiệm.
T: Số ngày ni
+ Tỷ lệ sống của cá (TLS).
TLS(%) =
Trong đó:

A
X 100
B


A : Là số lượng cá sau quá trình lưu giữ và ương nuôi (con).
B : Là số lượng cá ban đầu (con).
3.4.5. Phương pháp xử lý số liệu
Bằng phương pháp thống kê sinh học, số liệu được xử lý trên phần mềm

Excell và SPSS 14.0 for Windows với độ tin cậy 95%.


PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU


PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


×